Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp trên địa bàn quận hà đông, thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (501.01 KB, 100 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN MINH TÚ

PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ PHI NÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN MINH TÚ

PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ PHI NÔNG NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGUYỄN MINH
KHẢI

HÀ NỘI - 2014


DANH MỤC CHỮ VIẾT TĂT


Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Hợp tác xã
Kinh tế thị trường
Lao động nông thôn
Nông nghiệp
Phi nông nghiệp
Tư liệu sản xuất
Thương mại dịch vụ
Tiểu thủ công nghiệp
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

Chữ viết tắt
CNH, HĐ
HTX
KTTT
LĐNT
NN
PNN
TLSX
TMDV
TTCN
UBND
XHCN


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU


3

Chương 1

11

LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ HỘ PHI NÔNG
NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ PHI
NÔNG NGHIỆP
1.1. Lý luận chung về kinh tế hộ phi nông nghiệp
1.2. Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp:khái niệm, nội
dung, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng
1.3. Kinh nghiệm phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp ở các
địa phương và bài học rút ra cho Quận Hà Đông, Thành
phố Hà Nội
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ PHI
NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN HÀ
ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của quận
Hà Đông ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế hộ
2.2. Đánh giá sự phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp ở quận
Hà Đông
2.3. Những vấn đề đặt ra từ thực trạng phát triển kinh tế hộ
phi nông nghiệp ở Hà Đông
Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH
TẾ HỘ PHI NÔNG NGHIỆPTRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN HÀ ĐÔNG TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệptrên địa
bàn Hà Đông trong thời gian tới

3.2. Một số giải pháp phát triển kinh tế hộ phi nông
nghiệptrên địa bàn quận Hà Đông trong thời gian tới
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

11
20
33

41

41
45
64
68

68
70
83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

85

PHỤ LỤC

89


3
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta khẳng định: “Phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của
nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”[14].Trong đó, kinh tế hộ
gia đình là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Việt Nam.
Hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ sở - vừa là đơn vị sản xuất, vừa là đơn
vị tiêu dùng, vừa là đơn vị kinh doanh, vừa là một đơn vị xã hội. Là đơn vị
kinh tế nhỏ nằm trong nền kinh tế, nhưng kinh tế hộ có số lượng lớn nhất do
đó kinh tế hộ gia đình là một lực lượng sản xuất quan trọng ở Việt Nam. Hộ
gia đình thường sản xuất, kinh doanh đa dạng, kết hợp trồng trọt với chăn
nuôi, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, dịch vụ. Kể từ khi được thừa nhận là
đơn vị kinh tế tự chủ( năm 1988), sự phát triển kinh tế hộ gia đình đã có sự
chuyển biến tích cực cả về quy mô, tốc độ và cơ cấu. Đến nay, nhiều hộ gia
đình đã đứng vững được trong nền kinh tế thị trường, có tác động lớn đến sự
nghiệp xóa đói giảm nghèo của địa phương cũng như cả nước. Như vậy, trong
nền kinh tế thị trường, phát triển kinh tế hộ đang là một chính sách, một định
hướng lớn của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình đẩy mạnh CNH,HĐH.
Hà Đông là một quận thuộc thủ đô Hà Nội, nằm bên bờ sông Nhuệ,
cách trung tâm Hà Nội 11km về phía Tây, diện tích tự nhiên là 47, 9174 km 2.
Với vị trí thuận lợi, nên những năm qua Hà Đông được hỗ trợ nhiều chính
sách, dự án phát triển với nhiều khu đô thị mới: Văn Quán, Mỗ Lao, Văn Phú,
Lê Trọng Tấn, trục đô thị phía Bắc…, các trường đại học, các bệnh viện quốc
tế với số vốn huy động đầu tư hàng chục tỷ đôla. Chính vì vậy, kinh tế, xã hội
trên địa bàn có nhiều chuyển biến tích cực. Đặc biệt, ở địa phương có những
điều kiện thuận lợi để kinh tế hộ gia đình PNN ngày càng phát triển. Trong
những năm qua, kinh tế hộ PNN ở Hà Đông đã có những bước tiến đáng kể,


4
bộ phận kinh tế này đã góp phần quan trọng vào việc huy động các nguồn lực

giải quyết việc làm tăng thu nhập và làm năng động nền kinh tế của địa
phương, tạo áp lực cạnh tranh thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trên
địa bàn. Hơn thế nữa, diện tích đất nông nghiệp dần nhường chỗ cho các dự
án. Trong quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 của quận thì trong tổng số
diện tích đất tự nhiên của quận là 4.833,66 ha thì diện tích đất quy hoạch cho
nông nghiệp sẽ giảm từ 580,95 ha năm 2015 xuống còn 503,51 ha vào năm
2020, diện tích đất phi nông nghiệp tăng từ 4.220,37 ha năm 2015 lên
4.299,81 ha vào năm 2020. Trong hoàn cảnh này thì kinh tế hộ PNN đang là
hướng đi mới đảm bảo đời sống cho người dân ở đây.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành quả trên, kinh tế hộ PNN ở Hà Đông
vẫn bộc lộ không ít hạn chế, tiêu cực. Tuy số lượng hộ PNN tăng lên rất nhanh
nhưng chất lượng hoạt động chưa tương xứng với sự gia tăng đó. Hầu hết các
hộ PNN quy mô còn nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu, chất lượng nguồn nhân
lực chưa cao, còn mang nặng tính tự phát, chủ thể sản xuất - kinh doanh chưa
yên tâm về lâu dài,… Tình trạng này gây tác động hạn chế không nhỏ đến yêu
cầu đẩy mạnh CNH, HĐH của địa phương. Hà Đông đang thiếu các giải pháp
và cơ chế để phát huy những yếu tố tích cực của bộ phận kinh tế này và hạn
chế những tiêu cực của nó trong quá trình phát triển. Trước những vấn đề cấp
bách nêu trên, tác giả chọn đề tài “Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp
trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội ” làm đề tài luận văn thạc
sỹ kinh tế chính trị của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề kinh tế hộ nói chung và kinh tế hộ PNN nói riêng đã được quan
tâm nghiên cứu, phân tích và đã trở thành chủ trương của Đảng trong đường
lối chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong công cuộc đổi mới. Có thể nêu
ra ở đây những công trình như:


5
- Lê Xuân Tùng, Các thành phần kinh tế và quan hệ sản xuất, Nxb Sự

thật, Hà Nội, 1989.
Tác giả đã đề cập đến các quan điểm lý luận và nhận thức mới của
Đảng ta về cách mạng QHSX, những chính sách mới của Đảng và Nhà nước
về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
- “Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam lý luận và thực tiễn”,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội của tác giả Lê Hữu Nghĩa - Đinh
Văn Ân (2004).
Trong cuốn sách, các tác giả đã trình bày những lý luận chung về các
thành phần kinh tế ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, nêu ra quan điểm của
Đảng và Nhà nước trong phát triển toàn diện các thành phần kinh tế và thực
trạng phát triển các thành phần kinh tế ở Việt Nam.
- “Phát triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam”, bài nghiên cứu của Mai
Thị Thanh Xuân, Đặng Thị Thu Hiền, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, tập 29,
số 3, 2013.
Bài nghiên cứu của các tác giả đã đưa ra quan điểm về kinh tế hộ gia
đình. Dựa vào những số liệu khảo sát thực tế, các tác giả đã đánh giá những
thành tựu cơ bản, hạn chế và bất cập trong phát triển kinh tế hộ và nguyên
nhân của nó. Trên cơ sở đó, các tác giả đã đề xuất giải pháp khắc phục nhằm
thúc đẩy kinh tế hộ phát triển theo hướng tích cực và bền vững.
- “Kinh tế hộ gia đình trong sản xuất nông nghiệp, hàng hóa”, Đào
Quang Thiệu, Tạp chí pháp luật và đời sống, số 24, 2010.
Bài nghiên cứu của tác giả đã đưa ra nhận định về vai trò của 13 triệu
hộ nông dân. Lực lượng này là nền tảng của nền kinh tế, góp phần đảm bảo
an ninh lương thực, giữ vững an ninh chính trị – xã hội.Trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế, việc xây dựng mô hình kinh tế hộ sản xuất nông
nghiệp hàng hóa là rất cần thiết. Bài nghiên cứu đã đề cập đến các hình


6
thức, nội dung của một số mô hình kinh tế hộ và giải pháp phát triển trong

nền kinh tế hàng hóa.
- Ths Đỗ Văn Quân (2011), Viện Xã hội học, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, bài nghiên cứu: “Phát triển kinh tế hộ
gia đình trong tiến trình xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Hồng
hiện nay”.
Trong tác phẩm của mình, tác giả đã làm sáng tỏ chính sách của Đảng,
Nhà nước về phát triển kinh tế hộ và xây dựng nông thôn mới. Trong đó, ghi
nhận rõ kinh tế hộ gia đình là một lực lượng sản xuất quan trọng ở nông thôn
Việt Nam. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá một số kết quả bước đầu trong
xây dựng nông thôn mới và phát triển kinh tế hộ gia đình ở Đồng bằng sông
Hồng. Kết quả khảo sát các tỉnh đồng bằng sông Hồng cho thấy, sản xuất tiểu
thủ công nghiệp đang trở thành một nghề chính của nhiều chủ hộ gia đình. Tỷ
trọng các hộ làm nghề sản xuất nông nghiệp là 34,3%; làm tiểu thủ công
nghiệp 8,9%; làm buôn bán, dịch vụ 8,5% và làm các nghề khác là 48,3%.
Như vậy, trong nghiên cứu của mình, tác giả đã chỉ ra vai trò, xu hướng phát
triển của kinh tế hộ PNN.
- Hữu Oanh, Tiến Dũng, “Môi trường kinh doanh của hộ kinh doanh cá
thể: nhiều lực cản vô hình”, bái báo đăng trên www.baomoi.com.vn, 2012.
Bài báo của các tác giả đã đánh giá hiện trạng của môi trường kinh
doanh hộ kinh doanh cá thể với nhiều những bất cập, khó khăn cho phát triển
kinh tế hộ.
- “Đất đai, việc làm phi nông nghiệp và mức sống hộ gia đình: Bằng
chứng mới từ dữ liệu khảo sát vùng ven đô Hà Nội” của tác giả Trần Quang
Tuyến, tạp chí KT&PT, số 202 tháng 04 năm 2014, tr. 36-43
Bài viết nghiên cứu mối quan hệ giữa đất đai, việc làm PNN và mức
sống hộ gia đình vùng ven đô Hà Nội. Kết quả chỉ ra rằng phần lớn các hộ gia


7
đình trong mẫu khảo sát đều tham gia vào hoạt động kinh tế PNN. Các nhân tố
tác động tới mức sống hộ gia đình được nghiên cứu bằng việc sử dụng mô

hình hồi quy đa biến và kết quả đã khẳng định tầm quan trọng của cả đất đai
và việc làm PNN trong việc nâng cao mức sống của hộ gia đình. Bên cạnh đó,
tác giả phát hiện rằng một vài biến số khác như giáo dục, tiếp cận vốn tín
dụng chính thức, đất đai và tài sản sản xuất có tác động tích cực tới mức sống
hộ gia đình. Dựa vào kết quả thực nghiệm, bài viết đề xuất một vài hàm ý
chính sách có thể giúp nâng cao thu nhập của hộ gia đình trong bối cảnh đất
ven đô ngày càng thu hẹp do quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa.
- Nguyễn Hữu Thanh, Quá trình khẳng định vai trò tự chủ của kinh tế
hộ gia đình, Tạp chí lao động, số 18, 2002.
Bài báo của tác giả đã mô tả quá trình phát triển và khẳng định vai trò
tự chủ của kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam từ những năm 80 cho tới đầu thế kỷ
21. Theo đó, ở Việt nam, kinh tế hộ gia đình đã trải qua bao bước thăng trầm
của lịch sử. Từ khi có những chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước về
kinh tế hộ gia đình, thì kinh tế hộ đã từng bước khẳng định được vai trò của
mình trong chương trình phát triển kinh tế của đất nước.
- Trần Ngọc, Vai trò tài chính của dân cư, hộ gia đình đối với kinh tế
nước ta, Tạp chí Kinh tế phát triển, số 236, 2010.
Bài báo đã nghiên cứu, đánh giá vai trò quan trọng về tài chính của dân
cư, hộ gia đình đối với phát triển kinh tế. Theo đó, đây là bộ phận không thể
thiếu trong nền kinh tế quốc dân, có vai trò to lớn trong cung ứng và sử dụng
nguồn lực tài chính cho đầu tư, phát triển.
- Tổng cục thống kê, Chuyên đề phân tích: “Phân tích Kết quả điều tra
đời sống, kinh tế hộ gia đình năm 1999”, 2000
Tổng cục Thống kê biên soạn một số chỉ tiêu chủ yếu về “Kết quả điều
tra đời sống, kinh tế hộ gia đình năm 1999” nhằm phục vụ cho các cấp, các


8
ngành nghiên cứu đánh giá tình hình đời sống các tầng lớp dân cư. Trong đó,
chuyên đề đã phân tích một số nhận xét về đời sống dân cư và phân hoá giàu

nghèo ở nước ta. Đánh giá đời sống, kinh tế hộ gia đình thông qua chỉ tiêu thu
nhập và chi tiêu, giáo dục, y tế và đầu tư tích luỹ.
- Ủy ban Dân tộc học, Chuyên đề “Phát triển kinh tế hộ gia đình”, 2008.
Chuyên đề đã làm rõ khái niệm về kinh tế hộ gia đình, các yêu cầu cần
thực hiện để phát triển kinh tế hộ gia đình hiệu quả. Chuyên đề cũng đưa ra
những giải pháp tiếp cận vốn cho hộ gia đình, cũng như giải pháp nâng cao
hiệu quả quản lý sản xuất trong phát triển kinh tế hộ gia đình.
- Hoàng Thành Lân, “Phát triển kinh tế hộ gia đình miền núi trong quá
trình chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta”, luận văn thạc sỹ kinh tế, Đại
học Thái Nguyên, 2010.
Trong luận văn của mình, tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về kinh tế hộ
gia đình và phát triển kinh tế hộ gia đình trong nền kinh tế thị trường. Tác giả
cũng đánh giá thực trạng, chỉ ra những thành tựu và hạn chế, bất cập trong
phát triển kinh tế hộ gia đình ở các tỉnh miền núi phía Bắc từ 2002 – 2008.
Trên cơ sở đó, tác giả cũng đã đề xuất những phương hướng phát triển kinh tế
hộ gia đình tại các tỉnh miền núi tới năm 2015.
- Bùi Hồng Ánh, “Phát triển kinh tế hộ gia đình tại Thái Nguyên”, luận
văn thạc sỹ kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012.
Trong luận văn của mình, tác giả cũng đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về
phát triển kinh tế hộ, mà cụ thể bao gồm các vấn đề: Khái niệm, vai trò của
kinh tế hộ gia đình, quan niệm về phát triển kinh tế hộ gia đình, các chỉ tiêu
đo lường và các nhân tố ảnh hưởng. Ngoài ra, tác giả cũng đã đánh giá thực
trạng phát triển kinh tế hộ gia đình tại tỉnh Thái Nguyên trong khoảng thời
gian từ 2007 – 2011. Trên cở sở phân tích những thành tựu, hạn chế và


9
nguyên nhân trong phát triển kinh tế hộ, tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số
giải pháp phát triển kinh tế hộ trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên tới năm 2015.
- Đề tài “Các thành phần kinh tế trong lĩnh vực thương mại ở nước ta

hiện nay” Luận án Tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội của TS. Nguyễn Thị Như Hà (2004).
Luận án đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về các thành phần kinh tế ở Việt
Nam. Trong đó, tác giả đã chỉ rõ khái niệm, đặc điểm vai trò của thành phần
kinh tế hộ gia đình. Trên cơ sở đó, tác giả đã đánh giá thực trạng phát triển
các thành phần kinh tế trong lĩnh vực thương mại, trong đó có kinh tế hộ gia
đình và đề xuất những giải pháp phát triển các thành phần kinh tế nói chung.
Ngoài ra, còn nhiều nghiên cứu khác liên quan tới kinh tế hộ gia đình,
tuy nhiên, cho đến nay chưa có nhà khoa học nào nghiên cứu và trình bày một
cách có hệ thống về “Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp trên địa bàn quận
Hà Đông, thành phố Hà Nội”. Vì vậy, tác giả coi các kết quả nghiên cứu trong
các công trình đi trước là những gợi ý và chỉ dẫn quý báu cho Luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về kinh tế hộ PNN và thực
trạng phát triển kinh tế hộ PNN ở Hà Đông, từ đó đề xuất các quan điểm và
giải pháp phát triển kinh tế hộ PNN ở Hà Đông trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về kinh tế hộ PNN.
- Phân tích thực trạng nhằm chỉ ra ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân và
những mâu thuẫn cần giải quyết trong phát triển kinh tế hộ PNN ở quận Hà
Đông thời gian qua.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp phát triển kinh tế hộ PNN ở quận
Hà Đông trong thời gian tới.


10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu: Phát triển kinh tế hộ PNN.
* Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Nghiên cứu phát triển kinh tế hộ PNN.
- Về không gian: Trên địa bàn quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.
- Về thời gian: Giai đoạn 2008– 2013 và tầm nhìn tới 2020.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước Việt Nam để áp dụng vào hoàn cảnh cụ
thể tại quận Hà Đông.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp trừu tượng
hoá khoa học, phương pháp thống kê, phân tích kinh tế, phương pháp chuyên
gia… được sử dụng rộng rãi trong khoa học KTCT.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn góp phần luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về
phát triển kinh tế hộ PNN ở Hà Đông, đồng thời đưa ra quan niệm về kinh tế
hộ PNN, phát triển kinh tế hộ PNN và đặc điểm, nội dung phát triển kinh tế
hộ PNN ở Hà Đông, giải pháp tiếp tục phát triển kinh tế hộ PNN ở Hà Đông
cho phù hợp với điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa và phát triển kinh tế thị
trường.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập môn
Kinh tế chính trị.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm Mở đầu, 3 Chương (8 tiết), Kết luận, Danh mục Tài liệu
tham khảo, danh mục viết tắt và Phụ lục.


11
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ HỘ PHI NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ HỘ PHI NÔNG NGHIỆP
1.1. Lý luận chung về kinh tế hộ phi nông nghiệp

1.1.1. Khái niệm về kinh tế hộ phi nông nghiệp
* Khái niệm hộ gia đình
Trong từ điển ngôn ngữ của Mỹ (Oxford Press - 1987) thì "Hộ là tất cả
những người cùng sống chung trong một mái nhà. Nhóm người đó bao gồm
những người cùng chung huyết tộc và những người làm ăn chung".
Theo Liên hợp quốc "Hộ là những người cùng sống chung dưới một
mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ".
Các quan niệm trên cho thấy hộ được hiểu như sau:
Trước hết, hộ là một tập hợp chủ yếu và phổ biến của những thành viên
có chung huyết thống, tuy vậy cũng có cá biệt trường hợp thành viên của hộ
không phải cùng chung huyết thống (con nuôi, người tình nguyện và được sự
đồng ý của các thành viên trong hộ công nhận cùng chung hoạt động kinh tế
lâu dài...).
Hộ nhất thiết là một đơn vị kinh tế (chủ thể kinh tế), có nguồn lao động
và phân công lao động chung; có vốn và chương trình, kế hoạch sản xuất kinh
doanh chung, là đơn vị vừa sản xuất vừa tiêu dùng, có ngân quỹ chung và
được phân phối lợi ích theo thoả thuận có tính chất gia đình. Hộ không phải là
một thành phần kinh tế đồng nhất, mà hộ có thể thuộc thành phần kinh tế cá
thể, tư nhân, tập thể, Nhà nước...
Hộ không đồng nhất với gia đình mặc dầu cùng chung huyết thống bởi vì
hộ là một đơn vị kinh tế riêng, còn gia đình có thể không phải là một đơn vị kinh
tế (ví dụ gia đình nhiều thế hệ cùng chung huyết thống, cùng chung một mái nhà
nhưng nguồn sinh sống và ngân quỹ lại độc lập với nhau....


12
Như vậy, hộ gia đình có thể được định nghĩa là tập hợp nhóm người có
quan hệ theo hộ khẩu hành chính, theo quan hệ hôn nhân, theo quan hệ huyết
thống, hoặc theo những cách xác định khác mà các thành viên có tài sản
chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất

nông, lâm, ngư nghiệp hoặc một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác do
pháp luật quy định là chủ thể khi tham gia quan hệ dân sự thuộc lĩnh vực này.
* Khái niệm kinh tế hộ gia đình
"Kinh tế gia đình" và "kinh tế hộ gia đình" là hai khái niệm có tính
đồng nhất trong nhiều trường hợp, nhưng không phải khi nào cũng có thể
dùng thay thế cho nhau. Việc sử dụng hai cụm từ này cần phải theo các tình
huống cụ thể.
Gia đình và hộ là hai khái niệm khác biệt. Một hộ có thể chỉ bao gồm
một cá nhân hay nhiều thành viên có hoặc không có quan hệ huyết thống với
nhau. Hộ có thể là một gia đình hạt nhân, một gia đình mở rộng hay một đại
gia đình.
Tóm lại, một hộ có thể có nhiều gia đình hoặc không có một gia đình
nào cả, ngược lại, một gia đình có thể trải rộng thành nhiều hộ. Thông thường,
gia đình và hộ trùng lên nhau, tạo thành tên gọi "Hộ gia đình". Mỗi hộ gia
đình ở Việt Nam hiện nay đều có sổ đăng ký hộ khẩu, trong đó ghi rõ số nhân
khẩu, chủ hộ và quan hệ giữa các thành viên với chủ hộ.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 của Việt Nam xác
định kinh tế hộ gia đình là một đơn vị sản xuất cơ sở, cần thiết cho chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế, nhằm huy động mọi nguồn lực tiến hành sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Kinh tế gia đình nói chung được thực hiện quyền tự chủ và được quan
tâm, khuyến khích phát triển dưới hình thức hợp tác xã và các hình thức liên
kết khác. Ngoài các chính sách bảo hộ quyền và nghĩa vụ, Nhà nước còn có


13
các chính sách khác hướng tới việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội
ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật; phổ biến, ứng dụng công nghệ mới cho
sản xuất chế biến; cung cấp dịch vụ vật tư; hỗ trợ tìm kiếm và mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm cho kinh tế hộ gia đình và trang trại.

Kinh tế gia đình là một hình thức sản xuất có sớm, xuất hiện từ khi gia
đình được hình thành. Ngày nay hình thức sản xuất này đang chịu nhiều tác
động và cũng đang tự chuyển mình để trở thành một thành phần kinh tế của
xã hội phát triển. Vì lẽ đó, cần tìm hiểu quyền tồn tại để nhận diện vị trí và vai
trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lịch sử phát triển xã hội loài người là lịch sử của sự phát triển lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Gắn liền với các thời kỳ phát
triển là các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Hai phương thức sản xuất cơ
bản tồn tại trong sự phát triển đó là sản xuất tự cung tự cấp (sản xuất tự nhiên)
và sản xuất hàng hoá. Nền kinh tế nào cũng phải tham gia giải quyết các yếu
tố cơ bản trong quyền sản xuất: - Sản xuất cái gì? - Sản xuất bao nhiêu? - Sản
xuất như thế nào? - Phân phối sản phẩm ra sao?.
Trong hình thức kinh tế tự nhiên, sản phẩm làm ra chỉ nhằm thỏa mãn
nhu cầu thiết yếu trong nội bộ những người sản xuất; người sản xuất tự quyết
định về loại hình sản phẩm, số lượng sản phẩm. Sự trao đổi sản phẩm chỉ bó
hẹp trong phạm vi những người cùng sản xuất dưới hình thức đơn giản nhất.
Của cải vật chất có dư thừa đều phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp cho cộng
đồng, xã hội dưới các hình thức khác nhau của mỗi chế độ. Tính thị trường
của nền kinh tế tự nhiên tuy có, nhưng hết sức mờ nhạt, chủ yếu vẫn mang
tính trao đổi giản đơn. Phân công lao động xã hội trong hình thức sản xuất tự
nhiên chưa phát triển, vì thế cũng chưa xuất hiện tình trạng cạnh tranh.
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, sản phẩm được sản xuất ra không
chỉ để đáp ứng nhu cầu cho người sản xuất, mà còn để trao đổi nhằm thỏa


14
mãn nhu cầu không ngừng gia tăng của người tiêu dùng, của xã hội. Sự trao
đổi sản phẩm dần dần được tách ra, độc lập với quá trình sản xuất và được
thực hiện thông qua thị trường. Vì lẽ đó, việc sản xuất cái gì? Sản xuất
phục vụ ai? Sản xuất bao nhiêu và như thế nào? đều do cơ chế thị trường

quyết định với sự can thiệp của các qui luật cạnh tranh, qui luật giá trị và
giá cả thị trường.
Mặc dù không phải là một thành phần kinh tế nhưng kinh tế hộ gia đình
là một loại hình để phân biệt với các hình thức tổ chức kinh tế khác. Một
trong các thành viên của kinh tế hộ gia đình đồng thời là chủ hộ. Trong hoạt
động kinh tế, gia đình có thể tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản xuất
và tái sản xuất. Chủ hộ điều hành toàn bộ mọi quá trình sản xuất kinh doanh
và chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động của mình. Ở nước ta, kinh tế hộ
gia đình phát triển chủ yếu ở nông thôn, thường gọi là kinh tế hộ gia đình
nông dân, ở thành thị thì gọi là các hộ tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Hiện
nay, tại một số địa phương đã hình thành các trang trại gia đình có quy mô sản
xuất và kinh doanh tương đối lớn. Xu hướng này đang có chiều hướng phát
triển và mở rộng ra trên phạm vi toàn quốc.
Về mặt pháp lý, kinh tế hộ được thể hiện dưới hình thức hộ cá thể (hay hộ
kinh doanh cá thể). Cơ sở pháp lý của loại hình hộ cá thể được thiết lập chính
thức ở Nghị định 27-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ngày 09/3/1998. Tên gọi
“Hộ kinh doanh cá thể” được ghi nhận tại Nghị định số 02/2000/NĐ-CP ngày
03/12/2000 và Nghị định số 109/2004/NĐ-CP ngày 02/4/2004 của Chính phủ.
Hiện nay, theo Nghị định số 36/2006/NĐ-CP ngày 29/08/2006 và Nghị định số
43/2010/NĐ-CP ngày 15/04/2010 của Chính phủ, hộ kinh doanh được định
nghĩa như sau: Hộ kinh doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một
nhóm người hoặc một hộ gia đình làm chủ, chỉ được đăng ký kinh doanh tại một


15
địa điểm, sử dụng không quá mười lao động, không có con dấu và chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với hoạt động kinh doanh.
Kinh tế hộ gia đình là hình thức tổ chức kinh tế với số lượng lao động
thuê mướn không quá 10 người. Như vậy, kinh tế hộ gia đình là hình thức tổ
chức kinh tế với quy mô tương đối nhỏ.

Từ những phân tích ở trên, ta có thể hiểu kinh tế hộ gia đình là một
hình thức tổ chức kinh tế, trong đó các thành viên trong hộ, với số lượng
không quá mười người, tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản xuất và
tái sản xuất và chủ hộ phải chịu trách nhiệm vô hạn về hoạt động của hộ
gia đình.
* Khái niệm hộ phi nông nghiệp:
Hộ PNN là tập hợp nhóm người có quan hệ theo hộ khẩu hành chính,
theo quan hệ hôn nhân, theo quan hệ huyết thống, hoặc theo những cách xác
định khác mà các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để
hoạt động kinh tế chung ngoài lĩnh vực nông nghiệp.
Thành phần chủ yếu của hộ PNN bao gồm: Hộ cá thể, tiểu chủ hoạt
động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực PNN.
* Khái niệm kinh tế hộ phi nông nghiệp:
Các cá nhân và nhóm kinh doanh trong các lĩnh vực như vận tải, xây
dựng, thương mại dịch vụ và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, kinh
doanh… trên thực tế là các hoạt động kinh tế hộ gia đình PNN.
Như vậy, có thể khẳng định kinh tế hộ PNN là loại hình kinh tế của một
hộ gia đình hay một cá nhân, những người thợ thủ công, những người buôn
bán kinh doanh dịch vụ, hoạt động trong lĩnh vực PNN dựa trên quan hệ sở
hữu tư nhân nhỏ về TLSX và lao động chủ yếu của chính hộ hay cá nhân đó.
Từ sự phân tích trên, kinh tế hộ PNN có thể được hiểu là một đơn vị
kinh tế tự chủ mà thành phần là các thành viên trong hộ với số lượng không


16
quá mười người, là chủ thể trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc
các lĩnh vực PNN và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình.
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế hộ phi nông nghiệp
Một là, Kinh tế hộ phi nông nghiệp là loại hình tổ chức sản xuất kinh

doanh mang đậm tính chất của một hộ gia đình.
Trong gia đình, các thành viên gắn bó với nhau bởi quan hệ ruột thịt, vợ
chồng con cái, ông bà, anh em đã gắn kết họ thành một khối thống nhất, có
trách nhiệm cao đối với tài sản, vốn liếng và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hộ PNN thực sự là một khối thống nhất không thể tách rời giữa quyền sử
dụng đất đai, quyền tham gia lao động và quyền phân phối sản phẩm của các
thành viên trong hộ. Các thành viên đều có chung một mục đích và có sự
thống nhất rất cao về lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội. Mỗi người trong hộ đều
lao động theo khả năng và trách nhiệm gắn với vai trò của họ trong gia đình.
Do đó, mô hình kinh tế hộ cho phép hạn chế đến mức tối đa các mâu thuẫn về
lợi ích kinh tế.
Trong hộ, mọi người hiểu rõ năng lực, sở trường của từng thành viên
nên việc bố trí, sắp xếp công việc tương đối phù hợp, hiệu quả. Quan hệ quản
lý ở đây là trực tuyến nên thông tin nhanh chóng. Chính vì vậy, hộ PNN là
loại hình có sự nhất trí cao trong khâu tổ chức quản lý sản xuất.
Mô hình kinh tế hộ, bên cạnh những lợi thế cũng có những hạn chế
nhất định: Do dựa trên mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nên không tránh
khỏi xu hướng biệt lập, khép kín, mang nặng tính tự cung tự cấp. Do đó, họ
gặp rất nhiều khó khăn trong việc nắm bắt thông tin thị trường, hạn chế khả
năng tiếp thị, quảng bá cho sản phẩm dẫn tới khó khăn trong việc tiêu thụ sản
phẩm cũng như trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.


17
Hai là, Sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ PNN chủ yếu là quy mô nhỏ,
công nghệ lạc hậu, trình độ lao động thấp, dễ bị phân hoá trong nền KTTT.
Quy mô sản xuất kinh doanh của hộ PNN là quy mô nhỏ (cả về mặt
bằng kinh doanh, quy mô vốn, lao động).
Do quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ nên đòi hỏi vốn đầu tư ít, sử dụng
không nhiều lao động, nên hộ PNN có thể chủ động thay đổi hoạt động sản

xuất kinh doanh, dễ dàng đối phó với những biến động thị trường. Song, cũng
do quy mô nhỏ, vốn đầu tư ít nên hộ PNN không có điều kiện để trang bị
những máy móc hiện đại, dẫn tới công nghệ lạc hậu, nhất là trong các ngành
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
Do bản chất của kinh tế hộ PNN dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về TLSX,
hình thức tổ chức của kinh tế hộ PNN là hộ tự chủ nên trình độ lao động của
bộ phận kinh tế này rất thấp. Các chủ hộ sản xuất kinh doanh phần lớn trong
số họ có trình độ văn hoá, trình độ kỹ thuật sản xuất thấp. Không ít người
trong số họ có tư tưởng cố hữu, bảo thủ, trì trệ. Những đặc tính này đã gây trở
ngại cho việc áp dụng khoa học kỹ thuật và cách thức làm ăn mới vào sản
xuất kinh doanh.
Có thể nói, kinh tế hộ PNN là loại hình mang nặng tính chất sản xuất
nhỏ, kinh doanh manh mún, tự cung tự cấp, do đó dễ bị phân hoá trong nền
KTTT. Đây là đặc điểm cơ bản nhất của kinh tế hộ ở nước ta nói chung.
Chính đặc điểm này quy định xu hướng phát triển của bộ phận kinh tế này
trong tương lai.
Ba là, Hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ PNN vừa nhằm đảm
bảo thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của các thành viên trong hộ vừa nhằm
mục tiêu thu lợi nhuận.
Hộ PNN là một đơn vị sản xuất và tiêu dùng (tiêu dùng của hộ xét cả
khía cạnh tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho các cá nhân), nó ảnh hưỏng


18
trực tiếp đến sản xuất kinh doanh của hộ. Nó là đơn vị sản xuất tự thực hiện
quá trình tái sản xuất dựa trên cơ sở phân bố các nguồn lực (lao động, đất đai,
vốn, kỹ thuật, nguồn thu nhập) vào các ngành sản xuất để thực hiện tất cả các
chức năng của nó nhằm mục đích đảm bảo tiêu dùng cá nhân và thu lợi
nhuận. Do có sự kết hợp cả hai mục đích: Tiêu dùng và lợi nhuận, nên nguyên
tắc kinh doanh theo đuổi mục tiêu lợi nhuận luôn được kết hợp chặt chẽ với

các giá trị gia đình.
Trong điều kiện sản xuất kinh doanh không thuận lợi, do sức ép của
nhu cầu trong gia đình, các hộ sản xuất kinh doanh PNN vẫn tiếp tục hoạt
động sản xuất kinh doanh (cho dù không có lợi nhuận hoặc ít lợi nhuận) để
duy trì việc làm cho các thành viên trong gia đình. Chính điều này đã ảnh
hưởng không nhỏ đến việc đổi mới công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, vì nếu mua máy móc để sử dụng thay lao động thủ công, thì số lao
động trong gia đình sẽ thất nghiệp.
Chính vì vậy, kinh tế hộ PNN là loại hình kinh tế có ý nghĩa chiến lược
tình thế, tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Bốn là, Kinh tế hộ PNN là loại hình hoạt động sản xuất đa ngành, trên
nhiều lĩnh vực khác nhau trong hầu hết các khâu của quá trình sản xuất - xã
hội hoạt động ở khắp các địa bàn từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi
đến miền núi.
Hơn nữa kinh tế hộ PNN với cơ cấu đa ngành nghề hoạt động khắp các
địa bàn nên nó có khả năng to lớn trong việc huy động, khai thác và sử dụng
tối đa các tiềm năng sẵn có như: Vốn, lao động, tay nghề, bí quyết nghề, đất
đai… tận dụng thời gian và không gian để phát triển sản xuất kinh doanh.
Chính vì vậy, nó là bộ phận kinh tế tạo nhiều việc làm cho lao động, tăng thu
nhập, góp phần xoá đói giảm nghèo, thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội
của đất nước.


19
Tuy nhiên, do trình độ, năng lực của các hộ PNN còn hạn chế nên các
hộ gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển sản xuất hàng hóa, tìm kiếm
thị trường tiêu thụ, áp dụng thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất.
Tóm lại, kinh tế hộ PNN ở nước ta dù hoạt động ở lĩnh vực nào, địa bàn
và môi trường nào cũng mang đầy đủ những đặc điểm cơ bản nói trên. Tuy
nhiên, tùy từng loại hình tổ chức của kinh tế hộ PNN có thể biểu hiện ở những

mức độ khác nhau. Với những đặc điểm trên chúng ta khẳng định kinh tế hộ
PNN là loại hình sản xuất kinh doanh phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của
một nền kinh tế đang phát triển, sản xuất nhỏ còn phổ biến đang trong quá
trình chuyển đổi sang nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
1.1.3. Các hình thức tổ chức sản xuất của kinh tế hộ phi nông
nghiệp
Kinh tế hộ PNN là loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh của kinh tế cá
thể và tiểu chủ.
Trong sự phân loại các thành phần kinh tế của V.I Lênin không có tên
thành phần kinh tế cá thể, nó được Người sử dụng bằng khái niệm “kinh tế
sản xuất hàng hóa nhỏ”.
Ở nước ta khái niệm kinh tế cá thể xuất hiện vào thời kỳ cải tạo XHCN
(1958 - 1960) khi có phong trào hợp tác hóa mà thực chất là tập thể hóa đưa
các hộ sản xuất kinh doanh độc lập, riêng lẻ vào kinh tế tập thể dưới các hình
thức HTX.
Trong Chỉ thị 81/CT – TW (14/5/1958), có đoạn viết: “Đặc điểm của
thủ công nghiệp cá thể là sản xuất phân tán, vốn ít, công cụ thô sơ kỹ thuật lạc
hậu...”. Ở đây kinh tế cá thể được quy định bởi hai tiêu thức: một là trình độ
thấp; hai là sản xuất nhỏ lẻ, phân tán. Các loại hình kinh tế có thuộc tính nhỏ lẻ
phân tán đã được gộp chung lại vào một khái niệm “kinh tế cá thể”.


20
Như vậy, kinh tế cá thể là loại hình kinh tế của một hộ gia đình hay một
cá nhân những người nông dân, thợ thủ công, những người buôn bán kinh
doanh dịch vụ, hoạt động dựa trên quan hệ sở hữu tư nhân nhỏ về TLSX và
lao động chủ yếu của chính hộ hay cá nhân đó.
Kinh tế hộ PNN có thể được tổ chức dưới loại hình tổ chức sản xuất
kinh doanh của kinh tế cá thể và tiểu chủ. Với loại hình này, các cá nhân hay
hộ gia đình có thể tổ chức các hoạt động sản xuất PNN dựa trên quan hệ sở

hữu tư nhân nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động chính là của hộ gia đình hay
cá nhân đó. Đây là hình thức tổ chức hộ gia đình chủ yếu với đặc điểm là quy
mô sản xuất và vốn sản xuất nhỏ.
Kinh tế hộ PNN được tổ chức dưới hình thức xưởng sản xuất gia đình,
thợ gia đình và các hộ kinh doanh dịch vụ và thương mại.
So với hình thức kinh tế cá thể và tiểu chủ thì hình thức xưởng sản xuất
gia đình của kinh tế hộ PNN có quy mô vốn lớn hơn và hoạt động sản xuất tập
trung, sử dụng nhiều lao động, trong đó có lao động thuê ngoài. Đây là các
xưởng sản xuất chuyên sản xuất lĩnh vực PNN như xưởng sản xuất đồ gỗ, khắc
đá, thủ công, mỹ nghệ, may mặc,….
1.2. Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp: Khái niệm, nội dung, vai
trò và các nhân tố ảnh hưởng
1.2.1. Khái niệm phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp
Quan điểm về phát triển: Theo quan điểm của Patchanee Napracha và
Alexandra Stephens trong cuốn “Taking hold of rural life” thì “Phát triển là
một quá trình thay đổi. Nó đòi hỏi sự hoàn thiện trong các lĩnh vực mà các
nhân tố này ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống” [44, tr196]. Nghĩa là nó
đáp ứng nhu cầu của con người ở mức độ cao trong mọi lĩnh vực, cả về đời
sống vất chất và đời sống tinh thần, cả phát triển kinh tế và phát triển xã hội
theo hướng văn minh nhân loại.


21
Phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế
trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng lên về quy mô sản
lượng và tiến bộ mọi mặt của xã hội hình thành cơ cấu kinh tế hợp lí.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, phát triển kinh tế được định nghĩa
như sau: “Phát triển kinh tế là quá trình biến đổi nền kinh tế quốc dân bằng một
sự gia tăng sản xuất và nâng cao mức sống dân cư. Đối với các nước đang phát
triển thì phát triển kinh tế là quá trình đưa nền kinh tế chậm phát triển thoát

khỏi lạc hậu, đói nghèo thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là sự tăng
trưởng kinh tế gắn liền với sự thay đổi cơ cấu kinh tế, thể chế kinh tế, văn hóa,
pháp luật, thậm chí về kỹ năng quản lý, phong cách và tập tục...” [19, tr425]
Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp là quá trình vận động, biến đổi
cả về mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu kinh tế hộ phi nông nghiệp theo
hướng tiền bộ và hiệu quả,dưới tác động của các qui luật kinh tế thị trường
và sự định hướng, dẫn dắt của nhà nước xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở khai
thác hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái góp phần
thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Để phát triển kinh tế hộ PNN phải gắn với sự chuyển biến tiến bộ
trong đổi mới tư duy lãnh đạo và năng lực tổ chức thực tiễn của chủ thể
nhằm tạo ra môi trường tâm lý và thể chế xã hội đồng thuận cho kinh tế hộ
PNN phát triển.
Phát triển kinh tế hộ PNN là sự phát triển theo chiều hướng tiến lên cả về
mặt lượng và mặt chất trong mối quan hệ với thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ
phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước.
Phát triển kinh tế hộ PNN có thể hiểu là một quá trình lớn lên (hay tăng
tiến) về mọi mặt của kinh tế hộ PNN trong một thời kỳ nhất định. Trong đó,
bao gồm cả sự tăng thêm về số lượng, quy mô sản xuất (tăng trưởng) và sự
tiến bộ về cơ cấu kinh tế và trình độ sản xuất, kinh doanh theo hướng tiến bộ,


22
hiệu quả,... của hộ PNN nhằm góp phần hiện thực hóa mục tiêu kinh tế - xã
hội trong thời kỳ quá độ.
Phát triển kinh tế hộ PNN chịu sự tác động của hệ thống các quy luật
kinh tế khách quan, đồng thời chịu sự tác động của nhân tố chủ quan, biểu hiện
ở sự tác động có hướng đích của hệ thống cơ quan quản lý các cấp; thông qua
việc tổ chức thực hiện đường lối chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật
của Nhà nước cùng các chương trình phát triển kinh tế - xã hội cũng như phong

tục tập quán, thể hiện ý chí, quyết tâm của Đảng bộ, chính quyền các cấp và
nhân dân của từng địa phương.
Phát triển kinh tế hộ PNN trước hết là thực hiện thành công xóa đói
giảm nghèo, thoát khỏi lạc hậu, phát triển LLSX để chuẩn bị tốt các tiền đề
cho thực hiện sự nghiệp CNH,HĐH và xây dựng, hoàn thiện nền KTTT định
hướng XHCN.
Nhìn chung, các quan niệm về phát triển hộ PNN đều bao hàm sự vận
động của các bộ phận, lực lượng cấu thành kinh tế hộ PNN theo chiều hướng
tiến bộ, hiệu quả ngày càng cao; đặt phát triển kinh tế hộ PNN trong mối quan
hệ mật thiết, hữu cơ với phát triển kinh tế - xã hội nói chung.
Để phát triển kinh tế hộ PNN cần có sự tham gia của nhiều chủ thể mà
trước hết chính là Đảng Ủy và Chính quyền các cấp. Đây chính là chủ thể đề
xuất những định hướng, hoạch định phát triển kinh tế hộ PNN trên phạm vi
toàn quốc gia hoặc theo từng vùng, miền địa phương quản lý. Ngoài ra, đây
cũng là chủ thể tạo ra môi trường hoạt động cho kinh tế hộ PNN: môi trường
pháp lý, điều tiết môi trường kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng,... Tuy nhiên, để
phát triển hộ PNN thì không thể không cần tới sự cố gắng phấn đấu nâng cao
hiệu quả kinh doanh của chính bản thân môi hộ PNN.
1.2.2. Nội dung phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa


23
Một là, Phát triển kinh tế hộ phi nông nghiệp về số lượng.
Đây là sự tăng tiến đơn thuần về số lượng các hộ kinh tế PNN trong
từng giai đoạn; sự mở rộng quy mô của các hộ PNN về khả năng sử dụng vốn,
lao động, ....
Sự tăng lên về số lượng hộ PNN, quy mô sản xuất, kinh doanh của hộ
PNN có nghĩa là sự gia tăng cả về số lượng các hộ, quy mô sản xuất của các
hộ được biểu hiện qua vốn, lao động, từ đó giá trị sản lượng sản phẩm của hộ

PNN không ngừng được nâng lên.
Để đánh giá sự phát triển về lượng, ta có thể đánh giá thông qua các
tiêu chí sau:
+ Sự gia tăng về số lượng hộ PNN trên địa bàn.
+ Tốc độ gia tăng về số lượng hộ PNN trên địa bàn.
+ Sự gia tăng về số lượng lao động trong hộ PNN trên địa bàn.
+ Tốc độ gia tăng về số lượng lao động trong hộ PNN.
+ Sự gia tăng về vốn của hộ PNN trên địa bàn.
+ Tốc độ gia tăng về vốn của hộ PNN.
Hai là, Sự tiến bộ về cơ cấu hộ phi nông nghiệp
Phát triển kinh tế hộ PNN không thể không kể đến sự mở rộng, tham
gia ngày càng nhiều vào các lĩnh vực, ngành nghề và sự thay đổi về phân bố
theo từng khu vực, từng địa bàn, từng lĩnh vực... của kinh tế hộ PNN. Cơ cấu
hộ PNN dần chuyển dịch theo hướng đa dạng hóa ngành nghề kinh doanh trên
cơ sở phát huy, khai thác những lợi thế của từng địa phương.
Để đánh giá sự tiến bộ về cơ cấu hộ PNN, ta có thể đánh giá thông qua
các tiêu chí sau:
+ Cơ cấu hộ PNN theo ngành nghề kinh doanh.
+ Cơ cấu hộ PNN theo quy mô lao động
+ Cơ cấu hộ PNN theo tình trạng đăng ký kinh doanh


×