Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản ở quận thanh xuân, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.77 MB, 102 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN VĂN CHIẾN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
Ở QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN VĂN CHIẾN

NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
Ở QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHÙNG VĂN NHƯ

HÀ NỘI - 2014




DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Giá trị sản xuất

GTSX

Ngân sách nhà nước

NSNN

Nhà xuất bản
Xây dựng cơ bản

Nxb
XDCB


MỤC LỤC
Tran
MỞ ĐẦU
Chương 1

g
3

CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIẾN VỀ HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG ĐẦU
TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở QUẬN THANH
10

1.1.

XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Những vấn đề chung về hiệu quả sử dụng ngân sách nhà

10

1.2.

nước trong đầu tư xây dựng cơ bản
Thực trạng hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong
đầu tư xây dựng cơ bản ở Quận Thanh Xuân, Thành phố

Chương 2

Hà Nội
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ

31

YẾU NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG ĐẦU TƯ
XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở QUẬN THANH
2.1.


XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Quan điểm cơ bản về nâng cao hiệu quả sử dụng Ngân

48

sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản ở Quận
2.2.

Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội
Một số giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng

48

ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản ở
Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

55
79
80
85


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước trong
dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực

hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà
nước; Đầu tư XDCB là kênh đầu tư gắn với việc sử dụng lượng vốn lớn để
xây dựng các công trình hướng tới mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, nâng cao
đời sống dân sinh, tạo ra những điều kiện tốt nhất để bảo vệ Tổ quốc. Trên
tinh thần đó, việc sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB nếu không đạt hiệu quả
cao thì không chỉ lãng phí NSNN, mà còn làm chậm tiến trình phát triển kinh
tế xã hội và ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực hiện các mục tiêu khác.
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quận Thanh Xuân lần thứ III
xác định “Công tác đầu tư XDCB là khâu đột phá trong lãnh đạo phát triển
kinh tế - xã hội” [32, tr.27]. Nhiều năm qua, cùng với ngân sách Thành phố
cấp, Quận Thanh Xuân đã sử dụng một lượng ngân sách không nhỏ để đầu
tư xây dựng, cải tạo trường học, hình thành nhiều tuyến đường giao thông,
khu đô thị mới,… góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng cường củng cố quốc phòng an ninh, từng
bước nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân và tạo nên vẻ đẹp mới
của Quận ngày càng khang trang, hiện đại. Tuy nhiên, do nhiều nguyên
nhân, việc sử dụng NSNN cho đầu tư XDCB trên địa bàn Quận còn có biểu
hiện kém hiệu quả. Cùng với thực trạng trên, theo dự báo, những năm tới,
nhu cầu đầu tư XDCB trên địa bàn Quận còn nhiều, trong khi xu hướng
nguồn NSNN dành cho đầu tư XDCB chững lại do ảnh hưởng tiêu cực từ
suy thoái kinh tế thế giới. Theo trên, Quận Thanh Xuân đang đứng trước
thách thức không nhỏ về sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB, tạo lập hạ tầng
kinh tế, xã hội tiếp tục phát triển.


4
Xuất phát từ lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề: “Nâng cao hiệu quả sử
dụng ngân sách nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản ở Quận Thanh Xuân,
Thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài

Vấn đề hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB ở cấp quận, huyện
nói chung, Hà Nội nói riêng đã được nhiều tác giả bàn luận đến ở các khía
cạnh khác nhau.
Dưới góc độ luận văn, luận án. Tháng 6 năm 2009, Hoàng Vũ Diệu
Thúy đã bảo vệ thành công đề tài luận văn thạc sỹ "Nghiên cứu một số giải
pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn Ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư
xây dựng trên địa bàn thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình" tại Trường Đại
học Xây dựng. Trong đề tài này, tác giả đã hệ thống hóa, phân tích khá sâu về
đầu tư, đầu tư XDCB, nghiên cứu thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và đề xuất giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB ở thành phố
Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Về mặt lôgic hình thức, đối tượng nghiên cứu trong
đề tài của Hoàng Vũ Diệu Thúy rất gần với đề tài luận văn thạc sỹ của tác giả.
Tuy nhiên, Hoàng Vũ Diệu Thúy không nghiên cứu vấn đề nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn Ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng trên địa bàn thành
phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Thêm
vào đó, thành phố Đồng Hới của tỉnh Quảng Bình có điều kiện tự nhiên, kinh tế
xã hội không giống với Thanh Xuân - một quận trẻ của Thủ đô Hà Nội.
Cùng với Hoàng Vũ Diệu Thúy có thể kể đến một tác giả khác là
Nguyễn Hoàng Lê với đề tài luận văn cao học “Thực trạng và các giải pháp
nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản ở tỉnh Phú Thọ những năm vừa
qua”. Tác giả luận văn đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung về đầu tư
xây dựng cơ bản bắt đầu từ việc phân tích, làm rõ các khái niệm về xây dựng
cơ bản và đầu tư xây dựng cơ bản, đặc điểm chung của đầu tư xây dựng cơ


5
bản, các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản đến việc chỉ ra các chỉ tiêu phản
ánh hiệu quả đầu tư XDCB. Trên cơ sở đó, tác giả luận văn đã đánh giá thực
trạng về đầu tư XDCB ở tỉnh Phú Thọ trong những năm qua và đề xuất những
giải pháp để nâng cao hiệu quả đầu tư XDCB ở tỉnh Phú Thọ trong những

năm tới. Tất cả các nghiên cứu trên đây của Nguyễn Hoàng Lê thể hiện khá rõ
góc độ nghiên cứu chuyên sâu về ngành mà chưa đứng trên giác độ kinh tế
chính trị. Việc phân định nguồn vốn đầu tư được tác giả quan niệm gồm: vốn
cho thiết kế, lắp đặt, xây dựng, … mà chưa đề cập trực tiếp đến nguồn vốn là
NSNN. Hơn thế nữa, Phú Thọ là một tỉnh trung du có nhiều nét khác biệt so
với Thanh Xuân là một quận của Hà Nội về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội,
quan điểm đầu tư – những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và nâng
cao hiệu quả đầu tư XDCB nói chung, từ nguồn vốn là NSNN nói riêng.
Cũng dưới góc độ luận văn, luận án. Tác giả Trần Ngọc Dũng đã bàn
đến “Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư tại Sở giao
dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam”; Nguyễn Thị Hạnh với “Thực
trạng và giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh Đông Đô”. Tại Hội nghị Sinh viên
Nghiên cứu Khoa học lần thứ 7 Đại học Đà Nẵng năm 2010, tác giả Lê Minh
Tuấn đã công bố kết quả đề tài “Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng thẩm
định dự án đầu tư tại Chi nhánh Ngân hàng Agribank Quận Cẩm Lệ - Thành
phố Đà Nẵng” … tất cả các công trình khoa học này đều có liên quan đến đề
tài luận văn của tác giả nhưng chỉ trong một phạm vị hẹp đó là vấn đề thẩm
định dự án đầu tư – một yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả và nâng cao hiệu quả
đầu tư các dự án nói chung – giống như đề tài “Quản lý nhà nước đối với các
dự án đầu tư XDCB bằng nguồn vốn NSNN ở cấp huyện thuộc Hà Nội” của
tác giả Vũ Khắc Phương và một số đề tài khác chỉ đề cập đến góc độ quản lý
nhà nước hay một góc độ nhỏ nào đó đối với đầu tư XDCB từ NSNN.


6
Dưới góc độ các bài báo khoa học. Tháng 1/2007, Tạp chí Cộng sản
điện tử có đăng bài của tác giả Nguyễn Sinh Hùng bàn về “Quản lý và sử
dụng NSNN trong tiến trình cải cách tài chính công”. Trong bài viết này, tác
giả đã nêu bật một số vấn đề mới xung quanh hoạt động quản lý NSNN và sử

dụng NSNN trong tiến trình cải cách tài chính công. Mặc dù có điểm tương
đồng với đề tài luận văn của tác giả là cùng nghiên cứu về NSNN nhưng có
thể thấy nghiên cứu của Nguyễn Sinh Hùng nghiêng nhiều về góc độ tài
chính, kế toán trên phương diện cả nền kinh tế chứ không phải là kinh tế
chính trị, trong khuôn khổ một quận của thành phố như đề tài luận văn đề cập.
Cùng với Nguyễn Sinh Hùng có thể kể đến Phan Hùng với “Sử dụng hiệu
quả vốn đầu tư XDCB” đăng trên Báo Nhân dân điện tử ở địa chỉ
/>Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến hiệu quả của việc sử dụng các nguồn
vốn nói chung trong đầu tư XDCB mà không bàn trực tiếp đến nguồn vốn là
NSNN và trên một địa phương cụ thể. Cùng với hướng nghiên cứu của Phan
Hùng nhưng cụ thể hơn là việc sử dụng nguồn vốn là NSNN, tác giả Nguyễn
Văn Cảnh đưa ra quan niệm về hiệu quả sử dụng NSNN, đề xuất các giải
pháp về cơ cấu tổ chức, nguyên tắc chi NSNN và trách nhiệm cá nhân đối với
các quyết định sử dụng NSNN trong bài viết “Nâng cao hiệu quả sử dụng
NSNN”. Tuy nhiên, cần thấy rằng, Nguyễn Văn Cảnh đã bàn đến hiệu quả sử
dụng NSNN trong các hoạt động nói chung mà không nghiêng nhiều về hoạt
động đầu tư, đặc biệt là đầu tư XDCB.
Cùng với các công trình nêu trên, còn có một số công trình khác cũng
bàn đến những khía cạnh khác nhau của vấn đề sử dụng NSNN, hay hiệu quả
đầu tư XDCB, tiêu biểu như: Thu Hằng với “Khắc phục triệt để tình trạng
lãng phí lớn do chủ trương đầu tư không đúng”; Minh Khánh bàn về “Tăng
cường quản lý, sử dụng NSNN”; Công Hưng và “Hiệu quả đầu tư XDCB


7
Khánh Vĩnh”; Bộ Tài chính với“Sử dụng NSNN còn lãng phí và thất thoát”
hay

“Chỉ


tiêu

phản

ánh

kết

quả

đầu



XDCB”



Ở Thu Hằng, với cách đặt vấn đề là khắc
phục triệt để tình trạng lãng phí lớn do đầu tư không đúng đã nêu bật một thực
trạng xã hội hiện nay trong vấn đề đầu tư, trong đó có đầu tư XDCB là đầu tư
không đúng hướng, không đúng lúc, không đúng nơi, không đúng nhu cầu …
thì tất yếu dẫn đến lãng phí, hiệu quả đầu tư thấp. Tác giả Minh Khánh có
hướng nghiên cứu khác với Thu Hằng ở chỗ bàn đến mục tiêu quản lý, sử
dụng NSNN phải đạt hiệu quả cao cho dù lượng NSNN đó được dùng vào bất
kỳ hoạt động nào chứ không phải là bàn riêng về sử dụng NSNN trong đầu tư
XDCB. Bài viết “Chỉ tiêu phản ánh kết quả đầu tư XDCB” đã bàn đến một
cách chung nhất về hiệu quả đầu tư XDCB nhưng không đề cập cụ thể đến
nguồn vốn là NSNN và trên một địa phương cụ thể.
Những dẫn luận trên đây cho thấy, mặc dù có nhiều công trình đã được

công bố có liên quan đến đề tài luận văn nhưng chưa có bài viết hay công
trình nào bàn đến một cách trực tiếp về vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về sử dụng NSNN
trong đầu tư XDCB, từ đó đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân, dự báo xu
hướng, đề ra quan điểm và các giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử
dụng NSNN trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu, luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.


8
- Đánh giá thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân hiệu quả sử dụng NSNN
trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN
trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Là hiệu quả sử dụng NSNN trong đầu tư XDCB ở Quận Thanh Xuân,
Thành phố Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu, khảo sát, điều tra việc sử dụng NSNN trong
đầu tư XDCB trong không gian là Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội với
nguồn NSNN mà Quận được giao và những dự án đầu tư XDCB do Quận thực
hiện trong thời gian chủ yếu là 5 năm gần đây (2008-2014).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Phương pháp luận nghiên cứu

Đề tài dựa trên quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng và nhà
nước xung quanh hoạt động sử dụng NSNN và đầu tư XDCB.
*Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, đề tài luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của Kinh tế
Chính trị Mác Lênin, đặc biệt là trừu tượng hóa khoa học và các phương pháp
khác như phân tích, tổng hợp, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Cụ thể hóa thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc
sử dụng NSNN để đầu tư phát triển, cụ thể là đầu tư XDCB trên địa bàn cấp
quận, huyện. Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy môn Kinh


9
tế Chính trị Mác Lênin.
- Nêu những ý kiến phản biện, đề xuất, gợi ý cho Quận Thanh Xuân,
Thành phố Hà Nội nghiên cứu, tham khảo về việc nâng cao hiệu quả sử dụng
NSNN trong đầu tư XDCB trên địa bàn Quận.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài
gồm 2 chương, 4 tiết.


10
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN, THỰC TIẾN VỀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
Ở QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề chung về hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước trong

đầu tư xây dựng cơ bản
1.1.1. Ngân sách nhà nước và đầu tư xây dựng cơ bản
Một số vấn đề về ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện, phát triển của kinh tế
hàng hóa và sự ra đời của nhà nước. Hiện nay, thuật ngữ "Ngân sách nhà
nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia.
Song quan niệm về NSNN lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định
nghĩa về NSNN tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu.
Thông thường, nói đến NSNN, người ta hiểu đó là bản dự trù thu, chi
tài chính của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một
năm) thể hiện những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình nhà nước huy
động và sử dụng các nguồn tài chính khác nhau; Một khoản tiền hay một quỹ
tiền tệ tập trung của nhà nước được hình thành từ các nguồn thu trong xã hội
và được chi tiêu vào các hoạt động để đảm bảo thực hiện chức năng của nhà
nước trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu lượng thu nhiều hơn chi thì
gọi là bội thu NSNN và ngược lại là bội chi hay thâm hụt NSNN. Với mỗi
quốc gia, tùy vào từng điều kiện, hoàn cảnh, trình độ phát triển mà lượng
NSNN cần duy trì có sự khác nhau, từ đó các khoản thu, chi và mức độ thu
chi của từng khoản được xác định. Các quốc gia chậm phát triển và đang phát
triển, còn nghèo đói thì NSNN thường ở tình trạng thâm hụt. Tuy nhiên, ở các
nước phát triển cũng không phải không có những thời điểm bội chi NSNN do
các yêu cầu phát triển hay những nhiệm vụ mà nhà nước đặt ra. Bội thu hay


11
bội chi NSNN chưa phải là điều đáng quan tâm bằng nguyên nhân hay những
lý do dẫn đến tình trạng đó.
Từ các phân tích trên đây cho thấy, theo quan niệm chung nhất, NSNN
là một phạm trù kinh tế, một thành phần trong hệ thống tài chính, được hình
thành từ các khoản thu, chi bằng tiền của mỗi quốc gia, trong một khoảng

thời gian nhất định. Đứng về phương diện pháp lý, thu NSNN bao gồm
những khoản tiền nhà nước huy động vào ngân sách còn chi NSNN là khoản
tiền được nhà nước tiêu dùng vào các hoạt động đầu tư, phát triển trong
khuôn khổ được xác định bởi luật pháp. Về mặt bản chất, thu, chi NSNN là hệ
thống những quan hệ kinh tế giữa nhà nước và xã hội phát sinh trong quá
trình nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành quỹ tiền tệ tập
trung nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của nhà nước.
Thu NSNN là sự phân chia nguồn tài chính quốc gia giữa nhà nước với
chủ thể trong xã hội dựa trên quyền lực nhà nước nhằm giải quyết hài hòa các
lợi ích kinh tế xuất phát từ sự tồn tại của bộ máy nhà nước và yêu cầu thực
hiện các chức năng nhiệm vụ kinh tế xã hội của nhà nước. Nội dung các
khoản thu NSNN bao gồm:
- Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật;
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước;
- Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân;
- Các khoản viện trợ không hoàn lại (Các khoản vay mang tính chất
hoàn trả như vay nợ và viện trợ có hoàn lại thì không tính vào thu NSNN);
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
Thông thường, thu NSNN phụ thuộc vào các yếu tố chủ yếu sau:
- Trình độ phát triển của nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển, tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) và GDP bình quân đầu người càng cao thì càng có
khả năng động viên để hình thành nguồn NSNN lớn và ngược lại.


12
- Bản chất nhà nước. Dưới góc độ thu NSNN, nhà nước của giai cấp bóc
lột thường hướng tới việc hình thành một khoản tiền lớn trên cơ sở mở rộng đối
tượng thu và mức thu, tập trung chủ yếu vào người lao động và có dấu hiệu tận
thu. Điều này khác với nhà nước XHCN, duy trì thu ngân sách trên cơ sở đảm
bảo tối đa lợi ích của người lao động.

- Nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. Trong mỗi
thời kỳ nhất định, mỗi quốc gia luôn đặt ra các mục tiêu phát triển kinh tế xã
hội. Nếu các mục tiêu này càng nhiều thì NSNN càng phải lớn. Từ đó, phải
động viên, tăng nguồn thu, thậm chí phải đi vay để hình thành ngân sách.
- Tổ chức bộ máy nhà nước. Nếu tổ chức bộ máy nhà nước cồng kềnh,
kém hiệu quả thì cần nguồn ngân sách lớn để nuôi nó nên phải tăng thu ngân
sách và ngược lại. Với bộ phận thu NSNN, nếu gọn, nhẹ, chặt chẽ, hiệu quả
thì NSNN không bị thất thu, lượng thu được cho NSNN lớn.
Chi NSNN là việc tiêu dùng NSNN. Thực chất, chi NSNN là việc phân
phối và sử dụng quỹ NSNN nhằm đảm bảo thực hiện chức năng của nhà nước
theo những nguyên tắc nhất định. Chi NSNN là quá trình phân phối lại các
nguồn tài chính đã được tập trung vào NSNN và đưa chúng đến mục đích sử
dụng. Do đó, chi NSNN là những việc cụ thể không chỉ dừng lại trên các định
hướng mà phải phân bổ cho từng mục tiêu, từng hoạt động và từng công việc
thuộc chức năng của nhà nước.
Chi NSNN thông qua quá trình phân phối và quá trình sử dụng. Quá
trình phân phối là quá trình cấp phát kinh phí từ NSNN để hình thành các loại
quỹ trước khi đưa vào sử dụng. Quá trình sử dụng là trực tiếp chi dùng khoản
tiền cấp phát từ NSNN mà không phải trải qua việc hình thành các loại quỹ
trước khi đưa vào sử dụng. Chi NSNN có các đặc điểm sau:
- Chi NSNN gắn với bộ máy nhà nước và những nhiệm vụ kinh tế,
chính trị, xã hội mà nhà nước đảm đương trong từng thời kỳ. Nhà nước của


13
giai cấp bóc lột thường không hướng việc chi NSNN vào các hoạt động mang
lại lợi ích chủ yếu cho đại bộ phận nhân dân, người lao động và toàn xã hội
như hoạt động chi NSNN của nhà nước XHCN. Nếu các mục tiêu kinh tế,
chính trị, xã hội được đặt ra nhiều thì các khoản chi theo đó mà tăng lên;
- Các khoản chi của NSNN được xem xét hiệu quả trên tầm vĩ mô và

mang tính chất không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu;
- Chi NSNN gắn với quyền lực nhà nước, mang tích chất pháp lí cao;
- Các khoản chi của NSNN gắn chặt với sự vận động của các phạm trù
thuộc lĩnh vực tiền tệ như: giá cả, lãi suất, tỷ giá hối đoái, tiền lương,…
Nội dung của các khoản chi NSNN có thể phân theo các tiêu chí khác
nhau. Theo chức năng, nhiệm vụ, chi NSNN gồm chi tích lũy và chi tiêu dùng.
Chi tích lũy là những khoản chi làm tăng cơ sở vật chất và tiềm lực cho nền
kinh tế, tăng trưởng kinh tế, chi cho đầu tư phát triển, trong đó phần lớn là chi
cho XDCB, khấu hao tài sản xã hội. Chi tiêu dùng là các khoản chi không tạo
ra sản phẩm vật chất để xã hội sử dụng trong tương lai (chi bảo đảm xã hội),
bao gồm các khoản chi cho giáo dục, y tế, công tác dân số, khoa học và công
nghệ, văn hóa, thông tin đại chúng, thể thao, lương hưu và trợ cấp xã hội, các
khoản liên quan đến can thiệp của chính phủ vào các hoạt động kinh tế, quản
lý hành chính, an ninh, quốc phòng, dự trữ tài chính, trả nợ vay nước ngoài,
lãi vay nước ngoài và các khoản chi khác. Theo đó, chi NSNN cho đầu tư
XDCB là một trong những khoản chi tích lũy.
Căn cứ theo yếu tố thời hạn và phương thức quản lý, các khoản chi
NSNN gồm: Chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi dự trữ, chi trả nợ.
Trong đó, nhóm chi thường xuyên bao gồm các khoản chi nhằm duy trì hoạt
động thường xuyên của nhà nước; Nhóm chi đầu tư phát triển là các khoản chi
dài hạn nhằm làm tăng cơ sở vật chất của đất nước và thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế; Nhóm chi dự trữ là những khoản chi NSNN để bổ sung quỹ dự trữ nhà


14
nước và quỹ dự trữ tài chính; Nhóm chi trả nợ và viện trợ bao gồm các khoản
chi để nhà nước thực hiện nghĩa vụ trả nợ các khoản đã vay trong nước, vay
nước ngoài khi đến hạn và các khoản chi làm nghĩa vụ quốc tế. Dưới góc độ
này, chi NSNN cho đầu tư XDCB là khoản chi cho đầu tư phát triển.
Chi NSNN phải tuân theo nguyên tắc gắn chặt các khoản thu để bố trí

các khoản chi để tránh bội chi NSNN, gây lạm phát, mất cân bằng cho sự phát
triển xã hội; Đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong việc bố trí các
khoản chi tiêu của NSNN; Tập trung có trọng điểm; Phân biệt rõ mục tiêu,
nhiệm vụ các khoản chi và phối hợp chặt chẽ với khối lượng tiền tệ, lãi suất…
Từ bản chất của thu, chi NSNN nhận thấy:
- NSNN được tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định, gắn chặt với
quyền lực kinh tế, chính trị và việc thực hiện các chức năng của nhà nước.
- Hoạt động NSNN là phân phối lại các nguồn tài chính thể hiện ở thu
và chi của nhà nước theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
- NSNN luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước, chứa đựng những lợi ích
trong đó có lợi ích chung của toàn xã hội.
- NSNN có đặc điểm của quỹ tiền tệ nhưng nó là một quỹ tiền tệ tập
trung của nhà nước, được chia thành nhiều quỹ nhỏ, có tác dụng riêng trước
khi được chi dùng cho những mục đích đã định.
Ở Việt Nam, “Luật NSNN” được Quốc hội thông qua ngày 16/12/2002
quy định rõ: NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước trong dự toán
đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Theo đó, NSNN của Việt Nam cũng được hình thành từ các khoản thu
như ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Điểm khác biệt lớn nhất của NSNN ở
Việt Nam so với NSNN của các nước khác, đặc biệt là các nước tư bản là
ngân sách này được hình thành và phát triển, được quản lý, chi tiêu hướng tới


15
đảm bảo lợi ích cao nhất cho toàn dân chứ không phải vì lợi ích thiểu số hay
riêng giai cấp lãnh đạo nhà nước. Mục tiêu cao nhất của việc hình thành và
phát triển NSNN ở nước ta là để đáp ứng yêu cầu đưa đất nước tiến lên
CNXH, trước mắt là thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng, bảo vệ Tổ quốc. Riêng đối với nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN, NSNN đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế,
điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh, giữ vững vai trò chủ đạo của
thành phần kinh tế nhà nước, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, tiến
đến thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
Để thực hiện mục tiêu đó, NSNN ở nước ta bao gồm ngân sách Trung ương
và ngân sách địa phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ
quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở Trung ương.
Ngân sách địa phương là ngân sách của các đơn vị hành chính các cấp có hội
đồng nhân dân, ủy ban nhân dân.
Mục tiêu của việc hình thành và phát triển NSNN đã quy định việc chi
NSNN ở nước ta phải tuân thủ 6 nguyên tắc sau:
Một là, bố trí các khoản chi gắn chặt các khoản thu để tránh thâm hụt
ngân sách, đảm bảo giữ vững ổn định của nền kinh tế.
Hai là, đảm bảo yêu cầu tiết kiệm và hiệu quả trong việc bố trí các
khoản chi tiêu của NSNN.
Ba là, theo nguyên tắc nhà nước và nhân dân cùng làm, nhất là các
khoản chi mang tính chất phúc lợi xã hội.
Bốn là, tập trung có trọng điểm. Nguyên tắc này đòi hỏi việc phân bổ
NSNN phải tập trung vào các chương trình trọng điểm, các ngành mũi nhọn
của nền kinh tế, các vấn đề cấp thiết nhất của đời sống nhân dân.
Năm là, phân biệt rõ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của các cấp
theo quy định của luật để phối hợp chi NSNN.
Sáu là, phối hợp chặt chẽ với khối lượng tiền tệ, lãi suất, tỷ giá hối đoái.


16
Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của mỗi quốc gia. Ở nước ta cũng vậy, NSNN là công cụ được nhà nước
sử dụng để tác động đến toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng và đối ngoại. Quá trình tác động được thực hiện trên cơ sở 2 kênh:

Dùng khoản thu, mức thu để điều tiết và sử dụng khoản chi, mức chi để trực
tiếp làm thay đổi các hoạt động kinh tế, xã hội. Trong các đối tượng mà
NSNN tác động đến có hoạt động đầu tư XDCB.
Ngân sách quận, huyện, thị xã (gọi chung là ngân sách cấp huyện) là
một bộ phận của NSNN địa phương. Nguồn thu gồm:
* Các khoản thu ngân sách quận, huyện, thị xã hưởng 100%
- Thuế tài nguyên từ các Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ sản xuất;
- Thu khác từ khu vực công thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh;
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp từ các nông trường, trạm trại quốc
doanh nhà nước quản lý;
- Thuế môn bài thu từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh;
- Tiền cho thuê mặt đất, mặt nước các doanh nghiệp nhà nước và khu
vực ngoài quốc doanh;
- Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài trực
tiếp cho quận, huyện theo quy định của pháp luật;
- Các khoản phí, lệ phí (phần nộp ngân sách theo quy định) do các cơ
quan, đơn vị thuộc quận, huyện tổ chức thu (không kể phí xăng dầu, lệ phí
trước bạ, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải);
- Thu phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực do các đơn vị quận,
huyện phạt xử lý;
- Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước
trực tiếp cho quận, huyện;
- Thu sự nghiệp, phần nộp ngân sách theo quy định của các đơn vị do
quận, huyện quản lý;


17
- Thu kết dư ngân sách quận, huyện;
- Thu bổ sung ngân sách cấp trên;
- Thu chuyển nguồn từ ngân sách quận, huyện năm trước sang năm sau;

- Tiền bán tài sản cấp huyện quản lý;
- Thu hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất đối với đất thuộc cấp huyện quản lý;
- Tiền sử dụng đất đối với loại đất có quy mô diện tích dưới 5000 m 2,
không tiếp giáp với mặt đường, phố.
- Các khoản thu khác của ngân sách quận, huyện theo pháp luật.
* Các khoản thu của ngân sách quận, huyện, thị xã hưởng theo tỷ lệ
phần trăm (%) gồm:
- Thuế thu nhập cá nhân (không bao gồm thuế thu nhập cá nhân thu từ
doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nộp qua
kho bạc nhà nước).
- Lệ phí trước bạ xe máy, ô tô, tàu thuyền và tài sản khác.
- Thuế giá trị gia tăng thu từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh (không kể
thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu).
- Thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hóa, dịch vụ thu từ khu vực kinh tế ngoài
quốc doanh (không kể thuế TTĐB hàng nhập khẩu).
- Tiền sử dụng đất đối với loại đất có quy mô diện tích từ 5000m 2 trở
lên; hoặc đất dưới 5000m2 tiếp giáp với đường, phố; không bao gồm tiền sử
dụng đất các dự án di dời theo Quyết định số 09/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngân sách thành phố hưởng 100% và đất nhỏ lẻ, xen kẹt có quy mô
dưới 5000m2 không tiếp giáp đường, phố điều tiết 100% cho ngân sách quận,
huyện, thị xã.
- Thuế môn bài thu từ các hộ, cá nhân kinh doanh (thu trên địa bàn phường).
- Lệ phí trước bạ nhà đất (thu trên địa bàn phường).


18
* Chi ngân sách quận, huyện, thị xã cho đầu tư phát triển.
Ngân sách quận, huyện, thị xã chi đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp
các công trình, dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu

hồi vốn, không có khả năng xã hội hóa thuộc lĩnh vực phân cấp cho quận,
huyện, thị xã trên địa bàn. Cụ thể các lĩnh vực đầu tư phát triển thuộc nhiệm
vụ chi của ngân sách cấp huyện, bao gồm:
- Đầu tư lĩnh vực thủy lợi
Đầu tư các công trình thủy lợi, có đặc điểm, tính chất, quy mô như sau:
+ Đầu tư các hồ chứa nước có dung tích từ 500.000 m 3 trở xuống; hoặc
có chiều cao đập từ 12 m trở xuống, phục vụ trong phạm vi 1 xã;
+ Đầu tư các đập dâng có chiều cao đập từ 10m trở xuống, phục vụ tưới
trong phạm vi 1 xã;
+ Đầu tư các trạm bơm điện phục vụ trong phạm vi 1 xã;
+ Đầu tư hệ thống kênh tưới tiêu phục vụ phạm vi 1 xã.
- Đầu tư lĩnh vực đê điều: các tuyến đê từ cấp IV trở xuống, các tuyến
đê bao, đê bối của các sông nội địa thuộc địa bàn (không bao gồm các tuyến
đê bao, đê bối của các sông Hồng, sông Đà, sông Đuống).
- Đầu tư lĩnh vực Lâm nghiệp: các công trình bảo vệ phát triển rừng
phòng hộ, rừng sản xuất trên địa bàn (trừ phần thuộc Thành phố đầu tư quản lý).
- Đầu tư công trình công viên, hồ nước
Đầu tư xây dựng, nâng cấp các công viên và hồ nước còn lại trên địa
bàn (trừ các công viên, hồ thành phố quản lý).
- Đầu tư lĩnh vực giao thông
Khối quận đầu tư các đường ngõ phố, ngõ xóm và đường nội bộ khu
dân cư; hè đường phố trên địa bàn (trừ các tuyến quan trọng do Thành phố
đầu tư cả hè và đường).
- Đầu tư công trình bến xe ô tô, bãi đỗ xe: Bãi dừng, đỗ xe tại các khu
dân cư, trung tâm thương mại và khu vực công cộng khác trên địa bàn, các bãi


19
đỗ xe tạm thời trong khu vực nội thành, nội thị, bãi đỗ xe tạm thời khu vực
ngoại thành và trong khuôn viên thuộc quyền sở hữu, quản lý của các tổ chức,

đơn vị theo địa bàn hành chính.
- Đầu tư xây dựng các bãi, bến cảng thủy
- Đầu tư công trình, dự án chiếu sáng công cộng
- Đầu tư công trình vệ sinh môi trường
Đầu tư các bãi chôn lấp rác, đất thải cấp huyện và khu tập kết rác tại
các xã trên địa bàn; đầu tư bãi chôn lấp rác thải trên địa bàn phục vụ việc xử
lý chất thải trong địa bàn 1 quận/huyện; Đầu tư các công trình, dự án khắc
phục ô nhiễm môi trường ảnh hưởng trong phạm vi 1 xã, phường, thị trấn.
- Đầu tư công trình thoát nước
Quận đầu tư công trình thoát nước ngõ, ngách và trong khu vực dân cư
không tiếp giáp đường Thành phố quản lý; Huyện đầu tư các công trình thoát
nước còn lại trên địa bàn (ngoài các công trình Thành phố quản lý);
- Đầu tư lĩnh vực Văn hóa - Thể thao:
Đầu tư các nhà văn hóa, các trung tâm văn hóa thể thao, nhà thi đấu thể
thao, nhà văn hóa thanh - thiếu nhi cấp huyện; nhà văn hóa xã, phường; nhà
văn hóa thôn, xóm, khu dân cư, khu vui chơi cộng đồng; Đầu tư bảo tồn, tôn
tạo các di tích trên địa bàn (ngoài 12 di tích Thành phố quản lý).
- Đầu tư lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo và Y tế
Đầu tư xây dựng các trường mầm non (trừ trường thuộc Thành phố
quản lý); tiểu học, trung học cơ sở (trừ các trường Thành phố quản lý); xây
dựng trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện, thị xã; trung tâm dạy nghề
trên địa bàn; trung tâm tin học, ngoại ngữ, giáo dục cộng đồng và giáo dục
thường xuyên do cấp huyện quản lý; Đầu tư các trung tâm Y tế quận, huyện,
thị xã (gồm cả phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế phường, xã); Trung
tâm dân số kế hoạch hóa gia đình cấp quận, huyện, thị xã.


20
- Đầu tư lĩnh vực Quản lý nhà nước:
Cải tạo, nâng cấp trụ sở làm việc các cơ quan hành chính, đảng, đoàn

thể quận, huyện, thị xã; Đầu tư xây dựng mới, cải tạo hạ tầng kỹ thuật và trụ
sở làm việc các cơ quan hành chính, đảng, đoàn thể cấp xã; trụ sở hoặc nơi
làm việc của công an và quân sự xã.
- Đầu tư công trình phục vụ tang lễ: Các nghĩa trang nhân dân, nghĩa
trang liệt sỹ, đài tưởng niệm, đài liệt sỹ cấp huyện và xã.
- Đầu tư lĩnh vực môi trường; Các công trình, dự án khắc phục ô nhiễm
môi trường ảnh hưởng trong phạm vi 1 xã, phường, thị trấn.
- Đầu tư lĩnh vực Thông tin và truyền thông: Các công trình, dự án
phục vụ hoạt động phát thanh, truyền thanh cấp huyện, xã.
- Đầu tư công trình ứng dụng Khoa học công nghệ và công nghệ thông
tin: Các công trình công nghệ thông tin, xử lý dữ liệu và xây dựng cổng thông
tin cấp huyện, xã.
- Đầu tư hạ tầng kỹ thuật khu đất đấu giá quyền sử dụng đất đối với đất
nhỏ lẻ, xen kẹt có diện tích dưới 5000m2 không tiếp giáp với đường phố; hạ tầng
kỹ thuật khu tái định cư phục vụ giải phóng mặt bằng các dự án cấp huyện.
- Các khoản chi đầu tư phát triển khác thuộc nhiệm vụ chi của ngân
sách cấp huyện, cấp xã theo quy định của pháp luật.
* Các khoản chi thường xuyên
- Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề; y tế; đảm bảo
xã hội; văn hóa thông tin, thể dục thể thao; ứng dụng khoa học, công nghệ do
quận, huyện quản lý: Giáo dục mầm non, tiểu học, trung học cơ sở công lập
và sự nghiệp giáo dục khác; Dạy nghề, đào tạo nghề, bồi dưỡng kiến thức chính
trị do Trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện mở và các hình thức bồi
dưỡng, đào tạo khác; Các hoạt động về công tác y tế (vệ sinh phòng bệnh dịch,
vệ sinh an toàn thực phẩm); kế hoạch hóa gia đình và trẻ em theo phân cấp;


21
Các trại xã hội do quận, huyện quản lý; cứu tế xã hội; phòng chống các tệ nạn
xã hội và các hoạt động xã hội khác theo phân cấp; Nhà văn hóa, các cơ sở

văn hóa và các hoạt động văn hóa khác do cấp huyện quản lý; Quản lý, bảo vệ
các di tích lịch sử - văn hóa theo phân cấp; Đài phát thanh và các hoạt động thông
tin, tuyên truyền khác của quận, huyện; Bồi dưỡng, huấn luyện vận động viên
các đội tuyển cấp quận, huyện, trong thời gian tập trung thi đấu, hoạt động
của các trung tâm thể dục, thể thao do quận, huyện quản lý; Chi ứng dụng tiến
bộ khoa học, công nghệ; Các sự nghiệp văn hóa, xã hội khác.
- Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do quận, huyện quản lý
Sự nghiệp giao thông: Quản lý, duy tu, bảo dưỡng và sửa chữa, nâng
cấp đường giao thông và các công trình giao thông do quận, huyện quản lý
theo phân cấp; Sự nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và thủy lợi do
quận, huyện quản lý; chuyển đổi cơ cấu kinh tế phục vụ phát triển mô hình
nông thôn mới; chi bảo vệ, phòng chống cháy rừng; phòng chống lụt bão và
các nhiệm vụ khác về nông - lâm - ngư nghiệp theo phân cấp của Thành phố.
Sự nghiệp thị chính: Quản lý, duy tu bảo sưỡng và sửa chữa nâng cấp
hệ thống đèn chiếu sáng công cộng, công trình thoát nước, vỉa hè, ngõ, ngách;
quản lý các hồ, công viên, cây xanh; đo đạc, lập bản đồ và lưu trữ hồ sơ địa
chính theo phân cấp; Hoạt động quản lý hệ thống các chợ, các trung tâm
thương mại theo phân cấp.
- Các hoạt động sự nghiệp về môi trường theo phân cấp gồm: Thu gom,
vận chuyển rác thải; hút bụi, tưới nước rửa đường theo trên địa bàn và các
nhiệm vụ khác về môi trường.
- Các nhiệm vụ về quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội
của cấp quận, huyện.
- Hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể cấp quận, huyện, thị xã.


22
- Hỗ trợ các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội và tổ
chức xã hội - nghề nghiệp và thực hiện chính sách xã hội đối với các đối

tượng do quận, huyện, thị xã quản lý;
- Các khoản chi khác theo quy định của pháp luật;
- Chi bổ sung cho ngân sách xã, phường, thị trấn;
- Chuyển từ ngân sách quận, huyện, thị xã năm trước sang năm sau.
Một số vấn đề về đầu tư và đầu tư xây dựng cơ bản
Đầu tư là từ để chỉ việc đem công sức, trí tuệ, tiền bạc làm một việc gì
nhằm đem lại kết quả, lợi ích nhất định. Dưới góc độ kinh tế, đầu tư là hoạt
động sử dụng các nguồn lực (vốn, tài nguyên) trong 1 thời gian nhất định để
thu được lợi nhuận kinh tế hoặc lợi ích xã hội. Theo cách hiểu chung nhất,
đầu tư là bỏ vốn vào một doanh nghiệp, một công trình hay một sự nghiệp
bằng nhiều biện pháp như cấp phát ngân sách vốn tự có, liên doanh, hoặc vay
dài hạn để mua sắm thiết bị, xây dựng mới, hoặc thực hiện việc hiện đại hoá,
mở rộng doanh nghiệp nhằm thu lợi nhuận hay phát triển phúc lợi công cộng.
Theo đó, hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm duy trì
những tiềm lực sẵn có hoặc tạo thêm tiềm lực mới để mở rộng quy mô hoạt
động sản xuất, dịch vụ, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội.
Theo Luật Đầu tư năm 2005, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các
loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt
động đầu tư theo quy định của pháp luật. Hoạt động đầu tư gắn liền với hai
đặc trưng là tính sinh lãi và tính rủi ro. Mục đích của việc đầu tư là sinh lãi,
nghĩa là tạo ra những lợi ích lớn hơn trong tương lai từ nguồn vốn đầu tư ban
đầu. Mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư tuỳ thuộc vào loại hình đầu tư và
trong những điều kiện nhất định.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, vốn đầu tư là các tài sản hợp
pháp của cá nhân hoặc tổ chức trực tiếp hoặc gián tiếp đưa vào các hoạt động


23
sản xuất, kinh doanh, phát triển xã hội. Các tài sản hợp pháp gồm: Cổ phần,
cổ phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác; Trái phiếu, khoản nợ và các hình thức

vay nợ khác; Các quyền theo hợp đồng, bao gồm cả hợp đồng chìa khóa trao
tay, hợp đồng xây dựng, hợp đồng quản lý, hợp đồng phân chia sản phẩm hoặc
doanh thu; Các quyền đòi nợ và quyền có giá trị kinh tế theo hợp đồng; Công
nghệ và quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm cả nhãn hiệu thương mại, kiểu dáng
công nghiệp, sáng chế, tên thương mại, nguồn gốc hoặc tên gọi xuất xứ; Các
quyền chuyển nhượng, bao gồm cả các quyền đối với thăm dò và khai thác tài
nguyên; Bất động sản; quyền đối với bất động sản, bao gồm cả quyền cho thuê,
chuyển nhượng, góp vốn, thế chấp hoặc bảo lãnh; Các khoản lợi tức phát sinh
từ hoạt động đầu tư, bao gồm cả lợi nhuận, lãi cổ phần, cổ tức, tiền bản quyền
và các loại phí; Các tài sản và quyền có giá trị kinh tế khác theo quy định của
pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chủ sở hữu vốn đầu
tư hoặc người thay mặt chủ sở hữu hoặc người vay vốn và trực tiếp quản lý, sử
dụng vốn để thực hiện hoạt động đầu tư được gọi là nhà đầu tư, có thể là nhà
nước, doanh nghiệp, tổ chức hay cá nhân.
Tùy theo cách phân loại, có nhiều hình thức đầu tư. Thông thường,
người ta quan niệm có hình thức đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Ở hình
thức đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư bỏ vốn và tham gia quản lý hoạt động đầu tư
còn đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu,
trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các
định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia
quản lý hoạt động đầu tư. Theo bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại,
có thể coi các hình thức đầu tư gồm: Đầu tư tài chính, đầu tư tài sản vật chất
và nguồn nhân lực, đầu tư thương mại, đầu tư xây dựng. Trong đó, đầu tư tài
chính là các hoạt động đầu tư vốn vào lĩnh vực kinh doanh khác, ngoài hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích mở rộng cơ hội


×