Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.29 KB, 102 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

MAI THỊ HUỆ

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO PHỤC VỤ CÔNG NGHIỆP
HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

MAI THỊ HUỆ

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO PHỤC VỤ CÔNG NGHIỆP
HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH ĐỒNG NAI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS BÙI NGỌC QUỴNH



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

Công nhân kỹ thuật

CNKT

Doanh nghiệp

DN

Đại học - Cao đẳng

ĐH – CĐ

Kinh tế - xã hội

KT – XH

Khoa học - công nghệ

KH – CN


Khu công nghiệp

KCN

Lao động phổ thông

LĐPT

Nguồn nhân lực

NNL

Nguồn nhân lực chất lượng cao

NNLCLC

Quản trị kinh doanh

QTKD

Uỷ ban nhân dân

UBND

Xã hội chủ nghĩa

XHCN

Vốn hỗ trợ phát triển chính thứ


ODA


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO PHỤC VỤ
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất
lượng cao và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2. Nội dung, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO PHỤC VỤ
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở
ĐỒNG NAI
2.1. Thành tựu và hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở Đồng Nai
2.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ
YẾU PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO PHỤC VỤ CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA Ở ĐỒNG NAI THỜI GIAN TỚI
3.1. Quan điểm cơ bản về phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Đồng Nai

3.2. Giải pháp chủ yếu phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

3

13

13

18

29

29
48

60

60
71
88
90
95


3
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử loài người đã chứng minh vai trò quyết định của nhân tố con
người đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Có
thể khẳng định rằng, không có bất cứ lĩnh vực hoạt động xã hội nào không do
con người quyết định. Ngày nay, mặc dù khoa học, công nghệ phát triển ngày
càng cao, chi phối mọi lĩnh vực nhưng cũng không thể thay thế vai trò của
nguồn lực con người. Nguồn lực con người không chỉ là chủ thể của việc khai
thác sử dụng có hiệu quả mọi yếu tố của quá trình sản xuất như máy móc thiết
bị vốn, tài nguyên, khoa học, công nghệ mà còn là nhân tố sáng tạo ra công
nghệ, thiết bị và sử dụng chúng vào quá trình phát triển kinh tế.
Cả về mặt lý luận và thực tiễn cũng cho thấy để tiến hành công nghiệp
hoá, hiện đại hoá một cách thành công cần có nhiều tiền đề cần thiết, trong đó
nguồn nhân lực là tiền đề quan trọng nhất. Vì vậy, phát triển một nguồn nhân
lực đảm bảo về số lượng và chất lượng là yếu tố quyết định trong việc thực
hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nhất là trong điều kiện
nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì điều đó càng trở
nên có ý nghĩa đặc biệt và hết sức cấp thiết.
Đồng Nai là tỉnh nằm trong khu vực miền Đông Nam Bộ, vùng đất nối
liền giữa Nam Bộ, cực nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Đồng Nai có diện tích
5.862,37km2, địa hình tương đối bằng phẳng, có quỹ đất phong phú và phì
nhiêu, có dân số đứng hàng thứ 2 của trong số các tỉnh miền Đông Nam Bộ và
đứng thứ 5 của cả nước; giữ vị trí quan trọng trong vùng phát triển kinh tế
trọng điểm phía Nam của đất nước. Nhận thức rõ điều đó, trong những năm
qua, cùng với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lãnh đạo các cấp của
tỉnh Đồng Nai đã có nhiều chủ trương, biện pháp xây dựng phát triển nguồn
nhân lực nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của quá trình


4
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhờ đó chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực của

tỉnh đã từng bước có sự vận động, phát triển theo chiều hướng tiến bộ, đáp
ứng ngày một tốt hơn nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn của tỉnh.
Tuy nhiên, đến nay mặc dù là một trong những tỉnh có mật độ dân số
đông, song nhìn chung so với địa phương khác thì chất lượng, cơ cấu, quy mô
nguồn nhân lực chưa đủ sức đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp của tỉnh. Hiện nay, quy mô, chất lượng nguồn nhân
lực chất lượng cao của tỉnh còn nhiều bất cập. Lao động đã qua đào tạo, nhất
là lao động có trình độ cao có thể ứng dụng các thành tựu khoa học - công
nghệ tiên tiến vào hiện đại hoá các hoạt động sản xuất kinh doanh và phát
triển các ngành nghề để có thể mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao, nâng
cao năng lực cạnh tranh hàng hóa của tỉnh còn ít, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý.
Do đó, việc làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, phân tích đánh giá thực
trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đề ra giải pháp phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở tỉnh Đồng Nai là vấn đề cấp thiết. Với lý do
đó, tác giả chọn vấn đề: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục
vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai” làm đề tài nghiên cứu luận
văn thạc sĩ Kinh tế Chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao là một trong những
nguồn lực quan trọng và quyết định nhất đối với sự tăng trưởng và phát triển
kinh tế bền vững của một quốc gia cũng như một tỉnh. Ở Đồng Nai và cả nước
đã có nhiều công trình, nhiều tác giả nghiên cứu ở nhiều góc độ, phạm vi
rộng, hẹp khác nhau, trong đó tiêu biểu có các công trình:
* Nhóm nghiên cứu về phát triển con người:
“Tài nguyên chất xám, tài nguyên con người, nhân tố quyết định sự
phát triển của đất nước trong giai đoạn chuyển sang thời kỳ mới - thời kỳ


5

công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, quốc phòng, an ninh trong công
cuộc đổi mới đất nước” của Lê Khả Phiêu, Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, H., 1997… Trong đó đã nhấn mạnh vai trò của giáo dục đào tạo đối
với sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo tác giả, trong mọi điều kiện của nền
kinh tế thì nguồn tài nguyên con người, tài nguyên chất xám là nhân tố
quyết định sự phát triển, đặc biệt khi nguồn lực tài chính và vật chất ở nước
ta hiện nay còn hạn hẹp.
“Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn
nước ta”của TS. Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm, H., 1998. Các tác giả đã
khái quát những kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực của các nước
trên thế giới, trong đó tập trung vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo - yếu tố
quyết định phát triển nguồn nhân lực.
“Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp hóa, hiện
đại hóa” của GS.TS. Phạm Minh Hạc, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, H.,
2001. Tác giả nghiên cứu chủ yếu về con người, những nhân tố tác động đến
sự phát triển toàn diện của con người như sức khỏe, hình thể, trí tuệ, sự
chăm sóc y tế, giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội, giáo dục và đào
tạo... từ đó đưa ra các giải pháp chiến lược nhằm phát triển nguồn nhân lực
cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
“Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở
Việt Nam” của TS. Đoàn Khải, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, H., 2005. Tác
giả chủ yếu phân tích vai trò của con người là nhân tố quan trọng chủ yếu
quyết định thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm phát triển con người toàn diện
trong đó đề cập nhiều đến thể lực, trí lực, trình độ chuyên môn, trình độ
học vấn, khả năng ứng dụng khoa học công nghệ đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.


6

“Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội
nhập quốc tế” của TS. Phạm Công Nhất, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/2008.
Tác giả đã khái quát kết quả hơn hai mươi năm đổi mới đất nước và hơn một
năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, đồng thời chỉ rõ thực trạng phát
triển NNL ở nước ta và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất
lượng NNL đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
“Đại hội XI với vấn đề phát triển nguồn nhân lực” của PGS.TS. Bùi
Thị Ngọc Lan, Học viện Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2011. Tác giả
tập trung phân tích những điểm mới trong tư duy lãnh đạo của Đảng về phát
triển NNL. Theo tinh thần Đại hội XI của Đảng, để phát triển nhanh NNL,
nhất là NNLCLC, cần phải đi vào một số giải pháp căn bản như xây dựng và
hoàn thiện hệ thống giá trị của con người Việt Nam trong thời đại mới; đổi
mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; nâng cao chất lượng chăm
sóc sức khỏe nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.
“Phát triển nguồn nhân lực ở nước ta” của GS.TS. Đường Vinh Sường,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2013. Tác giả đã phân
tích tương đối toàn diện về nguồn nhân lực ta những năm qua, từ đó nêu lên
một số quan điểm và giải pháp phát triển nguồn nhân lực Việt Nam.
“Phát triển nguồn nhân lực: cần sự gắn kết trong chiến lược quy hoạch
và chính sách” của PGS.TS. Nguyễn Cúc, Học viện Chính trị - Hành chính
khu vực I, 2012, Tạp chí Cộng sản, số 9/2013. Bài viết đã đề cập đến vấn đề
nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế và tác giả đã
có cái nhìn từ phía bất cập nguồn nhân lực nước ta, qua đó đưa ra một số nội
dung điều chỉnh cơ cấu đào tạo phù hợp với yêu cầu CNH, HĐH.
“Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Đồng Nai: Thực trạng và
giải pháp” của tác giả Cảnh Chí Hoàng, Khoa Quản trị kinh doanh, Đại học


7

Tài chính, 2012. Tác giả đã khái quát về thực trạng số lượng, chất lượng và
tình hình sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao ở Đồng Nai hiện nay. Trên
cơ sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
* Nhóm nghiên cứu liên quan đến giáo dục và đào tạo:
“Bồi dưỡng và đào tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới” của
Nguyễn Minh Đường, H., 1996. Tác giả chủ yếu nêu lên những bất cập trong
đào tạo nhân lực, cũng như thực chất của nguồn nhân lực trong đó đề cập đến
đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ lãnh đạo, những người trực tiếp tham gia lao
động đã qua đào tạo nghề... song chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội trong điều kiện mới; từ đó tác giả đưa ra những giải pháp đào tạo
lại cho đội ngũ này để đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới.
“Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo kinh nghiệm
Đông Á” của Lê Thị Ái Lâm, H., 1998. Tác giả đề cập kinh nghiệm phát triển
nguồn nhân lực của một số nước Đông Á như:
Trung Quốc bước vào kỷ nguyên lịch sử mới của cải cách và mở cửa
với thế giới bên ngoài vào năm 1978, giáo dục nghề nghiệp rất được coi
trọng để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc
tế và hiện đại hoá đất nước.
Nhật Bản đã đề ra mục tiêu: đào tạo những thế hệ mới có tính năng
động, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn sâu, có khả năng suy nghĩ và làm việc
độc lập, khả năng giao tiếp quốc tế để đáp ứng những đòi hỏi của thế giới, với
sự tiến bộ không ngừng của khoa học và xu thế cạnh tranh - hợp tác toàn cầu.
Bí quyết của Hàn Quốc là dựa vào phát triển nguồn nhân lực trong
một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên để phát triển kinh tế. Giáo dục là
nhân tố chủ yếu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chính sách về
giáo dục luôn được xây dựng phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế.


8

“Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” của Mai Quốc Chánh, H., 1999. Tác giả tập trung
nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nguồn nhân lực, vai trò của nguồn
nhân lực đồng thời nêu lên một số kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực
của một số nước trên thế giới và thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ở nước ta,
từ đó tác giả rút ra một số định hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
“Đổi mới giáo dục - đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực” của
GS.TS. Hoàng Ngọc Hà, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2007. Tác
giả chủ yếu bàn về đổi mới công tác giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, đi
sâu phân tích thực trạng giáo dục đào tạo nghề, tác giả đã nêu lên những vấn đề
còn yếu kém về chất lượng đào tạo nghề như: còn dàn trải, thiếu tập trung,
thiếu đồng bộ, chưa sát với đòi hỏi thực tiễn nhu cầu nhân lực của xã hội. Đồng
thời tác giả đã đề cập đến những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
“Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thanh, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
H., 2005. Tác giả đã đề cập nhiều lĩnh vực về việc phát triển nguồn nhân lực
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay như đặc điểm,
yêu cầu, vai trò của phát triển nguồn nhân lực, những nhân tố ảnh hưởng đến
phát triển nguồn nhân lực, thực trạng giáo dục và đào tạo, trình độ chuyên môn
kỹ thuật, đồng thời tác giả cũng đưa ra hệ thống giải pháp nhằm phát triển nguồn
nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay.
“Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng” của Trần Văn
Tùng, 2006. Tác giả chủ yếu bàn về thực trạng chất lượng đào tạo cũng như bồi
dưỡng NNL tài năng của đất nước cũng như những bất cập trong quá trình sử
dụng nguồn nhân lực tài năng, tác giả đề cập một số giải pháp thiết thực nhằm đào
tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng của đất nước có hiệu quả.



9
“Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa"
của PGS.TS. Nguyễn Tiệp, 2007. Tác giả nêu lên đặc điểm khi chúng ta mở cửa
tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, cũng như đòi hỏi phải phát triển nguồn nhân
lực sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO, trên cơ sở đó tác giả đưa ra một
số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực cho Việt Nam trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế và là thành viên chính thức của WTO.
“Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho hội nhập kinh tế - vấn
đề cấp bách sau khủng hoảng” của GS.TS. Hoàng Văn Châu, Tạp chí Kinh tế
đối ngoại, số 38/2009. Tác giả phân tích thị trường lao động chất lượng cao ở
Việt Nam; khủng hoảng tài chính và thị trường nguồn nhân lực chất lượng cao
ở Việt Nam, tác giả chỉ rõ trong lúc tình trạng cung cầu NNLCLC ở Việt Nam
đang bị mất dần cân đối thì nền kinh tế phải chịu tác động nặng nề của cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu từ năm 2008. Một trong những tác
động dễ nhận thấy nhất của cuộc khủng hoảng đó là tình trạng mất việc làm
gia tăng do sản xuất bị đình trệ, xuất khẩu giảm sút… Trên cơ sở đó tác giả
đưa ra những giải pháp cho các trường đại học để phát triển NNLCLC, khả
năng đào tạo NNLCLC trong các lĩnh vực kinh tế, kinh doanh, tài chính ngân hàng và ngoại ngữ phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam.
“Đào tạo nguồn nhân lực Việt Nam - những thách thức nhìn từ một
số thước đo mới về phát triển con người và năng lực cạnh tranh” của TS.
Trương Thị Thuý Hằng, Học viện Quản lý Giáo dục, 2012. Tác giả đưa ra
thực trạng giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam thời gian qua, đề
cập một số thách thức đặt ra cho giáo dục đồng thời đưa ra một số nhân xét,
khuyến nghị đối với giáo dục và đạo tạo nguồn nhân lực ở Việt Nam.
“Đổi mới và phát triển dạy nghề đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự
nghiệp CNH,HĐH theo hướng hiện đại”, Nguyễn Tiến Dũng, Tổng Cục


10

trưởng Tổng cục Dạy nghề, Tạp chí Cộng sản, số 64/2012. Tác giả nêu thực
trạng dạy nghề thời gian qua, qua đó định hướng đổi mới và phát triển hoạt
động dạy nghề nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề chất
lượng cao cho nền kinh tế giai đoạn 2011 - 2020.
Nhìn chung, các công trình trên chủ yếu nghiên cứu nguồn lực lao
động, một số tác giả bàn đến hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực hoặc bàn
riêng về thực trạng đào tạo nguồn nhân lực, nguồn nhân lực chất lượng cao;
Yêu cầu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta trong
tình hình hiện nay.
Các công trình trên đã đề cập tới nhiều khía cạnh khác nhau về phát
triển nhân lực chất lượng cao. Trong quá trình nghiên cứu luận văn sẽ tiếp thu
thành quả khoa học của các công trình đi trước nhằm luận giải những vấn đề
thực tế đang đặt ra cho phát triển nhân lực chất lượng cao ở tỉnh Đồng Nai.
Tuy nhiên cho đến nay, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ CNH, HĐH ở Đồng Nai.
Vì vậy, việc lựa chọn đề tài: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai” làm luận văn tốt
nghiệp, tác giả muốn tiếp cận một lĩnh vực cụ thể chưa được nhiều người
đề cập một cách hoàn chỉnh và thấu đáo.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải những vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt
Nam nói chung, tỉnh Đồng Nai nói riêng. Trên cơ sở đó đề xuất một số quan
điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai đến năm
2020 và tầm nhìn đến 2030.



11
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ khái niệm, nội dung, phương thức phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai thời gian qua.
- Đề xuất một số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu góp phần
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
* Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai.
- Các số liệu điều tra, khảo sát nguồn nhân lực chất lượng cao được
thực hiện chủ yếu từ năm 2006 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên trên cơ sở lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm chính sách của
Đảng, Nhà nước và của tỉnh Đồng Nai về nguồn nhân lực chất lượng cao.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị: trừu
tượng hóa, kết hợp lôgíc với lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, thống
kê… và phương pháp chuyên gia cùng một số phương pháp khác trong
nghiên cứu kinh tế chính trị để thực hiện đề tài.



12
6. Ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát
triển nguồn nhân lực nói chung, nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Đồng Nai nói riêng.
- Góp phần cung cấp thêm những luận cứ khoa học cho Đảng bộ, chính
quyền tỉnh Đồng Nai trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hoá cũng như phát triển kinh tế xã hội của Đồng Nai trong những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.


13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO PHỤC VỤ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực, nguồn nhân lực
chất lượng cao và phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực, nguồn nhân
lực chất lượng cao
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát
triển linh tế như tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con
người… Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất,
có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi
quốc gia. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ
thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng
khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển
như mong muốn.

Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày nay trong
công cuộc hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào,
con người Việt Nam có truyền thông yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng
văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là
nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh.
* Nhân lực: là sức lực con người nằm trong mỗi con người và làm cho
con người hoạt động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển
của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó con người đủ điều kiện tham
gia vào quá trình lao động - con người có sức lao động. Nhân lực là nguồn lực


14
to lớn của mỗi quốc gia, là yếu tố vật chất quan trọng và quyết định nhất của
lực lượng sản xuất và do đó nó là động lực thúc đẩy sự phát triển.
* Nguồn nhân lực: Cho đến nay, có nhiều quan điểm khác nhau về
NNL. Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): “Nguồn nhân lực của một quốc
gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động. Nguồn
nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn
cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự
phát triển” [50, tr.4]. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát
triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã
hội, là một nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân
cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, là tổng thể các
yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Theo cách tiếp cận của kinh tế phát triển: Nguồn nhân lực là một bộ
phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn
nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng, đó là tổng số những người
trong độ tuổi lao động làm việc theo quy định của Nhà nước và thời gian lao
động có thể huy động được từ họ; về chất lượng đó là sức khỏe, trình độ

chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động.
Theo Giáo sư - Viện sĩ Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực cần được
hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức
khỏe và trí tuệ, năng lực, phẩm chất và đạo đức của người lao động. Nó là
tổng thể nguồn nhân lực hiện có thực tế và tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng
để tham gia phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia hay một địa phương
nào đó…”[21, tr.213]. Như vậy, quan niệm về nguồn nhân lực của các nhà
khoa học, các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước tuy tiếp cận ở những
góc độ khác nhau, nhưng đều có sự thống nhất ở nội dung căn bản: Nguồn
nhân lực là lực lượng dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng hoạt động
trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.


15
Dưới góc độ Kinh tế Chính trị có thể hiểu: Nguồn nhân lực là tổng thể
về thể lực, trí lực, tâm lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của
một quốc gia, trong đó có sự kết tinh truyền thống và kinh
nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc đang được sử
dụng, hoặc sẽ sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất và
tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất
nước.
* Nguồn nhân lực chất lượng cao
Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực chất lượng
cao. Theo tác giả Trần Mai Ước thì: “Nguồn nhân lực chất lượng cao được
hiểu là bộ phận lao động xã hội có trình độ học vấn và chuyên môn kĩ thuật
cao; có kỹ năng lao động giỏi và có khả năng thích ứng nhanh với những thay
đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất; có sức khỏe và phẩm chất tốt, có
khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức, những kỹ năng đã được đào tạo
vào quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu
quả cao” [47, tr.4].

Theo quan niệm của PGS.TS. Bùi Thị Ngọc Lan cho rằng: “Nguồn
nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ lực lượng lao động cụ thể có trình
độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo
tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (trên đại học,
đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề); có kỹ năng lao động giỏi và
có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ
sản xuất; có sức khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo những
tri thức, những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm
đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao” [27, tr.6].


16
Theo quan niệm của tác giả, NNLCLC là những con người phát triển cả
về trí lực, thể lực và tâm lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị xã hội, có tính kỷ luật và ý thức cao trong từng công việc mà họ đảm nhiệm..
Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một
người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng
với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn,
kỹ thuật nhất định (đại học, trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành
nghề). Giữa chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Nói đến chất lượng nguồn nhân lực là muốn nói đến tổng thể nguồn nhân lực
của một quốc gia, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận cấu
thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh tuý nhất, có chất lượng nhất. Bởi vậy,
khi bàn về nguồn nhân lực chất lượng cao không thể không đặt nó trong tổng
thể vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một đất nước.
1.1.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau nên vẫn có
nhiều cách hiểu khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực. Theo quan
niệm của Liên Hợp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào

tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Có quan điểm cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị
cho con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như
kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những
năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và
ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Một số tác giả khác lại quan niệm: Phát triển NNLCLC là quá trình
nâng cao năng lực của con người về mọi mặt: thể lực, trí lực, tâm lực, đồng


17
thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực
thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm để phát triển
kinh tế - xã hội.
Từ những luận điểm trình bày trên, dưới góc độ kinh tế chính trị có thể
quan niệm: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở tỉnh Đồng Nai là quá trình tạo ra sự biến đổi theo chiều hướng
tăng lên một cách đồng bộ, toàn diện và căn bản cả về số lượng, chất lượng và
cơ cấu của bộ phận nguồn nhân lực chất lượng cao theo những yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh trong từng giai đoạn.
Nội hàm của khái niệm chỉ rõ ba vấn đề sau:
* Chủ thể của sự phát triển NNLCLC phục vụ CNH, HĐH ở tỉnh Đồng
Nai: là Đảng bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, các ban ngành, đoàn thể và của mỗi
người dân. Trong đó, Đảng bộ tỉnh là người đề ra phương hướng chủ trương
lãnh đạo, UBND và các ban ngành của tỉnh là lực lượng tổ chức thực hiện.
* Mục tiêu phát triển NNLCLC: là nhằm đáp ứng nhu cầu của sự
nghiệp CNH, HÐH và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới của Việt
Nam nói chung và tỉnh Đồng Nai nói riêng là làm cho số lượng, chất lượng
ngày càng tăng lên với một cơ cấu cả về trình độ, nghề nghiệp, độ tuổi, giới

tính của nguồn nhân lực có chất lượng cao đáp ứng được với yêu cầu của tiến
trình CNH, HĐH của tỉnh.
* Đối tượng phát triển:
Con người vừa là đối tượng vừa là chủ thể của quá trình phát triển
NNLCLC phục vụ quá trình CNH, HĐH, là lực lượng trực tiếp tham gia quá
trình lao động sản xuất. Lực lượng quyết định đến kết quả của quá trình phát
triển NNLCLC; tham gia học tập, đào tạo, tiếp nhận tri thức; rèn luyện cả thể
lực, trí lực và tâm lực phục vụ quá trình lao động; trực tiếp đáp ứng nhu cầu
CNH, HĐH.
* Phương thức phát triển:


18
Phương thức phát triển NNLCLC là tổng hợp các cách thức, phương
pháp nhằm tạo dựng, phân bổ, sử dụng và phát triển nguồn nhân lực thông
qua việc học tập có tổ chức, phân bổ đúng kế hoạch, sử dụng đúng chuyên
môn. Phát triển thông qua đào tạo và phân bổ trực tiếp; thông qua thị trường
lao động cả tập trung và không tập trung…
Để phát triển NNL nói chung, NNLCLC nói riêng ở tỉnh Đồng Nai hiện
nay cần sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó đặc biệt cần tập trung vào
một số biện pháp chủ yếu như: xây dựng chương trình, kế hoạch trung hạn và
dài hạn về phát triển NNL chất lượng cao, đổi mới nội dung, chương trình,
mô hình đào tạo, mục tiêu đào tạo trong các nhà trường theo hướng chuẩn
hóa, hiện đại hóa; đổi mới cơ chế, chính sách trong đào tạo tuyển dụng, sử
dụng và đãi ngộ đối với đội ngũ nhân lực có trình độ cao; nâng cao chất lượng
dân cư; tăng cường liên kết, hơp tác quốc tế và xã hội hóa công tác giáo dục
đào tạo, chăm sức sức khỏe cộng đồng…
1.2. Nội dung, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.1. Nội dung của phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục

vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những nhân tố quan trọng
hàng đầu đối với phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước. Nói đến nguồn
nhân lực, người ta thường quan tâm đồng thời đến cả hai yếu tố chất lượng và
số lượng, trong đó đặc biệt quan tâm đến chất lượng nguồn nhân lực.
* Phát triển số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao:
Số lượng NNL chất lượng cao là toàn bộ lực lượng lao động có trình độ
chuyên môn, phẩm chất chính trị, năng lực công tác có đủ những tiêu chí
thuộc nhóm có chất lượng cao trong tỉnh đáp ứng yêu cầu của công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Số lượng NNL chất lượng cao được biểu hiện thông qua


19
các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng NNL. Số lượng NNL đóng vai trò quan
trọng đến kết quả, tiến trình của CNH, HĐH. Nếu số lượng NNL chất lượng
cao mà quá ít so với nhu cầu CNH, HĐH, không đảm bảo sự cân đối với công
cụ lao động hiện đại, tiên tiến sẽ dẫn đến tình trạng làm chậm tiến trình hiện
đại hóa hoặc thậm chí cản trở việc hiện đại hóa. Nước ta có mật độ dân số
tương đối cao so với khu vực và trên thế giới, nhưng chất lượng NNL, đặc
biệt nhóm nhân lực có chất lượng cao còn hạn chế. Vì vậy, phát triển NNL
chất lượng cao phục vụ CNH, HĐH về số lượng ở tỉnh Đồng Nai hiện nay
chính là bên cạnh việc duy trì số lượng dân số hợp lý thì cần phải chú trọng
các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dân số, tạo tiền đề cho việc gia tăng
nhân lực có chất lượng cao phục vụ nhu cầu của CNH, HĐH như: Kế hoạch
hoá gia đình; phân bố lại NNL và dân cư giữa các vùng cho hợp lý; nâng cao
chất lượng cuộc sống và điều kiện chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em;
nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, đặc biệt cần chú trọng xây dựng các mô
hình tuyển chọn, bồi dưỡng và đào tạo nhân tài.
* Phát triển về chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao:
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: Con người nếu chỉ có phẩm chất đạo

đức tốt, bản lĩnh chính trị vững vàng mà thiếu tri thức, kiến thức khoa học,
tức là có đức mà không có tài, thì cũng chẳng khác gì ông Bụt ngồi trên tòa
sen, không làm điều gì xấu nhưng cũng chẳng làm được việc gì có ích cho
đời. Tri thức, trí tuệ thực sự là yếu tố thiết yếu của mỗi con người, bởi vì tất
cả những gì thúc đẩy con người hành động đều phải thông qua trí tuệ của họ.
Sự yếu kém về trí tuệ sẽ là lực cản dẫn đến sự thất bại trong hoạt động của
con người.
Nguồn nhân lực chất lượng cao chính là một bộ phận có các phẩm chất
cao hơn bộ phận còn lại của NNL về các yếu tố: trạng thái thể lực (tình trạng
sức khỏe); trí lực (trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng nghề


20
nghiệp); phẩm chất tâm lý xã hội (đạo đức nghề nghiệp, lối sống, kỹ năng giao
tiếp, ý thức kỷ luật, tác phong lao động…) của người lao động. Trong đó, trình
độ học vấn, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, là quan trọng nhất, vì nó
không chỉ là cơ sở để nâng cao kỹ năng nghề nghiệp của người lao động, mà còn
là yếu tố hoàn thiện nhân cách, lối sống trong mỗi con người.
Phát triển về mặt chất lượng của NNLCLC phải bằng tổng hợp các giải
pháp cùng với sự vào cuộc của tất cả các cấp, các ngành, cả hệ thống chính
trị, trong đó tập trung vào công tác giáo dục và đào tạo nghề, phát triển thể
lực, nâng cao chất lượng hoạt động y tế... Trang bị cho họ (nguồn nhân lực)
có trình độ học vấn và chuyên môn kĩ thuật cao, có khả năng thích ứng nhanh
chóng sự tiến bộ của KH - CN, có khả năng sáng tạo, có sức khoẻ và phẩm
chất đạo đức tốt, khát khao được làm việc, được cống hiến, có khả năng vận
dụng sáng tạo những tri thức, những kĩ năng đã được đào tạo vào quá trình lao
động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao,
đáp ứng được yêu cầu phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2020
và những năm tiếp theo của đất nước nói chung và Đồng Nai nói riêng.
* Hoàn thiện về cơ cấu NNL chất lượng cao:

Trong mỗi giai đoạn CNH, HĐH đều có yêu cầu cơ cấu NNL phù hợp.
Cơ cấu NNL nói chung và NNL chất lượng cao nói riêng ở nước ta hiện nay
được xét theo các mặt chủ yếu như cơ cấu theo trình độ; cơ cấu theo ngành
nghề; cơ cấu theo vùng. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong CNH,
HĐH đòi hỏi phải có NNL có chất lượng cao ngày càng đông đảo và phải
được phân bố hợp lý trong tất cả các ngành, lĩnh vực và vùng.
Về cơ cấu trình độ của NNL chất lượng cao: được thể hiện ở tỷ lệ NNL
đã được đào tạo ở trình độ đại học trở nên so với cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp, công nhân kỹ thuật ngày càng tăng lên phù hợp nhu cầu nhân lực
trong từng giai đoạn của quá trình CNH, HĐH.


21
Nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ tạo thuận lợi để tiếp thu tri thức khoa
học và công nghệ, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến của
các nước phát triển qua đó nhanh chóng tăng cường năng lực khoa học và
công nghệ của đất nước, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Những
thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, sẽ tạo điều kiện cho
nước ta nói chung có thể đi thẳng vào những công nghệ tiên tiến để rút ngắn
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giảm bớt khoảng cách phát triển kinh
tế so với các nước đi trước.
Về cơ cấu ngành nghề của nguồn nhân lực chất lượng cao:
CNH, HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nhằm chuyển
nền kinh tế - xã hội từ sản xuất dựa trên lao động thủ công là chính sang sản
xuất dựa trên máy móc, công nghệ ngày càng hiện đại. Đi liền với quá trình
đó là sự chuyên môn hóa lao động làm cho các ngành nghề ngày càng phát
triển đa dạng, phong phú phù hợp với thế mạnh của từng vùng, địa phương.
Vì vậy, sự phát triển NNL chất lượng cao phục vụ CNH, HĐH của tỉnh phải
bám sát yêu cầu về sự chuyên môn hóa và phân công lao động trong từng khu
vực, sự đa dạng hóa ngành nghề tại các vùng của tỉnh. Theo đó, cùng với

bước đi của quá trình CNH, HĐH tỉnh Đồng Nai cần có chiến lược phát triển
hệ thống các trung tâm đào tạo nghề, mở mang đào tạo các ngành nghề mới;
tăng cường NNL chất lượng cao trong các ngành dịch vụ, công nghiệp chế
biến, công nghiệp nhẹ và xây dựng phù hợp với thế mạnh sản xuất của từng
huyện, thị; đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ cho lực lượng lao động
trong các ngành của tỉnh.
Về cơ cấu vùng: là sự phân bố NNL chất lượng cao đối với các vùng
miền. Gắn liền với sự phân bố dân số trên các vùng miền cần chú trọng phân
bố NNL nói chung và NNL chất lượng cao nói riêng, giúp cho sự cân bằng
nguồn lực lao động giữa các địa phương trong tỉnh, khắc phục tình trạng NNL


22
chất lượng cao thường tập trung ở các khu vực thành phố, thị xã nơi có đời
sống vật chất, tinh thần tốt hơn.
1.2.2. Vai trò của phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chất lượng nguồn nhân lực có vai trò rất lớn đối với sự phát triển kinh
tế của mỗi quốc gia. Các mô hình phát triển kinh tế trên thế giới đều khẳng
định điều này khi cho rằng sự phát triển bền vững đòi hỏi phải tích lũy vốn,
phát triển kỹ thuật và công nghệ. Đây là những nhân tố gắn liền và phụ thuộc
vào chất lượng nguồn nhân lực, khi chất lượng lao động thấp hay vốn nhân
lực ít thì việc tạo ra và thực hiện tích lũy vốn và phát triển kỹ thuật công nghệ
khó mà thực hiện được. Các bằng chứng cả vi mô và vĩ mô đều cho thấy tầm
quan trọng của chất lượng của nhân tố này với sự phát triển kinh tế.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi nhiều nhân tố
quan trọng như vốn, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, song yếu tố
quan trọng hàng đầu và quyết định nhất là con người. Nếu so sánh các nguồn
lực với nhau thì nguồn nhân lực có ưu thế hơn cả. Do vậy, hơn bất cứ nguồn
lực nào khác, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao luôn

chiếm vị trí trung tâm và đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước, nhất là trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình
CNH, HĐH thể hiện ở những mặt sau:
Một là, nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng nòng cốt trong tiếp
thu và phát triển khoa học công nghệ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa; là điều kiện để rút ngắn khoảng cách tụt hậu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nhằm phát triển bền vững.
Khi bàn về mối quan hệ giữa nguồn lao động với phát triển kinh tế, các
nhà khoa học trên thế giới đều cho rằng, nguồn lao động luôn luôn đóng vai
trò quyết định đối với mọi hoạt động kinh tế. Theo nhà kinh tế người Anh,


23
William Petty, lao động là cha, đất đai là mẹ của mọi của cải. C. Mác cũng
cho rằng con người là yếu tố số một của lực lượng sản xuất của nhân loại.
Nhà tương lai học người Mỹ Avill Toffer nhấn mạnh vai trò của lao động tri
thức: “Tiền bạc tiêu mãi cũng hết, quyền lực rồi sẽ mất; chỉ có trí tuệ của con
người thì khi sử dụng không những không mất đi mà còn lớn lên”. Trong
truyền thống Việt Nam xác định “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”.
Ngày nay dưới tác động của toàn cầu hóa, sự thâm nhập lẫn nhau về
kinh tế giữa các quốc gia đã tạo ra nhiều mối quan hệ mới, vừa tạo thời cơ và
thách thức đối với các quốc gia trong việc tiếp cận các thành tựu khoa học
công nghệ mới. Và thực tế đã cho thấy ưu thế trong việc chiếm lĩnh các thành
tựu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại thường thuộc về các nước có chất
lượng NNL cao, đặc biệt là những nước có NNL chất lượng cao chiếm tỷ
trọng lớn. Vì vậy, nguồn nhân lực có chất lượng cao về trí tuệ và tay nghề trở
thành một điều kiện tất yếu quyết định đến sự thành công của hội nhập kinh tế
quốc tế của mỗi quốc gia nói chung và đến sự phát triển của khoa học công
nghệ của đất nước nói riêng.

Lực lượng nòng cốt của nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay là đội
ngũ trí thức, với cơ cấu đồng bộ trong các lĩnh vực khoa học công nghệ, quản
lý KT - XH… Đội ngũ này là lực lượng nòng cốt trong đào tạo, bồi dưỡng,
thu hút các tài năng trẻ, tạo nên một thế hệ đội ngũ chuyên gia, nhà khoa học
và những cán bộ có năng lực công nghệ giỏi cho sự nghiệp phát triển KT XH. Quá trình đào tạo NNL diễn ra rộng khắp, từ các doanh nghiệp, các
ngành và chính quá trình này dẫn đến sự phát triển về NNL chất lượng cao.
Đối với nước ta, sự phát triển khoa học công nghệ đang và sẽ tác động ngày
càng mạnh đến phát triển NNL chất lượng cao.
NNL chất lượng cao sẽ tạo thuận lợi để tiếp thu tri thức khoa học và
công nghệ, các nguồn lực và kinh nghiệm tổ chức quản lý tiên tiến của các
nước phát triển, qua đó nhanh chóng tăng cường năng lực khoa học và công


×