Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.62 KB, 111 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN TẤN HƯNG

GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH TẾ
CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI
ĐẤT PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ
Ở ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN TẤN HƯNG

GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH TẾ
CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI
ĐẤT PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ
Ở ĐỒNG NAI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐỖ VĂN NHIỆM



HÀ NỘI - 2014


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1

1.1.
1.2.

Chương 2

3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT
LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG
THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
VÀ DỊCH VỤ
Lợi ích và lợi ích kinh tê
Quan niệm, các nhân tố ảnh hưởng và tác động của
giải quyêt lợi ích kinh tê kinh tê của nông dân trong
thu hồi đất đên phát triển công nghiệp và dịch vụ ở
Đồng Nai
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH

12
12

18


TẾ CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT
PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở
2.1.

2.2.

Chương 3

3.1
3.2.

ĐỒNG NAI
Đặc điểm về điều kiện tự nhiên và kinh tê - xã hội ở
Đồng Nai ảnh hưởng đên lợi ích kinh tê của nông dân
bị thu hồi
Thực trạng giải quyêt lợi ích kinh tê của nông dân
trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở
Đồng Nai
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT
THỎA ĐÁNG LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NÔNG
DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ Ở ĐỒNG NAI
THỜI GIAN TỚI

29

Những quan điểm cơ bản

59


Những giải pháp chủ yêu
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

29

32

59

69
84
86
93


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước tất yêu dẫn đên sự hình
thành các khu công nghiệp và dịch vụ, các khu đô thị mới. Để phát triển các
khu công nghiệp và khu đô thị, không thể không thu hồi đất mà người dân
đang sử dụng. Việc thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô
thị mới làm xuất hiện rất nhiều vấn đề khiên xã hội quan tâm như: thiêu đồng
bộ, nhất quán trong quy hoạch đô thị; các chính sách thu hồi đất còn nhiều
mặt chưa hợp lý; chưa giải quyêt hợp lý các vấn đề lợi ích kinh tê của nông
dân có đất bị thu hồi; xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực trong quá trình sử
dụng đất cho phát triển các khu công nghiệp và khu đô thị.
Đồng Nai là một trong những tỉnh nằm trong vùng kinh tê trọng điểm

phía Nam, là một tỉnh có tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa tương đối
nhanh so với các địa phương khác của cả nước. Để phát triển các khu công
nghiệp và dịch vụ, tất yêu tỉnh cũng phải tiên hành thu hồi một diện tích đất
nông nghiệp của nông dân để đáp ứng yêu cầu của các dự án.
Trong những năm qua, việc thu hồi đất đáp ứng yêu cầu phát triển công
nghiệp, ngành kinh tê dịch vụ, và việc giải quyêt các lợi ích kinh tê của nông
dân gắn liền với đất đai thu hồi đã được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh,
lãnh đạo và chính quyền địa phương các huyện, thị xã, thành phố quan tâm
giải quyêt trên cơ sở các quy định Nhà nước và đề xuất của cơ quan chức
năng của tỉnh và các địa phương đặt trong bối cảnh tình hình kinh tê - xã hội
tỉnh Đồng Nai.
Song, thực tiễn cho thấy, vấn đề thu hồi đất và giải quyêt quyền lợi của
nông dân bị thu hồi đất luôn là vấn đề nhạy cảm và có những khó khăn, phức
tạp. Do đó quá trình tổ chức thực hiện các quy định của Nhà nước về giải
quyêt lợi ích của nông dân bị thu hồi đất vẫn tồn tại những bất cập - nhìn từ


4
góc độ giải quyêt lợi ích kinh tê của nông dân. Để việc thu hồi đất diễn ra
thuận lợi không ảnh hưởng đên tiên độ triển khai các dự án công nghiệp và
dịch vụ trên địa bàn tỉnh thực sự đang là bài toán đặt ra trước các nhà lãnh
đạo, quản lý, các nhà hoạch định chính sách, các nhà khoa học cần phải tiêp
tục nghiên cứu làm sáng tỏ cả về lý luận và thực tiễn. Với lý do đó, tác giả
chọn“Giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất phát triển
công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai” làm đề tài luận văn Thạc sĩ chuyên ngành
kinh tê chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề lợi ích kinh tê nói chung, lợi ích kinh tê của nông dân, trong đó
có vấn đề lợi ích kinh tê của nông dân nói riêng, trong thu hồi đất để phát
triển công nghiệp, dịch vụ đã được nhiều tác giả nghiên cứu dưới các góc độ

tiêp cận khác nhau. Các công trình nghiên cứu có liên quan trực tiêp đên đề
tài có thể kể đên:
* Các sách tham khảo và chuyên khảo
Tập thể các tác giả Đào Duy Tùng, Phạm Thành, Vũ Hữu Ngoạn, Lê
Xuân Tùng, Nguyễn Duy Bảy trong cuốn “Bàn về lợi ích kinh tê”, Nhà xuất bản
Sự thật, Hà Nội, năm 1982. Thông qua tác phẩm các tác giả đã đưa ra quan điểm
của mình về lợi ích kinh tê.
Nguyễn Linh Khiêu trong cuốn “Lợi ích động lực phát triển xã hội”, Nhà
xuất bản Khoa học - Xã hội, Hà Nội, năm 1999, đã tổng kêt lại nhiều nghiên
cứu khác nhau về lợi ích trong và ngoài nước tính cho tới thời điểm đó đã đưa
ra cách tiêp cận mới về khái niệm lợi ích. Theo ông, quan hệ lợi ích là quan
hệ đa chiều, bao gồm: mối quan hệ giữa chủ thể lợi ích và đối tượng của quan
hệ lợi ích; giữa các chủ thể có cùng đối tượng của quan hệ lợi ích với nhau
trong việc thực hiện các nhu cầu cấp bách của mình.
Nguyễn Linh Khiêu trong cuốn “Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích”,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm 2002, phát triển những thành


5
tựu nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa các lợi ích tiêu biểu trong xã
hội, ở công trình đã dẫn trên đây vào cụ thể vai trò của lợi ích kinh tê trong phát
triển kinh tê xã hội Việt Nam, đã cho rằng “Quan hệ kinh tê của một xã hội biểu
hiện tập trung nhất của các quan hệ lợi ích”, theo đó trong đời sống kinh tê - xã
hội Việt Nam hiện nay các thành phần kinh tê có xu hướng vận động theo nhiều
hướng khác nhau, nhưng tất cả các xu hướng đều đưa nước ta phát triển đi lên.
Đó là một sự vận động theo hướng tổng lực trong đó xu hướng xã hội chủ nghĩa
đang đóng vai trò chủ đạo.
Tập thể tác giả Nguyễn Văn Nhường, Nguyễn Thành Độ, trong cuốn
“Bàn về chính sách an sinh xã hội với người nông dân sau khi thu hồi đất để
phát triển các khu công nghiệp”, Đại học Kinh tê Quốc dân, năm 2011, đã

giới thiệu chính sách an sinh xã hội đối với người nông dân trong diện thu hồi
đất để phát triển các khu công nghiệp. Tình hình và kêt quả thực hiện chính
sách cùng những kiên nghị hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đối với người
nông dân trong diện thu hồi đất để phát triển các khu công nghiệp từ thực tiễn
ở tỉnh Bắc Ninh.
Vũ Ngọc Kỳ trong cuốn “Một số vấn đề về nông nghiệp, nông thôn, nông
dân, hội nông dân ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Nông nghiệp, năm 2005, đã trình
bày vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với nông dân và Hội nông dân
trong thời kỳ mới, phát huy vai trò của giai cấp nông dân và Hội nông dân, giải
quyêt vấn đề đất đai đối với hộ nông dân không còn đất sản xuất.
Nguyễn Viêt Chung trong cuốn “Nông dân và công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa” Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, năm 1962, đã đi sâu phân tích tình
hình thực tê của nông dân Việt Nam dưới chê độ cũ: sự nghèo nàn, lạc hậu,
hiểu biêt nông cạn, văn hoá thấp kém. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội là con
đường mở ra sự ấm no, hạnh phúc cho người nông dân: cung cấp những hiểu
biêt cơ bản về chê độ xã hội chủ nghĩa tươi đẹp ở Việt Nam.


6
* Về các luận án, luận văn nghiên cứu về lợi ích kinh tế, có các tác giả
với các đề tài sau:
Chử Văn Tuyên, “Lợi ích kinh tế của người lao động và vận dụng nó
vào lực lượng vũ trang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam”, luận án Tiên sĩ kinh tê, Học viện Chính trị quân sự, năm 1980. Trong
luận án tác giả đã phân tích dưới góc độ kinh tê chính trị về nội dung vấn đề lợi
ích kinh tê của người lao động trong thời kỳ quá độ. Đề xuất một số giải pháp
chủ yêu nhằm giải quyêt tốt lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần của quân dân.
Nguyễn Duy Hùng, “Bàn về sự hình thành và kết hợp các lợi ích kinh tế
trong nông nghiệp tập thể”, luận án Tiên sỹ kinh tê, H.1988. Tác giả đề xuất
những hình thức cơ bản kêt hợp các lợi ích kinh tê, góp phần giải quyêt mâu

thuẫn đang cản trở bước tiên của nông nghiệp tập thể, đảm bảo sự phát triển
hài hòa của các lợi ích kinh tê ấy, nhờ đó tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy
nông nghiệp tập thể phát triển.
Nguyễn Đức Bách, “Quan hệ giữa lợi ích kinh tế xã hội, tập thể và cá
nhân người lao động trong chặng đường đầu tiên thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam”, luận án Phó tiên sĩ triêt học, Học viện Nguyễn Ái
Quốc, H. 1988. Luận án phân tích bản chất và đặc trưng chủ yêu của lợi ích
kinh tê, vai trò trong sự vận động của các quy luật kinh tê, các quan hệ sản
xuất và sự phát triển xã hội. Phân tích các đặc điểm chủ yêu của quan hệ giữa
các lợi ích kinh tê ở nước ta, những mâu thuẫn và đưa ra một số ý kiên về
phương pháp luận giải quyêt các mâu thuẫn đó. Kêt hợp tốt ba lợi ích kinh tê
và giáo dục chính trị, tư tưởng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ung Thị Minh Lệ, “Hệ thống lợi ích kinh tế và các quan hệ phân phối
trong việc thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội Việt
Nam”, luận án Phó tiên sĩ kinh tê, Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1996. Tác


7
giả phân tích một số lợi ích cơ bản, mối liên hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích
xã hội, đồng thời đưa ra một số biện pháp trong lĩnh vực tài chính nhằm thực
hiện các lợi ích kinh tê trong quá trình phân phối, phân phối lại tổng sản phẩm
quốc gia và các nguồn tài chính khác.
Đỗ Nhật Tân, “Vai trò động lực của lợi ích kinh tế đối với sự nghiệp xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện
nay”, luận án Phó tiên sĩ triêt học, H.1991. Tác giả phân tích bản chất lợi ích
kinh tê, tính đa dạng phức tạp của các quan hệ lợi ích kinh tê trong xã hội.
Làm sáng tỏ vai trò động lực của lợi ích kinh tê trong hệ thống các động lực
phát triển xã hội, trong các thành phần kinh tê. Tìm ra được đặc thù của động
lực lợi ích kinh tê nhiều thành phần và giải pháp khuyên khích tối đa động lực

ở Việt Nam.
Vương Đình Cường, “Lợi ích kinh tế nông dân ở nước ta hiện nay”,
luận án Phó tiên sĩ kinh tê, H.1992. Trong luận án, tác giả đề cập đên lợi ích
kinh tê nông dân trong cơ chê khoán 10 qua việc phân tích vai trò, nội dung
các mối quan hệ với lợi ích kinh tê của nhà nước và tập thể. Đề xuất những
biện pháp kinh tê cơ bản để nâng cao lợi ích kinh tê nông dân, tạo động lực
phát triển kinh tê hàng hóa trong nông nghiệp.
Phạm Thắng, “Giải pháp để kết hợp các lợi ích kinh tế trong doanh
nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay qua khảo sát các doanh nghiệp Nhà
nước tại thành phố Hồ Chí Minh”, luận án Phó tiên sĩ kinh tê, thành phố Hồ
Chí Minh, năm 1997. Tác giả đã khái quát các vấn đề lý luận căn bản có liên
quan đên lợi ích và lợi ích kinh tê. Phân tích tổng quát thực trạng của việc kêt
hợp các lợi ích kinh tê của các doanh nghiệp Nhà nước trong cả nước nói
chung và ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng qua các giai đoạn khác nhau.
Đặng Quang Định, “Thống nhất lợi ích kinh tế giữa giai cấp công nhân,
nông dân và tầng lớp trí thức trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt


8
Nam hiện nay”, luận án Tiên sĩ triêt học, H.2010. Tác giả phân tích quan điểm
chủ nghĩa Mác-Lênin và của Đảng ta về lợi ích kinh tê; trên cơ sở đó, tác giả
chỉ ra tầm quan trọng của sự thống nhất lợi ích kinh tê giữa giai cấp công
nhân, nông dân và tầng lớp trí thức đối với việc xây dựng và phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đề xuất giải pháp hữu
ích trong điều kiện nền kinh tê thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Trần Thị Lan, “Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất của nông dân để
xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội”, luận án Tiên sĩ
kinh tê , Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, H. 2012. Tác
giả đã phân tích các mối quan hệ giữa lợi ích kinh tê của các chủ thể có liên
quan đên quá trình thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị

mới ở Hà Nội. Đề xuất các quan điểm, giải pháp nhằm tiêp tục giải quyêt hài
hòa lợi ích kinh tê của các chủ thể có liên quan đên quá trình thu hồi đất của
nông dân để xây dựng các khu công nghiệp và khu đô thị mới ở Hà Nội.
Phạm Quang Hưng, “Lợi ích kinh tế của nông dân trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Hà Nội”, luận văn Thạc sỹ kinh tê, Học viện
Chính trị, năm 2013. Tác giả đã luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề lợi
ích kinh tê của nông dân Hà Nội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; đồng thời đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yêu bảo đảm
lợi ích kinh tê của nông dân ở Hà Nội trong thời gian tới.
* Các bài viết đăng trên các tạp chí đề cập đến lợi ích kinh tế
“Lợi ích kinh tế - động lực thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay” của PGS.TS Đào Duy Huân, Tạp chí Phát triển
kinh tê số 200 năm 2007; “Lợi ích kinh tế - một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” của PTS Hồ Tấn Phong, Tạp chí Phát triển kinh tê số 27 năm 1993, các
tác giả đều đã đề cập ở mức độ khác nhau đên vai trò động lực của lợi ích
kinh tê nhìn từ góc độ lý luận và thực tiễn.


9
Như vậy, mặc dù vấn đề lợi ích kinh tê nói chung, lợi ích kinh tê của
nông dân nói riêng đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên,
vấn đề giải quyêt lợi ích kinh tê của nông dân trong thu hồi đất phát triển công
nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai cho đên nay chưa có công trình nào đã công
bố. Do đó, nghiên cứu đề tài này là cần thiêt và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyêt lợi ích kinh
tê của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng
Nai, trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm giải quyêt lợi ích
kinh tê của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ
trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.

* Nhiệm vụ:
Luận giải làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về giải quyêt lợi ích kinh tê
của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ.
Đánh giá thực trạng việc giải quyêt lợi ích kinh tê của nông dân trong
thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở tỉnh Đồng Nai.
Đề xuất các quan điểm, giải pháp giải quyêt lợi ích kinh tê của nông
dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai trong
thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Lợi ích kinh tê của nông dân trong quá trình thu hồi đất cho phát triển
công nghiệp và dịch vụ.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: việc giải quyêt lợi ích của nông dân bao gồm cả quá trình thu
hồi đất và những tồn đọng cần giải quyêt tiêp sau khi đất đã được thu hồi.


10
Về không gian: các địa phương trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có đất nông
nghiệp và đất phi nông nghiệp của nông dân bị thu hồi cho phát triển công
nghiệp và dịch vụ.
Về thời gian: giới hạn từ năm 2006 đên nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, quan điểm đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, các văn kiện của Ban
chấp hành Đảng bộ tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai. Ngoài ra, quá trình
nghiên cứu còn sử dụng các lý luận có liên quan khác để tiêp cận đối tượng, luận
giải nhiệm vụ của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu:

Đề tài sử dụng tổng hợp hệ thống phương pháp nghiên cứu bao gồm: hệ thống
phương pháp nghiên cứu nền tảng là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử; phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tê chính trị cùng các phương
pháp phân tích, thống kê, so sánh, hệ thống hóa...; phương pháp chuyên gia.
Kê thừa một cách có chọn lọc kêt quả của các công trình nghiên cứu đi
trước và cập nhật những thông tin mới về vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa của luận văn
Sau khi hoàn thành, luận văn góp thêm một tiêng nói với các cơ quan chức
năng thuộc tỉnh Đồng Nai, tìm biện pháp thích hợp, khả thi giải quyêt thỏa đáng
hơn lợi ích kinh tê của nông dân bị thu hồi đất phát triển công nghiệp, dịch vụ, làm
cho quá trình đó diễn ra thuận lợi góp phần triển khai đúng tiên độ các dự án đã
được phê duyệt, nhằm phát triển kinh tê địa phương, sớm đưa Đồng Nai cán đích
mục tiêu cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.
Kêt quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu và giảng dạy môn học kinh tê chính trị Mác - Lênin, làm tài liệu tham khảo


11
để các địa phương xây dựng chủ trương, biện pháp giải quyêt thỏa đáng hơn lợi
ích kinh tê của nông dân bị thu hồi đất phát triển công nghiệp, dịch vụ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm 3 chương (6 tiêt), kêt luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.


12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT LỢI ÍCH KINH TẾ
CỦA NÔNG DÂN TRONG THU HỒI ĐẤT PHÁT TRIỂN
CÔNG NGHIỆP VÀ DỊCH VỤ

1.1. Lợi ích và lợi ích kinh tế
Để có thể có quan niệm đầy đủ và chính xác về phạm trù lợi ích kinh tê
của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ, cần bắt đầu
từ các quan niệm về phạm trù lợi ích và lợi ích kinh tê nói chung.
1.1.1. Lợi ích
Trên cơ sở kê thừa những tư tưởng đúng đắn của nhân loại C.Mác và
Ph.Ăngghen đi từ nhu cầu của con người hiện thực để nghiên cứu lịch sử, qua
đó chỉ ra cơ sở hình thành lợi ích và vai trò của nó trong sự phát triển của lịch
sử. Theo đó, tất cả các lợi ích của con người đều nảy sinh từ nhu cầu sống, tồn
tại và phát triển.
Nhu cầu là đòi hỏi, mong muốn, nguyện vọng của con người. Tuy nhiên,
nhu cầu không phải là những cái chung chung trừu tượng, mà phải là nhu cầu
về của cải vật chất và dịch vụ nhằm thỏa mãn đời sống vật chất và tinh thần
của mỗi người, mỗi cộng đồng người và mỗi tập đoàn xã hội nhất định.
Nhu cầu về của cải vật chất là nhu cầu về các sản phẩm của nền sản xuất
xã hội, tức là của cải vật chất và dịch vụ mang tính chất xã hội có nguồn gốc
từ nền sản xuất của xã hội. Thông thường trong cuộc sống, nhu cầu về vật
chất thường được đồng nhất với nhu cầu kinh tê. Nói cách khác, nhu cầu kinh
tê trước hêt cũng là nhu cầu về vật chất, song không phải mọi nhu cầu về vật
chất đều là nhu cầu kinh tê. Trong tiên trình vận động và phát triển của lịch sử
xã hội loài người, chỉ khi nào xuất hiện các hình thức khác nhau về sở hữu tư
liệu sản xuất, xuất hiện phân công lao động xã hội, lúc đó những nhu cầu về
vật chất của con người mới mang tính chất xã hội và chuyển hóa thành nhu


13
cầu kinh tê. Khi nhu cầu kinh tê của một chủ thể nào đó được đáp ứng, được
thỏa mãn thì lúc đó mới xuất hiện lợi ích kinh tê.
Như vậy, lợi ích nảy sinh từ nhu cầu, là cái phản ánh quan hệ nhu cầu
giữa các chủ thể và dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hội. Khi các

nhu cầu được đáp ứng, được thỏa mãn, có nghĩa con người đã được thỏa mãn
về lợi ích. Lợi ích là hiện tượng xã hội khách quan tồn tại trong đời sống xã
hội, gắn liền với chủ thể. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, lợi ích cũng
mang tính giai cấp và tính lịch sử cụ thể.
Nhu cầu của con người rất phong phú đa dạng nên lợi ích cũng rất phong
phú và đa dạng. Nhu cầu có nhu cầu vật chất hay nhu cầu văn hoá tinh thần;
nhu cầu trước mắt hay nhu cầu lâu dài; nhu cầu tiêu dùng hay nhu cầu sản
xuất, theo đó cũng có lợi ích vật chất hay tinh thần; lợi ích trước mắt hay lợi
ích lâu dài. Mặt khác, trong các hoạt động thực tiễn vì sự tồn tại và phát triển
của mình, con người có nhu cầu chung phải liên kêt với nhau, những nhu cầu
chung là cơ sở hình thành lợi ích chung. Ngoài những lợi ích chung, con
người còn có lợi ích riêng nảy sinh từ các nhu cầu trong mỗi hoàn cảnh cụ
thể. Như vậy, bên cạnh những nhu cầu chung của tập thể (cộng đồng), xã hội,
con người còn có nhu cầu riêng của cá nhân, những nhu cầu này hình thành
nên lợi ích chung và lợi ích của mỗi cá nhân.
Từ đó, có thể quan niệm lợi ích là hiện tượng xã hội khách quan gắn
liền với những chủ thể xác định, được nảy sinh từ nhu cầu và nhằm thoả mãn
nhu cầu con người trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người, có thể nảy sinh rất
nhiều quan hệ lợi ích. Nêu phân chia theo lĩnh vực sẽ có các hình thái lợi ích: lợi
ích kinh tê, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh. Nêu phân chia theo
phạm vi cấp độ có: lợi ích cá nhân, nhóm, tập thể, xã hội. Phân chia theo thời
gian có: lợi ích trước mắt, lợi ích lâu dài… Phân chia theo các khâu của quá trình
tái sản xuất thì có: lợi ích người sản xuất, người tiêu dùng, nhà phân phối.


14
1.1.2. Lợi ích kinh tê
Trong đời sống xã hội của mình, ngay từ khi mới xuất hiện, con người đã
tiên hành các hoạt động tác động vào giới tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu ăn, ở,

đi lại,... Tóm lại là những nhu cầu nhằm bảo đảm sự tồn tại và phát triển của mỗi
cá thể và cộng đồng. Quá trình hoàn thiện các kỹ năng lao động và thỏa mãn nhu
cầu, các hoạt động kinh tê xuất hiện, giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động
xã hội và nó là cơ sở cho các hoạt động khác.
Trong hoạt động kinh tê, con người luôn có động cơ nhất định. Động cơ
thúc đẩy con người hành động. Mức độ hành động (mạnh hay yêu) tuỳ thuộc
vào mức độ chín muồi của động cơ - tuỳ thuộc vào nhận thức và thực hiện lợi
ích của họ.
Theo C.Mác thì phạm trù lợi ích (ích lợi, có lợi) được sử dụng như là
cùng nghĩa và có thể thay thê nhau. Lợi ích không phải là một cái gì trừu
tượng và có tính chất chủ quan, mà cơ sở của lợi ích là nhu cầu khách quan
của con người. Con người có nhiều loại nhu cầu (vật chất, chính trị, văn hoá),
do đó có nhiều loại lợi ích (lợi ích kinh tê, lợi ích chính trị, lợi ích văn hoá,
tinh thần).
Lợi ích kinh tê là một phạm trù kinh tê khách quan, nó xuất hiện trong
những điều kiện tồn tại xã hội của con người. Hay nói cách khác, lợi ích kinh
tê là mối quan hệ xã hội nhằm thực hiện nhu cầu kinh tê của các chủ thể kinh
tê. Những nhu cầu kinh tê của con người khi nó được xác định về mặt xã hội
thì nó trở thành cơ sở, nội dung của lợi ích kinh tê.
Lợi ích kinh tê luôn gắn liền với nhu cầu, song đây không phải là nhu
cầu bất kỳ, mà là nhu cầu kinh tê (nhu cầu vật chất). Chỉ có những nhu cầu
kinh tê mới làm phát sinh lợi ích kinh tê. Vì vậy, lợi ích kinh tê là một phạm
trù kinh tê, một mặt, nó phản ánh những điều kiện, những phương tiện nhằm
đáp ứng nhu cầu vật chất của mỗi con người, mỗi chủ thể. Suy cho cùng, lợi


15
ích kinh tê được biểu hiện ở mức độ của cải vật chất mà mỗi con người có
được, khi tham gia vào các hoạt động kinh tê - xã hội. Mặt khác, nó phản ánh
quan hệ giữa con người với con người trong quá trình tham gia vào các hoạt

động đó để tạo ra của cải vật chất cho mình. Những quan hệ đó chính là quan
hệ sản xuất trong xã hội. Vì vậy lợi ích kinh tê còn là hình thức biểu hiện của
quan hệ sản xuất, do quan hệ sản xuất quyêt định.
Lợi ích kinh tê là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, nó được quy
định một cách khách quan bởi phương thức sản xuất, bởi hệ thống quan hệ
sản xuất, trước hêt là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quyêt định vị trí, vai trò của mỗi con
người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tê - xã
hội. Do đó, không có lợi ích kinh tê nằm ngoài những quan hệ sản xuất, mà
nó là sản phẩm của những quan hệ sản xuất, là hình thức vốn có bên trong,
hình thức tồn tại và biểu hiện của các quan hệ sản xuất. Chính vì vậy, theo
Ph.Ăngghen “Các quan hệ kinh tê của một xã hội nhất định biểu hiện trước
hêt dưới hình thức lợi ích” [38, tr.376].
Hệ thống quan hệ sản xuất của mỗi một chê độ xã hội nhất định sẽ quy
định hệ thống lợi ích kinh tê của xã hội đó. Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, ở nước ta tồn tại nhiều quan hệ sản xuất, nhiều quan hệ sở hữu
khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tê, do đó hệ thống lợi ích
kinh tê cũng mang tính đa dạng. Tùy góc độ xem xét mà ta có thể phân chia
thành các nhóm, các loại lợi ích kinh tê khác nhau. Dưới góc độ khái quát
nhất có thể phân chia hệ thống lợi ích kinh tê thành: lợi ích kinh tê cá nhân,
lợi ích kinh tê tập thể (nhóm cộng đồng) và lợi ích kinh tê xã hội. Dưới góc độ
các thành phần kinh tê, có lợi ích kinh tê tương ứng với các thành phần kinh
tê đó. Dưới góc độ các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, có lợi ích kinh
tê của người sản xuất, người phân phối, người trao đổi, người tiêu dùng.


16
Dù cách phân chia có thể khác nhau, song các lợi ích kinh tê bao giờ
cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với
nhau. Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: chúng cùng đồng thời tồn tại trong một

hệ thống, trong đó lợi ích kinh tê này là cơ sở, là tiền đề cho lợi ích kinh tê
khác. Chẳng hạn, có lợi ích kinh tê của người sản xuất, thì mới có lợi ích kinh
tê của người trao đổi, người tiêu dùng và ngược lại. Mặt mâu thuẫn biểu hiện
ở sự tách biệt nhất định giữa các lợi ích đó dẫn đên xu hướng lấn át của lợi ích
kinh tê này đối với lợi ích kinh tê khác. Chính vì vậy, nó có thể gây nên
những xung đột nhất định về lợi ích kinh tê, ảnh hưởng tiêu cực đên các hoạt
động kinh tê - xã hội. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, thì các lợi ích
kinh tê cũng mang tính đối kháng. Đó chính là nguyên nhân dẫn đên những
cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa các giai cấp. Trong thực tê, lợi ích
kinh tê thường được biểu hiện ở các hình thức thu nhập như: tiền lương, tiền
công, lợi nhuận, lợi tức, địa tô, thuê, phí, lệ phí...
Từ những phân tích trên có thể hiểu: lợi ích kinh tế là quan hệ kinh tế,
phản ánh những nhu cầu, những động cơ khách quan của các chủ thể tham
gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội, do quan hệ sản xuất quyết định.
Trong hệ thống lợi ích kinh tê: cá nhân, tập thể (nhóm cộng đồng) và xã
hội, thì lợi ích kinh tê cá nhân là động lực trực tiêp, mạnh mẽ nhất thúc đẩy
các chủ thể tham gia một cách tích cực vào các hoạt động kinh tê - xã hội và
nâng cao hiệu quả kinh tê của chúng. Sở dĩ như vậy là vì:
Thứ nhất, lợi ích kinh tê cá nhân là lợi ích thiêt thực nhất, gắn liền với
từng cá nhân, từng chủ thể. Nó trực tiêp đáp ứng nhu cầu vật chất của từng cá
nhân, của từng chủ thể đó khi tham gia vào các hoạt động sản xuất xã hội. Ở
đâu và khi nào lợi ích kinh tê cá nhân được bảo đảm, thì ở đó sẽ tạo ra được
động lực mạnh mẽ nhất kích thích họ phát huy sáng kiên, cải tiên kỹ thuật,
nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong các hoạt động kinh tê của


17
mình. Có thể nói, lợi ích kinh tê cá nhân là "huyệt" mà sự tác động vào đó
(tương tự như các lương y châm cứu vào các huyệt trên cơ thể người bệnh để
đánh thức sự hoạt động của các bộ phận chức năng trên cơ thể), sẽ gây nên phản

ứng nhanh nhạy nhất của các chủ thể kinh tê. Nó là chất kêt dính người lao động
với quá trình sản xuất kinh doanh, là một thứ "dầu nhờn" đặc biệt để bôi trơn
guồng máy kinh tê. Điều đó lý giải vì sao cơ chê thị trường đã tạo ra động lực
mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, đồng thời nó cũng lý giải vì sao cơ chê thị
trường còn có nhiều mặt trái. Thực tiễn phát triển kinh tê ở nước ta trong những
năm qua cũng đã chứng minh điều đó. Chẳng hạn, trong lĩnh vực nông nghiệp,
với cơ chê khoán hộ, Nhà nước giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho các hộ
nông dân, cùng với những chính sách khác, nước ta đã từ một nước thiêu lương
thực, phải nhập khẩu lương thực, trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên
thê giới.
Thứ hai, lợi ích kinh tê cá nhân tạo điều kiện để thực hiện và nâng cao lợi
ích văn hóa, tinh thần của từng cá nhân. Khi lợi ích kinh tê cá nhân được bảo
đảm, các chủ thể sẽ tham gia một cách tích cực và nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh, từ đó họ cũng có điều kiện để nâng cao đời sống văn hóa tinh thần
của mình.
Thứ ba, lợi ích kinh tê cá nhân là cơ sở thực hiện lợi ích kinh tê tập thể
(nhóm cộng đồng) và lợi ích xã hội, và dân có giàu thì nước mới mạnh. Khi lợi
ích kinh tê cá nhân được bảo đảm, người dân hăng say, tích cực sản xuất để thực
hiện nghĩa vụ của mình với Nhà nước, tập thể thì lợi ích kinh tê của Nhà nước
(xã hội), tập thể cũng mới được thực hiện.
Vì vậy, để kích thích tính tích cực của người lao động, phát huy tối đa vai
trò nhân tố con người, thì vấn đề mấu chốt, căn cơ nhất là phải tác động vào lợi
ích kinh tê mỗi cá nhân. Tạo điều kiện để mỗi người lao động, mỗi cá nhân, mỗi
chủ thể thực hiện được lợi ích kinh tê của mình, bảo đảm sao cho mỗi người
được đóng góp và được hưởng phần thu nhập phù hợp với sự đóng góp của họ.


18
1.2. Quan niệm, các nhân tố ảnh hưởng và tác động của giải quyết
lợi ích kinh tế kinh tế của nông dân trong thu hồi đất đến phát triển công

nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai
1.2.1. Quan niệm về giải quyêt lợi ích kinh tê của nông dân trong thu
hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai
Để làm rõ quan niệm về giải quyêt lợi ích kinh tê của nông dân trong thu
hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai, trước hêt cần nhận thức
về các quan hệ lợi ích kinh tê phát sinh trong quá trình thu hồi đất
* Quan hệ lợi ích kinh tế trong thu hồi đất
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 [39], đất đai được xác định
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản
lý. Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.
Về q`uyền lợi của người sử dụng đất được quy định tại Điều 26, Luật Đất đai
năm 2013 như sau:
Được bảo hộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hợp pháp của
người sử dụng đất.
Được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất cho người sử dụng đất khi có đủ điều kiện theo
quy định của pháp luật.
Khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển
kinh tê - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thì người sử dụng đất được Nhà
nước bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định của pháp luật.
Có chính sách tạo điều kiện cho người trực tiêp sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối không có đất sản xuất do quá trình
chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và chuyển đổi cơ cấu kinh tê được đào tạo
nghề, chuyển đổi nghề và tìm kiêm việc làm.
Luật Đất đai năm 2013 là sự luật hóa quyền của người dân có đất bị thu
hồi cho các mục đích quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tê xã hội phù


19
hợp với điều kiện của đời sống kinh tê, xã hội ở nước ta hiện nay. Cơ sở lý

luận của luật là sự vận dụng những nguyên lý, lý luận mácxit về lợi ích và lợi
ích kinh tê.
Theo hướng đó, khi nhà nước thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất,
người có quyền sử dụng đất được nhà nước giải quyêt các lợi ích chính đáng
theo pháp luật hiện hành, trước hêt và quan trọng nhất là lợi ích kinh tê.
Lợi ích kinh tê trong thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp và
dịch vụ bao gồm quan hệ giữa lợi ích kinh tê của xã hội do Nhà nước là đại
diện với lợi ích kinh tê của doanh nghiệp - chủ đầu tư dự án; quan hệ giữa lợi
ích kinh tê của doanh nghiệp - chủ đầu tư dự án với lợi ích kinh tê của người
nông dân và quan hệ giữa lợi ích kinh tê của Nhà nước (xã hội) với lợi ích
kinh tê của người nông dân bị thu hồi đất. Ba mối quan hệ này - xét về mặt
bản chất chúng vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn với nhau:
Sự thống nhất
Thứ nhất, có sự thống nhất giữa lợi ích của xã hội với lợi ích của nông
dân, bởi vì lợi ích xã hội là dành cho tất cả mọi người dân trong xã hội, bao
gồm cả nông dân. Khi lợi ích của nhà nước được đảm bảo thì hệ quả tất yêu là
quyền được hưởng các lợi ích đó là toàn xã hội trong đó có những người nông
dân bị thu hồi đất; mặt khác, khi lợi ích của người nông dân bị thu hồi đất
được đảm bảo thì họ sẽ đẩy nhanh tiên trình giao nộp lại đất đai, những tư liệu
sản xuất quan trọng của họ cho Nhà nước để phục vụ cho chiên lược phát
triển của xã hội mà Nhà nước làm đại diện. Điều này đã góp phần vào việc
tăng cường lợi ích xã hội không chỉ trước mắt mà còn lâu dài.
Thứ hai, sự thống nhất giữa lợi ích kinh tê của chủ dự án và lợi ích kinh
tê xã hội. Về lâu dài, khi lợi ích kinh tê xã hội được đảm bảo thì kinh tê xã hội
sẽ phát triển mạnh mẽ và hệ quả là sẽ tạo ra một môi trường kinh doanh thuận
lợi, tạo ra nhiều cơ hội đầu tư và mở rộng cho các doanh nghiệp nói chung,


20
trong đó có doanh nghiệp nhận được đất dự án để tiên hành sản xuất, kinh

doanh. Về lợi ích kinh tê trước mắt thì sự thống nhất của lợi ích kinh tê xã hội
và lợi ích kinh tê doanh nghiệp được thể hiện ở chỗ, khi các doanh nghiệp chủ
dự án làm tốt các thủ tục để nhận mặt bằng bao gồm cả phần chi trả các khoản
chi phí cho việc giải phóng mặt bằng đó, nhà nước sẽ có khả năng xúc tiên
nhanh việc bàn giao mặt bằng cho doanh nghiệp tiêt kiệm thời gian và kèm
theo đó là tiền bạc của doanh nghiệp khi thực hiện dự án.
Thứ ba, sự thống nhất lợi ích kinh tê giữa nông dân có đất bị thu hồi và
doanh nghiệp - chủ dự án được thể hiện ở chỗ: khi lợi ích của nông dân được
đảm bảo, họ sẽ nhanh chóng giao nộp đất để Nhà nước chuyển giao cho
doanh nghiệp; mặt khác khi lợi ích của doanh nghiệp được đảm bảo, việc
triển khai dự án nhanh chóng, thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho người nông dân
thực hiện các lợi ích khác bên cạnh việc nhận đền bù của mình đó là tham gia
vào làm việc trong doanh nghiệp, hoặc góp vốn đầu tư vào doanh nghiệp đó.
Sự mâu thuẫn:
Bên cạnh việc thống nhất, giữa ba lợi ích cơ bản trong quá trình thu hồi
đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp và dịch vụ cũng có những
mâu thuẫn nhất định đòi hỏi các cấp quản lý kinh tê cần nhận diện và có
phương thức giải quyêt thỏa đáng. Các mâu thuẫn đó là:
Thứ nhất, mâu thuẫn giữa lợi ích nhà nước và lợi ích của nông dân
biểu hiện ở chỗ, nhà nước khi thu hồi đất của nông dân để thực hiện lợi ích
xã hội đã xâm phạm đên lợi ích của người nông dân là quyền họ được sử
dụng đất đai của mình để làm ăn, sinh sống. Chính vì vậy nhà nước phải
xây dựng các chính sách đền bù những thiệt hại của họ. Mâu thuẫn của nhà
nước và nông dân thể hiện chính ở chính sách đền bù này: nêu chính sách
đền bù quá rộng rãi, trước mắt người nông dân sẽ được lợi, và nhà nước sẽ
chịu thiệt; nêu chính sách đền bù quá hạn hẹp, người nông dân chịu thiệt
thòi và nhà nước có lợi.


21

Thứ hai, mâu thuẫn giữa nông dân và doanh nghiệp - chủ dự án cũng xảy
ra tương tự khi chủ dự án chính là người tự đứng ra thương thảo với nông dân
và chịu trách nhiệm giải phóng mặt bằng và đền bù vì nêu chủ dự án đền bù
nhiều thì sẽ bị thiệt thòi, còn nông dân thì sẽ có lợi và ngược lại.
Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa lợi ích của các chủ thể này thực ra chỉ là biểu
hiện chưa hoàn toàn đầy đủ của mối quan hệ. Về bản chất, mối quan hệ này
vẫn là mối quan hệ có tính thống nhất, nêu điều hòa tốt mối quan hệ này sẽ
đạt được kêt quả là các bên cùng có lợi. Cụ thể: nêu giải quyêt thỏa đáng mối
lợi ích này cho người nông dân, họ nhận được khoản đền bù xứng đáng và
đầy đủ cho các thiệt hại do quá trình thu hồi đất gây ra thì người nông dân sẽ
nhanh chóng giao lại mặt bằng để doanh nghiệp chủ dự án thực hiện dự án và
như vậy sẽ tiêt kiệm được thời gian và tiền vốn cho doanh nghiệp.
Từ những phân tích trên đây, ta thấy lợi ích giữa các chủ thể trong thu
hồi đất là mối quan hệ phức tạp, biện chứng vừa thống nhất vừa mâu thuẫn
với nhau. Chính vì vậy mà xây dựng chính sách để giải quyêt mối quan hệ lợi
ích trong thu hồi đất vô cùng quan trọng, nó cần phải giải quyêt hài hòa lợi
ích của các chủ thể tham gia nhằm mang lại lợi ích chung cho tất cả các chủ
thể trong mối quan hệ này.
* Quan niệm về giải quyết lợi ích kinh tế của nông dân trong thu hồi đất
phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai
Như trên đã đề cập, quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng đất tạo ra
những mối quan hệ lợi ích khác nhau giữa các chủ thể kinh tê. Các mối quan
hệ đó vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau. Vì vậy, để quá trình thu hồi
đất trong phát triển công nghiệp và dịch vụ được tiên hành thuận lợi, cần phải
giải quyêt các mâu thuẫn đặt ra. Việc giải quyêt các mâu thuẫn đó chính là
việc bảo đảm cho các chủ thể cùng có lợi, trước hêt là lợi ích kinh tê. Nói
cách khác, việc giải quyêt lợi ích kinh tê của nông dân trong thu hồi đất nông


22

nghiệp cũng chính là giải quyêt mâu thuẫn giữa lợi ích kinh tê của nông dân
với lợi ích kinh tê của xã hội và lợi ích kinh tê của chủ doanh nghiệp.
Từ sự phân tích trên có thể khái quát: giải quyêt lợi ích kinh tê của
nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng Nai
là: sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và bản thân hộ
nông dân bị thu hồi đất ở Đồng Nai trong giải quyết những mâu thuẫn đặt
ra nhằm tạo ra sự thống nhất về lợi ích kinh tế giữa nông dân với nhà
nước và chủ doanh nghiệp.
Như vậy, việc giải quyêt lợi ích của nông dân được hiểu là một quá trình,
bao gồm cả quá trình thu hồi đất và cả những việc trong quá trình thu hồi đất
chưa giải quyêt dứt điểm, phải giải quyêt tiêp sau khi đất đã được thu hồi, theo
đó trong quá trình thu hồi đất giải quyêt chưa dứt điểm sẽ được tiêp tục giải
quyêt sau khi đất đã được thu hồi. Thuật ngữ “trong” và “sau” được hiểu một
cách hêt sức uyển chuyển không cứng nhắc. Đồng thời việc giải quyêt lợi ích
của nông dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp và dịch vụ ở Đồng
Nai không chỉ là trách nhiệm của nhà nước, được thực hiện bởi Nhà nước, mà
còn là trách nhiệm của các doanh nghiệp là chủ đầu tư và bản thân hộ nông
dân có đất bị thu hồi chuyển đổi mục đích sử dụng. Mặt khác, sự giải quyêt đó
phải dựa vào luật pháp của Nhà nước, trước hêt là Luật Đất đai năm 2013.
Theo hướng đó, các nội dung giải quyết bao gồm:
Thứ nhất, bồi thường giá trị sử dụng diện tích đất bị thu hồi cho nông
dân. Khi thu hồi đất của nông dân nhà nước đã có chính sách đền bù cho các
thiệt hại của việc thu hồi này đối với họ. Theo quy định của nhà nước người
dân sẽ nhận khoản đền bù cho đất, đền bù cho các loại cây trồng trên đất chưa
kịp thu hoạch vào lúc trao trả mặt bằng;
Thứ hai, hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiêm việc làm cho nông
dân nhằm đáp ứng nhu cầu chuyển đổi nghề. Vì bị thu hồi mất tư liệu sản xuất


23

chính nên người nông dân buộc phải chuyển sang hoạt động kiêm sống khác,
hay còn gọi chuyển sang nghề nghiệp khác. Nhưng họ chưa có kinh nghiệm
và cũng chưa đủ trình độ, kỹ năng để chuyển đổi sang một nghề khác phù
hợp, vì thê họ phải học nghề. Chính vì vậy Nhà nước đã tính đên lợi ích này
của nông dân nên khi thu hồi đất đai để chuyển đổi mục đích sử dụng, Nhà
nước còn hỗ trợ việc đào tạo nghề thông qua việc mở lớp trực tiêp hoặc giới
thiệu đên các trung tâm đào tạo nghề cho họ học miễn phí;
Thứ ba, tạo điều kiện cho nông dân được làm việc tại các dự án. Một
trong những biểu hiện lợi ích của người nông dân bị thu hồi đất là họ có
quyền ưu tiên tuyển dụng vào làm việc trong các dự án, các khu công nghiệp
xây dựng trên đất đai của họ sau khi các dự án này đi vào hoạt động. Như thê
thay vì là chủ thể kinh tê, chủ thể lợi ích ở lĩnh vực nông nghiệp họ chuyển
sang là các chủ thể kinh tê, chủ thể lợi ích ở lĩnh vực sản xuất công nghiệp;
Thứ tư, đáp ứng nhu cầu góp cổ phần của nông dân vào các dự án bằng
quyền sử dụng đất. Khi bị thu hồi đất nông nghiệp, lợi ích của người nông dân còn
được biểu hiện ở quyền được tham gia góp vốn đầu tư vào các dự án và trở thành
một trong những người nắm tư liệu sản xuất, nghĩa là có quyền ảnh hưởng cao
đên quá trình phân phối lợi ích của các dự án đó. Đây cũng là cơ hội tốt để họ
nâng cao thu nhập cá nhân bằng các nguồn lợi nhuận từ việc góp vốn tạo ra.
Ngoài ra, với số tiền được đền bù người nông dân có thể đầu tư để phát
triển kinh tê gia đình và tạo ra những nguồn thu nhập mới, tăng lợi ích kinh tê
của họ, làm cuộc sống của họ được cải thiện hơn.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đên giải quyêt lợi ích kinh tê của nông
dân trong thu hồi đất phát triển công nghiệp, dịch vụ
Quá trình thu hồi đất nông nghiệp là một quá trình xã hội, có sự tham gia
của nhiều chủ thể khác nhau, là một quá trình khá phức tạp và chịu tác động
của nhiều nhân tố khác nhau. Trong đó, những nhân tố sau đây có tác động
mạnh nhất:



24
Thứ nhất, trình độ phát triển kinh tê của đất nước. Trình độ phát triển
kinh tê của đất nước được thể hiện rõ nét ở tổng GDP, tốc độ tăng GDP hàng
năm và tính ổn định của tăng trưởng kinh tê, khả năng kiểm soát tốt các yêu
tố rủi ro và lạm phát; sự phát triển của hệ thống kêt cấu hạ tầng kinh tê - xã
hội, tính hiệu quả và đồng bộ của cơ chê quản lý. Các yêu tố này sẽ tác động
gần như trực tiêp đên quá trình giải quyêt lợi ích kinh tê của nông dân trong
thu hồi đất nông nghiệp để xây dựng các khu công nghiệp và khu dịch vụ. Khi
tổng GDP, tốc độ tăng GDP hàng năm và tính ổn định của tăng trưởng kinh tê,
khả năng kiểm soát tốt các yêu tố rủi ro và lạm phát được bảo đảm tốt; khi hệ
thống kêt cấu hạ tầng kinh tê - xã hội được phát triển đồng bộ và phát huy tác
dụng tốt; khi đó việc hỗ trợ các giải pháp để giải phóng mặt bằng trong thu
hồi đất sẽ nhanh chóng và thuận lợi hơn. Cơ chê quản lý khoa học, đồng bộ sẽ
là một tác nhân quan trọng để thực hiện việc thu hồi, chuyển đổi mục đích sử
dụng đất nhanh chóng, hiệu quả. Mức tăng trưởng kinh tê và GDP bình quân
đầu người cao sẽ tạo điều kiện để có thể tăng mức đền bù giải phóng mặt
bằng, hỗ trợ đào tạo và chuyển đổi nghề cho lao động nông nghiệp bị thu hồi
đất. Tiềm lực kinh tê của đất nước lớn sẽ góp phần tổ chức tốt công tác tái
định cư cho các hộ nông dân khi phải thu hồi đất của họ... Từ đó tạo ra việc
bảo đảm cả lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, tạo ra sự đồng thuận trong
nhân dân, ổn định được tình hình chính trị - xã hội trong quá trình thực hiện
các dự án xây dựng các khu công nghiệp và khu dịch vụ.
Thứ hai, hiệu quả kinh tê của các dự án đầu tư. Hiệu quả kinh tê của các
dự án đầu tư là yêu tố đóng vai trò không nhỏ trong quá trình giải quyêt lợi
ích kinh tê của nông dân trong thu hồi đất nông nghiệp phục vụ phát triển
công nghiệp và dịch vụ. Khi dự án được thực hiện với hiệu quả kinh tê cao,
việc quản lý nguồn vốn đầu tư và khả năng kinh doanh tốt, điều đó cũng đồng
nghĩa với việc các lợi ích cơ bản của doanh nghiệp - chủ đầu tư đã được thực



×