Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (644.68 KB, 36 trang )

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để
hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam

Lê Thị Hồng Điệp

Trường Đai học Kinh tế
Luận án Tiến sĩ ngành: Kinh tế chính trị; Mã số: 62.31.01.01
Người hướng dẫn: PGS.TS. Trịnh Thị Mai Hoa
Năm bảo vệ: 2009


Abstract: Hệ thống hoá và phát triển một số lý thuyết về phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao (CLC) gắn với quá trình hình thành nền kinh tế tri thức (KTTT). Đưa
ra nội dung, các tiêu chí đánh giá và các yếu tố tác động tới phát triển nguồn nhân lực
CLC để hình thành nền KTTT. Xem xét kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực CLC
để hình thành nền KTTT của một số quốc gia tiêu biểu. Đánh giá quá trình phát triển
nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT ở Việt Nam từ năm 2001 đến nay theo
những nội dung và tiêu chí đã xác định. Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm
phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT ở Việt Nam.

Keywords: Kinh tế; Việt Nam; Nguồn nhân lực; Nền kinh tế tri thức

Content
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, xu hướng hình thành nền KTTT được coi là một xu hướng phát
triển kinh tế chủ yếu của thời đại ngày nay. Đó là xu hướng mà tri thức, trí tuệ trở thành
nguồn gốc và sức mạnh quan trọng nhất quyết định trình độ phát triển của mỗi quốc gia.
Nguồn nhân lực CLC và nhân tài được xem là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự
thành bại của bất kỳ quốc gia nào trong quá trình hòa nhập vào xu hướng phát triển mới của
thời đại.


Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam vẫn là một quốc gia có nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu. Những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong công cuộc đổi mới hơn 20 năm qua vẫn
chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, vốn đầu tư và lao động trình độ thấp, giá rẻ.
Cách thức phát triển không dựa chủ yếu vào tri thức và nguồn nhân lực CLC làm cho nguy cơ
tụt hậu ngày càng lớn hơn. Việt Nam có thể lạc ra khỏi xu hướng phát triển của thời đại ngày
nay. Nếu điều này xảy ra thì thách thức không chỉ dừng lại ở sự tụt hậu về kinh tế mà còn là
sự tụt hậu về văn hóa và phát triển con người trong thế kỷ XXI. Tất cả những sự tụt hậu này
còn tạo ra những thách thức về chính trị mà Việt Nam có thể phải đối mặt.

2
Những thách thức này buộc dân tộc Việt Nam phải tìm ra con đường và cách thức
thoát nghèo, từng bước thích ứng và hòa nhập vào xu hướng hình thành nền KTTT của thời
đại ngày nay. Thực hiện con đường đó là thực hiện một quá trình phát triển đột phá đối với
một nước nghèo và lạc hậu như Việt Nam. Sự thành công của nó phụ thuộc vào rất nhiều điều
kiện nhưng điều kiện quan trọng nhất là nguồn nhân lực CLC. Đây là lực lượng tiên phong sẽ
quyết định sự thành bại của Việt Nam trên con đường phát triển đột phá hướng tới hình thành
nền KTTT trong tương lai. Vậy phải phát triển nguồn nhân lực CLC như thế nào để hình
thành nền KTTT ở Việt Nam? Đây là một câu hỏi lớn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với
tương lai phát triển của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
Từ sự cần thiết của đề tài và từ mong muốn góp phần vì tương lai phát triển thịnh
vượng của dân tộc, chúng tôi lựa chọn đề tài cho luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành Kinh tế
chính trị của mình là: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành nền kinh tế
tri thức ở Việt Nam”.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, đã có nhiều công trình nghiên cứu trong và ngoài nước về
phát triển nguồn nhân lực CLC
Nhận xét chung về nguồn tài liệu liên quan đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực CLC
gắn với xu hướng hình thành nền KTTT:
- Các công trình nghiên cứu của nước ngoài có những cách phân tích và luận giải
tương đối cuốn hút và thuyết phục về tầm quan trọng của tri thức và trí tuệ trong qua trình

hình thành nền KTTT. Từ đó, các tác giả đặc biệt nhấn mạnh tới vấn đề phải đổi mới tư duy
để mỗi cá nhân trở lên chủ động hơn trong sự phát triển mạnh mẽ của thời đại ngày nay. Mặc
dù khái niệm nguồn nhân lực CLC không được sử dụng nhưng những thuật ngữ như doanh
nhân, đội ngũ lãnh đạo, nhà khoa học, tầng lớp sáng tạo, công nhân tri thức, công nhân trí
tuệ được các tác giả sử dụng như một cách diễn đạt khác về lực lượng này đã chứng tỏ sự
quan tâm đặc biệt trong những nghiên cứu của các tác giả đối với lực lượng ưu tú của xã hội –
lực lượng quyết định nhất tới sự hình thành nền KTTT toàn cầu. Những nghiên cứu này thể
hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa nguồn nhân lực CLC với KTTT. Tuy nhiên, đó là những
nghiên cứu chủ yếu gắn với bối cảnh hình thành nền KTTT ở các nước phát triển hàng đầu thế
giới, không phải là những nghiên cứu gắn với bối cảnh của Việt Nam.
- Những nghiên cứu về nguồn nhân lực CLC của các tác giả trong nước gắn với bối
cảnh của Việt Nam nhưng chủ yếu là bối cảnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế. Việc nghiên cứu nguồn nhân lực CLC gắn với quá trình hình thành nền
KTTT ở Việt Nam chưa được thực hiện một cách chuyên sâu.
Tất cả những công trình nói trên, ở những mức độ khác nhau, đã giúp chúng tôi có
một số tư liệu và kiến thức cần thiết để có thể hình thành những hiểu biết chung, soi rọi giúp
tiếp cận, đi sâu nghiên cứu vấn đề Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành
nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.

3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là làm rõ bản chất của việc phát triển nguồn nhân lực CLC để
hình thành nền KTTT nhằm vận dụng để phân tích thực trạng và đề xuất những giải pháp góp
phần phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT ở Việt Nam
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích này, luận án thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Hệ thống hoá và phát triển một số lý thuyết về phát triển nguồn nhân lực CLC gắn
với quá trình hình thành nền KTTT.
- Đưa ra nội dung, các tiêu chí đánh giá và các yếu tố tác động tới phát triển nguồn

nhân lực CLC để hình thành nền KTTT.
- Xem xét kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT của
một số quốc gia tiêu biểu
- Đánh giá quá trình phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT ở Việt
Nam từ năm 2001 đến nay theo những nội dung và tiêu chí đã xác định.
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành
nền KTTT ở Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc hình thành nền KTTT phụ thuộc vào rất nhiều điều kiện. Luận án không nghiên
cứu tất cả các điều kiện thúc đẩy sự hình thành nền KTTT. Đối tượng nghiên cứu của luận án
là vấn đề phát triển nguồn nhân lực CLC. Đối tượng này được nghiên cứu dưới góc độ là điều
kiện cơ bản và quan trọng nhất thúc đẩy sự hình thành nền KTTT.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung:
- Luận án nghiên cứu vấn đề phát triển nguồn nhân lực CLC như thế nào để hình thành
nền KTTT chứ không nghiên cứu vấn đề phát triển nguồn nhân lực CLC tác động như thế nào
tới sự hình thành nền KTTT. Vì vậy, mối quan hệ tác động qua lại giữa phát triển nguồn nhân
lực CLC với việc hình thành nền KTTT được phân tích gián tiếp thông qua những nội dung,
tiêu chí và các yếu tố tác động tới quá trình phát triển nguồn nhân lực CLC.
- Luận án không bàn tới vấn đề phát triển về thể lực của nguồn nhân lực CLC.
- Có nhiều yếu tố tác động tới quá trình phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành
nền KTTT, nhưng luận án chỉ tập trung bàn về sự tác động trực tiếp của quá trình đào tạo ở
bậc Đại học và việc sử dụng nguồn nhân lực CLC.

4
- Thuật ngữ “đào tạo bậc Đại học” được sử dụng trong luận án bao gồm cả đào tạo cao
đẳng, đại học và sau đại học. Do đó, thuật ngữ “nguồn nhân lực trình độ đại học” được sử
dụng trong luận án cũng bao gồm nhân lực trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học.
Về không gian

Luận án nghiên cứu việc phát triển nguồn nhân lực CLC trên phạm vi cả nước; có
nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT của Mỹ và
Singgapore.
Về thời gian
Luận án nghiên cứu quá trình phát triển nguồn nhân lực CLC ở Việt Nam từ năm
2001 đến nay, trong đó chú trọng phân tích giai đoạn 2001- 2007. Năm 2001 là thời điểm diễn
ra Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX và vấn đề từng bước phát triển KTTT được
chính thức đề cập trong Văn kiện của Đại hội.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Căn cứ vào đối tượng
nghiên cứu của luận án thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị, luận án sử dụng phương pháp
này để làm rõ nội dung và các yếu tố tác động tới việc phát triển nguồn nhân lực CLC để hình
thành nền KTTT trong thời đại ngày nay.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống: Phát triển nguồn nhân lực CLC là một quá trình có
sự gắn kết hữu cơ và sự kết hợp hài hoà với các quá trình đào tạo và quá trình sử dụng nguồn
nhân lực CLC. Phương pháp tiếp cận hệ thống giúp khắc phục cách nhìn một chiều, phiếm
diện, riêng rẽ, thường chỉ hay thiên về đào tạo nguồn nhân lực CLC.
- Phương pháp tiếp cận liên ngành được sử dụng nhằm nghiên cứu nguồn nhân lực
CLC để hình thành nền KTTT với sự kết hợp của chuyên ngành kinh tế chính trị học với
ngành giáo dục học và ngành quản trị nhân sự. Việc kết hợp với ngành giáo dục học giúp luận
án nghiên cứu sâu hơn sự tác động của giáo dục đại học tới việc phát triển nguồn nhân lực
CLC để hình thành nền KTTT. Việc kết hợp với ngành quản trị nhân sự giúp luận án phản
ánh một cách đầy đủ những tác động của quá trình sử dụng đối với sự phát triển nguồn nhân
lực CLC để hình thành nền KTTT trong thời đại ngày nay.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình (tiếp cận điểm – case studies): nguồn nhân lực
CLC bao gồm nhiều bộ phận nhân lực có tính chất công việc nghề nghiệp khác nhau và có
ảnh hưởng khác nhau tới quá trình phát triển đất nước. Do đó, khi nghiên cứu nguồn nhân lực
CLC nói chung, trong một số nội dung phân tích, luận án lựa chọn những đội ngũ nhân lực
CLC tiêu biểu như: Đội ngũ lãnh đạo quốc gia, đội ngũ nhà KHXH, đội ngũ cán bộ quản lý

hành chính, đội ngũ cán bộ hành chính thừa hành, đội ngũ giảng viên đại học, đội ngũ nhà KH
– CN

5
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng để thu thập thông tin về cơ sở lý luận,
các công trình nghiên cứu trước đây, quan điểm của Đảng về phát triển nguồn nhân lực CLC,
kinh nghiệm các nước, các số liệu thống kê
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng trong toàn bộ quá trình thực hiện
luận án nhằm phân tích và tổng hợp thành những kết luận về quá trình phát triển nguồn nhân
lực CLC để hình thành nền KTTT nói chung và vận dụng để phân tích và tổng hợp những
đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT ở Việt Nam nói
riêng.
Trong quá trình phân tích, việc kết hợp giữa phương pháp phân tích định tính và
phương pháp phân tích định lượng đã giúp làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, những vấn đề
thực tiễn và những vấn đề về giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành
nền KTTT.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng để hỗ trợ cho việc đánh giá quá trình
phát triển nguồn nhân lực CLC ở Việt Nam so với những nội dung và tiêu chí đã đề ra và so
với quá trình phát triển nguồn nhân lực CLC mà các quốc gia khác đã và đang thực hiện.
- Kỹ thuật tin học được sử dụng để quản lý dữ liệu, tính toán số liệu và xây dựng các
sơ đồ, bảng biểu liên quan tới vấn đề nghiên cứu.
6. Đóng góp của luận án
Nhằm trả lời câu hỏi Việt Nam cần phải phát triển nguồn nhân lực CLC như thế nào để cú
thể hình thành nền KTTT, Luận án có một số đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn sau đây:
- Góp phần làm phong phú thêm những lý luận mới về phát triển nguồn nhân lực CLC
để hình thành nền KTTT thông qua những phân tích về nội dung, tiêu chí và những yếu tố tác
động tới quá trình phát triển lực lượng này.
- Thực hiện việc đánh giá tương đối toàn diện thực trạng phát triển nguồn nhân lực
CLC để hình thành nền KTTT giai đoạn 2001 -2007 gắn với những nội dung, tiêu chí và các
yếu tố tác động đã nêu.

- Đề xuất một số giải pháp phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT ở
Việt Nam trong tương lai. Những đề xuất đó góp phần tìm ra con đường và cách thức hiệu
quả để phát triển nguồn nhân lực CLC thực sự trở thành lực lượng tiên phong trên hành trình
hiện thực hóa nền KTTT ở Việt Nam.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao để hình thành nền kinh tế tri thức
Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành nền
kinh tế tri thức ở Việt Nam

6
Chương 3: Quan điểm và giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình
thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬN ÁN
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO ĐỂ HÌNH THÀNH NỀN KINH TẾ TRI THỨC
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO
ĐỂ HÌNH THÀNH NỀN KINH TẾ TRI THỨC
1.1.1. Sự hình thành nền kinh tế tri thức trong thời đại ngày nay
1.1.1.1. Bản chất của kinh tế tri thức
Cùng với sự ra đời của khái niệm KTTT, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra những cách
tiếp cận và quan niệm khác nhau về KTTT. Tuy nhiên, quan niệm cho rằng: KTTT lμ một
môi tr−ờng KT - XH tạo điều kiện thuận lợi nhất cho sự sản sinh, phổ biến, sử dụng tri thức;
trong đó diễn ra quá trình chuyển biến tri thức thμnh sức mạnh sản xuất đạt tới trình độ cao và
tri thức trở thμnh yếu tố sản xuất quan trọng nhất được cho là một cách hiểu phù hợp nhất về
KTTT.
Như vậy, nền kinh tế tri thức có sự biến đổi mang tính cách mạng so với nền KTCN,
trong đó, sự biến đổi mang tính bản chất nhất thể hiện ở chỗ, trong nền KTTT, tri thức thay

thế vốn và lao động, trở thành yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất quyết định sức mạnh phát
triển trong thời đại ngày nay.
1.1.1.2. Tính tất yếu của sự hình thành nền KTTT
Sự hình thành nền KTTT trong thời đại ngày nay chịu tác động của ba xu hướng cơ
bản: Sự phát triển nhảy vọt của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại; sự phát triển
mạnh mẽ của cơ chế thị trường và quá trình đẩy mạnh hội nhập, mở cửa nền kinh tế toàn cầu.
Đó là ba xu hướng phát triển tất yếu trong thời đại ngày nay. Chúng tạo môi trường, điều kiện
và động lực để thúc đẩy nhanh chóng quá trình hình thành nền kinh tế tri thức toàn cầu.
1.1.1.3. Điều kiện thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức
Tổng hợp quan niệm của OECD và của WB, có thể khái quát về những điều kiện thúc
đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức như sau:
Một là, thể chế chính trị –xã hội dân chủ, thường xuyên khuyến khích sự sáng tạo.
Hai là, tăng cường tiềm lực và chất lượng nguồn vốn tri thức thông qua chiến lược
phát triển nguồn nhân lực có kỹ năng, được đào tạo tốt.
Ba là, nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, xây dựng hệ thống đổi mới
quốc gia (NIS).

7
Thứ tư, đẩy mạnh ứng dụng, phát triển mạnh mẽ và sâu rộng những tri thức mới vào
quá trình phát triển, trong đó coi trọng việc đẩy mạnh ứng dụng, phát triển tri thức về công
nghệ thông tin và truyền thông.
Như vậy, có rất nhiều điều kiện thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế tri thức ở mỗi quốc
gia, nhưng xét đến cùng, các điều kiện đó bị tác động bởi một điều kiện bao trùm và mang
tính chủ động nhất, đó là điều kiện về nguồn nhân lực có kỹ năng, được đào tạo tốt – nguồn
nhân lực chất lượng cao.
1.1.2. Nguồn nhân lực chất lƣợng cao để hình thành nền kinh tế tri thức: Khái
niệm, phân loại và vai trò
1.1.2.1. Các khái niệm
a, Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội thông qua những khả năng

về thể lực, trí lực và tâm lực của người lao động. Nguồn nhân lực là yếu tố cấu thành lực
lượng sản xuất, giữ vai trò quyết định sự phát triển KT – XH của mọi quốc gia.
Quan điểm trên nhấn mạnh tới khả năng của lực lượng lao động – yếu tố quyết định
nhất chất lượng nguồn nhân lực.
b, Nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực CLC là một bộ phận nhân lực quan trọng nhất của nguồn nhõn lực, cú
trỡnh độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao, có kỹ năng lao động giỏi, có năng lực sáng tạo,
đặc biệt là khả năng thích ứng nhanh, đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn, biết vận
dụng tri thức, kỹ năng đó được đào tạo vào trong quá trỡnh lao động sản xuất nhằm đem lại
năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; có phẩm chất đạo đức tiêu biểu.
Quan điểm nêu trên nhấn mạnh tới ba điểm cốt lõi gắn liền với nguồn nhân lực CLC: (1)
trình độ được đào tạo cao, (2) phẩm chất đạo đức tốt, (3) khả năng đáp ứng được yêu cầu phức
tạp của công việc trong những ngành có đóng góp quyết định vào sự tăng trưởng của nền kinh tế.
c, Nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức
Nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT là lực lượng lao động ưu tú nhất của
nguồn nhân lực; có trình độ được đào tạo cao, có những phẩm chất đạo đức tiêu biểu, những
khả năng nổi trội trong việc thích ứng và sáng tạo tri thức KH – CN hiện đại; lực lượng này
đóng vai trò tiên phong trong quá trình tạo ra những chuyển biến cơ bản để hình thành nền
KTTT.
Quan niệm nêu trên nhấn mạnh tới khả năng nổi trội trong việc thích ứng và sáng tạo tri
thức KH – CN hiện đại và coi đó là một đặc trưng cơ bản nhất của nguồn nhân lực CLC để
hình thành nền KTTT.
1.1.2.2. Phân loại nguồn nhân lực CLC
Trong xu hướng hình thành và phát triển nền KTTT, cách phân loại lao động được
xem xét theo một cách mới, khác với những cách phân loại thông thông thường trước đây. Đó

8
là cách phân loại theo tiếp cận công việc nghề nghiệp của người lao động. Theo cách phân
loại này, lực lượng lao động được chia thành: Lao động thông tin và lao động phi thông tin.
- Lao động thông tin có thể chia thành hai loại: Lao động tri thức và lao động dữ liệu.

Lao động dữ liệu (nhân viên kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ, kỹ sư thực hành ) làm việc chủ
yếu với thông tin đã được mã hoá, trong khi đó lao động tri thức (lao động nghiên cứu và lao
động chuyên gia) phải đương đầu với việc sản sinh ra ý tưởng hay chuẩn bị cho việc mã hoá
thông tin. Lao động quản lý nằm giữa hai loại hình này.
- Lao động phi thông tin được chia ra lao động sản xuất hàng hoá và lao động cung cấp
dịch vụ. Lao động phi thông tin dễ dàng được mã hoá và thay thế bằng kỹ thuật, công nghệ.
Nếu phân loại lực lượng lao động theo cách tiếp cận công việc nghề nghiệp thì lực
lượng lao động CLC trong nền KTTT bao gồm ba lực lượng: Lao động tri thức, lao động
quản lý và lao động dữ liệu.
1.1.2.3. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao với việc hình thành nền KTTT
Là lực lượng ưu tú nhất của nguồn nhân lực, nguồn nhân lực CLC là lực lượng thực
hiện vai trò tiên phong của mình trong quá trình hình thành nền KTTT. Vai trò tiên phong đó
thể hiện ở những khía cạnh sau: (1) Vai trò tiên phong trong nắm bắt và định hướng quá trình hình
thành nền KTTT; (2) Vai trò tiên phong trong ứng dụng và triển khai tri thức hiện đại để hình
thành nền KTTT ; (3) Vai trò tiên phong trong sáng tạo tri thức hiện đại để hình thành nền KTTT.
1.2. NỘI DUNG VÀ TIÊU CHÍ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƢỢNG CAO ĐỂ HÌNH THÀNH NỀN KINH TẾ TRI THỨC
1.2.1. Nội dung phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao
1.2.1.1. Gia tăng số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao
Trong nền KTCN, quá trình sản xuất hàng loạt theo dây chuyền với sự phân tách chi
tiết chức năng lao động trí óc và lao động chân tay nên nhu cầu đối với nguồn nhân lực CLC
tuy rất cần thiết song chỉ ở quy mô nhỏ. Trong nền KTTT, quá trình sản xuất được tổ chức
theo mô hình linh hoạt. Mô hình tổ chức lao động mới đòi hỏi một lực lượng lao động đại
chúng trực tiếp tham gia sản xuất có độ linh hoạt cao, có khả năng sáng tạo và đổi mới, có
trình độ đào tạo cao. Vì vậy, muốn phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT,
trước tiên phải gia tăng nhanh chóng số lượng lao động tri thức, lao động quản lý và lao động
dữ liệu. Lực lượng này phải chiếm tỷ trọng vượt trội trong tổng lực lượng lao động quốc gia.
1.2.1.2. Chuyển dịch cơ cấu nguồn nhân lực CLC
Xu hướng hình thành nền KTTT gắn với xu hướng phát triển một số ngành đặc thù,
được gọi là ngành công nghiệp tri thức (knowledge intensive industry). Vì vậy, cơ cấu nguồn

nhân lực CLC phải có sự dịch chuyển mạnh sang những ngành công nghiệp tri thức để tạo lực
cho sự hình thành nền KTTT. Sự chuyển dịch này phải làm gia tăng nhanh chóng lực lượng
giảng viên đại học có trình độ cao, đồng thời phải làm gia tăng nhanh chóng đội ngũ nhân lực
KH - CN.

9
1.2.1.3. Hình thành và phát huy những tố chất phù hợp với yêu cầu của thời đại
kinh tế tri thức ở nguồn nhân lực chất lượng cao
a, Hình thành và phát huy tố chất dân tộc
Tố chất dân tộc của nguồn nhân lực CLC thể hiện ở lòng yêu nước và tinh thần dân
tộc. Tuy nhiên, tố chất dân tộc không phải là những biểu hiện về lòng yêu nước và tinh thần
tự tôn dân tộc như một tình cảm, ý thức đơn thuần, mà chúng phải biến thành khát vọng thay
đổi để thúc đẩy đội ngũ nhân lực CLC thực hiện những hành động cụ thể, góp phần tạo lên sự
chuyển biến thực sự cho đất nước trong quá trình hình thành nền KTTT.
b, Hình thành và phát huy tố chất thích ứng
Tố chất thích ứng được biểu hiện ra ở khả năng tự điều chỉnh, khả năng thích nghi để
làm chủ trước sự thay đổi nhanh chóng của vốn tri thức nhân loại trong thời đại ngày nay.
Đối với các nước đang phát triển, tố chất thích ứng còn là sự thể hiện bản lĩnh “hai tốc độ”
của nguồn nhân lực chất lượng cao khi lực lượng này vừa phải tiếp thu những thành quả của
nền kinh tế nông nghiệp để tiến hành công nghiệp hoá, vừa phải thích nghi với những tri thức
mới nhất của thời đại để hiện đại hoá. Vì vậy, dù là ở các quốc gia phát triển hay đang phát triển
thì việc hình thành và phát huy tố chất thích ứng của nguồn nhân lực chất lượng cao là một nội
dung không thể thiếu trong phát triển lực lượng này để hình thành nền kinh tế tri thức trong
tương lai.
c, Hình thành và phát huy tố chất sáng tạo
Trong quá trình phát triển của nhân loại ngày nay, sáng tạo và đổi mới đã trở thành
một đặc tính văn hóa của thời đại kinh tế tri thức. Vì vậy, để hình thành nền KTTT, nguồn
nhân lực CLC của mỗi quốc gia phải hình thành và phát huy được đặc tính tiêu biểu này của
thời đại. Tố chất sáng tạo của nguồn nhân lực CLC không những thể hiện ra ở khả năng phát
minh, sáng chế ra những sản phẩm khoa học công nghệ mà quan trọng và cốt lõi nhất là ở sự

cách mạng và đổi mới trong quan niệm, trong lối tư duy, trong cách nghĩ và cách làm chủ quá
trình phát triển.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá quá trình phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao
1.2.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá về sự gia tăng số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao
Các chỉ tiêu này bao gồm : (1)Sự gia tăng tỷ lệ lao động trình độ đại học trên tổng số
lực lượng lao động ; (2) Sự gia tăng tỷ lệ sinh viên trên một vạn dân ; (3)Sự gia tăng số lượng
sinh viên, sinh viên mới tuyển, sinh viên tốt nghiệp hàng năm.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu xác định sự điều chỉnh cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao
Các chỉ tiêu này bao gồm: (1)Điều chỉnh cơ cấu nhân lực CLC theo vùng ; (2) Điều
chỉnh cơ cấu nhân lực chất lượng cao theo ngành kinh tế ; (3) Điều chỉnh tỷ lệ cán bộ nghiên
cứu khoa học trên một trăm dân ;(4) Điều chỉnh tỷ lệ nhân lực KH – CN trên tổng số nhân lực
CLC ; (5) Điều chỉnh tỷ lệ giảng viên đại học trên tổng số nhân lực CLC ; (6) Điều chỉnh kết
cấu sức lao động trong nông nghiệp, công nghiệp, công nghệ kỹ thuật cao.

10
1.2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng thích ứng và khả năng sáng tạo tri thức
KH – CN hiện đại của nguồn nhân lực chất lượng cao
Các chỉ tiêu này bao gồm : (1) Mức độ sẵn có của lao động sản xuất CLC ; (2) Mức độ
sẵn có của cán bộ hành chính CLC ; (3) Mức độ sẵn có của cán bộ quản lý hành chính CLC ;
(4) Sự thành thạo lao động công nghệ cao ; (5) Sự thành thạo tiếng Anh của đội ngũ nhân lực
CLC ; (6) Mức độ thành thạo kỹ năng của đội ngũ cán bộ hành chính ; (7) Mức độ thành thạo
kỹ năng của đội ngũ chuyên gia ; (8) Mức độ thành thạo kỹ năng của đội ngũ cán bộ quản lý
hành chính ; (9) Năng suất lao động của đội ngũ nhân lực CLC ; (10) Số đơn đăng ký phát
minh sáng chế được Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới cấp ; (11) Số bài viết được đăng trên các
tạp chí khoa học quốc tế ; (12) Chỉ số h – chỉ số đánh giá khả năng sáng tạo của các nhà khoa
học.
1.2.2.4. Các tiêu chí đánh giá tố chất dân tộc của nguồn nhân lực chất lượng cao
Các chỉ tiêu này bao gồm: (1)Sự quan tâm đến thực trạng phát triển lạc hậu của đất
nước ở đội ngũ lãnh đạo quốc gia; (2) Ý thức về sự phát triển đột phá để theo kịp xu hướng
của thời đại ở đội ngũ lãnh đạo quốc gia ; (3) Sự dũng cảm của đội ngũ nhà khoa học xã hội

trong việc đề xuất ý tưởng táo bạo nhằm tạo bước phát triển đột phá cho đất nước;(4) Mức độ
trong sạch (thông qua chỉ số tham nhũng) của đội ngũ cán bộ trong bộ máy công quyền.
1.3. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TRỰC TIẾP ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT
TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO ĐỂ HÌNH THÀNH NỀN KINH TẾ
TRI THỨC
Quá trình phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT bị tác động bởi rất
nhiều yếu tố với mức độ và phạm vi tác động khác nhau. Phần này tập trung phân tích hai
nhóm yếu tố tác động trực tiếp và quan trọng nhất tới quá trình phát triển nguồn nhân lực
CLC.
1.3.1. Đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao
Tri thức được coi là một nguồn vốn quyết định trong nền KTTT. Tuy nhiên việc tiếp
nhận vốn tri thức lại không dễ như việc tiếp nhận vốn dưới dạng tiền tệ. Chuyển giao tiếp
nhận vốn tri thức phải thông qua giáo dục đào tạo. Điều này có nghĩa là giáo dục đào tạo tác
động trực tiếp và quan trọng nhất tới việc phát triển cả về số lượng và chất lượng vốn tri thức
được tích luỹ ở nguồn nhân lực. Đối với nguồn nhân lực CLC, GDĐH tác động trực tiếp và
mang tính đột phá tới chất lượng, cơ cấu và những tố chất tiêu biểu của lực lượng này.
1.3.1.1. Tác động của giáo dục đại học tới số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao
Việc quy hoạch hệ thống giáo dục đại học sẽ tác động tới việc đạo tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao. Nếu hệ thống đại học chỉ hướng vào việc đào tạo đội ngũ tinh hoa thì số
lượng nhân lực có trình độ đại học sẽ là thiểu số. Nếu hệ thống đại học được thiết kế đa dạng,
phong phú, hướng vào đại chúng, ở đó có sự kết hợp giữa đào tạo lực lượng tinh hoa và đào
tạo lực lượng đại chúng thì sẽ tác động rất lớn tới tốc độ gia tăng nguồn nhân lực được đào

11
tạo ở trình độ cao. Sự kết hợp thích đáng giữa đại học công và đại học tư trong hệ thống giáo
dục đại học cũng là yếu tố làm gia tăng số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao ở mỗi quốc
gia.
1.3.1.2. Tác động của giáo dục đại học tới việc hình thành và phát huy tố chất tiêu
biểu của nguồn nhân lực chất lượng cao
Các trường đại học xây dựng theo mô hình tự chủ được trao quyền tự chủ rộng rãi về

tuyển sinh, tự chủ về chương trỡnh, tự chủ về phương pháp dạy và học, tự chủ về tổ chức
nhân sự, về đội ngũ giáo sư, về quản trị, về tài chính…Bao trùm lên tất cả là việc các trường
đại học trở thành một môi trường của tự do tư tưởng, ở đó người học được làm quen với đức
tính quan trọng nhất của một con người tự chủ - đó là những người biết rằng mình có quyền
tự do tư tưởng, biết cách sử dụng đúng đắn quyền đó và biết tôn trọng quyền đó ở tất cả mọi
người. Chỉ ở trong môi trường giáo dục đó, con người mới có thể hình thành và phát huy
được những tố chất tiêu biểu để hình thành nền kinh tế tri thức trong thời đại mới.
1.3.2. Sử dụng nguồn nhân lực chất lƣợng cao
Dù nguồn nhân lực được đào tạo với chất lượng của một nhân tài thì đó vẫn chưa phải
là yếu tố quyết định đến giá trị của họ đối với quốc gia, dân tộc. Vấn đề sử dụng, hay chính
xác hơn là vấn đề thu hút và trọng dụng mới vừa là động cơ, vừa là cái đích, vừa là một khâu
trong quá trình đào luyện và hiện thực hoá giá trị của nguồn nhân lực CLC nói chung và nhân tài
nói riêng
1.3.2.1. Tác động của việc thu hút nhân lực chất lượng cao nước ngoài tới quá
trình gia tăng số lượng nguồn nhân lực chất lượng cao
Quá trình phát triển nguồn nhân lực CLC trong bối cảnh TCH và HNKTQT chịu tác động
rất lớn từ hoạt động thu hút nhân lực chất lượng cao từ nước ngoài. Ở cấp độ quốc gia, hoạt động
thu hút tác động tới việc gia tăng số lượng nguồn nhân lực CLC ở những khía cạnh sau:
a, Gia tăng lực lượng tạo nguồn cho đội ngũ nhân lực chất lượng cao
Thu hút những học sinh xuất sắc của nước ngoài, đặc biệt là những học sinh từ các
nước kém phát triển hơn đến thực hiện bậc học đại học tại quốc gia sở tại là một cách thức thu
hút làm gia tăng đáng kể lực lượng tạo nguồn cho đội ngũ nhân lực CLC của rất nhiều quốc
gia.
b, Gia tăng trực tiếp đội ngũ nhân lực chất lượng cao
Việc thu hút nhân lực CLC nước ngoài chủ yếu hướng tới đội ngũ nhà quản trị kinh
doanh, đội ngũ nhà khoa học – công nghệ, đội ngũ giảng viên đại học, đội ngũ kỹ sư. Bên cạnh
đó, một số quốc gia đã mạnh dạn thu hút nhân tài nước ngoài tham gia quản lý bộ máy hành
chính công.
Đối với các nước phát triển, việc thu hút nhân lực CLC chủ yếu tập trung vào những
người tài năng đến từ các nước kém phát triển hơn.


12
Đối với các nước đang phát triển, việc thu hút nhân lực CLC nước ngoài chủ yếu tập
trung vào nhóm công dân của chính nước đó nhưng đang làm việc tại các nước phát triển.
1.3.2.2. Tác động của việc trọng dụng tới quá trình phát huy những tố chất tiêu
biểu của nguồn nhân lực chất lượng cao
Những chính sách trọng dụng đối với nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung :
Chính sách tuyển dụng, bố trí công việc và thăng tiến ; Chính sách tiền lương ; Chính sách đãi
ngộ về mặt xã hội ; Chính sách hỗ trợ trong hoạt động nghiên cứu triển khai
Những chính sách trọng dụng nhân tài : Thực hiện đầu tư trọng điểm để xây dựng cơ
sở vật chất phục vụ hoạt động chuyên môn của đội ngũ nhân tài ; Xây dựng môi trường văn
hoá dân chủ để phát huy tối đa tố chất sáng tạo của đội ngũ nhân tài.
1.4. Kinh nghiệm quốc tế về phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao để hình
thành nền kinh tế tri thức
1.4.1. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ
1.4.1.1. Kinh nghiệm đào tạo nhân lực chất lượng cao
Xây dựng mô hình GDĐH đại chúng; Thực hiện mô hình giáo dục đại học khai phóng
(Liberal Arts); Đầu tư lớn về tài chính cho giáo dục đại học và quan tâm xây dựng đội ngũ
giảng viên xuất sắc; Đặc biệt quan tâm tới đào tạo đội ngũ nhân lực KHCN.
4.1.1.2. Kinh nghiệm thu hút và trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao
Quan tâm triệt để tới việc tạo môi trường để bất kỳ người tài nào cũng có thể phát huy
khả năng của mình ở mức tối đa; Xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ về vấn đề người
nhập cư, tạo điều kiện đặc biệt cho những người tài năng có thể dễ dàng định cư lâu dài và ổn
định ở Mỹ; Đặc biệt chú trọng thu hút đội ngũ các nhà khoa học sáng chế và đội ngũ chuyên
gia trong các ngành công nghệ cao.
1.4.2. Kinh nghiệm của Singgapore
1.4.2.1. Kinh nghiệm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức
Đầu tư lớn cho giáo dục - đào tạo; Xây dựng hệ thống giáo dục đại học đa dạng nhằm
đáp ứng nhu cầu của người học trong thời đại phát triển kinh tế tri thức; Thực hiện những cải
cách quan trọng về quan niệm, nội dung và phương pháp giáo dục; Khuyến khích các công ty

tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.
1.4.2.2. Kinh nghiêm thu hút và trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao của
Singapore
Thành lập ủy ban Tuyển dụng tài năng ở trong nước; Hình thành Mạng tiếp xúc
Singapore; Trọng dụng nhân tài bằng chính sách trả lương tương xứng với giá trị của chất
xám; Quan tâm phát triển tài năng trẻ.
1.4.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1.4.3.1. Bài học kinh nghiệm về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao

13
Thực hiện mô hình giáo dục đại học đại chúng để gia tăng nguồn nhân lực chất lượng
cao;Thực hiện mô hình đại học khai phóng nhằm hình thành và phát huy những tố chất tiêu
biểu của nguồn nhân lực chất lượng cao; Nhà nước cần chú trọng đầu tư để phát triển nền
GDĐH quốc gia. Phải thực sự coi phát triển GDĐH là quốc sách hàng đầu; Xây dựng đội ngũ
giảng viên đại học đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng. Đây là điều kiện cần để thực hiện
thành công mô hình đại học đại chúng và khai phóng; Thí điểm trên diện rộng việc sử dụng
song ngữ (sử dụng cả tiếng Việt và tiếng Anh) để giảng dạy một số chuyên ngành mới tại các
trường đại học; Chú trọng mở rộng việc đào tạo đội ngũ nhân lực khoa học công nghệ nhằm
gia tăng năng lực khoa học công nghệ trong quá trình hình thành nền kinh tế tri thức.
1.4.3.2. Bài học về sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao
Triệt để thu hút nhân lực chất lượng cao từ mọi nguồn; Tri thức, chất xám phải được
trả giá cao, tương xứng để thúc đẩy khả năng sáng tạo của nguồn nhân lực CLC; Quan tâm
tạo điều kiện tốt cho lực lượng nhân lực trẻ tài năng.
Kết luận chƣơng 1
Hình thành nền KTTT là một xu thế phát triển tất yếu của thời đại ngày nay. Trong xu
thế đó, tri thức đã thay thế vốn và lao động, trở thành yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất
quyết định sức mạnh phát triển. Vì vậy, bất kỳ quốc gia nào muốn theo kịp xu thế phát triển
của thời đại đều phải chú trọng đặc biệt tới việc phát triển nguồn nhân lực CLC để lực lượng
này có khả năng làm chủ tri thức mới. Đây là điều kiện cơ bản và quan trọng nhất quyết định
sự thành công của mỗi quốc gia trong hành trình hướng tới nền KTTT.

Việc phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT cần được thực hiện toàn
diện ở ba nội dung: gia tăng số lượng nguồn nhân lực CLC tới để lực lượng này trở thành lực
lượng đại chúng trong tổng lực lượng lao động; chuyển dịch cơ cấu nhân lực CLC theo hướng
gia tăng lực lượng lao động CLC làm việc trong những ngành công nghiệp tri thức; hình
thành và phát huy được những tố chất tiêu biểu, đó là tố chất dân tộc, tố chất thích ứng và tố
chất sáng tạo.
Có rất nhiều yếu tố tác động tới quá trình phát triển nguồn nhân lực CLC để hình
thành nền KTTT. Tuy nhiên, hai yếu tố tác động trực tiếp và ảnh hưởng toàn diện tới quá
trình phát triển này là yếu tố đào tạo (đặc biệt là đào tạo đại học) và yếu tố sử dụng nguồn
nhân lực CLC. Trong quá trình phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT, các
quốc gia đã đặc biệt chú trọng tới hai yếu tố này và đã gặt hái được những thành công, đồng
thời để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho những quốc gia đi sau như Việt Nam.
Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO ĐỂ
HÌNH THÀNH NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƢỢNG CAO QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI
2.1.1. Giai đoạn từ đại hội VI (1996) đến đại hội VIII (1996)

14
Trong giai đoạn này, thuật ngữ nguồn nhân lực chất lượng cao chưa được nêu chính
thức nhưng trong các văn kiện của Đảng luôn nhấn mạnh việc phát huy nguồn lực con người,
coi đó là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Trong đó, Đảng chỉ rõ phải coi
trọng phát triển nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước. Đặc biệt coi trọng xây dựng một
đội ngũ công nhân lành nghề, những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi và các nhà
khoa học, kỹ thuật có trình độ cao.
2.1.2. Giai đoạn từ đại hội IX (2001) đến nay
Tại đại hội IX (2001), chủ trương “từng bước phát triển kinh tế tri thức” đã được
Đảng nêu ra. Đồng thời, đại hội IX tiếp tục khẳng định phát triển nguồn lực con người, đặc
biệt là phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam.

Đến Đại hội X, chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển
kinh tế tri thức đã trở thành một nội dung lớn trong Văn kiện. Để thực hiện chủ trương này,
Đảng đã xác định: phải đổi mới toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực CLC
để tạo ra sức mạnh đột phá sớm đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, tạo ra sự
phát triển nhanh và bền vững trong những thập niên mới.
Đây là lần đầu tiên thuật ngữ “nguồn nhân lực chất lượng cao” được sử dụng trong
Văn kiện của Đảng, nó thể hiện một bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng, đồng thời
định hướng cho quá trình phát triển nguồn nhân lực CLC ở Việt Nam trên thực tế.
2.2. THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO ĐỂ
HÌNH THÀNH NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 2001 ĐẾN NAY
2.2.1. Thực trạng gia tăng số lƣợng nguồn nhân lực chất lƣợng cao
2.2.1.1. Sự gia tăng số lượng lao động trình độ đại học trên tổng số lao động
Theo số liệu thống kê, năm 2001, lao động bậc đại học ở Việt Nam là 1.407.223 người
(chiếm 3,64% lực lượng lao động), trong đó, lao động trình độ cao đẳng, đại học là 1.381.999
và sau đại học là 25.224. Đến năm 2007, lao động bậc đại học là 3.130.365 người, chiếm 7%
tổng lực lượng lao động. Như vậy, trung bình từ năm 2001 đến 2007, lao động bậc đại học ở
Việt Nam tăng 246.163 người/năm. Như vậy, tốc độ gia tăng hàng năm của lao động trình độ
đại học là rất cao. Tuy nhiên, do có số lượng ít, nên tỷ trọng của lao động trình độ đại học của
Việt Nam còn ở mức thấp, chỉ khoảng 7% tổng lực lượng lao động.
2.2.1.2. Sự gia tăng chỉ số sinh viên trên một vạn dân
Năm 2000, Việt Nam có 135 sinh viên/vạn dân, năm 2007 là 165 sinh viên/vạn dân,
năm 2009 là 196 sinh viên/vạn dân. Từ năm 2000 đến 2009, số lượng sinh viên/ vạn dân tăng
trung bình 7,8 người một năm. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của các nước đã thành công
trong phát triển đột phá ở khu vực Đông á như Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, thì phải đạt
chỉ số sinh viên/vạn dân từ 300 đến 400 mới đủ nguồn nhân lực trình độ cao, tạo bước nhảy
vọt trong phát triển kinh tế.
2.2.1.3. Nguồn hình thành nhân lực trình độ đại học

15
Sự gia tăng số lượng nhân lực trình độ đại học phụ thuộc rất lớn vào số lượng sinh

viên, quy mô tuyển mới và sinh viên tốt nghiệp hàng năm. Năm 2007, tổng số sinh viên của
cả nước là 1.603.484, trong đó có 504,9 nghìn sinh viên tuyển mới và 233,9 nghìn sinh viên
tốt nghiệp. So với năm học 2001, số lượng sinh viên tăng 629,4 nghìn người, với tốc độ tăng
trung bình 9%/năm. Đây là tốc độ gia tăng tương đối cao nhưng chỉ đáp ứng được 1/6 nhu cầu
học tập của người dân. Hơn thế nữa, so với tỷ lệ sinh viên trong độ tuổi 20 – 24 của một số
nước trong khu vực thì tỷ lệ này ở Việt Nam thấp hơn Thái Lan tới 4 lần, thấp hơn Trung
Quốc 1,5 lần và thấp hơn Hàn Quốc tới 8,9 lần.
2.2.2. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu nguồn nhân lực chất lƣợng cao
2.2.2.1. Điều chỉnh cơ cấu nguồn nhân lực trình độ đại học theo vùng miền
Từ năm 2001 đến năm 2007, mặc dù tỷ trọng nhân lực trình độ đại học của khu vực
Đồng bằng sông Hồng – nơi tập trung khoảng 1/3 số nhân lực trình độ đại học của cả nước có
giảm nhưng sự chênh lệch lớn về số lượng so với các vùng khác còn rất lớn. Đặc biệt, so với
khu vực Tây nguyên, Trung du miền núi phía Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long, sự chênh
lệch này là rất lớn. Tính đến năm 2007, nếu tổng số nhân lực trình độ đại học tập trung ở Đồng bằng
sông Hồng là 1.054.805 người thì ba vùng đã nêu lần lượt chỉ có: 153.070, 371.696 và 372.648
người.
2.2.2.2 Điều chỉnh cơ cấu nguồn nhân lực trình độ đại học theo ngành kinh tế
Cơ cấu nguồn nhân lực trình độ theo ngành kinh tế trong bảng thống kê trên phản ánh
hai xu hướng:
(1) Xu hướng giảm tỷ trọng nhân lực trình độ đại học trong những ngành gồm: Nông,
lâm nghiệp, thuỷ sản (giảm từ 4,34 xuống 3,46%); Công nghiệp khai thác mỏ (giảm từ 1,17
xuống 0,85%); Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước (giảm từ 1,57 xuống 1,51%) trong
tổng số nhân lực đại học. Đây là những ngành gắn với nền kinh tế nông nghiệp và ít gắn với
tri thức khoa học công nghệ hiện đại.
(2) Xu hướng tăng tỷ trọng nhân lực trình độ đại học trong những ngành: Công nghiệp
chế biến, chế tạo; Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ; Dịch vụ lưu trú và ăn uống; Thông
tin và truyền thông; Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm; Hoạt động chuyên môn, khoa học và
công nghệ; Giáo dục và đào tạo. Đây là những ngành mà yêu cầu về hàm lượng chất xám và
tri thức khoa học – công nghệ hiện đại được đặt ra ở mức cao, gắn với xu hướng phát triển
của thời đại ngày nay.

2.2.2.3. Điều chỉnh cơ cấu giảng viên đại học trong tổng nhân lực trình độ đại học
a, Điều chỉnh cơ cấu giảng viên đại học trong đội ngũ nhân lực trình độ đại học
từ năm 2001 đến 2007, số lượng giảng viên đại học tăng từ 35.938 lên 62.350 người,
với tốc độ tăng trung bình là 10%/năm, trong khi đó số nhân lực trình độ đại học tăng hơn
20%/năm làm cho cơ cấu giảng viên đại học trong tổng nhân lực trình độ đại học giảm từ
2,55% năm 2001 xuống còn 1,99% năm 2007 và tỷ lệ nhân lực trình độ đại học/giảng viên đại

16
học tăng từ 39 người năm 2001 lên 58 người năm 2007. Điều này tạo lên sức ép rất lớn đối
với đội ngũ giảng viên đại học trong quá trình đào tạo nhân lực trình độ đại học cho đất nước.
b, Điều chỉnh tỷ lệ sinh viên/giảng viên
Tốc độ tăng của giảng viên không theo kịp tốc độ tăng của sinh viên nên tỷ lệ sinh
viên/giảng viên đã tăng từ 27 lên đến 30 từ năm 2001 đến 2007. So sánh tỷ lệ này vào những
năm 1990 – 1995 mới càng thể hiện rõ sự gia tăng không theo kịp của đội ngũ giảng viên đại
học so với sinh viên. Năm 1990, tỷ lệ sinh viên trên giảng viên là 5,9 rồi tăng lên 13,1 năm
1995 tức là lớp học hiện nay đông gấp 5 lần năm 1990 và gấp 3 lần năm 1995.
2.2.2.4. Tỷ lệ nhân lực KH-CN trong tổng nhân lực trình độ đại học
Tổng số nhân lực KH – CN trình độ đại học của Việt Nam là 41.896 người, chiếm 1,3
% tổng nhân lực trình độ đại học. Bên cạnh đó còn có khoảng 62.320 giảng viên đại học và
các chuyên gia, kỹ sư làm việc trong các doanh nghiệp cũng được thu hút và các hoạt động
nghiên cứu khoa học công nghệ.
2.2.3. Thực trạng hình thành và phát huy những tố chất tiêu biểu của nguồn
nhân lực chất lƣợng cao
2.2.3.1. Sự hình thành và phát huy tố chất dân tộc
a, Sự quan tâm đến thực trạng phát triển lạc hậu của đất nước ở đội ngũ lãnh đạo quốc gia
Sự diễn đạt về mức độ nghèo, kém phát triển và những nguy cơ của đất nước trong các
văn bản chính thức và trong các bài phát biểu của giới lãnh đạo luôn được thể hiện. Đặc biệt,
trước xu thế phát triển mạnh mẽ của thời đại ngày nay, tần suất những diễn đạt đó càng lớn
hơn.
b, Ý thức về sự phát triển đột phá để theo kịp xu hướng của thời đại ở đội ngũ lãnh

đạo quốc gia
đội ngũ lãnh đạo quốc gia đã thể hiện quyết tâm đẩy mạnh CNH, HĐH, kết hợp bước
phát triển tuần tự với bước phát triển nhảy vọt để từng bước phát triển KTTT ở Việt Nam.
Như vậy ý thức chấn hưng và phát triển đất nước luôn được đội ngũ lãnh đạo quốc gia đề cao.
Tuy nhiên, đội ngũ lãnh đạo quốc gia chưa thực sự làm cho nhân dân ý thức một cách sâu sắc
về vị thế thấp kém của những công dân ở một nước nghèo, từ đó tạo sức bật cho khát vọng và ý
chí vươn lên thoát nghèo, theo kịp bước tiến của thời đại, hình thành nền KTTT.
c, Mức độ trong sạch (thông qua chỉ số tham nhũng) của đội ngũ cán bộ trong bộ máy
công quyền
Trong khi chưa thể hiện đầy đủ tầm vóc và sức mạnh trong việc truyền tới nhân dân
những khát vọng thay đổi để tạo nên sức mạnh tinh thần trong quá trình hình thành nền
KTTT, thì đội ngũ lãnh đạo, quản lý lại đang bị đánh giá là có những suy thoái đạo đức ảnh
hưởng nghiêm trọng tới niềm tin của nhân dân. Trong đó, tệ nạn tham nhũng là một trong
những biểu hiện rõ nét nhất của sự suy thoái đạo đức ở đội ngũ này.

17
d, Sự dũng cảm của đội ngũ nhà khoa học xã hội trong việc đề xuất những tư tưởng
táo bạo nhằm tạo bước phát triển đột phá cho đất nước
Đội ngũ các nhà khoa học xã hội Việt Nam đã có những đóng góp lớn trong việc đề ra
những tư tưởng mạnh dạn về việc phải tiến hành phát triển đột phá, phát triển rút ngắn, phát
triển nhảy vọt, phát triển kép… để tránh nguy cơ tụt hậu và hướng tới hình thành nền KTTT ở
Việt Nam. Tuy nhiên các nhà KHXH Việt Nam vẫn chưa thực sự mạnh dạn trong việc đề xuất
những giải pháp đột phá toàn diện để hiện thực hoá tư tưởng đó. Đặc biệt khi những đột phá
đó liên quan tới những vấn đề chính trị – xã hội nhạy cảm.
2.2.3.2. Sự hình thành và phát huy tố chất thích ứng và sáng tạo của nguồn nhân
lực chất lượng cao Việt Nam
a, Các chỉ số về chất lượng nguồn nhân lực của một số nước Châu á và Việt Nam
Theo kết quả so sánh, chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam xếp thứ 11 trên tổng số 12
quốc gia được lựa chọn nghiên cứu. Điều đáng nhấn mạnh là, các điểm số đánh giá về cán bộ
quản lý hành chính chất lượng cao, sự thành thạo tiếng anh và sự thành thạo công nghệ cao

của nguồn nhân lực CLC Việt Nam là rất thấp, thậm chí thấp hơn và bằng với Inđônêxia,
nước xếp cuối cùng trong bảng so sánh xếp hạng.
b, Các chỉ số về mức độ thành thạo kỹ năng của đội ngũ nhân lực CLC
Thông qua việc khảo sát mẫu đội ngũ cán bộ quản lý hành chính, đội ngũ chuyên gia,
đội ngũ cán bộ hành chính thừa hành, có thể khẳng định, mức độ thành thạo công nghệ (thông
qua kỹ năng tin học) và mức độ thành thạo ngoại ngữ (thông qua kỹ năng ngoại ngữ) của cả
ba đội ngũ trên đều rất thấp. Đây là một lực cản rất lớn để những đội ngũ này phát huy khả
năng thích ứng trong quá trình tiếp thu những tri thức hiện đại phục vụ cho công việc chuyên
môn, góp phần phát triển đất nước.
c, Các chỉ số phản ánh tố chất sáng tạo của nguồn nhân lực CLC Việt Nam
Đối với đội ngũ nhà khoa học tự nhiên và công nghệ, tố chất sáng tạo được đánh gía
thông qua Số đăng ký quốc tế và Số lượng bài báo đăng trên các tạp chí quốc tế là rất thấp.
Trong giai đoạn 2002-2007, tổng số đơn đăng ký sáng chế của Singapore là 2.504 đơn,
Malaysia có 264 đơn, Philippines có 116 đơn, Thái Lan có 53 đơn, trong khi đó Việt Nam chỉ
có 26 đơn. Còn trong 11 năm, từ 1996-2007, các nhà khoa học Việt Nam thuộc 27 ngành
công bố tổng cộng 5872 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế chuẩn mực. Số công bố
quốc tế các ngành của Thái Lan là 33.205 bài báo; Malaysia: 21.034; Hàn Quốc: 263.401.
Trung Quốc: 960.669 bài báo.
Đội ngũ nhà KHXH hiện nay phần lớn chỉ thực hiện công tác tuyên truyền cổ động,
thuyết minh quan điểm, đường lối của Đảng, mà chưa thực hiện chức năng chủ yếu là đi vào
thực tiễn khảo sát, nghiên cứu, phân tích và phản biện các đường lối, đặc biệt là đường lối
CNH, HĐH, từng bước phát triển KTTT. Các nhà khoa học thường thoát ly thực tế, né tránh
những vấn đề phức tạp, chỉ ghi chép đơn thuần hay thuyết minh cho thực tiễn, mà ít khi bày tỏ
rõ ràng quan điểm sáng tạo riêng của người nghiên cứu.

18
2.3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƢỢNG CAO Ở VIỆT NAM
2.3.1. Những thành tựu đạt đƣợc trong phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao
ở Việt Nam.

Trong giai đoạn 2001 -2007, nguồn nhân lực chất lượng cao đã đạt được những kết
quả bước đầu đáng khích lệ về cả số lượng, cơ cấu và những tố chất tiêu biểu. Số lượng nguồn
nhân lực chất lượng cao có sự gia tăng với tốc độ ngày càng lớn, chỉ trong 7 năm, số lượng
nguồn nhân lực CLC của đã tăng 2,2 lần. Cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao có sự chuyển
dịch nhanh hơn ở những ngành tiếp cận kinh tế tri thức. Những tố chất tiêu biểu của nguồn
nhân lực chất lượng cao đã bước đầu được hình thành và phát huy, đó là ý thức về sự lạc hậu
của đất nước trước xu thế phát triển của thời đại, là sự gia tăng về mức độ thích ứng và khả
năng sáng tạo trong sự so sánh giữa những năm trước với các năm sau. Việc thay đổi này ở
nguồn nhân lực chất lượng cao có ý nghĩa như một bước khởi động nhằm từng bước thúc đẩy
quá trình hình thành nền KTTT ở Việt Nam.
2.3.2. Hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao để hình thành nền
KTTT ở Việt Nam.
Mặc dù có những chuyển biến bước đầu đáng ghi nhận trong quá trình phát triển
nguồn nhân lực CLC ở Việt Nam giai đoạn 2001 -2007, nhưng đó chỉ là những chuyển biến
được so sánh trong sự khép kín đối với chính nguồn nhân lực CLC của Việt Nam. Nếu so
sánh với thế giới và so sánh với yêu cầu của quá trình phát triển đột phá để hình thành nền
KTTT thì nguồn nhân lực CLC ở Việt Nam còn bộ lộ những hạn chế lớn. Những hạn chế đó
biểu hiện ở hai vấn đề chính sau: (1) Mất cân đối giữa phát triển về số lượng và phát triển về
chất lượng nguồn nhân lực trình độ đại học; (2) Không bắt kịp và bị bỏ lại quá xa trong phát
triển cả về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trình độ đại học so với xu thế hình thành nền
KTTT của thời đại ngày nay.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực chất
lƣợng cao ở Việt Nam
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra những hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, luận án chỉ tập trung vào hai nhóm nguyên nhân chính.
Nhóm nguyên nhân thứ nhất liên quan tới những hạn chế trong giáo dục đại học để
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam. Việt Nam chưa xây dựng được hệ thống
giáo dục đại học (bao gồm hệ thống đại học nghiên cứu, hệ thống đại học đại chúng, hệ thống
đại học tư, hệ thống đại học công) học chuyên nghiệp ; Cơ chế quản lý giáo dục đại học chưa
mang tính tự chủ cao, các trường đại học chưa thực sự có những tự chủ về nội dung, chương

trình, phương pháp đào tạo, về tài chính, về tổ chức nhân sự… Sự quản lý vẫn mang tính áp
đặt và cứng nhắc.
Nhóm nguyên nhân liên quan đến quá trình sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao.
Việt Nam chưa có khả năng thu hút nhân lực chất lượng cao nước ngoài. Sự hạn chế trong thu

19
hút nhân lực nước ngoài của Việt Nam khiến cho tình trạng “chảy máu chất xám” càng trở
nên báo động. Những chính sách liên quan tới việc sử dụng lao động như: chính sách tiền lương,
tiền công, chính sách bảo hiểm xã hội và các chính sách chế độ khác… chưa tạo động lực cho
người lao động tự phấn đấu để phát triển trình độ chuyên môn, tay nghề của mình trong quá trình
công tác.
Kết luận chƣơng 2
Chủ trương từng bước tiếp cận KTTT đã được đề ra ở Việt Nam từ năm 2001. Để hiện
thực hoá chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng tới việc phát triển nguồn
nhân lực CLC. Từ năm 2001 đến nay, việc phát triển nguồn nhân lực CLC ở Việt Nam đã đạt
được một số những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Tuy nhiên, những kết quả đó chỉ được đặt
trong sự so sánh khép kín đối với chính nguồn nhân lực CLC của Việt Nam. Nếu so sánh với
thế giới và so sánh với yêu cầu của quá trình phát triển đột phá để hình thành nền KTTT thì
nguồn nhân lực CLC ở Việt Nam còn bộ lộ những hạn chế lớn: Mất cân đối giữa phát triển về
số lượng và phát triển về chất lượng nguồn nhân lực trình độ đại học; (2) Không bắt kịp và bị
bỏ lại quá xa trong phát triển cả về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trình độ đại học so
với xu thế hình thành nền KTTT của thời đại ngày nay. Những hạn chế đó do tác động của sự
lạc hậu và sự cứng nhắc trong quá trình đào tạo và quá trình sử dụng nguồn nhân lực CLC ở
Việt Nam thời gian qua. Với thực trạng phát triển nguồn nhân lực CLC như trên, Việt Nam
không thể tạo được những bước phát triển đột phá để hình thành nền KTTT và luôn luôn tụt
hậu và ngày càng tụt hậu xa hơn so với trình độ phát triển của thế giới. Cách thức phát triển
nguồn nhân lực CLC ở Việt Nam hiện nay vẫn là một cách thức phát triển tuần tự. Việt Nam
chưa thực sự tìm ra được điểm nhấn để có bước bật nhảy thực sự trong phát triển nguồn nhân
lực CLC nhằm tạo động lực quan trọng cho quá trình hình thành nền KTTT.
Chƣơng 3

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƢỢNG CAO ĐỂ HÌNH THÀNH NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
3.1. QUAN ĐIỂM PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO
ĐỂ HÌNH THÀNH NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
3.1.1. Phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao là yếu tố quan trọng hàng đầu
góp phần hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt nam
Việc phát triển nguồn nhân lực CLC trong bối cảnh ngày nay sẽ giúp các quốc gia, đặc
biệt là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam nắm bắt các tri thức mới của thời đại, để đi
nhanh, đi tắt, đón đầu, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển. Chiến lược
phát triển nguồn nhân lực CLC phải được coi là sự lựa chọn hàng đầu của những quốc gia
đang phát triển muốn theo kịp xu hướng phát triển KTTT của thời đại ngày nay.
3.1.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao để hình thành nền kinh tế tri
thức ở Việt Nam phải chú trọng toàn diện về số lƣợng, cơ cấu và chất lƣợng

20
Phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT ở Việt Nam phải được quan
niệm là một quá trình phát triển toàn diện cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng. Trong đó, số
lượng phải được gia tăng phù hợp, cơ cấu phải được điều chỉnh hợp lý và chất lượng phải
được phát triển bởi những tố chất tiêu biểu thích ứng với yêu cầu của quá trình hình thành nền
kinh tế tri thức đối với nguồn nhân lực chất lượng cao.
3.1.3. Đổi mới việc đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực chất lƣợng cao là điều kiện
cơ bản để phát triển lực lƣợng này
Muốn có nguồn nhân lực CLC có thể làm chủ được quá trình chuyển biến mãnh mẽ
của thời đại, cần phải tiến hành đổi mới liên tục và cơ bản lĩnh vực đào tạo và sử dụng nguồn
nhân lực CLC. Đổi mới trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực CLC, trước hết là sự đổi mới
trong nhận thức. Bên cạnh đó, cần chú trọng vào việc tăng cường đầu tư cho giáo dục - đào
tạo; xúc tiến cải cách, hiện đại hoá hệ thống giáo dục, tạo cơ hội học tập thường xuyên, suốt
đời; gắn kết một cách chặt chẽ, hiệu quả các sơ sở nghiên cứu khoa học, các trường đại học,
cao đẳng với doanh nghiệp,… Đổi mới quan trọng nhất trong quá trình sử dụng nguồn nhân
lực CLC là phải hình thành được một bầu không khí xã hội dân chủ, khuyến khích tự do tư

tưởng, nhất là những tư tưởng mới, đầy tính sáng tạo, có chế độ sử dụng, đánh giá và đãi ngộ
nhân tài xứng đáng, tạo điều kiện cho mỗi người có thể làm việc độc lập hơn nhưng lại có
thể phát huy được hết sức sáng tạo và trách nhiệm của mình.
3.1.4. Đổi mới triệt để giáo dục đại học theo hƣớng hiện đại là điều kiện trọng
tâm để phát triển nguồn nhân lực chất lƣợng cao
Trong bối cảnh hiện nay, phải tìm ra cách thức để đổi mới triệt để GD ĐH theo hướng
hiện đại, làm cho GD ĐH đi trước một bước so với trình độ phát triển kinh tế của đất nước thì
nó mới thực sự đảm nhiệm được vai trò phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền
KTTT ở Việt Nam.
3.2. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƢỢNG CAO ĐỂ
HÌNH THÀNH NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM
3.2.1. Nhóm giải pháp chung
3.2.1.1. Thành lập cơ quan quốc gia về phát triển nguồn nhân lực, trong đó chú trọng vấn đề
phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT ở Việt Nam
Việc thành lập cơ quan quốc gia về phát triển nguồn nhân lực được đưa ra dựa vào
nhu cầu cấp bách về việc cần phải thực hiện công tác thống kê, công tác hoạch định, tư vấn về
phát triển nguồn nhân lực một cách chuyên nghiệp, hiện đại và khoa học, đồng thời dựa vào
kinh nghiệm thành công của Đài Loan trong việc thành lập cơ quan này để tạo nên bước đột
phá trong phát triển nguồn nhân lực và phát triển kinh tế. Cơ quan quốc gia về phát triển
nguồn nhân lực cần phải được đầu tư toàn diện cả về nguồn lực con người và nguồn lực vật
chất, để đủ sức vươn lên thành một tổ chức đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong tư vấn
phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực CLC nói riêng.
3.2.1.2. Thành lập Bộ giáo dục Đại học

21
GDĐH có sự khác biệt cơ bản so với giáo dục phổ thông, vì vậy cần thiết phải có
riêng một Bộ Giáo dục đại học đứng ra thực hiện chức năng quan lý cấp học này. Bộ Giáo
dục đại học sẽ là đơn vị quản lý thống nhất hệ thống GDĐH ở Việt Nam để tránh tình trạng
nhiều Bộ ngành cùng tham gia quản lý quá trình đào tạo. Bộ Giáo dục Đại học sẽ đổi mới cơ
chế quản lý GD ĐH một cách cơ bản và toàn diện theo hướng gia tăng mạnh mẽ tính tự chủ

rộng rãi cho các trường đại học.
3.2.1.3. Tăng đầu tư để phát triển, hiện đại hoá kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật,
trước hết là hạ tầng thông tin, internet
Để tăng nguồn đầu tư cho phát triển, hiện đại hoá kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật,
trước hết là hạ tầng thông tin, internet, cần phải đa dạng hoá các nguồn đầu tư theo hướng:
khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, tháo bỏ các rào cản, có chính sách ưu
đãi đặc biệt đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này.
3.2.2. Nhóm giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực chất lƣợng cao để hình thành
nền kinh tế tri thức
3.2.2.1. Đổi mới tư duy giáo dục đại học
Đối với Việt Nam, nếu muốn đào tạo nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT,
thì tư duy về GD ĐH cần phải có sự đổi mới triệt để. Phải tư duy lại một cách nhất quán mọi
vấn đề cơ bản, kể cả những vấn đề được coi là bất biến như bản chất, mục tiêu của GDĐH.
Chỉ khi nào Việt Nam thoát khỏi những quan niệm sơ cứng, máy móc, giáo điều, lấy thực tiễn
làm tiêu chuẩn chân lý, tiến tới đảm bảo sự tương thích và nhất quán giữa lý luận và thực tiễn
thì việc đổi mới triệt để tư duy về GD ĐH mới có thể thực hiện thành công và định hướng
đúng đắn cho quá trình đổi mới triệt để GD ĐH theo hướng hiện đại trong bối cảnh hiện nay.
3.2.2.2. Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục đại học
Thực hiện đổi mới cơ chế quản lý GD ĐH theo hướng xác định tư cách tự chủ của
trường đại học trong việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học và học tập. Các trường đại học cần
được mở rộng tối đa quyền tự chủ về tài chính, tổ chức, nhân sự, hành chính sự nghiệp, về
xây dựng nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy. Sự chuyển hướng cơ bản trong
quản lý nhà nước về GD ĐH sẽ tạo điều kiện cho các trường phát huy khả năng thích ứng linh
hoạt và sáng tạo trong hoạt động đào tạo. Điều này tất yếu tạo nên những sản phẩm nhân lực
đáp ứng được yêu cầu của xã hội trong xu hướng chuyển động mạnh mẽ của thời đại ngày
nay.
3.2.2.2. Đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giảng dạy đại học theo
hướng hiện đại
Phải xây dựng chương trỡnh với một tỷ lệ thớch hợp giữa kiến thức cơ bản, kiến thức
chuyên sâu gắn liền với nhu cầu của các ngành kinh tế và kiến thức hiện đại, nhằm tạo cho

sinh viên, sau khi ra trường, không những chỉ có khả năng tiếp thu tốt sự chuyển giao công
nghệ, mà cũn cú thể cải tiến cụng nghệ và tiến tới sỏng tạo cụng nghệ mới.

22
Hiện đại hoá phương pháp giảng dạy chỉ đạt được mục tiêu khi làm chuyển hoá được
tư duy của người học, từ tư duy khép kín sang tư duy mở, từ bị nhồi nhét kiến thức sang cần
mẫn tự học và tích góp kiến thức. Từ đó, khả năng vô tận của người học sẽ được phát huy và
họ sẽ đủ sức sáng tạo lên những bước đi đột phá trong cuộc sống. Hiện đại hoá phương pháp
giảng dạy chính là khoa học hoá nó, làm cho nó phù hợp với quy luật nhận thức và quy luật
tiếp nhận tri thức của người học.
3.2.2.3. Chuẩn hoá đội ngũ giảng viên đại học
Trong thời đại mà nhiều nước công nghiệp tiên tiến đang chuyển dần sang kinh tế trí
thức thỡ việc chuẩn húa đội ngũ giảng viên đại học theo các tiêu chí: kiến thức, phương pháp
giảng dạy, đạo đức - tư cách và khả năng nghiên cứu. Bên cạnh đó tỷ lệ sinh viên/giảng viên
cũng cần được chuẩn hoá theo tiêu chí đề ra.
3.2.2.4. Xây dựng hệ thống giáo dục đại học theo hướng hiện đại
Cần tập trung xây dựng ở Việt Nam một số đại học nghiên cứu tiêu biểu trong thời
điểm hiện nay để thực hiện việc đào tạo ra ba đội ngũ nhân lực tiên phong trong công cuộc
hình thành nền KTTT, đó là đội ngũ lãnh đạo, đội ngũ nhà khoa học và đội ngũ doanh nhân.
Đại chúng hoá giáo dục đại học để từng bước đạt được cấp độ đại học đại chúng ở
Việt Nam. Trong quá trình thực hiện đại chúng hoá giáo dục đại học cần: Nhận thức được
những khó khăn và thuận lợi khi thực hiện đại chúng hoá đại học ở Việt Nam; Đa dạng hoá
trong giáo dục đại học ; Thị trường hoá giáo dục đại học thông qua việc xây dựng các trường
đại học tư vô vị lợi; Quốc tế hoá hoạt động giáo dục đại học.
3.2.3. Nhóm giải pháp về sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao
3.2.3.1. Đổi mới chính sách sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung
Đổi mới chính sách tuyển dụng, bố trí sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao theo
hướng xây dựng và thực hiện những phương pháp tuyển dụng công khai, hợp lý, khách quan,
chính xác và bố trí phân công nhân lực hợp lý dựa trên cơ sở năng lực và phân tích công việc,
xây dựng định mức và các chức danh.

Cải cách chính sách tiền lương theo hướng tiền tệ hoá toàn diện và triệt để; xây dựng
hệ thống trả lương hợp lý, hiệu quả, phù hợp với cơ chế thị trường; , đẩy nhanh tốc độ cải
cách tiền lương trong khu vực Nhà nước nhằm phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của nền kinh
tế thị trường và có sự hợp lý tương đối so với tiền lương trong khu vực tư
Đổi mới chính sách đãi ngộ trong quá trình sử dụng nguồn nhân lực CLC theo hướng:
cải tiến các chế độ bảo hiểm xã hội và tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện
Luật Bảo hiểm xã hội; tạo môi trường tâm lý – xã hội nơi làm việc kích thích tính tích cực của
người lao động; thực hiện những đãi ngộ đối với đội ngũ hoạt động nghiên cứu khoa học; đổi
mới chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ nhân lực CLC làm việc ở vùng nông thôn, miền núi.
3.2.3.2. Tạo sự đột phá trong chính sách thu hút và trọng dụng nguồn nhân lực tài
năng – nhân tài

23
Tối ưu hoá việc thu hút và trọng dụng nhân tài có sẵn của quốc gia theo những yêu cầu
sau: thành tâm trong việc thu hút nhân tài; mạnh dạn thu hút và trọng dụng đội ngũ nhân tài
trẻ tuổi; linh hoạt trong thu hút và trọng dụng nhân tài ngoài Đảng.
Mở ra con đường mới thu hút và trọng dụng đội ngũ trí thức Việt Kiều theo hướng:
tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học có thể đi lại, hoặc định cư ở Việt Nam, kể cả
việc chấp nhận hai quốc tịch; có thể trả lương tương đương với mức lương họ đang hưởng ở
nước ngoài nếu thấy lĩnh vực khoa học đó đặc biệt cần thiết đối với phát triển kinh tế – xã hội
ở Việt Nam; bố trí nhà ở, sắp xếp công việc cho vợ (hoặc chồng), con; ưu tiên việc bố trí học
tập ở những trường có uy tín đối với con các nhà khoa học có nguyện vọng về Việt Nam công
tác lâu dài; sắp xếp công việc phù hợp với ngành nghề và có thể giao giữ một số chức vụ quản
lý khoa học, kinh tế nếu thấy cần thiết; tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học có thể
khai thác thông tin khoa học, các điều kiện thí nghiệm, trao đổi học tập và khảo sát thực tế ở
Việt Nam đồng thời giao những công việc cụ thể nhằm giải quyết những vấn đề trong phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội của Việt Nam; cho vay vốn ưu đãi, miễn thuế, cho mượn hoặc
cho thuê đất với giá rẻ, giúp các nhà khoa học triển khai các sản phẩm khoa học – công nghệ
mới có hàm lượng trí tuệ cao.
3.2.3.3 Tạo mọi cơ hội thuận lợi để đội ngũ nhân tài chính trị phát huy được vai trò

dẫn đường cho công cuộc phát triển đột phá ở Việt Nam
Gia tăng sức ép của dư luận xã hội về nhu cầu thực hiện con đường phát triển đột phá
để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Việc gia tăng hơn nữa sức ép của dư luận xã
hội là yếu tố mang tính lực đẩy để đội ngũ lãnh đạo quốc gia thực sự có nhu cầu sử dụng
những nhân tài chính trị để hiện thực hoá quyết tâm và hành động hướng tới việc xây dựng
và hình thành nền KTTT của quốc gia.
Giảm thiểu những tác động làm hạn chế quá trình phát huy khả năng sáng tạo của đội
ngũ nhân tài khoa học xã hội. Đội ngũ các nhà KHXH chính là lực lượng cơ bản để hình
thành nên đội ngũ nhân tài chính trị của mỗi quốc gia. Vì vậy, để đội ngũ nhân tài chính trị
phát huy được vai trò dẫn đường trong quá trình thực hiện bước phát triển đột phá ở Việt
Nam, lực lượng các nhà KHXH cần phải được phát huy tối đa khả năng sáng tạo tư tưởng của
họ bằng cách: xây dựng một Quy chế hoạt động KHXH và nhân văn; có cơ chế đặc biệt nhằm
bảo vệ những nhân tài quốc gia khi họ thực hiện những nghiên cứu và phản biện về con
đường hình thành nền KTTT của Việt Nam.
Kết luận chƣơng 3
Muốn tạo ra những đột phá trong phát triển nguồn nhân lực CLC để có thể hình thành
nền KTTT ở Việt Nam, trước hết phải có những nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng hàng đầu
của việc phát triển nguồn nhân lực CLC đối với tương lai phát triển của đất nước. Bên cạnh
đó, cần phải nhận thức được một cách toàn diện những nội dung thiết yếu phải thực hiện để có
thể phát triển nguồn nhân lực CLC có khả năng làm chủ tri thức mới. Trong quá trình phát
triển nguồn nhân lực CLC, hai vấn đề liên quan tới đào tạo và sử dụng phải được coi là những
yếu tố tác động trực tiếp và quan trọng nhất. Trong đó, yếu tố đào tạo - đặc biệt là hoạt động

24
đào tạo ở bậc đại học phải được coi là chìa khoá tạo lên sự đột phá cho nguồn nhân lực CLC
của Việt Nam.
Trên cơ sở định hướng của những nhận thức nêu trên, việc phát triển nguồn nhân lực
CLC cần được thực hiện bằng hai giải pháp cơ bản: Đổi mới triệt để giáo dục đại học theo
hướng hiện đại; Mở ra một con đường mới trong việc sử dụng nguồn nhân lực CLC. Hai giải
pháp này nhằm tạo ra môi trường để nguồn nhân lực CLC có điều kiện gia tăng tối đa về số

lượng, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu và khai phóng được những tố chất tiềm ẩn để thích ứng
và làm chủ được hành trình hướng tới nền KTTT của Việt Nam trong tương lai.
KẾT LUẬN
Phát triển nguồn nhân lực CLC là một điều kiện cơ bản và quan trọng nhất trong quá
trình từng bước tiếp cận và hình thành nền KTTT của Việt Nam. Phát triển nguồn nhân lực
CLC cần phải được thực hiện với những nội dung nào để đảm bảo nguồn nhân lực có khả
năng làm chủ tri thức mới trong quá trình hiện thực hoá nền KTTT ở Việt Nam. Đây chính là
chủ đề của Đề tài luận án tiến sỹ kinh tế của nghiên cứu sinh. Từ việc thực hiện chủ đề nghiên
cứu này, tác giả luận án đưa ra một số kết luận như sau:
1. Hình thành nền KTTT là một xu thế phát triển tất yếu của thời đại ngày nay. Trong
xu thế đó, tri thức đã thay thế vốn và lao động, trở thành yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất
quyết định sức mạnh phát triển. Vì vậy, bất kỳ quốc gia nào muốn theo kịp xu thế phát triển
của thời đại đều phải chú trọng đặc biệt tới việc phát triển nguồn nhân lực CLC để lực lượng
này có khả năng làm chủ tri thức mới. Đây là điều kiện cơ bản và quan trọng nhất quyết định
sự thành công của mỗi quốc gia trong hành trình hướng tới nền KTTT.
2. Việc phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT cần được thực hiện
toàn diện ở ba nội dung: gia tăng số lượng nguồn nhân lực CLC tới để lực lượng này trở thành
lực lượng đại chúng trong tổng lực lượng lao động; chuyển dịch cơ cấu nhân lực CLC theo
hướng gia tăng lực lượng lao động CLC làm việc trong những ngành công nghiệp tri thức;
hình thành và phát huy được những tố chất tiêu biểu, đó là tố chất dân tộc, tố chất thích ứng
và tố chất sáng tạo.
3. Có rất nhiều yếu tố tác động tới quá trình phát triển nguồn nhân lực CLC để hình
thành nền KTTT. Tuy nhiên, hai yếu tố tác động trực tiếp và ảnh hưởng toàn diện tới quá
trình phát triển này là yếu tố đào tạo (đặc biệt là đào tạo đại học) và yếu tố sử dụng nguồn
nhân lực CLC. Trong quá trình phát triển nguồn nhân lực CLC để hình thành nền KTTT, các
quốc gia đã đặc biệt chú trọng tới hai yếu tố này và đã gặt hái được những thành công, đồng
thời để lại nhiều bài học kinh nghiệm cho những quốc gia đi sau như Việt Nam.
4. Chủ trương từng bước tiếp cận KTTT đã được đề ra ở Việt Nam từ năm 2001. Để
hiện thực hoá chủ trương đó, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng tới việc phát triển
nguồn nhân lực CLC. Từ năm 2001 đến nay, việc phát triển nguồn nhân lực CLC ở Việt Nam

đã đạt được một số những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Tuy nhiên, những kết quả đó chỉ
được đặt trong sự so sánh khép kín đối với chính nguồn nhân lực CLC của Việt Nam. Nếu so
sánh với thế giới và so sánh với yêu cầu của quá trình phát triển đột phá để hình thành nền

25
KTTT thỡ ngun nhõn lc CLC Vit Nam cũn b l nhng hn ch ln: Mt cõn i gia
phỏt trin v s lng v phỏt trin v cht lng ngun nhõn lc trỡnh i hc; (2) Khụng
bt kp v b b li quỏ xa trong phỏt trin c v s lng v cht lng ngun nhõn lc trỡnh
i hc so vi xu th hỡnh thnh nn KTTT ca thi i ngy nay.
5. Nhng hn ch trong phỏt trin ngun nhõn lc CLC ca Vit Nam do tỏc ng ca
s lc hu v s cng nhc trong quỏ trỡnh o to v quỏ trỡnh s dng ngun nhõn lc CLC
Vit Nam thi gian qua. Vi thc trng phỏt trin ngun nhõn lc CLC nh trờn, Vit Nam
khụng th to c nhng bc phỏt trin t phỏ hỡnh thnh nn KTTT v luụn luụn tt
hu v ngy cng tt hu xa hn so vi trỡnh phỏt trin ca th gii. Cỏch thc phỏt trin
ngun nhõn lc CLC Vit Nam hin nay vn l mt cỏch thc phỏt trin tun t. Vit Nam
cha thc s tỡm ra c im nhn cú bc bt nhy thc s trong phỏt trin ngun nhõn
lc CLC nhm to ng lc quan trng cho quỏ trỡnh hỡnh thnh nn KTTT.
6. to nờn s chuyn bin c bn v ton din trong phỏt trin ngun nhõn lc CLC
nhm hng ti mc tiờu hỡnh thnh nn KTTT, trc ht phi cú nhng nhn thc y v
vai trũ quyt nh hng u ca vic phỏt trin ngun nhõn lc CLC i vi tng lai phỏt
trin ca t nc. Bờn cnh ú, cn phi nhn thc c mt cỏch ton din nhng ni dung
ct yu cn phi thc hin phỏt trin ngun nhõn lc CLC cú kh nng lm ch tri thc
mi. Trong quỏ trỡnh phỏt trin ngun nhõn lc CLC, hai vn liờn quan ti o to v s
dng phi c coi l nhng yu t tỏc ng trc tip v quan trng nht. Trong ú, yu t
o to - c bit l hot ng o to bc i hc phi c coi l chỡa khoỏ to lờn s t
phỏ cho ngun nhõn lc CLC ca Vit Nam.
7. Trờn c s nhng nh hng v mt quan im nờu trờn, vic phỏt trin ngun
nhõn lc CLC cn c thc hin bng hai gii phỏp c bn: i mi trit giỏo dc i
hc theo hng hin i; M ra mt con ng mi trong vic s dng ngun nhõn lc CLC.
Hai gii phỏp ny nhm to ra mụi trng ngun nhõn lc CLC cú iu kin gia tng ti a

v s lng, chuyn dch mnh m v c cu v khai phúng c nhng t cht tim n
thớch ng v lm ch c hnh trỡnh hng ti nn KTTT ca Vit Nam trong tng lai.

References
Tài liệu tiếng Việt
[1]. Alvin Toffler, Haiditoffler (1996): To dng mt nn vn minh mi, Nxb Chớnh tr
quc gia, Hà Nội.
[2]. Alvin Toffler (2002): Làn sóng văn minh thứ ba, Nxb Thanh niên, Tp Hồ Chí Minh.
[3]. Alvin Toffler (2002): Cú sốc t-ơng lai, Nxb Thanh niên, Tp Hồ Chí Minh.
[4]. Huy Anh (2004): Mữc độ sẵn sng ca nguồn nhân lức nớc ta trong pht triển nền
KTTT, Tạp chí Thông tin kinh tế xã hội, tháng 1.
[5]. Đinh Văn Ân, Hoàng Thu Hoà (2008): Giáo dục và Đào tạo chìa khoá của sự phát
triển, Nxb Tài chính, Hà Nội.

×