Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.52 KB, 110 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

TẠ MINH ĐỨC

SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI – 2014


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

TẠ MINH ĐỨC

SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH ĐỒNG NAI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS CHỬ VĂN TUYÊN

HÀ NỘI - 2014



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Chữ viết tắt
CNH, HĐH

Giáo dục và đào tạo

GD&ĐT

Khoa học và công nghệ

KH&CN

Kinh tế - xã hội

KT - XH

Nguồn nhân lực

NNL

Uỷ ban Nhân dân

UBND


MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
Chương 1

3
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ
10

1.1

HỘI Ở TỈNH ĐỒNG NAI
Những vấn đề chung về sử dụng nguồn nhân lực

10

1.2

trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
Thực trạng sử dụng nguồn nhân lực trong quá

26

Chương 2

trình phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Đồng Nai
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN
LỰC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH ĐỒNG NAI


42

2.1

THỜI GIAN TỚI
Những quan điểm cơ bản về sử dụng nguồn nhân

42

2.2

lực trong phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Đồng Nai
Một số giải pháp chủ yếu nhằm sử dụng có hiệu quả
nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở
Đồng Nai thời gian tới

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

60
91
92
95


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài

Trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, dù trong thời kỳ đấu tranh
giành độc lập hay hoà bình xây dựng, Đảng ta luôn xác định yếu tố con người
có vai trò đặc biệt quan trọng trong thực hiện các mục tiêu chính trị, kinh tế,
xã hội. Phát huy nguồn lực con người và vì hạnh phúc của con người luôn là
điểm xuất phát, là đích cuối cùng trong toàn bộ đường lối, chiến lược phát
triển của đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nguồn lực con người nguồn nhân lực, là nguồn lực của mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế và
tiến bộ xã hội. Vì vậy, phát triển và sử dụng có hiệu quả NNL là yếu tố quyết
định cho sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế quốc dân.
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang
cơ chế thị trường, đặc biệt trong điều kiện cách mạng KH&CN hiện đại, xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa và hội nhập
kinh tế quốc tế... đòi hỏi chúng ta không chỉ đào tạo được đội ngũ người lao
động đủ khả năng, trình độ đáp ứng những đòi hỏi khách quan của quá trình
ấy, mà điều có tính chất quyết định nhất là quy hoạch sử dụng một cách tối ưu
NNL hiện có vào các lĩnh vực, các mục tiêu, các nhiệm vụ KT - XH của đất
nước. Nhận thức được tầm quan trọng cũng như một số hạn chế, bất cập trong
sử dụng NNL cho phát triển KT - XH, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng đã khẳng định “Tình trạng thiếu việc làm còn cao. Chính sách tiền
lương, thu nhập chưa động viên được cán bộ công chức, người lao động gắn
bó, tận tâm với công việc” [VK ĐHXI, tr.168]. Điều đó cho thấy, đào tạo đi
đôi với phân bổ, sử dụng NNL một cách hợp lý, hiệu quả đã và đang trở thành
một trong các yếu tố then chốt thúc đẩy KT - XH phát triển.
Đồng Nai là tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng phát triển
kinh tế trọng điểm phía Nam, có diện tích 5.903,940 km2, chiếm 1,76% diện
tích tự nhiên cả nước; 25,5% diện tích tự nhiên của vùng Đông Nam Bộ.


4
Đồng Nai là một tỉnh có tốc độ CNH, HĐH và đô thị hóa nhanh, góp phần
xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới đất nước.

Năm 2010, dân số của Đồng Nai là 2.559.673, có 1.250.000 người trong độ
tuổi lao động và gần 1.000.000 người đang làm việc trong các lĩnh vực kinh tế xã
hội khác nhau trên địa bàn Tỉnh. Hiện tại NNL ở Đồng Nai vừa thừa, vừa thiếu,
mất cân đối cả từ quá trình đào tạo đến việc phân bổ, sử dụng và chưa đáp ứng
được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nền kinh tế. Các chủ trương, chính sách
và việc tổ chức thực hiện trên thực tế những vấn đề liên quan đến người lao động
và người sử dụng lao động; đến nghĩa vụ và quyền lợi của tất cả những người lao
động nói chung, còn nhiều bất cập, chưa thật sự tạo thêm động lực mới cho kinh
tế xã hội của Đồng Nai phát triển nhanh, bền vững hơn.
Với thực trạng trên, việc nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận và phân tích thực trạng sử dụng NNL; đề xuất phương hướng và
những giải pháp cơ bản trong quá trình quy hoạch, sử dụng NNL đáp ứng yêu
cầu phát triển KT - XH ở Đồng Nai hiện nay trở thành yêu cầu cấp thiết cả về
lý luận và thực tiễn. Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Sử dụng nguồn nhân lực
trong phát triển kinh tế - xã hội ở tỉnh Đồng Nai ”, làm luận văn thạc sĩ kinh
tế - chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đào tạo, sử dụng, phát triển NNL cho CNH, HĐH và phát triển KT XH nói chung, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các góc độ, phạm vi khác
nhau, có thể khái quát thành các nhóm công trình sau:
* Những công trình nghiên cứu về nguồn nhân lực nói chung
Chương trình KH&CN cấp nhà nước KX-07, HN.1994. Vấn đề con
người trong công cuộc đổi mới của Giáo sư Phạm Minh Hạc. Trên cơ sở
nghiên cứu các tài liệu trong nước và quốc tế, đề tài phân tích làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn về vai trò của con người trong tiến trình vận động, phát triển
của xã hội nói chung, trong đó chỉ ra: Con người là nguồn lực quan trọng nhất
trong công cuộc đổi mới hiện nay. Từ đó, đề tài đưa ra nhưng dự báo, phương


5
hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy yếu tố con người trong sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Con người và nguồn lực con người trong phát triển (Nhiều tác giả)
Trung tâm Khoa học Xã hội nhân văn quốc gia, H, 1995.
Cuốn sách đã tập hợp các bài viết, công trình nghiên cứu của nhiều tác
giả trên thế giới bàn về vấn đề con người theo các góc độ khác nhau; về động
cơ hoạt động của con người; mô hình mới về sử dụng nguồn lực con người;
trí tuệ hóa lao động và đào tạo chuyên môn; tiếp cận mới đối với chính sách
việc làm, con người và môi trường.
Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta,
của tiến sĩ Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm, H.1998. Cuốc sách đã khái quát
những kinh nghiệm về phát triển NNL của các nước trên thế giới, trong đó tập
trung vào lĩnh vực GD&ĐT - yếu tố quyết định phát triển NNL.
Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển nguồn nhân
lực, Viện Phát triển Giáo dục, H. 2002. Cuốn sách này đã tập hợp kết quả nghiên
cứu của các nhà khoa học và các nhà quản lý ở nhiều lĩnh vực khoa học kinh tế
và xã hội khác nhau với mục tiêu thống nhất quan điểm, chính sách về phát triển
NNL. Đồng thời, đề xuất một khung chính sách phát triển NNL nhằm triển khai
thành công các mục tiêu đề ra trong chiến lược phát triển GD&ĐT.
* Nhóm công trình nghiên cứu về đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực ở một số địa phương, ngành, lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế
Tác động của đào tạo nguồn nhân lực trong sự nghiệp CNH, HĐH đến
cũng cố quốc phòng ở nước ta hiện nay, Bùi Thúc Vịnh, luận văn thạc sĩ, Học
viện Chính trị Quân sự, H. 2000. Tác giả chỉ ra sự cần thiết, nội dung và thực
trạng đào tạo NNL cho CNH, HĐH và tác động của nó đối với củng cố quốc
phòng ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất các quan điểm, giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao chất lượng đào tạo NNL đáp ứng nhu cầu CNH, HĐH và
củng cố nền quốc phòng toàn dân.


6

Nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát triển kinh tế - xã hội ở thành
phố Đà Nẵng, Lê Quang Hùng, luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, H. 2006. Tác giả khảo sát, nghiên cứu thực trạng chất lượng NNL ở
thành phố Đà Nẵng, phân tích làm rõ vấn đề lý luận về nguồn nhân lực và nâng
cao chất lượng NNL. Luận giải một cách khoa học NNL chất lượng cao là động
lực cho quá trình CNH, HĐH rút ngắn, tiếp cận kinh tế trí thức ở Việt Nam.
Đào tạo, bồi dưỡng công chức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta
(qua thực tiễn ở thành phố Hà Nội), Tạ Quang Ngải, luận văn thạc sĩ, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, H. 2006. Tác giả đã đánh giá thực trạng
công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức hiện nay (qua thực tiễn ở thành phố Hà
Nội), đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng công
chức góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ công chức trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta nói chung, ở thành phố Hà Nội nói riêng.
Vai trò của quân đội trong phát triển nguồn nhân lực phục vục CNH,
HĐH ở nước ta hiện nay, Hoàng Văn Phai, luận văn thạc sĩ, Học viện Chính
trị Quân sự 2008. Tác giả đã luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của
quân đội trong phát triển NNL phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trên
cơ sở đó đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trò của
quân đội trong quá trình này.
Đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội ở Đà Nẵng hiện
nay, Lê Văn Hiền, luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng, H
2010. Tác giả luận văn đã đề cập và luận giải một số vấn đề về đào tạo NNL ở
thành phố Đà Nẵng thời gian 2001 đến 2010; phân tích làm rõ sự cần thiết
phải đào tạo, đào tạo lại NNL; thực trạng về quy mô, phương thức, kết quả
đào tạo chuyên môn ngành nghề cho người lao động; đề xuất một số quan
điểm, giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo NNL đáp ứng yêu cầu
phát triển KT - XH của thành phố đến năm 2020.


7

* Nhóm các công trình nghiên cứu về sử dụng nguồn nhân lực
Sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta, Trần Kim Hải,
Luận án tiến sỹ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, H. 1999.
Tác giả đã tổng quan các khái niệm về NNL và những vấn đề cơ bản trong sử
dụng NNL; đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NNL ở
Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
Tổ chức và sử dụng có hiệu quả nguồn lao động xã hội của Việt Nam
trong lĩnh vực đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, Phạm Kiên
Cường, luận án tiến sĩ. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, H. 2002.
Tác giả đã trình bày những giải pháp quan trọng nhằm mở rộng về số lượng,
nâng cao về chất lượng nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài trong điều
kiện Việt Nam mở cửa, hội nhập quốc tế.
Sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH ở Ninh Bình, Lê Thị Bích
Hạnh, Luận văn thạc sĩ, Trung tâm Đào tạo, bồi dưỡng Giảng viên LLCT. Hà
Nội 2011. Tác giả luận văn đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về NNL và
sử dụng NNL trong quá trình phát triển kinh tế. Luận giải yêu cầu, xu hướng,
đặc điểm của sử dụng NNL trong quá trình CNH, HĐH. Đánh giá những
thành tựu, thuận lợi; những khó khăn và hạn chế trong sử dụng NNL; đề xuất
phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng NNL trong quá trình
CNH, HĐH ở Ninh Bình.
Đào tạo và sử dụng nhân lực trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Nxb Giáo dục 2007, Phan Văn Kha, sách tham khảo. Tác giả đề cập và luận
giải mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng nhân lực trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Thực trạng và giải pháp tăng
cường mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng nhân lực ở các trình độ khác nhau.
Tuy tiếp cận và luận giải ở những góc độ khác nhau, nhưng nhìn chung
các tác giả đều khẳng định vai trò quan trọng của NNL và sử dụng có hiệu
quả NNL là yêu cầu tất yếu để thực hiện các mục tiêu KT - XH.



8
Có thể chưa thống kê được hết các công trình nghiên cứu có liên quan,
nhưng các công trình, đề tài nghiên cứu (mà tác giả được biết) đến nay chỉ tập
trung nghiên cứu những vấn đề chung về đào tạo, phát triển NNL; hoặc
nghiên cứu NNL ở những ngành nghề cụ thể; hoặc ở một số địa phương. Các
công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh, với cách tiếp cận phong
phú, nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu sử dụng NNL cho phát
triển KT - XH ở tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của luận văn không
trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn về sử dụng NNL trong phát
triển KT - XH ở tỉnh Đồng Nai. Trên cơ sở đó, đề xuất quan điểm, giải pháp
cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NNL đáp ứng yêu cầu phát triển KT XH ở Đồng Nai trong những năm tới.
* Nhiệm vụ
Làm rõ một số vấn đề lý luận về sử dụng NNL trong phát triển KT XH ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.
Khảo sát, đánh giá thực trạng sử dụng NNL trong quá trình phát triển
KT - XH ở tỉnh Đồng Nai.
Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả NNL
cho phát triển KT - XH ở tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
“Sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội”.
* Phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề liên quan đến sử dụng NNL trong quá trình phát triển KT
- XH ở Đồng Nai từ 2005 - 2013 (tập trung luận giải thực trạng sử dụng nhân


9
lực trong ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và khu vực kinh

tế ngoài nhà nước; mối quan hệ người sử dụng lao động và người lao động).
Tư liệu, số liệu minh họa, phân tích, so sánh, khảo sát có liên quan đến một số
địa phương trong Tỉnh, thời gian từ năm 2006 đến 2013.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở nguyên lý kinh tế chính trị Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối, chính sách phát triển kinh tế của
Đảng và Nhà nước; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai, những nghị
quyết, chủ trương của Tỉnh ủy, chỉ thị, quyết định của UBND tỉnh trong
những năm gần đây có liên quan đến sử dụng NNL cho phát KT - XH.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của kinh tế học chính trị:
trừu tượng hóa khoa học; kết hợp lô-gíc với lịch sử; so sánh, phân tích, tổng
hợp, thống kê; phương pháp chuyên gia cùng một số phương pháp khác trong
thực hiện đề tài.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm tài liệu tham
khảo về sử dụng NNL, sự cần thiết phải tối ưu hóa sử dụng NNL; thực trạng
và quan điểm, giải pháp cơ bản về sử dụng NNL cho phát triển KT - XH ở
Đồng Nai. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ
nghiên cứu giảng dạy trong các trường đại học và cao đẳng; đồng thời cung
cấp luận cứ khoa học để các cấp lãnh đạo tỉnh hoạch định chính sách và
biện pháp đào tạo, quy hoạch, sử dụng NNL cho phát triển KT - XH trong
thời gian tới.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu; Phần nội dung (2 chương, 4 tiết); Danh
mục tài liệu tham khảo và Phụ lục.


10

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI Ở TỈNH ĐỒNG NAI
1.1. Những vấn đề chung về sử dụng nguồn nhân lực trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội
1.1.1. Nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển
kinh tế - xã hội
Quan niệm về nguồn nhân lực và sử dụng nguồn nhân lực trong phát
triển kinh tế - xã hội
Nguồn nhân lực
Trước đây người ta đã thấy được vai trò của yếu tố con người (nguồn
lực con người, nguồn nhân lực) nhưng nhìn nhận nó chỉ đơn thuần là phương
tiện, là một nguồn lực cho phát triển như mọi nguồn lực vật chất khác. Ngày
nay, sự nhận thức trên không còn phù hợp, con người - NNL, không chỉ là
động lực chủ yếu mà còn là thước đo, là mục tiêu của sự phát triển. Chính vì
lẽ đó, NNL hay nguồn lực con người trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học (khoa học tự nhiên, y học, khoa học xã hội...).
NNL là khái niệm đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học.
Trong quá trình nghiên cứu các nhà khoa học đã đưa ra nhiều khái niệm về
NNL dưới những góc độ khác nhau:
Có nhiều ý kiến cho rằng: NNL là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con
người tích luỹ được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập cao
trong tương lai. Cũng giống như nguồn lực vật chất, NNL là kết quả đầu tư
trong quá khứ với mục đích tạo ra thu nhập trong tương lai. Cách hiểu này
còn hạn hẹp, chỉ giới hạn trong trình độ chuyên môn của con người và chưa
đặt ra giới hạn về mặt phạm vi không gian của NNL.


11

Theo Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc: Dù xem xét trên bình diện quốc
gia hay địa phương, NNL được xác định là “tổng thể các nguồn lao động
được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao
động nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói
chung) đang làm việc trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân”.
Theo tác giả Lê Thị Bích Hạnh, NNL là tổng hợp những con người cụ
thể có khả năng tham gia vào quá trình lao động với các yếu tố về thể lực, trí
lực, tâm lực; tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa phương, một quốc
gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và
tính năng động xã hội của con người, nhóm người, tổ chức, địa phương, vùng,
quốc gia. Tính thống nhất đó, được thể hiện ở quá trình biến nguồn lực con
người thành vốn con người đáp ứng yêu cầu phát triển.
Theo quan niệm của các nhà khoa học Việt Nam trình bày trong
chương trình cấp Nhà nước KX-07, NNL được hiểu là “số dân và chất lượng
con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực
phẩm chất, thái độ, phong cách làm việc”.
Như vậy, NNL đựơc biểu hiện trên hai mặt số lượng và chất lượng:
Về số lượng: NNL phụ thuộc vào thời gian làm việc có thể có được của
cá nhân và quy định độ tuổi lao động của mỗi quốc gia. Số lượng NNL đóng
vai trò quan trọng đối với sự phát triển KT - XH. Số lượng không tương xứng
với sự phát triển (thừa hoặc thiếu) thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến quá trình
thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế xã hội nói chung. Nếu thừa sẽ dẫn
đến thất nghiệp, tạo gánh nặng về mặt xã hội cho nền kinh tế; nếu thiếu thì
không có đủ lực lượng lao động cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước.
Về chất lượng: NNL được biểu hiện ở thể lực, trí lực, tinh thần thái độ,
động cơ, ý thức lao động, văn hóa lao động công nghiệp, phẩm chất tốt đẹp
của người công dân đó là yêu nước, yêu lao động (có ý thức trách nhiệm với


12

cuộc sống của chính mình và cộng đồng). Trong ba mặt: thể lực, trí lực, tinh
thần thì thể lực là nền tảng, cơ sở để phát triển trí lực, là phương thức để
chuyển tải khoa học kỹ thuật vào thực tiễn, hình thành và phát triển kỹ năng
lao động. Ý thức tinh thần đạo đức tác phong là yếu tố chi phối hiệu quả hoạt
động chuyển hóa của trí lực thành thực tiễn. Trí tuệ là yếu tố có vai trò quan
trọng hàng đầu của NNL, bởi con người có năng lực, có trí tuệ mới có thể
nghiên cứu sáng tạo và ứng dụng tiến bộ khoa học vào quá trình hoạt động
sản xuất và cải biến xã hội.
Tổng quan một số quan niệm về NNL, tác giả luận văn cho rằng, NNL
có thể tiếp cận theo nhiều góc độ khác nhau, tùy theo mục đích, phạm vi
nghiên cứu. Trong giới hạn một luận văn thạc sĩ kinh tế, chúng tôi cho rằng:
Theo nghĩa chung nhất, nguồn nhân lực là nguồn lực con người, là vốn
người. Gọi NNL là vốn tức là coi con người như một thứ tài nguyên đặc biệt,
một thứ vốn quý giá nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực.
Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực được hiểu như nguồn lực về con
người của một quốc gia, một vùng lãnh thổ, là một bộ phận của các nguồn
lực, có khả năng huy động tổ chức để tham gia vào quá trình phát triển KT XH, nhờ nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính.
Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực được hiểu là lực lượng lao động xã
hội. Đó là một bộ phận của dân số đang làm việc trong các lĩnh vực khác nhau
của nền kinh tế quốc dân hoặc trong một ngành, ở một vùng, một địa
phương... bao gồm những người trong độ tuổi lao động theo quy định của
từng quốc gia.
Như vậy, đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn tiếp cận NNL theo
nghĩa hẹp, đó là tổng hợp những con người cụ thể có khả năng tham gia vào
quá trình lao động với các yếu tố về thể lực, trí lực, tâm lực; tiềm năng lao
động của một tổ chức, một địa phương, một ngành kinh tế trong thể thống


13
nhất hữu cơ giữa năng lực cá nhân và tính chất xã hội của con người, nhóm

người, tổ chức, địa phương, ngành đó. Tính thống nhất đó được thể hiện ở quá
trình biến nguồn lực con người thành vốn con người đáp ứng yêu cầu tăng
trưởng, phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.
Sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội
Sử dụng NNL là việc phân bổ, quản lý khai thác lực lượng lao động ở
các vùng, ngành, lĩnh vực kinh tế... Sử dụng NNL có hiệu quả cao nhất chính
là huy động, khai thác tối đa nguồn lực con người (lực lượng lao động) phù
hợp với điều kiện của nền kinh tế cũng như của từng địa phương, đơn vị kinh
tế... để người lao động có thể đảm nhận và làm tốt nhất công việc được giao
góp phần thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ KT - XH.
Hiện nay kinh tế đất nước đang chuyển mạnh sang cơ chế thị trường, vì
vậy việc sử dụng NNL cho phát triển KT - XH nói chung, ở tỉnh Đồng Nai
nói riêng, không thể không vận dụng các quy luật của thị trường trong giải
quyết các mối quan hệ về lao động (quy luật cung cầu, cạnh tranh, tiết kiệm
và hiệu quả...). Cơ sở lý luận cho việc nhận thức cần và phải sử dụng tối ưu
nguồn lực con người trong phát triển KT - XH chính là quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của con người trong hoạt
động thực tiễn.
Nghiên cứu phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác và
Ph.Ăngghen cho rằng mục đích của sản xuất tư bản là giá trị thặng dư, là lợi
nhuận, nhưng đó là nhìn chung và xét đến cùng. Để có giá trị thặng dư, trước
hết nhà tư bản phải bán được hàng hóa, phải đứng vững được trong cơ chế thị
trường. Điều đó cũng có nghĩa là từng nhà tư bản phải tìm mọi cách ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh, phải không ngừng hoàn
thiện cơ chế và phương thức quản lý kinh tế để khai thác tối đa nguồn lực con
người cho khát vọng làm giàu của nhà tư bản. Trên thực tế, giai cấp tư sản


14
thông qua nhà nước của họ đã rất thành công trong việc khai thác nguồn lực

con người trong các hoạt động kinh tế xã hội.
Trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ kinh tế của nước Nga giai đoạn
1918 - 1924, VI. Lê-nin rất quan tâm đến vai trò làm chủ về kinh tế của
người lao động và tổ chức các phong trào thi đua. Trong “Những nhiệm vụ
trước mắt của chính quyền Xô-viết”, “Sáng kiến vĩ đại”... VI. Lê-nin đã
nhận thấy sức mạnh vô cùng to lớn của quần chúng lao động một khi họ
được làm chủ những công xưởng, hầm mỏ... và được tổ chức quản lý một
cách khoa học.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về người lao động và sử dụng người lao động
trong hoạt động KT - XH (cách dùng người...) cũng đã để lại nhiều điều
cần được nghiên cứu vận dụng vào thực tiễn. Trong kháng chiến chống
Pháp (1946 - 1954), và chống Mỹ (giai đoạn 1954 - 1969), Người thường
động viên mọi tầng lớp nhân dân (trước hết là nông dân, công nhân, trí
thức) hăng hái thi đua lao động sản xuất với tính thần “nhà nông cũng là
chiến sĩ”, “mỗi người làm việc bằng hai”, “tay cày tay súng, tay búa tay
súng”... Vì vậy, chúng ta đã huy động tối đa sức người, sức của cho sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sử dụng NNL theo quan điểm của các nhà kinh tế học (khoa học
quản lý kinh tế, quản trị nhân lực) là nghiên cứu, ứng dụng những thành
tựu của các ngành khoa học kỹ thuật (cơ giới hóa, tự động hóa) các
ngành sinh học, tâm lý học, đạo đức học, nhân chủng học... nhằm tăng
năng suất lao động, nâng cao hiệu suất sử dụng lao động sống, tạo nhiều
giá trị mới (giá trị gia tăng) trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhiều
chuyên gia kinh tế cho rằng, trong thời đại cách mạng khoa học công
nghệ và cơ chế thị trường, quản lý và sử dụng NNL ngày nay là một
ngành khoa học giàu tính nghệ thuật, đồng thời cũng là một môn nghệ
thuật mang đậm tính khoa học.


15

Mối quan hệ giữa đào tạo, phát triển với sử dụng nguồn nhân lực
Muốn sử dụng có hiệu quả NNL trước hết phải đào tạo một đội ngũ
những người lao động hội tụ đủ những yếu tố cần thiết nhất cho hoạt động
thực tiễn KT - XH. Đó là tập hợp những cá nhân có sức khỏe, có tri thức,
có kỹ năng lao động, có ý thức trách nhiệm với chính mình và cộng đồng;
đồng thời phải được tổ chức thành những đơn vị, những tập thể được quản
lý một cách khoa học. Khi đề cập đến yếu tố con người, không chỉ chú ý
đến kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm trong lao động và trong cuộc
sống, mà còn là những con người ngày càng phát triển cao về thể chất,
mạnh mẽ vững vàng về tinh thần, trong sáng về đạo đức, linh hoạt, văn
minh về ứng xử với tự nhiên và xã hội. Trong đó, trí tuệ không chỉ là
những tri thức trừu tượng, mà trước hết là những năng lực chuyên môn
được đào tạo và đào tạo lại trong quá trình sản xuất. Khỏe mạnh về thể chất
không chỉ đơn thuần là sự cường tráng về thể lực, mà nó bao hàm trong đó
sự phát triển tốt về trí lực, tư chất thông minh, tâm lý, thần kinh và trí sáng
tạo cao trong lao động sản xuất, trong công tác. Đạo đức cũng không chỉ là
lương tâm, danh dự, trách nhiệm nói chung, mà trước hết nó được gắn bó
với nghề nghiệp của mỗi người theo sự phân công của xã hội. Linh hoạt và
văn minh về ứng xử là thích ứng nhanh trong mọi hoàn cảnh, luôn giữ thế
chủ động trong mọi tình huống, xử sự một cách thông minh và lịch sự, đầy
lòng nhân ái, vị tha và mang đậm tính nhân văn. Người lao động phải được
đào tạo chuyên môn ngành nghề, bồi dưỡng, giáo dục năng lực, phẩm chất
đạo đức. Con người phải được đào luyện để phát triển toàn diện. NNL phải
được đào tạo để đáp ứng nhu cầu phát triển KT - XH. Tất cả những lập luận
trên đã được khẳng định, trên thực tế, con người là không chỉ là chủ thể,
mà còn đối tượng nghiên cứu (trực tiếp hoặc gián tiếp) của tất cả các ngành
khoa học.


16

Vì sao có thể khẳng định, muốn sử dụng tối ưu (hiệu quả cao nhất)
NNL hiện có cần quan tâm đến hai vấn đề là: đào tạo, phát triển nhân lực
quản lý, lãnh đạo (người sử dụng lao động); đào tạo lại đội ngũ người lao
động (trực tiếp lao động sản xuất).
Đào tạo NNL nói chung là toàn bộ những hoạt động có mục đích, có tổ
chức, nhằm trang bị và phát triển hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái
độ trách nhiệm tình cảm, đạo đức, để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân,
nâng cao chất lượng nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH.
Quan niệm trên đã cho thấy, đây là hoạt động có mục đích của các tổ
chức chính trị, kinh tế, xã hội; các nhà trường, trung tâm GD&ĐT, các doanh
nghiệp và người lao động nhằm phát triển NNL. Đồng thời quan niệm trên
cũng chỉ rõ mục đích của quá trình này là nâng cao chất lượng NNL (năng lực
làm việc của người lao động) đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH.
Phát triển NNL nói chung và đào tạo NNL nói riêng là một việc làm rất
quan trọng, vừa mang tính chiến lược lâu dài vừa là những vấn đề mang tính
thời sự cấp thiết của mọi quốc gia, mọi nền kinh tế. Đào tạo để phát triển
NNL và phân bổ hợp lý NNL hiện có là cơ sở cho khai thác, sử dụng tối ưu
nguồn lực con người trong hoạt động thực tiễn. Ngược lại, sử dụng tối ưu
NNL sẽ có tác động tích cực đến quy mô, phương thức, kết quả đào tạo, phát
triển và phân bổ lại NNL.
Trong thực tiễn, sử dụng NNL tức là quá trình tạo điều kiện cho con
người tham gia vào hoạt động sản xuất để tạo ra của cải vật chất, phi vật chất
phục vụ các nhu cầu sản xuất và nhu cầu tiêu dùng trong xã hội. Quá trình lao
động sản xuất là quá trình kết hợp sức lao động với các yếu tố khác của lực
lượng sản xuất nên việc khai thác và phát huy NNL không thể tách rời việc tổ
chức nền sản xuất cũng như xác định mục tiêu, phương thức của sự phát triển
KT - XH. Bởi vậy, sử dụng NNL được hiểu: là việc khơi dậy và phát huy tất


17

cả các khả năng của con người thành hiện thực, biến sức lao động thành lao
động trong quá trình phát triển KT - XH.
Trên cơ sở phân tích một số vấn đề về NNL, người học cho rằng, đối
với cả nước nói chung, từng địa phương - trong đó có tỉnh Đồng Nai nói
riêng, trong quá trình CNH, HĐH và trong bất kỳ giai đoạn nào để phát
triển KT - XH cũng cần coi trọng việc khai thác, nâng cao hiệu quả sử dụng
NNL phù hợp với điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng địa phương, từng
vùng miền. Mục đích của quá trình này là huy động tối đa và khai thác tối
ưu lực lượng lao động trên địa bàn Tỉnh cho các nhiệm vụ, mục tiêu KT XH đã được xác định. Trong quá trình phát triển KT - XH trên địa bàn
Tỉnh, cần quan tâm đến những nhân tố chi phối quá trình sử dụng NNL. Đó
là quy mô, trình độ, mục tiêu phát triển KT - XH; số lượng, chất lượng, cơ
cấu NNL hiện có; tỷ lệ tăng dân số, phân bổ dân cư và kết quả đào tạo lực
lượng lao động trên địa bàn Tỉnh; sự tác động của thể chế vĩ mô, các chính
sách của tỉnh, địa phương (đất đai, quản lý hành chính về con người, xuất
khẩu lao động, tiền lương); nhận thức của chính những người lao động về
việc làm, thu nhập trong nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Sự cần thiết và nội dung đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn
nhân lực trong phát triển kinh tế - xã hội ở Đồng Nai
Sử dụng NNL trong phát triển KT - XH ở tỉnh Đồng Nai là khái niệm
chỉ Toàn bộ hoạt động có chủ đích, có kế hoạch của các cấp chính quyền,
các đơn vị kinh tế, các tổ chức xã hội, đội ngũ doanh nhân và người sử
dụng lao động... thực hiện việc phân bổ, sắp xếp hợp lý việc làm cho lực
lượng lao động trong từng ngành, địa phương, đơn vị cũng như trên phạm
vi toàn tỉnh nhằm tạo đủ việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động
thúc đẩy KT - XH phát triển.
Sử dụng có hiệu quả NNL trong phát triển KT - XH ở Đồng Nai là
yêu cầu khách quan bởi những lý do sau:


18

Thứ nhất, Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng về vai trò của nguồn lực con
người trong hoạt động thực tiễn.
Trong học thuyết của mình, phần lý luận về hàng hóa sức lao động
C.Mác viết: “Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ
những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một con người đang
sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử
dụng nào đó” [3, tr.251]. Như vậy, theo quan điểm của C. Mác, để có năng
lực lao động tốt thì người lao động phải có năng lực thể chất (gồm sức
khỏe, kỹ năng nghề nghiệp), tinh thần tốt và được đem ra vận dụng trong
hoạt động; để có năng lực thể chất và tinh thần tốt thì con người phải
không ngừng học tập, rèn luyện.
Khi nghiên cứu về giá trị của sức lao động, C. Mác viết: “Giá trị của
sức lao động, cũng như giá trị của mọi hàng hóa khác, được quyết định bởi số
thời gian lao động cần thiết để sản xuất, và do đó, để tái sản xuất ra thứ sản
phẩm đặc biệt ấy” [3, tr.255]. Ở đây, C. Mác đã khẳng định giá trị của sức
lao động cao hay thấp, phụ thuộc vào chi phí đầu tư sản sinh ra nó nhiều
hay ít; chúng ta muốn có nhiều sức lao động có giá trị cao đòi hỏi chúng ta
phải đầu tư cho nó nhiều hơn. C. Mác cũng chỉ ra rằng việc giá trị của sức
lao động bao hàm yếu tố lịch sử và tinh thần; mỗi công việc khác nhau, mỗi
quốc gia khác nhau và mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì giá trị của sức lao
động cũng khác nhau, khả năng nâng cao giá trị sức lao động của mỗi con
người cũng khác nhau.
Để nâng cao năng lực lao động của con người, C. Mác khẳng định cần
phải có một trình độ học vấn hay giáo dục nào đó và tùy theo tính chất phức
tạp của lao động mà phải chi phí nhiều hay ít để đào tạo chuyên môn kỹ thuật
cho người lao động. C. Mác cho rằng, muốn cải tạo bản tính chung của con


19

người để làm cho nó có được kiến thức và những thói quen khéo léo trong
một ngành lao động nhất định, nghĩa là muốn cho nó trở thành một sức lao
động phát triển và đặc thù, thì cần phải có một trình độ học vấn hay giáo
dục nào đó, mà muốn thế thì lại phải tốn một số nhiều hay ít vật ngang giá
nào đó. Những chi phí đào tạo ấy khác nhau tùy theo tính chất phức tạp của
sức lao động.
Là người mác-xít, tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh không bó hẹp trong
việc giáo dục tri thức, học vấn cho con người, mà có tính bao quát, sâu xa,
nhưng vô cùng sinh động, thiết thực, nhằm đào tạo ra những con người toàn
diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”, có tri thức, lý tưởng, đạo đức, sức khỏe, thẩm
mỹ, có khát vọng làm giàu cho mình, cho xã hội và cộng đồng. Rõ ràng, mục
tiêu của nền giáo dục mới, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là đào tạo “những
người công dân có ích cho nước Việt Nam”, “những cán bộ làm công bộc cho
dân”, “những công dân tốt và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của
nước nhà”. Muốn cho dân mạnh, nước giàu thì dân trí phải cao, phải đa dạng
hóa các loại hình đào tạo, mở trường vừa học vừa làm để tạo điều kiện cho
người lao động, cán bộ chiến sĩ được đi học. Người yêu cầu: phải quan tâm
đến giáo dục, đào tạo NNL, nhân tài cho đồng bào các dân tộc ít người, tẩy
rửa những thành kiến giữa các dân tộc, đoàn kết thương yêu nhau như anh em
một nhà, thi đua học tập để sau này góp phần mở mang quê hương của mình.
Thứ hai, Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ phát triển KT - XH, tăng
cường sức mạnh quốc phòng, an ninh ở Đồng Nai trong những năm tới.
Đồng Nai nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (gồm Thành
phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Phước,
Tây Ninh, Long An và Tiền Giang) và là một trong những địa phương có
nhiều lợi thế cho phát triển KT - XH với tốc độ, trình độ cao hơn trung bình
của cả vùng. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 9 (tháng 9 năm 1010)


20

đã xác định: Mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2011 - 2015 là phát triển nền kinh tế với tốc độ tăng trưởng nhanh, bền
vững. Nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh và chủ động hội nhập
quốc tế; đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH. Nâng cao chất lượng phát triển các
lĩnh vực KT - XH, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, giữ
vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Phấn đấu đến năm 2015 cơ bản trở thành Tỉnh CNH, HĐH.
Để thực hiện được mục tiêu trên, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh
Đồng Nai đã xác định nhiệm vụ đột phá giai đoạn 2011 - 2015 như:
Tập trung thu hút, đãi ngộ, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao, hình thành đội ngũ chuyên gia giỏi đầu ngành đáp ứng yêu cầu phát triển.
Tăng cường đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Nâng cao tiềm lực
khoa học và công nghệ gắn với nâng cao hiệu quả ứng dụng vào thực tiễn.
Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là các tuyến giao thông kết
nối vào các khu vực tập trung đô thị và khu công nghiệp trong Tỉnh, các tuyến
giao thông kết nối các tuyến đường cao tốc.
Phát triển mạnh các ngành dịch vụ chất lượng cao (tài chính, ngân
hàng, vận tải - kho bãi, thông tin liên lạc, khách sạn nhà hàng).
Thu hút đầu tư các ngành công nghiệp kỹ thuật cao, các ngành công
nghiệp tạo ra sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao và có giá trị gia tăng
cao. Xây dựng thương hiệu sản phẩm công nghiệp.
Phát triển hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn và nâng cao chất lượng, phát
triển thương hiệu nông sản hàng hóa.
Khuyến khích, tạo điều kiện phát triển các nhân tố của nền kinh tế tri
thức, ưu tiên các lĩnh vực tạo sản phẩm có hàm lượng chất xám cao.
Tăng cường tiềm lực quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị và trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn và toàn vùng; bảo vệ vững chắc độc lập, an ninh
quốc phòng, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển KT - XH. Phát triển KT -



21
XH đi đôi với nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, giữ vững an ninh chính trị. Nâng cao
hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh trật tự [10].
Đây là những mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế, xã hội; quốc phòng và an ninh
rất quan trọng của Tỉnh, muốn mục tiêu trên trở thành hiện thực đòi hỏi phải huy
động tối đa, sử dụng tối ưu các nguồn lực, trong đó trước hết và cơ bản nhất là
nâng cao hiệu quả sử dụng NNL trong tất cả các lĩnh vực KT - XH của Tỉnh.
Thứ ba, xuất phát từ thực trạng sử dụng lực lượng lao động trong quá
trình phát triển KT - XH của tỉnh Đồng Nai thời gian qua.
Trước hết phải khẳng định rằng, muốn một nền kinh tế tăng trưởng,
phát triển nhanh và bền vững, cần dựa vào ba yếu tố cơ bản là: áp dụng công
nghệ mới, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đào tạo và sử dụng NNL
theo hướng hiện đại, hợp lý, hiệu quả.
Sử dụng hợp lý (tối ưu) NNL ở Đồng Nai hiện nay không chỉ là điều
kiện góp phần quan trọng cho giải quyết vấn đề việc làm, thu nhập của người
lao động mà trực tiếp cung ứng một lực lượng lao động với những trình độ
chuyên môn, ngành nghề khác nhau cho các tỉnh khác trong vùng mà trước
hết là thành phố Hồ Chí Minh và thị trường xuất khẩu lao động.
Trên thực tế, việc phân bổ và sử dụng NNL ở tỉnh Đồng Nai được tiến
hành theo cơ chế thị trường (quan hệ cung - cầu lao động) và đã đem lại nhiều
kinh nghiệm quý cho các địa phương khác trong cả nước. Tuy vậy, cũng còn
nhiều bất cập, hạn chế (sẽ đề cập và luận giải ở phần đánh giá thực trạng). Vì
vậy, sử dụng có hiệu quả NNL hiện có của Tỉnh vừa là vấn đề có tính cơ bản
lâu dài vừa mang tính thời sự cấp thiết.
Nội dung đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực trong phát triển
kinh tế xã hội ở Đồng Nai
Từ khái niệm sử dụng NNL và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử
dụng NNL ở Đồng Nai như đã trình bày ở phần trên, tác giả luận văn cho rằng



22
đánh giá sự hợp lý, tính hiệu quả trong sử dụng NNL cho phát triển KT - XH
cần dựa trên một số nội dung sau:
Thứ nhất, công tác quy hoạch, phân bổ lực lượng lao động được thực
hiện một cách cơ bản, gắn sát với các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế của Tỉnh,
từng huyện từng cơ sở sản xuất kinh doanh.
Tỷ lệ thất nghiệp và thời gian không có việc làm cho người lao động
trong những ngành, lĩnh vực, đơn vị sản xuất kinh doanh mang tính thời vụ
giảm xuống.
Thứ hai, việc phân bổ, quản lý lực lượng lao động, trình độ quản trị
nhân lực trong các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, đơn vị hành chính sự nghiệp,
bộ máy hành chính công... ngày càng hợp lý, hiệu quả hơn. Đảm bảo tính cân
đối và sự hợp lý trong phân bổ, quản lý lực lượng lao động, trình độ quản trị
nhân lực trong các ngành, lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...
Thứ ba, tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm của Tỉnh, hiệu quả sản
xuất kinh doanh của địa phương hoặc đơn vị, cơ sở sản xuất; thu nhập và mức
sống của người lao động so với mức trung bình hàng năm của cả vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam.
Đây vừa là nội dung, vừa là tiêu chí có thể lượng hóa để đánh giá hiệu
quả sử dụng NNL của Tỉnh. Bởi vì, NNL là nguồn lực của mọi nguồn lực, có
sử dụng hợp lý NNL mới khai thác tối đa nguồn lực khác cho các nhiệm vụ
kinh tế, xã hội. Trong phạm vi từng đơn vị kinh tế, từng địa phương, thu nhập
của người lao động, lợi nhuận doanh nghiệp, mức thu ngân sách đều tăng thì
kinh tế tăng trưởng, xã hội phát triển.
Thứ tư, sự đồng thuận về mặt xã hội trong môi trường lao động,
phương thức và kết quả giải quyết các mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa
người lao động và người sử dụng lao động, giữa các tổ chức kinh tế xã hội với
bộ máy chính quyền các cấp.



23
Xét cho cùng sản xuất để tiêu dùng; CNH, HĐH nền kinh tế là nhằm
phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, phát triển KT XH, thỏa mãn tốt hơn nhu cầu vật chất tinh thần ngày càng tăng của con
người. Khi lợi ích kinh tế của người lao động được quan tâm và thực hiện tốt
hơn sẽ tạo thêm động lực mới cho tăng trưởng, phát triển.
Kinh nghiệm một số địa phương sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực
trong phát triển kinh tế xã hội trong thời gian qua
Cần phải khẳng định, tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đều lựa
chọn những phương thức sử dụng NNL hướng tới sự tối ưu hóa, phù hợp với
điều kiện, mục tiêu phát triển KT - XH, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh,
Thủ đô Hà Nội, Thành phố Đà Nẵng... có nhiều thành công hơn cả và để lại
nhiều kinh nghiệm có giá trị tham khảo tốt cho các địa phương khác trong đó
có tỉnh Đồng Nai.
Trên bản đồ địa kinh tế Việt Nam, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng là những đô thị lớn nhất nước, có tốc độ tăng trưởng, phát triển nhanh
cả về kinh tế, xã hội. Quá trình CNH, HĐH và đô thị hóa, một mặt làm thay
đổi vị thế, diện mạo của Thủ đô Hà Nội, các thành phố trung tâm miền Nam,
miền Trung đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề về việc làm, thu nhập cho các
tầng lớp dân cư, nhất là những nông dân bị thu hồi đất để xây dựng khu công
nghiệp, khu đô thị, hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội.
Đối với Thành phố Đà Nẵng, để làm tốt công tác giải phóng mặt bằng,
ngoài việc đền bù thỏa đáng theo tinh thần công khai minh bạch, công bằng,
Đà Nẵng còn ban hành những quy định cụ thể về tuyển dụng lao động, dạy
nghề, chuyển đổi việc làm cho người lao động... nhờ đó tỉ lệ thất nghiệp luôn
ở mức trung bình so với cả nước (theo Tổng cục Thống kê, năm 2013 tỉ lệ thất
nghiệp của nước ta là 1,68% - thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển vì
cách tiếp cận, tiêu chí xem xét khác nhau).



×