Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóanông nghiệp nông thôn ở huyện thường tín thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.67 KB, 96 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

ĐẶNG HỮU HIỆP

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

ĐẶNG HỮU HIỆP

GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI
HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN
Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS LÊ MINH VỤ

HÀ NỘI - 2014




DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Chính sách xã hội
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp
Giá trị sản xuất
Giải quyết việc làm
Lao động – thương binh và xã hội
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Thu hồi đất
Trách nhiệm hữu hạn
Tiểu thủ công nghiệp
Tổ chức lao động quốc tế
Tổng sản phẩm trên địa bàn
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
CSXH
CNH-HĐH
CN-TTCN
GTSX
GQVL
LÐ-TB & XH
NN và PTNT
THĐ
TNHH
TTCN

ILO
GRDP
UBND
XHCN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP
NÔNG THÔN Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN, HÀ NỘI
1.1
Khái niệm của việc làm, giải quyết việc làm và tác
động của công nghiệp hóa - hiện đại hóa đến giải
quyết việc làm cho nông dân
1.2
Nội dung, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến việc
làm và giải quyết việc làm cho nông dân trong công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chương 2 THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO
NÔNG DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP
NÔNG THÔN Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN, HÀ NỘI
2.1
Đặc điểm chung của huyện Thường Tín, thành phố
Hà Nội ảnh hưởng đến việc làm nông dân
2.2
Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề
đặt ra về giải quyết việc làm cho nông dân trong quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Thường
Tín, thành phố Hà Nội
Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN
NHẰM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG
DÂN TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP
HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP NÔNG
THÔN Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN TRONG THỜI
GIAN TỚI
3.1
Phương hướng giải quyết việc làm cho nông dân
huyện Thường Tín, Hà Nội trong thời gian tới
3.2
Giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm cho nông
dân huyện Thường Tín, Hà Nội
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trang
3

10

10

24

34
34

38


68
68
71
87
89


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giải quyết việc làm là một vấn đề kinh tế - xã hội có tính toàn cầu, là
mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Ở nước ta, giải quyết việc làm
cho lao động là một nhiệm vụ trọng tâm đã được Đảng, Nhà nước rất quan
tâm và giải quyết. Tại nhiều kỳ Đại hội Đảng vấn đề giải quyết việc làm cho
lao động ở nông thôn đã được đề cập đến, cụ thể tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra nghị quyết: “Tập
trung giải quyết vấn đề việc làm và thu nhập cho người lao động, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” [12, tr.321]. Trong những năm
qua, Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách giải quyết việc
làm cho người lao động, với định hướng phát triển nền kinh tế theo hướng
CNH-HĐH đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới cho người lao động. Tuy
nhiên trong quá trình CNH-HĐH cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc,
trong đó có vấn đề người lao động mất việc, thiếu việc làm đang và sẽ diễn
biến rất phức tạp, cản trở quá trình vận động và phát triển kinh tế đất nước. Vì
vậy, giải quyết việc làm là yếu tố quyết định phát huy yếu tố con người, ổn
định phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính
đáng của nhân dân; là vấn đề nóng bỏng cấp thiết của từng địa phương, nhất
là những địa phương chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp và đang chuyển
đổi cơ cấu theo hướng CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn.

Tại 49 tỉnh, thành phố trong cả nước từ năm 2004 đến năm 2013 đã thu
hồi 750.000 héc-ta đất để thực hiện 29.000 dự án đầu tư, trong đó 80% là đất
nông nghiệp, 50% diện tích trong số đó là đất thuộc vùng kinh tế trọng điểm,
đất đai màu mỡ trồng hai vụ lúa một năm. Như vậy, Trong quá trình CNHHĐH, tình trạng đất nông nghiệp có xu hướng giảm xuống do quá trình đô thị
hóa đã chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang đất ở, đất quy hoạch các cụm


4
công nghiệp… Đi đôi với vấn đề này là sự tăng nhanh dân số khu vực nông
thôn. Hằng năm số lao động bổ sung không ngừng tăng lên. Thêm đó tính
mùa vụ trong thời gian nông nhàn cho người lao động. Điều này làm cho việc
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ngày càng trở nên khó khăn.
Thường Tín là một huyện ngoại thành của Hà Nội. Thời gian qua, dưới
sự lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền tình hình kinh tế xã hội có bước phát
triển theo hướng đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, xây dựng
nông thôn mới, nên tỷ trọng công nghiệp, thương mại dịch vụ tăng, tỷ trọng
nông nghiệp giảm, tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, góp phần cải thiện
đời sống và tăng thu nhập cho người dân. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp
hóa cũng nảy sinh nhiều tác động tiêu cực như: diện tích đất nông nghiệp
ngày càng thu hẹp, người nông dân bị mất đất sản xuất, dẫn đến thiếu việc
làm; công tác đào tạo, tư vấn hỗ trợ nghề nghiệp và việc làm đạt hiệu quả
chưa cao; công tác chuyển giao tiến bộ khoa học, kỹ thuật chưa đáp ứng nhu
cầu của nông dân; quỹ vốn vay giải quyết việc làm, hỗ trợ người nghèo và
các nguồn vốn ưu đãi cho nông dân còn hạn hẹp; sự phát triển của công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề phát triển chưa mạnh và chưa đủ
sức thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp buộc họ phải di chuyển vào nội
đô để mưu sinh; các cơ chế chính sách về giải quyết việc làm cho nông dân ở
huyện Thường Tín còn nhiều vấn đề cần bổ sung, hoàn thiện…
Nhằm góp phần phân tích, đánh giá những thuận lợi, khó khăn cũng như
những thành tựu, hạn chế trong quá trình giải quyết việc làm cho nông dân ở

huyện Thường Tín trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từ đó đề ra
phương hướng và giải pháp cụ thể thiết thực nhằm tiếp tục thực hiện hiệu quả
vấn đề trên ở huyện Thường Tín, học viên lựa chọn vấn đề “Giải quyết việc
làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội” làm đề tài luận
văn thạc sĩ của mình.


5
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề việc làm và giải quyết việc làm luôn là một trong những vấn đề
nhận được sự quan tâm của nhà nước và xã hội, đặc biệt và vùng nông thôn.
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến việc làm
và giải quyết việc làm cho nông dân được công bố trong và ngoài nước. Cụ thể:
Trần Văn Chử (2001), Mối quan hệ giữa nâng cao chất lượng lao
động với giải quyết việc làm trong quá trình CNH-HĐH đất nước, đề tài
nghiên cứu cấp Bộ, Hà Nội.
Đề tài đã đưa ra thực trạng chất lượng lao động của lực lượng lao động
Việt Nam hiện nay, đồng thời nêu rõ vai trò của việc nâng cao chất lượng lao
động để góp phần giải quyết việc làm trong quá trình CNH-HĐH đất nước.
Tác giả đã nêu rõ những điều kiện để thực hiện CHNH-HĐH đất nước,
những lợi ích tích cực và những mặt tiêu cực mà CNH-HĐH mang lại, theo
đó có vấn đề thất nghiệp, đặc biệt là khu vực nông thôn khi nông dân bị thu
hồi đất đai cho quy hoạch. Đề tài phân tích về việc nâng cao chất lượng lao
động, đồng thời khẳng định đó là một trong những giải pháp để giải quyết
việc làm cho người dân khi đất nước thực hiện CNH-HĐH.
Vũ Đình Thắng (2002), “Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn”.
Tác giả đã nghiên cứu thực trạng việc làm cho lao động nông thôn, đưa
ra những bất cập và khó khăn trong việc giải quyết nạn thất nghiệp, trong bối
cảnh trình độ dân trí thấp, nền kinh tế kém phát triển, lạc hậu, dân số đông,

việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình tại các địa phương còn thực hiện sơ sài,
chưa chặt chẽ....Bài viết cũng đưa ra những hướng giải quyết về vấn đề việc
làm cho nông dân bao gồm các giải pháp đồng bộ về cơ chế, chính sách,
cũng như nâng cao nhận thức cho người dân nông thôn.
Bùi Thị Lý (2009), “Đẩy mạnh xuất khẩu lao động tại chỗ - hướng giải
quyết việc làm quan trọng trong hội nhập”.


6
Bài nghiên cứu đã đề cập đến một trong những giải pháp để giải quyết
việc làm trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới nước ta, phân tích thực trạng
về số lượng người Việt Nam đi xuất khẩu lao động tại các nước như Trung
Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia... giai đoạn 2007 – 2009. Bài nghiên
cứu cũng đã khẳng định vai trò của xuất khẩu lao động trong bối cảnh giải
quyết thất nghiệp cho người lao động Việt Nam, đồng thời nhấn mạnh đây là
biện pháp hiệu quả góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Nguyễn Tiến Dũng (2010), “Đào tạo nghề cho nông dân trong thời kỳ
hội nhập quốc tế”, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
Bài nghiên cứu đưa ra nội dung về vấn đề giải quyết việc làm cho đối
tượng nông dân Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2015, theo đó đề cập nội
dung chính là hoạt động đào tạo nghề cho nông dân. Tác giả đã đưa ra những
lợi thế về làng nghề của Việt Nam phong phú, đa dạng và mang đặc trưng
tinh hoa của dân tộc, có nhiều triển vọng phát triển, đặc biệt là khi Việt Nam
gia nhập WTO, theo đó, tác giả khẳng định tầm quan trọng của công tác đào
tạo nghề cho nông dân Việt Nam, coi đây là một hướng giải pháp nhằm xóa
đói giảm nghèo, tạo việc làm cho nông dân trong giai đoạn này.
Trần Thị Minh Ngọc (2010), “Việc làm của nông dân trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng đồng bằng Sông Hồng đến năm 2020”
sách tham khảo, Nxb Chính trị quốc gia.
Nội dung sách tham khảo, tác giả đã phản ánh thực trạng việc làm của

nông dân tại vùng đồng bằng Sông Hồng trong tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Tác giả đã đưa ra những lợi thế của khu vực đồng
bằng Sông Hồng, từ đó đem lại những thuận lợi cho nông dân về phát triển
chăn nuôi, trồng trọt... đồng thời cũng đưa ra những mô hình làm giàu cho
nhà nông. Ngoài ra tác giả cũng đề cập đến những vấn đề khác như giáo dục,
trình độ dân trí, các làng nghề tiêu biểu trên địa bàn, công tác đào tạo nghề và


7
những nỗ lực của nhà nước trong việc giải quyết việc làm nông thôn, tuy
nhiên cũng đưa ra những bất cập, hạn chế còn tồn tại cũng như một số
phương hướng giải quyết trong thời gian tới, nhằm giảm tỷ lệ đói nghèo và
vấn nạn thất nghiệp cho nông dân tại đồng bằng Sông Hồng.
Ngô Thị Hồng Nhung (2010), “Nhìn lại một năm đào tạo nghề và giải
quyết việc làm cho lao động nông thôn theo Quyết định 1956/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ”.
Tác giả đã đưa ra đánh giá tổng quan sau một năm thực hiện Quyết
định 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về vấn đề giải quyết việc làm
cho nông thôn. Bài viết đưa ra những kết quả đã đạt được, đồng thời cũng
phản ánh những khó khăn, bất cập trong quá trình thực hiện đề án. Đồng thời,
tác giả cũng đưa ra những kiến nghị để nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực
hiện đề án, tổ chức đào tạo nghề hiệu quả hợp lý góp phần tạo công ăn việc
làm cho nông dân.
Ngoài ra, trong nước và trên thế giới còn có nhiều bài báo khoa học,
báo cáo nghiên cứu về việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân trong bối
cảnh CNH-HĐH.
Tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về
vấn đề ““Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, thành phố
Hà Nội” dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị như một công trình nghiên

cứu chuyên ngành.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn để đánh giá
đúng về thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân trên địa bàn huyện
Thường Tín thời gian qua, từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm


8
giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp
nông thôn ở huyện Thường Tín, Hà Nội thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề việc làm và giải quyết
việc làm cho nông dân trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở
huyện Thường Tín, Hà Nội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho nông dân trong
quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, Hà Nội
những năm qua.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm giải quyết việc làm
cho nông dân trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở huyện
Thường Tín, Hà Nội thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, Hà Nội dưới góc độ kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: nghiên cứu vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân trong
quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, Thành phố
Hà Nội.
- Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Thường Tín, Hà Nội

- Về thời gian: Từ năm 2008 đến năm 2012.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là các chủ
trương của Huyện ủy, chính sách của UBND huyện Thường Tín về lao động,


9
việc làm và giải quyết việc làm cho nông dân làm cơ sở lý luận cho việc
nghiên cứu đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng,
Nhà nước để làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề nghiên cứu; đồng
thời sử dụng các phương pháp khác như: Trừu tượng khoa học lịch sử, lôgíc,
phân tích, tổng hợp, so sánh và phương pháp chuyên gia ... để thưc hiện đề tài
nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm rõ hơn một số vấn đề về
lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về giải quyết việc làm cho nông dân trong
quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở nước ta nói chung, huyện
Thường Tín nói riêng. Đề xuất phương hướng và giải pháp đồng bộ có tính khả
thi trong giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình CNH, HĐH nông
nghiệp nông thôn ở huyện Thường Tín, Hà Nội
Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho Huyện uỷ, Uỷ ban
nhân dân, các ban ngành của huyện nắm được đúng tình hình việc làm của
người lao động, để đề ra các chủ trương, chính sách nhằm giải quyết việc làm
cho người nông dân trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn ở
huyện Thường Tín, đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan

tâm nghiên cứu vấn đề này.
7. Kết cấu của đề tài
Luận văn gồm: Phần mở đầu, 3 chương (6 tiết); kết luận; danh mục tài
liệu tham khảo.


10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NÔNG DÂN
TRONG QUÁ TRÌNH CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở HUYỆN THƯỜNG TÍN, HÀ NỘI
1.1. Việc làm, giải quyết việc làm và tác động của công nghiệp hóa hiện đại hóa đến việc làm cho nông dân
1.1.1. Việc làm
Trong tác phẩm nổi tiếng Biện chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen đã
khẳng định: “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài
người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải
nói: lao động đã sáng tạo ra bản thân con người” [30, tr.112]. Điều đó có
nghĩa nhân tố có tính chất quyết định trong lịch sử, xét đến cùng là việc sản
xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Ở đây, lao động được xem xét ở khía
cạnh thứ nhất – lao động để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt.
Theo tổ chức Lao động quốc tế (ILO): Việc làm là những hoạt động lao
động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật.
Việc làm được bắt nguồn từ lao động của con người (tất nhiên là chỉ ở
những người có sức lao động) tác động đến tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật
chất để thỏa mãn nhu cầu của mình, và việc làm luôn gắn với một ngành nghề
nhất định. Điều 13, chương 2, Bộ luật lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ghi rõ: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập,
không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm” [33, tr.25]. Như vậy,
việc làm là lao động của con người nhằm tạo ra thu nhập hoặc lợi ích của bản
thân và gia đình không bị pháp luật ngăn cấm. Trong thực tế, phần lớn những

việc làm phạm pháp (buôn ma túy, buôn người…) đều mang lại những khoản
thu nhập rất cao cho chủ thể hoạt động, nhưng đó là những hoạt động phạm
pháp, không được pháp luật cho phép nên không được thừa nhận là việc làm.
Các hoạt động lao động được xác định là việc làm bao gồm:


11
- Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật
(làm việc được trả công)
- Những công việc tự làm hoặc làm các công việc gia đình, được hiểu là
các công việc sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trong gia đình để thu lợi nhuận cho
bản thân hoặc tạo ra thu nhập cho gia đình nhưng không được trả công bằng
tiền hoặc hiện vật cho công việc đó (việc làm không được trả công). Trên thực
tế, phần thu nhập mà bản thân hay gia đình nhận được, phục vụ cho nhu cầu
sinh hoạt hàng ngày chính là tiền công, tiền lương mà bản thân người lao
động nhận được, hay nói cách khác, trong trường hợp này bản thân người lao
động tự trả công cho người lao động. Khác với việc làm không được trả công
khi lao động làm việc cho tư bản, có một giá trị thặng dư là số giá trị do giai
cấp lao động làm ra giá trị, sản xuất ra, nhưng lại bị giai cấp độc quyền chiếm
đoạt, và lúc đó số giá trị đó chỉ gồm có lao động không được trả công.
Đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, thị trường lao động còn
đang trong giai đoạn khởi phát, hình thức tìm việc và làm việc còn rất hạn chế,
do đó tỷ trọng lao động tự làm việc và làm việc cho gia đình là lớn so với tổng số
người đang làm việc, đặc biệt trong khu vực nông thôn. Trong sản xuất nông
nghiệp, người nông dân thường bỏ công sức để trồng lúa, hoa màu, cây công
nghiệp, chăn nuôi…phục vụ cho nhu cầu của họ. Những dạng lao động kiểu này
thường không được định giá và người lao động không được nhận tiền lương hay
thu nhập nhưng những sản phẩm bằng hiện vật mà người lao động thu được
cũng là một phần tiền lương thu nhập của họ.
Theo khái niệm trên, hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai

điều kiện:
Một là, hoạt động đó phải có ích nhưng đồng thời tạo ra thu nhập cho
người lao động và cho các thành viên trong gia đình. Những hoạt động lao
động có ích khác như sản xuất tự cung tự cấp, nhằm phục vụ tự tiêu dùng,


12
nhưng không trao đổi, không đem lại thu nhập cho người lao động thì không
được coi là việc làm.
Hai là, hoạt động đó phải đúng luật; không bị pháp luật cấm.
Hai tiêu thức này có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ
của một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Nếu một hoạt động chỉ tạo ra
thu nhập nhưng vi phạm luật pháp như: trộm cắp, buôn bán hêrôin, mại dâm...
Không được công nhận là việc làm. Mặt khác, một hoạt động dù là hợp pháp,
có ích nhưng không tạo ra thu nhập cũng không được thừa nhận là việc làm chẳng hạn như công việc nội trợ hàng ngày của phụ nữ cho chính gia đình
mình: đi chợ, nấu cơm, giặt giũ quần áo,... Nhưng nếu người phụ nữ đó cũng
thực hiện các công việc nội trợ tương tự cho gia đình người khác thì hoạt
động của họ lại được thừa nhận là việc làm vì được trả công.
Điểm đáng lưu ý là tùy theo phong tục, tập quán của mỗi dân tộc và
pháp luật của các quốc gia mà người ta có một số quy định khác nhau về việc
làm. Ví dụ: Mại dâm của phụ nữ được coi là việc làm của phụ nữ ở Thái Lan,
Philippin vì được pháp luật bảo hộ và quản lý; nhưng ở Việt Nam hoạt động
đó được coi là hoạt động phi pháp, vi phạm pháp luật và không được thừa
nhận là việc làm.
Việc làm có những tính chất đa dạng như sau:
Một là, tính chất cá nhân hay tập thể của việc làm: điều này cho biết
công việc của một người hay của tập thể.
Hai là, tính chất địa lý của việc làm: cho biết việc làm được diễn ra ở
đâu, khu vực nông thôn hay thành thị, vùng đồng bằng hay miền núi…
Ba là, tính chất kỹ thuật của việc làm: cho biết tính đặc thù về kỹ thuật và công

nghệ của việc làm. Đây cũng là cơ sở để chia theo ngành nghề của công việc.
Bốn là, tính chất thành thạo của việc làm: cho biết năng lực và phẩm
chất của người lao động được thể hiện trong quá trình làm việc.
Năm là, tính chất kinh tế của việc làm: cho thấy hiệu quả kinh tế của
việc làm.
Sáu là, tính chất cơ động của việc làm: cho thấy khả năng thay đổi nghề
nghiệp và năng lực thích nghi với điều kiện làm việc mới của người lao động.


13
Như vậy, việc làm có nhiều tính chất khác nhau và luôn mang tính chất
động. Vì vậy người ta chia việc làm thành những phạm trù xã hội – nghề
nghiệp khác nhau, từ đó có sự phân biệt các loại nghề nghiệp của lao động
khác nhau.
- Việc làm chính thức: được hiểu là công việc chính mang lại thu nhập
chính (đối với những việc làm được trả công) và những thu nhập về của cải vật
chất cho bản thân và gia đình (đối với những việc làm không được trả công)
- Việc làm không chính thức: được hiểu là những công việc làm thêm
ngoài làm chính. Như vậy, đối với người nông dân, việc làm chính của họ là
sản xuất nông nghiệp trong mùa vụ, còn việc làm không chính thức là việc
làm thêm trong lúc nông nhàn.
- Việc làm bền vững: theo ILO, việc làm bền vững là những việc làm
có năng suất và chất lượng cho nam giới và nữ giới, trong điều kiện tự do,
bình đẳng, an toàn và nhân phẩm được tôn trọng. Việc làm bền vững bao gồm
các cơ hội làm việc một cách hiệu quả; có thu nhập công bằng; đảm bảo an
toàn tại nơi làm việc và bảo vệ xã hội cho người lao động cũng như gia đình
họ; có triển vọng phát triển cá nhân và khuyến khích hòa nhập xã hội; cho
phép mọi người được tự do bày tỏ những mối quan tâm của mình, được tự do
tổ chức và tham gia vào các quyết định ảnh hưởng tới cuộc sống của họ; và
đảm bảo cho tất cả mọi người đều có cơ hội bình đẳng và được đối xử bình

đẳng. Như vậy, xét về mặt kinh tế, việc làm bền vững là việc làm phải có
năng suất và có thể cạch tranh. Tuy nhiên trên thế giới, bảo đảm cho người lao
động có việc làm bền vững vẫn còn là vấn đề rất nan giải.
* Thiếu việc làm: Thiếu việc làm là những người không có việc làm
thường xuyên, thường có những thời gian không lao động vì hết việc. Theo Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội: Người thiếu việc làm gồm những người
trong tuần lễ tính đến thời điểm điều tra có tổng số giờ làm việc dưới 40 giờ
hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn giờ quy định đối với những người làm các công


14
việc nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện hành của Nhà nước, có nhu cầu làm
thêm giờ và đã sẵn sàng làm việc nhưng không có việc làm [33, tr.114].
Do đối tượng sản xuất của nông nghiệp là giới sinh học (cây trồng, vật
nuôi), chúng tuân theo các quy luật sinh học, chính vì vậy hoạt động sản xuất
nông nghiệp có tính thời vụ và phụ thuộc vào nhiều yếu tố tự nhiên như thời
tiết, thiên tai... nên nó có tính rủi ro cao và việc làm trong nông nghiệp cũng
mang tính thời vụ. Điều đó có nghĩa là việc làm của người nông dân không
mang tính thường xuyên, trong năm họ không có những khoảng thời gian
nông nhàn (không có việc làm trong sản xuất nông nghiệp). Do vậy, khi
nghiên cứu lao động nông nghiệp còn có khái niệm “Tỷ lệ thời gian lao động
được sử dụng trong năm” đó chính là số phần trăm của tổng số ngày công làm
việc thực tế so với tổng số ngày công có nhu cầu làm việc (bao gồm số ngày
công thực tế đã làm việc và số ngày có nhu cầu làm thêm) trong năm của
người làm nông nghiệp. Như vậy, đối với những người nông dân mặc dù được
phân đất để làm nông nghiệp nhưng họ hầu như không làm nông nghiệp, hoặc
làm rất ít mà đi làm thuê như phụ hồ, xây dựng, làm nghề thủ công... và sinh
sống chủ yếu bằng nguồn thu nhập trên, nhưng các công việc này lại không ổn
định, thì những người lao động này vẫn xếp vào dạng lao động thiếu việc làm.
Người ta phân biệt hai loại thiếu việc làm là thiếu việc làm hữu hình và

thiếu việc làm vô hình. Thiếu việc làm hữu hình là người làm việc ít hơn tiêu
chuẩn, đang tìm hoặc đang có việc làm phụ thêm. Thiếu việc làm vô hình là
có việc làm nhưng có năng suất lao động thấp, khó xác định được hiệu quả,
trình độ công việc như việc làm không phù hợp với khả năng và trình độ...
* Thất nghiệp: Là một trạng thái trong đó người lao động trong độ tuổi có
khả năng và nhu cầu lao động nhưng không có việc làm. Theo định nghĩa của Bộ
lao động - Thương binh và Xã hội: Thất nghiệp là những người trong thời gian
quan sát tuy không làm việc nhưng đang tìm kiếm việc làm hoặc sẵn sàng làm
việc để tạo ra thu nhập bằng tiền hay hiện vật, gồm cả những người chưa bao
giờ làm việc. Thất nghiệp còn bao gồm cả những người đã bị buộc thôi việc


15
không lương hoặc không có thời hạn, hoặc những người không tích cực tìm
kiếm việc làm vì họ quan niệm rằng họ không thể tìm được việc làm [33, tr.114].
Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo, cung cầu lao động sẽ được điều
chỉnh và vận hành rất hiệu quả. Tuy nhiên thực tế ít xảy ra sự hoàn hảo trên
thị trường. Nếu có, chỉ là ở một thời điểm nào đó mà thôi. Cái mà thị trường
diễn ra là sự giao động, không hoàn hảo. Vì vậy, chắc chắn sẽ xảy ra tình
trạng thất nghiệp. Có thể khẳng định, thất nghiệp là một vấn đề chung mang
tính toàn cầu, thường xuyên xảy ra không chỉ ở các nước đang phát triển hoặc
những nước phát triển với trình độ thấp mà kể cả các nước công nghiệp phát
triển. Xét dưới góc độ vĩ mô, có hai loại thất nghiệp là thất nghiệp cơ cấu và
thất nghiệp chuyển tiếp.
Tình trạng thất nghiệp cơ cấu xảy ra chủ yếu ở các nước công nghiệp
phát triển vì nó gắn liền với những biến đổi về cơ cấu kinh tế trong điều kiện
phát triển của khoa học và công nghệ mới. Cách mạng khoa học và kỹ thuật
và sự tiến bộ không ngừng của công nghệ mới đã và đang làm phức tạp thêm
thị trường lao động. Bởi vì, máy móc đã và đang thay thế phần lớn công việc
nặng nhọc và cần nhiều sức lao động cơ bắp của con người, kéo theo hệ quả

của sự chuyển dịch lao động sang những công việc trí óc hoặc việc đòi hỏi sự
khéo léo của con người.
Bên cạnh đó, sự ưu tiên phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn của
chính phủ dẫn đến sự giảm sút nhân công ở ngành này nhưng lại hút nhiều lao
động ở các ngành khác. Mặt khác, quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và
xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất sẽ đòi hỏi một bộ phận dân cư
phải di chuyển nơi khác, một bộ phận nông dân bị mất đất canh tác... dẫn đến
một lực lượng lao động sẽ lâm vào tình trạng thất nghiệp không tự nguyện.
Đây chính là dạng thất nghiệp mang tính cơ cấu và đặc trưng của Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.


16
Cùng với tình trạng thất nghiệp cơ cấu, gần đây đã xuất hiện tình trạng
thất nghiệp chuyển tiếp ở những nước chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung sang nền kinh tế thị trường. Không bàn luận về tính tự nhiên của quá
trình chuyển tiếp, nhưng đối với nước có dân số đông tất yếu sẽ diễn ra việc
dư thừa lao động và giải quyết nó không phải dễ.
Khi nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, điều đó có nghĩa là sự đóng
góp của ngành công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế lớn. Thất nghiệp có
thể sẽ tăng do một bộ phận lao động không theo kịp với trình độ phát triển của
ngành về kỹ thuật, công nghệ trong điều kiện mới. Có thể thấy một đặc trưng
của thị trường lao động nước ta trong quan hệ với tăng trưởng kinh tế và
chuyển dịch cơ cấu như sau:
Thất nghiệp hữu hình tăng do người có sức lao động trong độ tuổi lao
động muốn tìm kiếm việc làm nhưng không được đáp ứng trên thị trường.
Thất nghiệp trá hình dưới nhiều hình thức, thể hiện ở việc làm có năng
suất lao động thấp, không góp phần hoặc tạo ra sản phẩm xã hội và thu nhập
quốc dân rất nhỏ (không đáng kể) mà chỉ tham gia vào quá trình phân phối lại
lao động.

Thiếu việc làm trong khu vực nông thôn do sự mất cân đối nghiêm trọng
giữa sự gia tăng nhanh của nguồn nhân lực với sự hạn hẹp của đất canh tác
(Bình quân đất canh tác trên đầu người giảm) và sự thiếu hụt của nguồn vốn.
Khả năng tạo ra nhu cầu về lao động của ngành công nghiệp còn yếu
(trừ các vùng kinh tế trọng điểm, những vùng có mức thu hút đầu tư lớn), như
vậy cung lao động luôn ở mức cao. Đây là cơ sở dẫn đến vấn đề thất nghiệp.
Vấn đề nhận thức về việc làm và tạo việc làm hiện nay đã có sự chuyển
biến căn bản trong quá trình phát triển: Nếu như trước đây quan niệm phổ biến
là Nhà nước chịu trách nhiệm tạo việc làm và bố trí việc làm cho người lao
động thì nay chuyển sang quan niệm tạo việc làm là trách nhiệm của Nhà nước,
doanh nghiệp, xã hội và của chính bản thân người lao động. Đây là nhận thức
phù hợp với nền kinh tế thị trường, bởi tính năng động của mỗi người một khi


17
được kích hoạt sẽ đóng vai trò quan trọng trong giải phóng sức lao động, thúc
đẩy tạo mở việc làm và phát triển thị trường lao động ở nước ta.
Tuy nhiên, giải quyết tình trạng thất nghiệp và tạo việc làm cho người
lao động vẫn đang là vấn đề bức xúc đối với Việt Nam hiện nay, đặc biệt là
khu vực nông thôn. Đây là câu chuyện đã, đang và vẫn sẽ tiếp tục đòi hỏi các
nhà nghiên cứu và quản lý tìm kiếm các biện pháp tích cực để giải quyết. Ở
đây đòi hỏi phải có những giải pháp tổng thể: từ định hướng của chính phủ về
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, về chiến lược cơ cấu kinh
tế, đến giải quyết các vấn đề về nông nghiệp, nông dân và nông thôn... đến
các vấn đề khuyến khích phát triển doanh nghiệp để tạo cầu lao động, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực... Tất cả những vấn đề trên cần được giải
quyết từ cấp độ quốc gia, vùng lãnh thổ và từng địa phương.
1.1.2. Giải quyết việc làm
Việc làm là một dạng hoạt động kinh tế – xã hội. Hoạt động đó không
đơn thuần là sự kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất, mà nó còn bao gồm

cả những yếu tố xã hội. Muốn sự kết hợp đó diễn ra và không ngừng phát
triển, phải tạo ra được sự phù hợp cả về số lượng, chất lượng sức lao động với
tư liệu sản xuất, trong một môi trường kinh tế – xã hội thuận lợi, đảm bảo cho
hoạt động đó diễn ra một cách bình thường.
Giải quyết việc làm (GQVL) là việc tạo ra các cơ hội để người lao động
có việc làm và tăng được thu nhập, phù hợp với lợi ích của bản thân, gia đình
và cộng đồng xã hội.
Giải quyết việc làm là nhằm khai thác triệt để tiềm năng của một con
người, nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm có hiệu quả. Chính vì vậy
GQVL phù hợp có ý nghĩa quan trọng đối với người lao động ở chỗ tạo cơ hội
cho họ thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình. Trong đó có quyền cơ
bản nhất là quyền được làm việc nhằm nuôi sống bản thân và gia đình góp
phần xây dựng quê hương đất nước.
Giải quyết việc làm có thể được hiểu ở các khía cạnh như sau:


18
Một là, quá trình tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất và tư
liệu sinh hoạt. Số lượng, chất lượng tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt phụ
thuộc vào điều kiện tự nhiên, vốn đầu tư, tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng
trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với các tư liệu sản xuất đó;
Hai là, quá trình tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng lao
động phụ thuộc vào quy mô, tốc độ tăng dân số, các quy định về độ tuổi lao động
và sự di chuyển của lao động. Chất lượng lao động phụ thuộc vào sự phát triển
của giáo dục đào tạo, y tế, thể chất và chăm sóc sức khỏe cộng đồng;
Ba là, quá trình tạo ra những điều kiện kinh tế - xã hội khác, như các
chính sách của Nhà nước, các giải pháp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm,
các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và đạt hiệu quả cao.
Chỉ khi nào trên thị trường, người lao động và người sử dụng lao động
gặp gỡ và tiến hành trao đổi thì khi đó việc làm được hình thành. Giải quyết

việc làm cần phải được xem xét cả phía người lao động, người sử dụng lao
động và vai trò của Nhà nước.
Vì vậy, GQVL là tổng thể các biện pháp, chính sách kinh tế – xã hội từ
vi mô đến vĩ mô tác động đến người lao động có thể có việc làm.
Tham gia vào quá trình GQVL có nhiều thành phần: Nhà nước, các
doanh nghiệp, các đoàn thể và cá nhân từng người lao động trong toàn xã hội.
Với quan niệm như vậy Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc chăm lo
bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người Việt Nam, đặc biệt là từ khi thực
hiện đường lối đổi mới từ năm 1986 đến nay. Hơn nữa, GQVL là một chính
sách xã hội cơ bản. Bằng nhiều giải pháp để tạo ra việc làm mới, tăng quỹ
thời gian lao động được sử dụng, nhất là trong nông nghiệp, nông thôn; vùng
sâu, vùng xa, biên giới và hải đảo. Các ngành nghề kinh tế cần mở rộng năng
lực sản xuất kinh doanh, mở rộng các ngành nghề, cơ sở sản xuất, dịch vụ, có
khả năng thu hút nhiều lao động. Chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, đảm
bảo an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai nạn và bệnh nghề nghiệp cho
người lao động. Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, đẩy mạnh


19
các phong trào hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể quần chúng
như phong trào thi đua gia đình nông dân sản xuất kinh doanh giỏi của Hội
Nông dân, phong trào thanh niên lập nghiệp của Đoàn thanh niên, phong trào
phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình của Hội Liên hiệp phụ nữ..vv. Tổ chức
chặt chẽ và hiệu quả hoạt động tư vấn giải quyết việc làm và xuất khẩu lao
động. Chăm lo bảo vệ quyền lợi chính đáng cho lao động Việt Nam làm việc
ở nước ngoài. Có chính sách mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và chính sách
an sinh xã hội. Sớm xây dựng, ban hành và thực hiện chính sách xã hội đối
với lao động thất nghiệp.
Để từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống, phát huy nguồn lực con
người, vấn đề bức xúc đối với nước ta hiện nay là phải tính đến đầy đủ các

yếu tố cơ bản tác động, nhất là, vấn đề an toàn việc làm, an toàn lương thực
và môi trường bền vững; trong đó an toàn việc làm, có việc làm thường
xuyên, ổn định cho người lao động là yếu tố quan trọng hàng đầu. Từ nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để hình
thành thị trường sức lao động đa dạng và phong phú, cả thị trường trong và
ngoài nước. Thực hiện một cách dân chủ để người lao động được làm chủ sức
lao động của mình, tự do tìm kiếm việc làm theo năng lực của mình ở mọi
lúc, mọi nơi... Người sử dụng lao động ở các loại hình doanh nghiệp khác
nhau cũng được tự do thuê mướn lao động theo số lượng, chất lượng, theo
nhu cầu sản xuất kinh doanh mà pháp luật cho phép.
Giải quyết việc làm cho người lao động là quá trình tạo ra những cơ hội
sử dụng tối đa sức lao động kết hợp với tư liệu sản xuất trong phát triển kinh
tế - xã hội mang lại thu nhập hợp pháp cho người lao động, người sử dụng lao
động và cho xã hội.
Từ khái quát trên, tác giả luận văn quan niệm: “Giải quyết việc làm cho
nông dân trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở


20
huyện Thường Tín là quá trình tạo ra và kết hợp các yếu tố sản xuất bao gồm
sức lao động, tư liệu sản xuất và các điều kiện kinh tế - xã hội khác để đảm
bảo cho người có khả năng lao động được lao động và duy trì hoạt động lao
động đó trên địa bàn huyện Thường Tín”.
Quan niệm trên chỉ rõ một số vấn đề sau:
- Thực chất giải quyết việc làm: Là quá trình tạo ra số lượng, chất
lượng tư liệu sản xuất và số, chất lượng sức lao động của nông dân; tạo ra các
điều kiện kinh tế - xã hội khác; kết hợp tư liệu lao động với sức lao động của
nông dân trên địa bàn huyện Thường Tín.
- Mục tiêu giải quyết việc làm: Là tạo ra thu nhập chính đáng, hợp pháp

cho nông dân, cho người sử dụng lao động và tạo GRDP cho huyện Thường
Tín.
Như vậy, vấn đề giải quyết việc làm cho nông dân không phải việc làm
riêng của mỗi cá nhân hay việc làm riêng của chính quyền hay doanh nghiệp
mà phải là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ chủ trương chính sách của cấp ủy,
định hướng phát triển cơ sở hạ tầng, kinh tế, xã hội của Huyện ủy cùng với
hoạt động của hội nông dân các cấp. Ngoài ra, không thể thiếu vai trò của
người sử dụng lao động vì đây là lực lượng trực tiếp cung ứng việc làm cho
người nông dân. Tuy nhiên, trên hết giải quyết việc làm cho người nông dân
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì tự bản thân người nông dân
phải nỗ lực nâng cao trình độ tay nghề, kỹ năng, đạo đức nhằm đáp ứng các
yêu cầu ngày càng cao của quá trình phát triển.
Đối tượng giải quyết việc làm: Nông dân trên địa bàn huyện Thường
Tín. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì kéo theo sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động. Người nông dân là đối
tượng phải chịu sự tác động lớn. Trong các năm qua, tại huyện Thường Tín
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã diễn ra mạnh mẽ và thu được
nhiều kết quả khả quan vì huyện có nhiều lợi thế nhất định. Tuy nhiên, trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, diện tích đất cho nông nghiệp vì thế


21
cũng thu hẹp dần. Các ngành kinh tế nông nghiệp, nông thôn ngày càng đòi
hỏi ứng dụng các công nghệ sản xuất hiện đại để tăng năng suất, tăng chất
lượng sản phẩm,…Chính điều này đã làm nảy sinh hiện tượng thất nghiệp của
lao động nông thôn trong quá trình chuyển đổi tại huyện. Hơn thế nữa, lao
động nông thôn cũng chưa đáp ứng được yêu cầu mới trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.1.3. Tác động của Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn đến giải quyết việc làm cho nông dân

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và
quản lý kinh tế, xã hội trong nông nghiệp và ở nông thôn từ lao động thủ công
là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện sản xuất và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển
của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng suất lao động
trong nông nghiệp ngày càng cao, làm thay đổi diện mạo của nông thôn, nâng
cao đời sống của nông dân.
Theo đó, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn tác động mạnh mẽ và làm thay đổi nhiều mặt đối với nông nghiệp, nông
thôn và nông dân và có tác động đến vấn đề việc làm và giải quyết việc làm
cho nông dân, cụ thể như sau:
Thứ nhất,Công nghiệp hóa, hiện đại hóa dẫn tới một bộ phận nông dân
bị thất nghiệp:
Trong những năm qua, việc thu hồi đất nông nghiệp để phát triển các
khu, cụm, điểm công nghiệp, khu chế xuất và phát triển hạ tầng cơ sở là một
tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Trong khi
đó tư liệu sản xuất của nông dân là đất đai, khi bị thu hồi đất, người dân
không còn tư liệu sản xuất nữa, một số người dân chuyển hướng sang lao


22
động ngành khác, nhưng còn một số người dân không tìm việc mới, chính vì
vậy, CNH-HĐH đã tạo ra một bộ phận nông dân không có việc làm.
Thứ hai, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành nghề:
CNH- HĐH đã tạo ra sự phi nông hóa của người làm nông nghiệp, số
lượng lao động trong các ngành phi nông nghiệp ngày càng tăng lên. Trong
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sự phát triển của ngành công nghiệp
và dịch vụ đã thu hút một lượng khá lớn lao động nông thôn. Cụ thể, CNH,
HĐH làm thay đổi và chia nhỏ các đơn vị sản xuất nông nghiệp, các ngành

công nghiệp khởi động và nhanh chóng chiếm chỗ các dư địa của sản xuất
nông nghiệp, tỷ trọng của ngành nông nghiệp sẽ giảm sút, ngày càng nhỏ đi
một cách tương đối. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo thêm cơ hội việc làm
mới, thu hút lao động nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ.
Trong những năm qua, các khu, cụm, điểm công nghiệp tập trung trong
vùng là nhân tố động lực đóng góp quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội của vùng, biến vùng thuần nông thành vùng kinh tế trọng điểm có
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, phổ biến trên 10%/năm. Các khu công nghiệp
đã và đang thu hút hàng trăm nghìn lao động nông thôn, tạo ra thị trường sức
lao động mới để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội trong
vùng. Hệ thống kết cấu hạ tầng được xây dựng mới và nâng cấp, nhất là khu
vực nông thôn, tỷ lệ hộ nghèo giảm.
Thứ ba, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp:
Kinh tế nông thôn và nâng cao đời sống nhân dân trên cơ sở đẩy mạnh
phát triển nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn,
nhất là ở các vùng còn nhiều khó khăn; tăng cường nghiên cứu và chuyển
giao khoa học - công nghệ tiên tiến, tạo bước đột phá trong đào tạo nhân lực;
tăng cường công tác xoá đói, giảm nghèo, đặc biệt ở huyện còn tỷ lệ hộ
nghèo, tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, giữ vững ổn định chính
trị - xã hội ở nông thôn.


23
Thứ tư, Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra yêu cầu cao hơn về chất
lượng lao động tại nông thôn trong quá trình giải quyết việc làm
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn nhằm mục
đích tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm bớt sức lao động trong
nông nghiệp, gia tăng khả năng thu hút, sử dụng sức lao động dôi dư từ nông
nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn công nghiệp chế biến và

thị trường, phát triển công nghệ như áp dụng công nghệ sinh học, đổi mới
giống cây trồng, cơ giới hóa nông nghiệp bằng các máy móc thiết bị.
Khi đó, CNH-HĐH đòi hỏi chất lượng lao động cao hơn, không chỉ là
lao động thủ công như trước, mà cần có sự học hỏi, có nhận thức và khả năng
điều khiển các máy móc, tuân thủ các quy trình công nghệ theo yêu cầu đặt
ra, có như vậy mới có thể tăng năng suất và hiệu quả lao động.
1.2. Nội dung, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm và
giải quyết việc làm cho nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa
1.2.1. Nội dung giải quyết việc làm
Thứ nhất, nâng cao nhận thức về việc làm và giải quyết việc làm cho
nông dân.
Việc nhận thức rõ sự cần thiết về giải quyết việc làm cho nông dân
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là điều hết sức cần thiết. Không
chỉ cấp ủy, chính quyền và các cơ quan đoàn thể nhận thức rõ sự cần thiết
phải giải quyết việc làm cho nông dân mà còn phải dùng nhiều biện pháp
tuyên truyền để chính bản thân người nông dân nhận thức rõ trách nhiệm của
bản thân trong quá trình chuyển đổi. Hơn nữa, các cấp chính quyền, đoàn thể
cần phải tuyên truyền rõ yêu cầu cấp thiết của việc giải quyết việc làm gắn
liền với nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng, đạo đức cho người lao động.


×