Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông ở quận bình tân, thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.58 KB, 94 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN CÔNG THÁI

QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Ở QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2013


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN CÔNG THÁI

QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
Ở QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY

Chuyên ngành: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Mã số:

60 14 01 14



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHẠM MINH THỤ

HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ

Trang
3

QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở
QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1.
1.2.

HIỆN NAY
Các khái niệm cơ bản
Nội dung quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống

12
12

cho học sinh THPT ở Quận Bình Tân, TP Hồ Chí
16


1.3.

Minh hiện nay
Các nhân tố tác động đến quản lý quá trình giáo dục

25

1.4.

kỹ năng sống cho học sinh THPT
Thực trạng quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho

học sinh THPT ở Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh
Chương 2 YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ QUÁ

31

TRÌNH GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC
SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở QUẬN BÌNH
2.1.

TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Yêu cầu xây dựng các biện pháp quản lý quá trình

42

giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT Quận Bình
2.2.

Tân, TP Hồ Chí Minh hiện nay

Biện pháp quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống

42

cho học sinh THPT Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh
2.3.

hiện nay
Khảo nghiệm sự cần thiết và tính khả thi của các

biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BGD& ĐT

Nghĩa viết tắt
Bộ Giáo dục và Đào tạo

45
70
75
77
81


CLB
ĐHSP

EU
NXB
THPT
TP
UNICEF
UNESCO
XHCN
LĐTBXH

Câu lạc bộ
Đại học Sư phạm
Liên minh châu Âu
Nhà xuất bản
Trung học phổ thông
Thành phố
Quỹ cứu trợ nhi đồng
Tổ chức giáo dục văn hóa và khoa học
Xã hội chủ nghĩa
Lao động – Thương binh Xã hội


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục theo hướng chuẩn hoá, hiện đại
hoá, dân chủ hoá, hội nhập quốc tế, thích ứng với nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN là nhiệm vụ cấp thiết của ngành giáo dục. Chiến lược phát triển
giáo dục 2011 – 2020 đã chỉ rõ: “Chú trọng nội dung giáo dục đạo đức, pháp
luật, thể chất, quốc phòng – an ninh và các giá trị văn hóa truyền thống; giáo
dục kỹ năng sống, giáo dục lao động và hướng nghiệp học sinh phổ thông”.

Trên thực tế, một số trường phổ thông trong thời gian vừa qua không
chỉ là nơi cung cấp cho học sinh những kiến thức văn hóa, mà còn là nơi bồi
dưỡng nhân cách học sinh, đáp ứng yêu cầu của xã hội. Nội dung giáo dục
pháp luật, giáo dục kỹ năng sống và hỗ trợ tâm lý học đường đã được lồng
ghép với các nội dung giáo dục trong nhà trường và đã thu được một số kết
quả nhất định.
Tuy nhiên, ở nhiều nhà trường phổ thông hiện nay trên địa bàn Quận
Bình Tân cũng chưa thực sự coi trọng giáo dục kỹ năng sống một cách đồng
bộ và khoa học, hoặc nếu có thì cách thức tổ chức, giáo dục vẫn mờ nhạt và
chưa đạt hiệu quả cao. Vấn đề đặt ra là cần phải giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh, thông qua đó để cung cấp cho các em những kỹ năng cần thiết, thích
ứng với cuộc sống phong phú, sinh động, phức tạp và chuyển biến không
ngừng; từ đó có thể giúp các em giải quyết được các vấn đề nảy sinh từ các
tình huống, các thách thức. Mặt khác, kỹ năng sống là một thành phần quan
trọng trong nhân cách con người ở xã hội hiện đại, muốn thành công và sống
có chất lượng trong xã hội hiện đại, con người phải có những kiến thức và kỹ
năng sống cần thiết. Kỹ năng sống vừa mang tính xã hội vừa mang tính cá
nhân, do đó để quá trình giáo dục kỹ năng sống đạt chất lượng, hiệu quả cao
thì nhất thiết phải được định hướng đúng đắn và quản lý quá trình này một


4
cách chặt chẽ, khoa học. Như vậy giáo dục kỹ năng sống cho người học nói
chung, cho học sinh phổ thông nói riêng phải được xác định là một nhiệm vụ,
nội dung trong giáo dục nhân cách toàn diện.
Nhìn lại thực trạng về kỹ năng sống và việc giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh phổ thông ở Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh còn nhiều yếu kém,
bất cập. Không ít học sinh THPT đang trong tình trạng thiếu kỹ năng sống
dẫn đến trở thành nạn nhân, hoặc một số trường hợp khác có hành vi vi phạm
pháp luật trở thành phạm tội, điều đó ngày càng có xu hướng gia tăng cả về số

lượng và tính chất, mức độ nghiêm trọng.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hiện trạng trên, trong đó có nguyên nhân
từ phía gia đình, có nguyên nhân từ cộng đồng xã hội, đặc biệt là nguyên nhân
từ sự thiếu rèn luyện, tu dưỡng của học sinh và sự thiếu quan tâm giáo dục kỹ
năng sống của nhà trường đối với học sinh. Có những gia đình, cha mẹ do quá
bận việc làm ăn nên đã thiếu sự quan tâm đến con, không hiểu con, không kịp
thời phát hiện những lỗi lầm, sai trái của con. Do đó con cái kết thân với bạn
bè xấu, bị ảnh hưởng từ những điều không tốt nên dẫn đến sai lầm, đi từ sai
lầm nhỏ đến sai lầm lớn và có những hành vi không chuẩn mực, thậm chí
phạm tội. Trong khi đó, một số nhà trường vẫn chưa thực sự coi trọng giáo
dục kỹ năng sống và quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh; có
khi còn rơi vào bệnh hình thức, chiếu lệ trong giáo dục kỹ năng sống, hoặc
chỉ xem trọng việc trang bị kiến thức mà xem nhẹ thực hành của học sinh,
hoặc không chú trọng đúng mức đến việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống cho các em.
Sự quản lý không tốt của nhà trường cũng là một trong những nguyên
nhân quan trọng dẫn đến học sinh thiếu kỹ năng sống và nảy sinh tình trạng
bạo lực học đường. Khi nhà trường, thầy cô thiếu sự quan tâm rèn luyện đối
với học sinh sẽ dẫn đến xuất hiện tràn lan những hiện tượng như quay cóp
trong thi cử, học sinh yêu sớm, hút thuốc, uống rượu, cờ bạc ...


5
Xuất phát từ những lý do khách quan, chủ quan như đã phân tích, là
người làm công tác giáo dục tại một trường THPT, tôi mạnh dạn chọn đề tài:
“Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông
ở Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vào đầu thập niên 90, thuật ngữ “Kỹ năng sống” đã xuất hiện trong một
số chương trình của các tổ chức của Liên Hợp Quốc như WHO (tổ chức Y tế

thế giới), UNICEF (quỹ cứu trợ nhi đồng), UNESCO (tổ chức giáo dục văn
hóa và khoa học) và các nhà giáo dục thế giới đã cùng tìm cách giáo dục để
tạo ra cho trẻ năng lực tâm lý xã hội, nhằm ứng phó với những yêu cầu và
thách thức của cuộc sống hàng ngày. Đó là giáo dục kỹ năng sống nhằm giúp
trẻ biến nhận thức thành hành động, nghĩa là trẻ em không chỉ hiểu biết mà
còn phải làm được điều mình hiểu.
Do yêu cầu của sự phát triển kinh tế – xã hội và xu thế hội nhập cùng
phát triển của các quốc gia nên hệ thống giáo dục của các nước đã và đang
thay đổi theo định hướng khơi dậy và phát huy tối đa các tiềm năng của người
học; đào tạo một thế hệ năng động, sáng tạo, có những năng lực chủ yếu (như
năng lực thích ứng, năng lực tự hoàn thiện, năng lực hợp tác, năng lực quan
hệ xã hội) để thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của xã hội. Theo đó,
vấn đề quản lý và giáo dục kỹ năng sống cho thế hệ trẻ nói chung, cho học
sinh phổ thông nói riêng được đông đảo các nước quan tâm.
Mặc dù, quản lý quá trình và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đã
được nhiều nước quan tâm và cùng xuất phát từ quan niệm về kỹ năng sống
của Tổ chức Y tế thế giới hoặc UNESCO, nhưng quan niệm và nội dung giáo
dục kỹ năng ở các nước không giống nhau. Ở một số nước, nội hàm của khái
niệm này được mở rộng, trong khi một số nước xác định nội hàm của nó chỉ
bao gồm khả năng tâm lý xã hội.


6
Thuật ngữ kỹ năng sống được người Việt Nam bắt đầu biết đến từ
chương trình của UNESCO (1996) “Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ và
phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà trường”.
Thông qua quá trình thực hiện này, nội dung của khái niệm kỹ năng sống và
giáo dục kỹ năng sống ngày càng được mở rộng. Cùng với đó là việc triển khai
các chương trình quản lý quá trình và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đã
được quan tâm nghiên cứu. Những nghiên cứu về các vấn đề trên ở giai đoạn

này có xu hướng xác định những kỹ năng cần thiết ở các lĩnh vực mà học sinh,
thanh thiếu niên tham gia và để xuất hiện các biện pháp hình thành những kỹ
năng hình thành cho thanh thiếu niên (trong đó có học sinh THPT).
Chúng ta đều biết nhiệm vụ lớn lao của giáo dục trên thế giới hiện nay
là phải tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao. Và ngay từ những năm đầu của
thập kỷ cuối cùng thế kỷ 20, UNESCO đã khuyến cáo về bốn trụ cột của học
tập thế kỷ 21 là: “Học để biết; Học để làm; Học để cùng chung sống; Học để
làm người”. Trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công
nghệ thông tin, người ta đều thấy người lao động ở thế kỷ 21 không phải chỉ
học để biết, để làm mà quan trọng hơn phải “cùng chung sống và tự khẳng
định mình” trong xã hội đầy biến động. Năng lực của người lao động thế kỷ
21 không chỉ nằm ở sự biết, sự biết làm mà chủ yếu phải là sự biết làm người,
sự tự khẳng định mình trong sự đóng góp chung cho xã hội.
Ở Việt Nam, vài năm gần đây Bộ GD&ĐT đã chỉ đạo các trường học
phải tiến hành giáo dục kỹ năng sống nhưng mới chỉ dừng lại ở các văn bản
chỉ đạo và một số tài liệu sơ lược để huấn luyện giáo viên còn thực tiễn triển
khai ở các nhà trường hiện nay như thế nào, Bộ chưa có đánh giá, tổng kết.
Tuy nhiên, với phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”, mục đích nhằm mang lại cho học sinh cả nước một “môi trường an toàn,
thân thiện, hiệu quả, phù hợp điều kiện địa phương và đáp ứng nhu cầu xã


7
hội”. Hưởng ứng phong trào này, Trung tâm Giáo dục môi trường và các vấn
đề xã hội đã phối hợp với Ban dự án Phát triển giáo dục THPT nhanh chóng
xây dựng kế hoạch tổ chức hoạt động nhằm hỗ trợ triển khai đến cơ sở một số
nội dung thiết thực. Ở TP Hồ Chí Minh, các trường THPT chuyên Lê Hồng
Phong, Trần Đại Nghĩa,… chỉ mới lồng ghép việc giáo dục kỹ năng sống vào
các buổi hội thảo, chuyên đề, sinh hoạt câu lạc bộ bộ môn. Bên cạnh đó, cũng
có một số giáo viên nghiên cứu, vận dụng giáo dục kỹ năng sống cho học sinh

THPT một cách đơn lẻ, chưa mang tính hệ thống.
Trong khi BGD&ĐT và cơ quan chăm lo nguồn nhân lực là Bộ
LĐTBXH chưa chỉ đạo triển khai được bao nhiêu trong các nhà trường từ phổ
thông đến đại học và các trường dạy nghề, thì các trung tâm dạy kỹ năng mềm
đã nở rộ, tràn lan, phục vụ mọi nhu cầu của học sinh. Như vậy sự triển khai
giáo dục kỹ năng mềm còn tự do, lỏng lẻo hiện nay cũng là một nhu cầu cần
rút kinh nghiệm. Vừa qua việc Bộ Quốc phòng và Trung ương Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh phải chấn chỉnh “Học kỳ quân đội” của các trung
tâm, công ty là một minh chứng.
Mặt khác hiện nay chúng ta đang phải đối phó với nạn bạo lực học
đường, nạn học sinh phổ thông tự tử, nạn học sinh vi phạm pháp luật…ngày
một gia tăng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên, nhưng có
một nguyên nhân chủ yếu là do học sinh của chúng ta chưa được trang bị đầy
đủ, sâu sắc về giá trị sống và kỹ năng sống. Đó cũng là một nhu cầu cấp thiết
cần phải sớm trang bị kỹ năng mềm cho học sinh hiện nay. Một số công trình
nghiên cứu theo hướng nghiên cứu này đã nghiên cứu, hướng đến sự giáo dục
pháp luật, giáo dục kỹ năng sống cho học sinh như đề tài “Thực trạng của học
sinh-sinh viên trong mấy năm gần đây và vấn đề giáo dục pháp luật trong nhà
trường” của tác giả Vương Thanh Hương và Nguyễn Minh Đức.
Ở Việt Nam đã có nhiều tác giả, nhà khoa học viết về vấn đề này như
một số công trình tiêu biểu như: Huỳnh Văn Sơn với “Nhập môn kỹ năng


8
sống”, NXB Giáo dục 2006; Nguyễn Thanh Bình với “Giáo trình giáo dục kỹ
năng sống”; “Cẩm nang tổng hợp kỹ năng hoạt động thanh thiếu niên”, của
tác giả Phạm Văn Nhân (2002); Kỹ năng thanh niên tình nguyện”, tác giả
Trần Thời (1998).
Nguyễn Tùng Lâm, Hội Tâm lý – Giáo dục Hà Nội thì cho rằng ở người
học (học sinh – sinh viên) Việt Nam hiện nay còn một số quan niệm sai lệch:

Kỹ năng sống không cần học, cứ sống tốt, bằng trải nghiệm sẽ rút được nhiều
bài học. Nhưng hiện nay với xã hội hiện đại có nhiều biến động liệu những
trải nghiệm có bị trả giá hay không? Mặt khác trong xã hội cạnh tranh, cần
nhanh chóng khẳng định và vươn tới thành công. Do đó người nào càng có
nhiều kỹ năng, nhiều năng lực người đó nhanh chóng thành công, tại sao ta lại
bỏ lỡ những con đường ngắn nhất?
Kết quả của hướng nghiên cứu này cho thấy, nghiên cứu về quá trình
quản lý và giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam xuất phát từ yêu cầu xã hội đối
với giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa; từ nhiệm vụ triển
khai chiến lược và đổi mới giáo dục phổ thông, từ xu thế giáo dục thế giới và
từ sự phát triển nội tại của khoa học giáo dục nói chung và bước đầu đã đạt
được những thành tựu nhất định.
Một số học sinh quan niệm “Kỹ năng sống” cứ học là có và đó cũng là
một sai lầm. Do chỉ học xong rồi lại để đấy, không sống bằng những trải
nghiệm, không lo rèn luyện hàng ngày, lấy phương châm học suốt đời để tích
lũy kinh nghiệm, nâng cao năng lực thì sẽ khó thành công trong cuộc sống xã
hội hiện đại. Đây cũng là một cảnh báo để học sinh và các nhà trường, các
trung tâm dạy Kỹ năng sống phải nhắc nhở hướng dẫn học viên của mình.
Tác giả Hoàng Tụy thì cho rằng: “Giáo dục cần đề cao tính nhân văn,
rèn luyện nhân cách, phẩm chất trí tuệ, năng lực cảm thụ, ý thức cộng đồng.
Nói một cách khác, phải có định hướng lại trong cách dạy cho học sinh Việt


9
Nam thành người như thế nào chứ không chỉ nhồi nhét kiến thức để chạy theo
các kỳ thi, chạy theo bằng cấp để rồi thiếu hụt những kỹ năng cần thiết cho
công việc và cho cuộc sống”, TP Hà Nội, 2009.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực trạng quản lý giáo dục

kỹ năng sống cho học sinh phổ thông ở một số trường THPT trên địa bàn
Quận Bình Tân – TP Hồ Chí Minh nhằm đề xuất biện pháp quản lý quá trình
giáo dục kỹ năng sống, góp phần phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh
THPT của Quận Bình Tân.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Xác định cơ sở lý luận của quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh THPT Quận Bình Tân – TP Hồ Chí Minh.
Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng việc quản lý quá trình giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh THPT Quận Bình Tân.
Đề xuất biện pháp quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
THPT Quận Bình Tân trong giai đoạn hiện nay.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu
Quản lý quá trình giáo dục nhân cách cho học sinh THPT Quận Bình
Tân, TP Hồ Chí Minh.
Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu và triển khai quá trình quản lý giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh THPT trên địa bàn Quận Bình Tân.


10
Các kỹ năng sống cơ bản cần được giáo dục cho học sinh THPT được
xác định trong nghiên cứu luận văn là: kỹ năng học tập, kỹ năng xác định giá
trị, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng đương đầu với cảm xúc, căng thẳng và kỹ năng
giải quyết mâu thuẫn một cách tích cực.
Đề tài được tiến hành nghiên cứu ở trường trung học phổ thông trên địa
bàn Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh, đặc biệt tập trung ở các trường: THPT An

Lạc, THPT Nguyễn Hữu Cảnh, THPT Vĩnh Lộc, từ tháng 01 năm 2013.
5. Giả thuyết khoa học
Kỹ năng sống của học sinh chỉ có thể hình thành, phát triển thông qua
các hoạt động đa dạng của nhà trường gắn với đời sống xã hội. Nếu các lực
lượng giáo dục trong nhà trường THPT Quận Bình Tân thực hiện tốt việc tổ
chức giáo dục nâng cao nhận thức cho học sinh, đồng thời đưa học sinh vào rèn
luyện kỹ năng sống thông qua các chủ đề, nội dung phong phú; thông qua các
hình thức đa dạng, thông qua tạo tình huống giáo dục; xây dựng môi trường
giáo dục; phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng sư phạm và thường xuyên thực
hiện kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, thì hiệu
quả quản lý giáo dục kỹ năng sống sẽ được nâng cao, góp phần vào việc thực
hiện mục tiêu giáo dục toàn diện cho học sinh THPT của Quận Bình Tân.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin; quán triệt
sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
giáo dục và quản lý giáo dục. Đề tài còn được thực hiện dựa trên quan điểm
tiếp cận hệ thống cấu trúc, quan điểm lịch sử – lôgic và quan điểm thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Các phương pháp được sử dụng: Phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ
thống hóa các tài liệu, văn bản liên quan đến đề tài.


11
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu tài liệu để khái quát việc giáo dục
kỹ năng sống cho học sinh THPT.
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát các hoạt động giáo dục nói chung, giáo dục kỹ
năng sống nói riêng của nhà trường.

- Phương pháp phỏng vấn giáo viên, học sinh.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi dùng cho giáo viên, học sinh.
- Phương pháp thống kê toán học, xử lý số liệu.
- Phương pháp phỏng vấn chuyên gia.
7. Ý nghĩa của luận văn
Xây dựng một số khái niệm công cụ và đề xuất một hệ thống biện pháp
quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho sinh THPT Quận Bình Tân, TP
Hồ Chí Minh. Qua đó góp phần vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục, phát
triển nhân cách cho học sinh, đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp giáo dục
nước nhà.
8. Kết cấu của luận văn
Gồm phần mở đầu, 2 chương, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham khảo và
phụ lục.


12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH
GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG Ở QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
1.1. Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Kỹ năng sống
Theo nhóm biên soạn tài liệu giáo dục kỹ năng sống của Vụ giáo dục thể
chất mà chủ biên là Giáo sư Nguyễn Võ Kỳ Anh: “ Kỹ năng sống là khả năng
có được những hành vi thích nghi và tích cực, cho phép chúng ta xử trí một
cách có hiệu quả các đòi hỏi và thử thách của cuộc sống thường ngày” [1, tr.3].
Định nghĩa vừa nêu trên cũng tương đồng với định nghĩa về kỹ năng
sống của Tổ chức Y tế thế giới WHO: “Kỹ năng sống là khả năng thích nghi
và những hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với

nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày”[1,tr37].Nói một cách rõ
nghĩa, kỹ năng sống là tập hợp các kỹ năng được rèn luyện hoặc kinh nghiệm
thực tế được sử dụng để xử lý những vấn đề trong cuộc sống. Và nó được chia
ra hai phần là kỹ năng tư duy và kỹ năng ứng xử như: tư duy phê phán, tư duy
sáng tạo, ra quyết định và giải quyết vấn đề, ứng phó với các tình huống, biết
cảm thông, giao tiếp ứng xử hiệu quả, thuyết trình, thương thuyết…
Kỹ năng sống được coi trọng vì nó có tác dụng lớn trong hình thành tư
duy, nhân cách của mỗi người. Đó là thái độ sống, giá trị sống căn bản, như
sống trung thực, can đảm đối mặt với sự thật, biết thương yêu và biết cách
vượt lên nghịch cảnh.
Với học sinh, khi các em có cơ hội rèn luyện kỹ năng sống, biết ứng
biến tích cực với mọi tình huống xảy ra, biết cách đối diện và đương đầu,
vượt qua được những khó khăn, hạn chế những mâu thuẫn, xung đột, bạo lực,
các em sẽ được rèn luyện, phát triển tính cách tự chủ, tự tin vào bản thân, tinh


13
thần trách nhiệm cùng khả năng diễn đạt, thuyết phục, thói quen chia sẻ, giúp
đỡ người khác. Đó chính là những yếu tố quan trọng giúp cho các em đạt
được thành công trong giai đoạn nền tảng của cuộc đời.
Như vậy, có thể hiểu kỹ năng sống là năng lực ứng xử tích cực của mỗi
người đối với các hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy của chính mình.
Hiện nay người ta quan niệm khác nhau về kỹ năng sống, chưa có một
khái niệm duy nhất được tất cả mọi người công nhận. Tuy nhiên, có người
cho rằng kỹ năng sống là khả năng tâm lý xã hội của mỗi người được thể hiện
ở hành vi tích cực trong việc xử lý hiệu quả các đòi hỏi, thử thách của cuộc
sống hàng ngày.
Theo UNICEF, “Kỹ năng sống là tập hợp nhiều tâm lý xã hội và giao
tiếp cá nhân giúp cho con người đưa ra những quyết định có cơ sở, giao tiếp
một cách có hiệu quả, phát triển các kỹ năng tự xử lý và quản lý bản thân

nhằm giúp họ có một cuộc sống lành mạnh và có hiệu quả. Từ kỹ năng sống
có thể được thể hiện thành những hành động cá nhân và những hành động đó
sẽ tác động đến hành động của những người khác cũng như dẫn đến những
hành động nhằm thay đổi môi trường xung quanh, giúp nó trở nên
lành mạnh”.
Theo UNESCO, kỹ năng sống được thể hiện ở bốn trụ cột: Học để biết,
học để làm việc, học để chung sống, học để tự khẳng định mình.
Từ những quan niệm nêu trên và qua nghiên cứu, xem xét vấn đề này,
chúng ta có thể hiểu: Kỹ năng sống là khả năng của cá nhân được thể hiện
trong việc giải quyết có hiệu quả những nhu cầu (cuộc sống, học tập, lao
động, giải trí…) và những thách thức diễn ra trong cuộc sống.
1.1.2.Quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT
Tiếp cận theo quá trình giáo dục, thì quá trình giáo dục kỹ năng sống là
một quá trình có mục đích, có tổ chức; thông qua mối quan hệ thống nhất biện


14
chứng giữa nhà giáo dục và đối tượng giáo dục, nhằm đạt tới các mục tiêu
giáo dục kỹ năng sống đề ra. Việc giáo dục kỹ năng sống phải được tiến hành
theo phương thức tương tác, thông qua các tình huống, kể cả trải nghiệm thực
tế, không thể là những bài học lý thuyết thông thường. Như vậy, đòi hỏi đối
với giáo viên phải được trang bị và thực hành thành thạo các phương pháp
dạy kỹ năng sống, gần gũi, thân thiện với học sinh và còn cần có vốn sống
phong phú, những trải nghiệm qua thử thách trên đường đời, và trên hết phải
có tấm lòng nhân hậu.
Quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông bao
gồm nhiều nhân tố khác nhau, từ mục tiêu GD đến nhà GD, đối tượng GD,
nội dung GD, phương pháp GD, hình thức tổ chức GD , phương tiện GD, kết
quả GD. Các nhân tố đó quan hệ chặt chẽ, tác động biện chứng, thúc đẩy lẫn
nhau, trong đó có hai nhân tố mang tính chủ thể năng động, chính là nhà GD

và đối tượng GD. Như vậy, có thể hiểu:
Quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT là quá trình có
mục đích, có tổ chức, phối hợp thống nhất giữa nhà giáo dục với đối tượng
giáo dục, thông qua đó tạo điều kiện cho học sinh học tập và trải nghiệm các
tình huống khác nhau, nhằm giúp cho cá nhân có được khả năng giải quyết
có hiệu quả những thách thức, nhiệm vụ, đáp ứng mục tiêu giáo dục đã
xác định.
1.1.3.Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung
học phổ thông ở Quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh
Do đặc điểm của xã hội hiện nay, nên sự hình thành và phát triển kỹ
năng sống trở thành một yêu cầu quan trọng đối với cá nhân và đáp ứng tiêu
chí về nhân cách con người hiện đại. Hội nghị giáo dục thế giới họp tại
Senegan tháng 4 năm 2000 đã thông qua kế hoạch hành động giáo dục cho
mọi người (Kế hoạch hành động Dakar) gồm sáu mục tiêu lớn. Trong đó, ba


15
mục tiêu đã vạch ra rằng: “Đảm bảo nhu cầu học tập của tất cả các thế hệ trẻ
và người lớn được đáp ứng thông qua bình đẳng tiếp cận với các chương trình
học tập và chương trình kỹ năng sống thích hợp”. Song, để tiến hành tốt việc
giáo dục kỹ năng sống cho lớp trẻ hiện nay thì không thể thiếu công tác quản
lý giáo dục nói chung, quản lý giáo dục kỹ năng sống nói riêng.
Quản lý giáo dục cũng như quản lý xã hội nói chung, đó là hoạt động
có ý thức của con người nhằm đạt được những mục đích đã xác định. Theo
tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có
mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý làm cho hệ vận
hành theo đường lối nguyên lý của Đảng, thực hiện được các tính chất của
nhà trường xã hội chủ nghĩa mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy, giáo dục
thế hệ trẻ, đưa thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu dự kiến lên trạng thái
về mới về chất” [16, tr.7].

Với ý nghĩa đó, quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
chính là thực hiện tốt các chức năng của quản lý, từ khâu kế hoạch hóa đến
các khâu khác như tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, kiểm soát nhằm tạo ra điều
kiện, môi trường thuận lợi nhất cho việc hình thành, phát triển các kỹ năng
sống cho học sinh.
Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, đó chính là
những tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy
luật của chủ thể quản lý đến tất cả các nhân tố của quá trình giáo dục, nhằm
thực hiện có hiệu quả mục tiêu hình thành và phát triển kỹ năng sống cho họ.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể hiểu: Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh THPT là sự tổ chức, điều khiển một cách khoa học của chủ
thể quản lý nhà trường đối với toàn bộ quá trình giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh, nhằm đảm bảo cho quá trình này đạt được hiệu quả, đáp ứng mục
tiêu giáo dục mà nhà trường đã xác định.


16
1.2. Nội dung quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống cho học sinh
THPT ở Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh hiện nay
1.2.1. Quản lý chủ thể giáo dục
Chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo quản lý quá trình quản lý giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh là: Ban Giám hiệu Nhà trường, giáo viên, ban cán sự lớp.
Trong đó đảng uỷ, ban giám hiệu, giáo viên, ban cán sự lớp là chủ thể trực
tiếp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quản lý quá trình quản lý giáo dục
kỹ năng sống.
Chủ thể hướng dẫn chỉ đạo quản lý quá trình giáo dục đạo đức cho học
sinh gồm các cơ quan chức năng, văn phòng đây là những cơ quan tham mưu
cho Đảng uỷ, Ban Giám hiệu Nhà trường và trực tiếp chỉ đạo các hoạt động
quản lý quá trình quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
Chủ thể trực tiếp giáo dục kỹ năng sống là đội ngũ giáo viên mà trước hết

là giáo viên chủ nhiệm lớp. Do đó họ có vai trò rất lớn đối với quá trình hình
thành và phát triển nhân cách người học. Ngoài ra, còn có các tổ chức quần
chúng như: Đoàn thanh niên, Công đoàn;... tham gia giáo dục kỹ năng sống.
1.2.2. Quản lý đối tượng giáo dục
Học sinh vừa là đối tượng giáo dục, đối tượng bị quản lý, vừa là chủ
thể tự giáo dục. Quản lý đối tượng giáo dục kỹ năng sống, chính là quản lý quá
trình học tập và rèn luyện, hình thành, phát triển kỹ năng sống của học sinh. Học
sinh và tập thể học sinh vừa là khách thể tiếp nhận các tác động giáo dục, chịu
sự điều khiển chi phối bởi mục tiêu và sự tác động thông qua các phương
pháp, hình thức và các tác động khác của nhà giáo dục, lại vừa là chủ thể tự tổ
chức, tự chỉ đạo quá trình học tập, rèn luyện kỹ năng sống của chính mình.
Như vậy, chỉ có thể nâng cao chất lượng quản lý quá trình giáo dục kỹ năng
sống khi phát huy được đầy đủ vai trò tự quản lý, tự giáo dục kỹ năng sống
của học sinh.


17
1.2.3. Quản lý mục tiêu giáo dục kỹ năng sống
Quản lý mục tiêu giáo dục kỹ năng sống chính là việc thiết kế mục tiêu,
phổ biến, hướng dẫn việc thực hiện mục tiêu đến toàn bộ các lực lượng giáo
dục trong Nhà trường. Đồng thời, phải tổ chức có hiệu quả quá trình giáo dục
kỹ năng sống và làm cho kết quả cuối cùng đạt được mục tiêu đề ra. Mục tiêu
quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là một bộ phận của mục tiêu quản
lý giáo dục nói chung, là trạng thái tương lai, là kết quả dự kiến cần đạt tới mà
các tổ chức, các lực lượng giáo dục trong toàn trường tập trung sự nỗ lực
hướng vào đó. Quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống đòi hỏi việc xây dựng
và quản lý mục tiêu phải được thực hiện ngay từ đầu, đó là một yếu tố quan
trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc triển khai và tiến hành kế hoạch hóa.
1.2.4. Quản lý nội dung giáo dục kỹ năng sống
Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết

quả của quá trình quản lý quá trình giáo dục kỹ năng sống. Vấn đề là, giáo
dục nội dung gì để phù hợp với mục tiêu, phù hợp với đặc điểm tâm, sinh lý
học sinh; qua đó giúp học sinh có khả năng học tập tốt hơn, có kỹ năng sống,
kỹ năng ứng xử một cách tự tin, đồng thời để hoàn thiện bản thân mình,
khẳng định bản thân trước mọi người và cộng đồng, và cuối cùng là đạt được
các mục tiêu nhà trường đã xác định. Về cụ thể, kỹ năng sống của học sinh
cần được quản lý một cách khoa học, trong đó bao gồm các nhóm như:
Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với chính mình
Kỹ năng tự nhận thức: là kỹ năng mà ở mỗi con người đều cần phải tự
nhận biết và hiểu rõ những tiềm năng, tình cảm, cảm xúc cũng như vị trí của
mình trước cuộc sống và xã hội. Hơn thế nữa, bản thân mỗi cá nhân học sinh
cũng hiểu được những mặt mạnh và yếu của bản thân mình.
Khi học sinh càng nhận thức được khả năng của mình, các em càng có
khả năng sử dụng các kỹ năng sống khác một cách có hiệu quả và càng có khả


18
năng lựa chọn những gì phù hợp với các điều kiện sẵn có với bản thân, với xã
hội mà các em sống với khả năng của bản thân mình nữa. Các em cũng cần có
sự hiểu biết rõ ràng về bản sắc dân tộc và nền văn hóa mà từ đó các em đã
được sinh ra và cũng chính là nền văn hóa đã tạo nên con con người của
các em.
Lòng tự trọng: Sự tự nhận thức đưa đến sự tự trọng. Khi mỗi người tự
nhận thức được năng lực tiềm tàng của bản thân và vị trí của mình trong cộng
đồng thì lòng tự trọng được mô tả như là “Sự nhận thức những điều tốt đẹp
của bản thân”. Nó còn đề cập đến việc mỗi cá nhân cảm nhận như thế nào
những khía cạnh mang tính cá nhân như diện mạo, khả năng và hành vi, …
Và mỗi cá nhân các em sẽ phát triển như thế nào trên cơ sở những kinh
nghiệm bản thân để trở nên thành thạo và thành công khi làm những điều mà
các em dự định. Tuy nhiên, lòng tự trọng bị ảnh hưởng một cách mạnh mẽ bởi

mối quan hệ của một cá nhân học sinh với những cá nhân học sinh khác.
Những người lớn tuổi có ảnh hưởng đến các em học sinh như cha mẹ, các
thành viên trong gia đình, thầy cô giáo và cả bạn bè cùng trang lứa có thể
hoặc trợ giúp nhằm phát triển hoặc làm mất đi lòng tự trọng của một cá nhân
học sinh qua những quan hệ, tiếp xúc của họ đối với cá nhân học sinh đó.
Sự kiên quyết: Giáo dục các em sự kiên quyết hay tính kiên định có
nghĩa là nhận biết được những gì bản thân mình muốn và tại sao lại muốn
đồng thời là khả năng tiến hành các bước cần thiết để đạt được những gì bản
thân mình muốn trong những hoàn cảnh cụ thể bao gồm một loạt các tình
huống khác nhau như: từ chối sự tán tỉnh, cám dỗ; thuyết phục người khác
đồng thuận theo mình; sự nêu gương, kêu gọi, hướng dẫn mọi người làm
những việc có lợi cho cộng đồng,… Tuy nhiên, cách thể hiện tính kiên định
có liên quan đến văn hóa và việc lắng nghe, đánh giá những điều người khác
cảm nhận và mong muốn bởi vì kiên định là biết được nhu cầu và quyền của


19
mình, cũng như điều mình mong muốn và thực hiện những điều đó có xét tới
nhu cầu, quyền và mong muốn của người khác.
Đương đầu với cảm xúc: Xúc cảm là sự phản ánh rõ nét bản chất của
mỗi người. Những cảm xúc như sợ hãi, yêu thích, e thẹn, phẫn nộ, mong
muốn được thừa nhận, …hoàn toàn mang tính chủ quan và thường có là do
đáp ứng một cách tức thời đối với tình huống. Vì thế mà chúng không thể
đoán trước được và có thể dễ dàng đưa các em đến những hành vi mà sau này
các em sẽ phải hối tiếc.
Do vậy, việc xác định và sau đó là đối phó với những cảm xúc là khả
năng cho thấy rằng con người ta có thể nhận thấy và phải tính đến những xúc
cảm của mình cùng nguyên nhân cụ thể của chúng để có những quyết định
chế ngự, không để cho những cảm xúc của bản thân chi phối.
Đương đầu với căng thẳng (kỹ năng ứng phó với stress): Căng thẳng là

một phần hiển nhiên của cuộc sống. Những vấn đề trắc trở của bản thân, của
bạn bè thân thiết, của các thành viên trong gia đình; những mối quan hệ bị đổ
vỡ, …là những minh họa các tình huống gây căng thẳng trong cuộc sống con
người. Trong những mức độ hữu hạn, khi một cá nhân có khả năng đương đầu
với sự căng thẳng thì căng thẳng lại có thể là một nhân tố tích cực bởi vì
chính những sức ép của sự căng thẳng đó buộc cá nhân phải tập trung vào
công việc của mình và hưởng ứng một cách thích hợp. Tuy nhiên, sự căng
thẳng còn có một sức mạnh hủy diệt cuộc sống cá nhân nếu sự căng thẳng đó
quá lớn và không giải tỏa nổi. Do đó, cũng như kỹ năng đối phó với cảm xúc,
học sinh cần phải có khả năng nhận biết sự căng thẳng, nguyên nhân và hậu
quả cũng như biết cách khắc phục nó.
Nhóm kỹ năng nhận biết và sống với người khác
Mối quan hệ giữa các cá nhân: Các mối quan hệ là đặc trưng bản chất
của cuộc sống, chúng có hình thái và quy mô khác nhau. Khi đứa trẻ lớn lên,


20
trẻ phải phát triển các mối quan hệ với những người lớn có vai trò quan trọng
trong cuộc sống của các em như cha mẹ, người thân, thầy cô giáo, những
người xung quanh, những nhà lãnh đạo địa phương,… với bạn bè đồng lứa
trong và ngoài trường lớp. Tuy nhiên, không phải ai cũng có thể là bạn bè tốt,
thân thiết, ngang hàng được. Các em cần phải biết cách đối xử một cách phù
hợp trong từng mối quan hệ để chúng có thể phát triển tối đa tiềm năng sẵn có
trong môi trường của chúng.
Kỹ năng thiết lập tình bạn: Một cá nhân cần có nhiều bạn để cùng chia
sẻ hoạt động, niềm hi vọng, sự sợ hãi, chia sẻ cuộc sống và cả tham vọng.
Việc thiết lập tình bạn bắt đầu từ giai đoạn sớm nhất của cuộc đời. Vì vậy, học
sinh cần phải nhận biết rằng tình bạn được hình thành như thế nào và phải
thiết lập, phát triển tình bạn ra sao để cả hai bên cùng đạt được những lợi ích
chân chính. Học sinh cần phải có khả năng nhận biết, để khi cần thiết, mạnh

dạn khước từ kiểu tình bạn có thể đưa học trò đến những hành vi nguy hiểm
hoặc tội phạm như hành vi sử dụng ma túy, trộm cắp,…
Sự cảm thông (kỹ năng thấu cảm): là khả năng tự đặt mình vào vị trí
của người khác khi học sinh phải đương đầu với những vấn đề nghiêm trọng
do hoàn cảnh hoặc do những hành động của chính bản thân các em gây ra để
hiểu được tình cảnh của họ và tìm ra cách giảm bớt gánh nặng bằng sự chia sẻ
chân tình với người đó thay vì lên án, thương hại hoặc coi khinh với bất kỳ lý
do nào. Cảm thông cũng đồng nghĩa với việc hỗ trợ người đó để họ có thể tự
quyết định và đứng vững trên đôi chân của mình một cách nhanh chóng nhất.
Đứng vững trước sự lôi kéo của bạn bè: Đối với các em học sinh, sức
ép để bản thân được giống như các thành viên khác trong nhóm bạn là rất lớn.
Vì vậy, đứng trước sự lôi kéo của bạn bè cùng lứa là một kỹ năng rất quan
trọng. Nếu phải đương đầu với những ý nghĩ hoặc những việc làm trái ngược
của bạn bè cùng lứa khi họ gây ảnh hưởng và thói quen xấu thì bản thân cần


21
phải dũng cảm khước từ, phản đối, dừng ngay những đề xuất không thể chấp
nhận được, kiên quyết bảo vệ những giá trị và niềm tin của bản thân cho dù có
thể bị chế nhạo, đe dọa hoặc ghẻ lạnh từ nhóm bạn đó.
Kỹ năng thương lượng: là một kỹ năng quan trọng trong mối quan hệ
giữa các cá nhân với nhau. Kỹ năng này có liên quan đến tính kiên định, sự
cảm thông và mối quan hệ giữa cá nhân cũng như khả năng thỏa hiệp những
vấn đề không có tính nguyên tắc của bản thân. Kỹ năng thương lượng còn liên
quan đến khả năng đương đầu với những áp lực, sự đe dọa của hoàn cảnh,
những rủi ro tiềm tàng trong các mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau kể cả
sức ép của bạn bè.
Cần phải nhận định rõ vị trí của cá nhân và thiết lập kỹ sự hiểu biết lẫn
nhau trong các mối quan hệ để có kỹ năng thương lượng tốt.
Kỹ năng giải quyết xung đột không dùng bạo lực: là kỹ năng có liên

quan đến mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau, đến kỹ năng thương lượng
và các kỹ năng đương đầu với cảm xúc, với căng thẳng, lo âu. Xung đột là
điều không thể tránh khỏi và đôi khi lại là điều cần thiết song kỹ năng giải
quyết xung đột không dùng bạo lực sẽ giúp cho những xung đột trở nên có
tính xây dựng.
Kỹ năng giao tiếp có hiệu quả: Giao tiếp là bản chất của các mối quan
hệ của con người. Do vậy, một trong những kỹ năng sống quan trọng nhất là
khả năng giao tiếp một cách có hiệu quả với mọi người. Khả năng này bao
gồm cả kỹ năng lắng nghe và hiểu được người khác thực hiện việc giao tiếp
của các em như thế nào cũng như nhận biết được nhiều cách giao tiếp của bản
thân học sinh khác nhau ra sao.
Nhóm kỹ năng ra quyết định một cách có hiệu quả
Tư duy phê phán: Như đã nêu, giới trẻ lớn lên trong thế giới ngày nay
phải đối đầu với nhiều vấn đề, sự mong đợi, những đòi hỏi đa dạng, phức tạp


22
và trái ngược của cha mẹ, thầy cô, bạn bè,… phải tiếp nhận, đáp ứng nhiều
thông điệp của các phương tiện truyền thông đại chúng, của các nhà lãnh đạo,
của quảng cáo, của âm nhạc, tôn giáo,… Vì thế học sinh cần phải có khả năng
phân tích, gạn lọc, phê phán để có được quyết định đúng và phù hợp.
Tư duy sáng tạo: Trong cuộc sống, con người thường xuyên bị đặt vào
những hoàn cảnh bất ngờ và bất thường. Do vậy, cần phải có tư duy sáng tạo
nghĩa là có khả năng tiếp cận với sự việc mới, phương thức mới, ý tưởng mới,
cách sắp xếp và tổ chức mới để có một hoặc nhiều phương cách đáp ứng lại
những hoàn cảnh đó một cách phù hợp.
Kỹ năng ra quyết định: Mỗi ngày, con người đều phải đóng trước
những lựa chọn để ra những quyết định. Có những quyết định tương đối đơn
giản và có thể không ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống cũng như có
những quyết định nghiêm túc liên quan đến các mối quan hệ, đến tương lai

cuộc đời. Do đó, khi không thể đáp ứng liền một lúc những nhu cầu đối lập,
người ta cần có khả năng lựa chọn để ra một quyết định có hiệu quả đồng thời
phải ý thức được các tình huống có thể xảy ra, phải lường được những hậu
quả trước khi quyết định từ sự lựa chọn của mình.
Kỹ năng giải quyết vấn đề: Là khả năng xem xét tình hình một cách cẩn
thận, phân tích những vấn đề gì đang tồn tại và xác định các bước nhằm cải
thiện tình hình. Đây là kỹ năng có liên quan đến kỹ năng ra quyết định và
nhiều kỹ năng khác. Chỉ khi trải qua thực hành việc ra quyết định và giải
quyết vấn đề thì học sinh mới có thể xây dựng được những kỹ năng cần thiết
để có thể có những lựa chọn tốt nhất trong bất kỳ hoàn cảnh nào mà chúng
phải đương đầu.
Trong thực tế cuộc sống học tập, rèn luyện, sinh hoạt hàng ngày của
học sinh, các kỹ năng sống thường không tách rời nhau và để đạt được hiệu
quả mong muốn thì việc quản lý nội dung giáo dục kỹ năng sống cho học sinh


23
cần phải đảm bảo chặt chẽ, khoa học. Một mặt, cần thực hiện tốt kế hoạch hóa
và tổ chức chỉ đạo một cách đúng đắn, sát hợp, kịp thời; mặt khác, cần phải
thực hiện tốt khâu kiểm tra để có sự uốn nắn và tiếp tục định hướng cho học
sinh trong quá trình rèn luyện kỹ năng sống.
1.2.5. Quản lý phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục kỹ năng sống
Để đạt được mục tiêu quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đòi
hỏi nhà quản lý phải tìm ra các hình thức, phương pháp giáo dục thích hợp
và vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức đó nhằm nâng cao nhận
thức, bồi dưỡng ý thức, động cơ và hình thành kỹ năng sống cho học sinh
và tập thể học sinh. Phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh bao gồm toàn bộ những cách thức, thủ thuật, thao tác, biện
pháp tác động và cách thức tổ chức điều khiển của chủ thể quản lý đến học
sinh bằng hệ thống công cụ, phương tiện kỹ thuật, nhằm đạt được mục tiêu

quản lý đã xác định.
Quản lý phương pháp, hình thức tổ chức và phương tiện giáo dục kỹ
năng sống là việc làm thứ hai trong quá trình thực hiện giáo dục kỹ năng
sống nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Lãnh đạo trong nhà trường chỉ đạo giáo
viên làm những việc theo trình tự thống nhất để nhằm đem lại thành tựu
cuối cùng đó là nhận thức xã hội và hành vi tự ứng xử của học sinh.
Từ việc lựa chọn các phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục kỹ
năng sống một cách khoa học, chúng ta có khả năng làm chủ một quá trình
quản lý quá trình phù hợp với thực tế và chắc chắn sẽ đạt hiệu quả cao.
Điều đó được thể hiện ở sự hoạch định chương trình, nội dung và phương
pháp thực hiện tương ứng với đối tượng học sinh trên địa bàn.
Để tạo thuận lợi cho việc học tập kỹ năng sống của học sinh bậc
THPT, có thể kể đến các phương pháp giáo dục cụ thể sau: Phương pháp


×