Câu1:Vì sao Hồ Chí Minh xác định đạo đức cách mạng la đạo đức mới
Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng “Khơng phải là đạo đức thủ cựu.
Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại”. Có nghĩa là, đạo đức cách mạng khơng có sẵn,
khơng tự nhiên mà có và nó là đạo đức mới của một giai đoạn phát triển mới.
Trước hết, đạo đức mới ấy có được khi con người ta nhận thức được vai trị và tầm
quan trọng của nó đối với mỗi người cán bộ, đảng viên, cũng như đối với toàn xã
hội. Bác Hồ căn dặn: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn
thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có
đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”. Người nhấn mạnh: “Muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho lồi người
là một cơng việc to tát, mà tự mình khơng có đạo đức, khơng có căn bản, tự mình
đã hủ hóa, xấu xa thì cịn làm nổi việc gì ?”.
Thứ hai, muốn có được đạo đức cách mạng, cần phải có ý chí để vượt lên trên chủ
nghĩa vị kỷ, cá nhân. Theo Hồ Chí Minh, mục đích của đạo đức cách mạng “khơng
phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài
người”.
Thứ ba, đạo đức cách mạng rèn luyện khơng khó, nhưng cần phải xuất phát từ tấm
lịng của mỗi người. Người nói: “Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở nên
người cách mạng chân chính, khơng có gì là khó cả. Điều đó hồn tồn do lịng
mình mà ra”. Như vậy, rèn luyện đạo đức cách mạng khơng chỉ bằng nhận thức và
ý chí, mà cịn phải thơng qua tình cảm, hình thành trong bản thân mỗi con người
những nhu cầu tự thân, những động lực thơi thúc từ tấm lịng.
Thứ tư, đạo đức mới phải lấy hành động “chí cơng vơ tư” làm cốt lõi. “Lịng mình
chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí cơng vơ tư”.
Có nghĩa là, phải rèn luyện sao để tiến đến chỗ quên mình trong lợi ích chung của
Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân. Có được phẩm chất đó, thì mỗi hành động của
cán bộ, đảng viên sẽ ngày càng phát huy được những mặt tích cực, hạn chế những
mặt tiêu cực. Người khẳng định: “Mình đã chí cơng vơ tư thì khuyết điểm sẽ càng
ngày càng ít, mà những tính tốt, ngày càng thêm”.
Trước yêu cầu của tình hình mới, nhân kỷ niệm 77 năm thành lập Đảng CSVN (32-2007) Bộ Chính trị quyết định tổ chức Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong tồn Đảng, toàn quân, toàn dân. Đây là một
chủ trương lớn, với mục tiêu là làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân nhận thức
sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng,
rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội,
đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, cơng chức, viên chức, đồn viên, thanh niên, học
sinh... nhằm nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư;
đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội,
góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
Qua nghiên cứu, học tập các chuyên đề về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh, đa số cán bộ, đảng viên, cơng chức đã có sự chuyển biến bước đầu về nhận
thức tư tưởng, về ý thức rèn luyện, tu dưỡng đạo đức. Đã nhận thức rõ hơn về vị
trí, tầm quan trọng của đạo đức đối với sự phát triển của gia đình, xã hội và mỗi cá
nhân; nhận thức sâu sắc hơn đạo đức là “gốc” của người cách mạng, những nội
dung tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Báo cáo sơ kết của
các địa phương, cơ sở và phản ảnh của hệ thống dư luận xã hội ở các cấp cho biết:
nhiều cán bộ, đảng viên đã có ý thức giữ gìn, rèn luyện, tu dưỡng đạo đức tốt hơn,
nhất là ý thức từ bỏ các thói hư, tật xấu; có chuyển biến nhất định trong quan hệ
với nhân dân, trách nhiệm với tập thể, cộng đồng xã hội, giữ gìn đồn kết, kỷ luật...
Đó là những kết quả bước đầu và có ý nghĩa.
Có thể khẳng định, thơng qua cuộc vận động, việc học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh đang trở thành một sinh hoạt chính trị, văn hóa sâu rộng,
bước đầu tạo được ấn tượng và hiệu quả. Cuộc vận động đang được triển khai sâu,
rộng trong cả nước, ở tất cả các địa phương, trong mọi ngành, mọi lĩnh vực, với
những bước đi thận trọng, với nhiều nội dung cơng việc khó khăn và phức tạp,
nhưng hứa hẹn những kết quả tốt đẹp, góp phần to lớn xây dựng Đảng trong sạch,
Nhà nước vững mạnh, xã hội phát triển và đất nước phồn vinh
Câu 2:Hãy phân tích những phẩm chất đạo đức của người việt nam và những
phương pháp xây dựng đạo đức?
Từ nội dung...
Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa nhận, quy định hành vi,
quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội, là phẩm chất tốt đẹp của con
người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn đạo đức mà có. Nền đạo đức cần phải
xây dựng là đạo đức mới, đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh khơng có
đạo đức cách mạng thì có tài cũng vơ dụng. Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế
hệ trẻ, lớp người kế tục cho sự nghiệp của Đảng là đòi hỏi tất yếu. Cần phải làm
cho thế hệ trẻ yêu đạo đức cách mạng, noi theo, làm theo đạo đức Hồ Chí Minh, tin
tưởng con đường đi lên của cách mạng Việt Nam, học tập nâng cao trình độ, chiến
thắng sự dốt nát và tụt hậu.
Đạo đức cách mạng được hình thành từ trình độ nhận thức, kinh nghiệm và những
tình cảm đúng đắn. Trình độ nhận thức của thế hệ trẻ được bắt nguồn từ công tác
giáo dục, tuyên truyền. Các cấp ủy đảng và các cấp bộ đoàn cần quan tâm, tạo điều
kiện cho lớp trẻ học tập và biết vận dụng tư tưởng đạo đức cách mạng của Hồ Chí
Minh, làm bất kỳ cơng việc gì, đều khơng sợ khó, khơng sợ khổ, đều một lịng một
dạ phục vụ lợi ích chung, đều nhằm mục tiêu một nước Việt Nam thống nhất, độc
lập, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đánh thắng kẻ
địch từ bên ngoài và bên trong mỗi người, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, u
thương gia đình, đồng chí, đồng bào.
Đồng thời với việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao trình độ nhận thức, cần tạo
điều kiện cho lớp trẻ tham gia hoạt động thực tiễn để bồi đắp kinh nghiệm và tình
cảm cách mạng: Tham gia ý kiến, đóng góp cơng sức vào quá trình CNH, HĐH đất
nước; phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng; tham gia tuyên
truyền đường lối, chủ trương, chính sách, luật pháp của Đảng và Nhà nước...
Thông qua hoạt động thực tiễn, thế hệ trẻ rèn luyện phẩm chất, đạo đức và từ hoạt
động thực tiễn làm sáng tỏ, phong phú thêm cơ sở lý luận của nhận thức, làm cho
tuổi trẻ tin yêu lý tưởng cách mạng, đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân
dân ta đã lựa chọn.
Bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ là trang bị cho tuổi trẻ công cụ để
nhận rõ điều phải để theo, điều trái để tránh, để chống, ra sức học tập và phấn đấu.
...Đến phương pháp.
Việc đưa ra các hình thức và phương pháp đa dạng, phù hợp giữ vai trị quyết định
đến chất lượng cơng tác bồi dưỡng, giáo dục. Cần chọn phương pháp thích hợp đối
với từng đối tượng, trong mơi trường cụ thể (nhà trường, gia đình, xã hội...).
Hình thức học chính trị trong nhà trường theo mục tiêu, nội dung chương trình đã
được xác lập, thơng qua các môn học: Giáo dục công dân, đạo đức, triết học, chủ
nghĩa xã hội khoa học, chính trị học, kinh tế học, lịch sử… cung cấp công cụ
phương pháp luận để thanh niên biết tự nghiên cứu, đánh giá tình hình. Cần đổi
mới phương pháp giảng dạy để tuổi trẻ u thích các giờ học chính trị. Ngồi các
giờ lên lớp, trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp cần
khuyến khích học sinh, sinh viên thành lập các tổ, nhóm, CLB nghiên cứu trẻ để
cùng tìm hiểu, phân tích tình hình, các hiện tượng của đời sống xã hội trong nước
và quốc tế với nhận thức đúng đắn.
Thực tế ở nhiều địa phương, cơ quan, đơn vị cho thấy, những tấm gương lao động,
học tập, công tác xã hội... có ý nghĩa rất lớn trong việc bồi dưỡng đạo đức cách
mạng cho thế hệ trẻ. Tuổi trẻ rất cần những tấm gương sáng của đảng viên để noi
theo. Hiện nay nảy sinh một số hiện tượng khiến lớp trẻ băn khoăn về vai trò tiền
phong gương mẫu của người đảng viên. Ví như có bạn trẻ nêu câu hỏi “Có cán bộ,
đảng viên vi phạm pháp luật như tham nhũng, sách nhiễu, ức hiếp nhân dân… vậy
làm sao có thể trở thành tấm gương để tuổi trẻ học tập, noi theo?”, hoặc có bạn trẻ
cịn băn khoăn về “căn bệnh cơ hội trong Đảng”... Trước những băn khoăn, thắc
mắc đó, các cấp ủy đảng cần tạo điều kiện, định hướng để cho thế hệ trẻ có thể
mạnh dạn, dũng cảm chỉ ra được những thiếu sót của cán bộ, đảng viên ngay trong
cơ quan, đơn vị mình; tham gia đấu tranh để các căn bệnh trong Đảng thực sự được
đẩy lùi. Thế hệ trẻ sẽ trở thành lực lượng đắc lực giúp Đảng “đánh thắng” được các
bệnh như cơ hội, thực dụng, thiếu trung thực, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí...
để Đảng ta ln ln là đạo đức, là văn minh.
Đồn TNCS Hồ Chí Minh, Hội LHTN Việt Nam, Hội Sinh viên Việt Nam, Đội
TNTP Hồ Chí Minh giữ vai trị quan trọng trong việc bồi dưỡng đạo đức cách
mạng cho tuổi trẻ. Trong những năm qua, Đồn, Hội, Đội đã tiếp tục đổi mới cơng
tác giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ; đưa ra nhiều nội dung, hình thức và
phương pháp giáo dục để nâng cao trình độ nhận thức và kinh nghiệm cho tuổi trẻ
như: Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, các đợt sinh
hoạt chính trị, các cuộc thi tìm hiểu, các diễn đàn, các CLB, tổ chức các nhóm
nghiên cứu, hình thành các phong trào thi đua “Thanh niên lập nghiệp”, “Tuổi trẻ
giữ nước”, “Thi đua tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”... Các phong trào,
cuộc thi đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận: Cuộc thi tìm hiểu “Âm vang
Điện Biên” có 8 triệu lượt người tham gia; “Tuổi trẻ Việt Nam 70 năm cống hiến
và trưởng thành”: 2,5 triệu; “Đảng quanh vinh, Bác Hồ vĩ đại, đất nước phồn vinh,
tiến vào thế kỷ XXI”: Gần 12 triệu; “75 năm lịch sử vẻ vang của Đảng” và “60
năm nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”: 28 triệu; “Sáng mãi phẩm chất
bộ đội Cụ Hồ”: 8,5 triệu; “75 năm quang vinh của Đồn TNCS Hồ Chí Minh”:
Gần 10 triệu. Tham gia đông đảo (chiếm khoảng 70% trong tổng số người tham dự
các cuộc thi), thế hệ trẻ thể hiện tình yêu, niềm say mê tìm hiểu về Đảng, Đồn,
dân tộc từ đó phấn đấu vươn lên, vững tin vào sự nghiệp đổi mới. Đặc biệt với các
vấn đề cần liên hệ, phát biểu ý kiến góp ý xây dựng đã tạo ra diễn đàn để thế hệ trẻ
mạnh dạn trao đổi và thúc đẩy động cơ phấn đấu đúng đắn.
Trong những năm qua, Đồn TNCS Hồ Chí Minh đã thông qua các phong trào thi
đua yêu nước để bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho tuổi trẻ. Trong 5 năm từ năm
2001-2005, 100.000 lượt y bác sỹ trẻ tình nguyện đi khám, phát thuốc và chữa
bệnh cho 6 triệu lượt người. Từ năm 2003 đến 2004 có 11 triệu lượt thanh niên
tham gia phong trào thanh niên tình nguyện xuống 12.500 xã, phường, thị trấn
tham gia hoạt động cộng đồng như làm vệ sinh môi trường, cùng gây dựng phong
trào đoàn, đội, hội ở cơ sở... Lực lượng thanh niên tình nguyện đã mở 15.143 lớp
tập huấn khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho
2,2 triệu lượt người, sửa chữa 23.021 ngôi nhà tình nghĩa, tu sửa 51.079km đường
giao thông, làm 6.000 cây cầu, đào 4.000 giếng nước sạch, tham gia xoá mù chữ và
phổ cập giáo dục tiểu học cho 840.712 người. Trong 4 năm (2001-2004), tuổi trẻ
cả nước đã quyên góp 31.033,4 triệu đồng ủng hộ thanh niên tham gia nhập ngũ,
29.529,7 triệu đồng ủng hộ các chiến sỹ ở biên giới và hải đảo; có 34.741 đơn vị
các lực lượng vũ trang kết nghĩa với các cơ sở đoàn ở địa phương; thu hút
1.550.202 lượt thanh niên tham gia vào các đội thanh niên xung kích giữ gìn trật tự
giao thơng, an ninh xã hội; xây dựng và tặng các gia đình chính sách 8.796 ngôi
nhà với 59.896 triệu đồng; vận động được 88.285,5 triệu đồng phục vụ các hoạt
động từ thiện. Cuộc vận động “Vì tuổi trẻ Lai Châu” đã ủng hộ 3.600 triệu đồng;
cuộc vận động “Cần kiệm là nếp sống đẹp của thanh niên” được đông đảo thanh
niên hưởng ứng. Các phong trào đó thực sự góp phần thổi lên ngọn lửa nhiệt tình
tuổi trẻ, tạo mơi trường tốt để tuổi trẻ rèn luyện và phấn đấu.
Bằng các diễn đàn, toạ đàm, hội thảo như: “Bác Hồ với thanh niên, thanh niên với
Bác Hồ”, “Tơi là người đồn viên thanh niên cộng sản”, “Tuổi trẻ Việt Nam tiến
bước dưới cờ Đảng”, “Tuổi trẻ sống đẹp, sống có ích”; cuộc vận động “Đồn viên,
thanh niên rèn luyện phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam”,
Đồn TNCS Hồ Chí Minh đã tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về Đảng
trong thanh niên, hình thành động cơ phấn đấu vào Đảng đúng đắn. Tuổi trẻ tin
tưởng công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo,
nhiều đồn viên có chung tâm sự: Sự phát triển kinh tế, chính trị của đất nước hiện
nay chứng minh đường lối của Đảng ta là đúng đắn. Nhiều đoàn viên bày tỏ mong
muốn và ra sức phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Năm 1995, toàn
Đoàn giới thiệu được 222.103 đồn viên ưu tú, trong số đó có 44.761 người được
kết nạp vào Đảng (chiếm 52,0% tổng số đảng viên mới được kết nạp); năm 2000
các số liệu tương ứng là 223.206 và 59.376 (chiếm 52,6%) và năm 2005: 227.020
và 107.124 người (chiếm 63,2%).
Và kinh nghiệm.
Các cấp uỷ đảng phải thường xuyên lãnh đạo công tác bồi dưỡng đạo đức cách
mạng cho tuổi trẻ, kiểm tra, đơn đốc và có hình thức thưởng, phạt kịp thời. Nêu
cao vai trò gương mẫu của đảng viên. Tính tiền phong gương mẫu của đảng viên là
yếu tố quan trọng để giữ uy tín và phát huy ảnh hưởng của Đảng trong thế hệ trẻ.
Các cấp uỷ đảng và các cấp bộ đồn phải khơng ngừng đổi mới nội dung, hình
thức và phương pháp bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ; đưa ra nội
dung, hình thức và phương pháp bồi dưỡng phù hợp với từng đối tượng, địa điểm
và thời gian cụ thể. Cần thực hiện tốt vai trị tham mưu của đồn cơ sở.
Cấp ủy chỉ đạo phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
các đoàn thể nhân dân để cùng chăm lo, bồi dưỡng đạo đức cho thế hệ trẻ.
Đảng chăm lo xây dựng Đoàn TNCS Hồ Chí Minh vững mạnh về tổ chức, chính
trị, tư tưởng; coi việc xây dựng Đoàn là xây dựng Đảng trước một bước; lãnh đạo
trực tiếp và toàn diện để Đoàn thanh niên làm tốt chức năng là đội dự bị tin cậy của
Đảng, là trường học xã hội chủ nghĩa của tuổi trẻ.
Câu 3:Hồ Chí Minh đã tiếp cận con người thế nào trong chũ nghỉa nhân văn?
Trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, lịng thương người giữ vị trí hàng đầu
quan trọng đây là truyền thống nổi bật cốt lõi của dân tộc Việt Nam cũng như
nhiều dân tộc khác. Song, ở Hồ Chí Minh, lịng thương người phát triển ở mức độ
cao hơn, nó đồng nghĩa với sự thực hiện những quyền cơ bản và sự phát triển toàn
diện của con người.
Các Mác, trong nhiều tác phẩm của mình đã nói về quyền con người-trước hết là tự
do cho mỗi người-và cuộc sống của con người, phê phán sự trà đạp con người.
Lênin đã thông cảm sâu sắc với nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, kêu gọi
đoàn kết đấu tranh để giải phóng các dân tộc bị áp bức. Những tư tưởng vĩ đại
cũng nêu cao những điều tai nghe, mắt thấy, những sự suy tư, trăn trở và ước vọng
của Nguyễn ái Quốc khi Người trực tiếp sống, làm việc với nhân dân các nước
thuộc địa, những người lao động nghèo khổ ở các nước tư bản đế quốc. Để thực
hiện “sự ham muốn” tộc bậc, duy nhất của mình là làm cho dân ta được hồn tồn
tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, Hồ Chí Minh
thể hiện lòng yêu thương chân thành với nhân dân lao động, tố cáo mọi tội ác của
sự áp bức, bóc lột và đấu tranh cho cơng cuộc giải phóng dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày thực trạng của đời sống nhân dân thuộc địa
dưới ách thống trị thực dân với những cảnh bị đoạ đày, cướp bóc, hãm hiếp, đầu
độc ngu dân. Người hoà chung với nỗi khổ của nông dân Việt Nam và các nước
khác trên thế giới. “Họ là những người phải làm mọi công việc nặng nhọc, mọi thứ
lao dịch…nuôi sống lũ người ăn bám, lũ người lười biếng, lũ người đi khai hoá”
mà “phải sống cùng khổ… hễ mất mùa thì chết đói. Tình thương của Người dành
cho những em bé người bản xứ vơ tội bị hành hạ, bị chết vì những trò chơi ác độc
của bọn thực dân như đột nhiên bị “tóm cổ…xuống sơng bắt phải tìm vớt con
chim”. Nói sao cho hết được sự thơng cảm của Hồ Chí Minh trước “nỗi khổ cực
của người phụ nữ bản xứ”, vì “thói dâm bạo thực dân, những hành động “tàn ác
không thể tưởng tượng được. Sự thông cảm, sự yêu thương ấy gắn liền với lòng
căm thù, phẫn nộ, sự tố cáo đanh thép chủ nghĩa thực dân. Qua chân dung đặc tả
“các quan thống đốc”,“ các quan cai trị”, “những nhà khai hố, “những kẻ giả danh
Chúa”, Hồ Chí Minh nêu lên những nét chung nhất của chế độ thực dân đế quốc
cần phải xoá bỏ.
Ngày nay, đọc lại “Bản án chế độ thực dân Pháp” và nhiều bài viết khác của
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh, nhân dân các nước độc lập khơng thể quên cảnh
địa ngục trần gian mà họ đã trải qua những năm trước đây và ắt hẳn cũng liên
tưởng đến cảnh khổ cực cịn tiếp diễn ở khơng ít nước kém phát triển vì sự bóc lột
mới tinh vi hơn, được che đậy dưới nhiềi hình thức quan hệ quốc tế khơng cơng
bằng, thiếu bình đẳng.Giá trị của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh cịn thể hiện ở
việc gợi lên tinh thần bất khuất, làm hồi sinh sức sống mãnh liệt của những người
“nô lệ” vùng dậy đấu tranh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bước phát triển mới của chủ nghĩa Mác - Lênin,
được vận dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Điều cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân
tộc gắn liền với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Trong đó, vấn đề con
người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên suốt
trong toàn bộ nội dung tư tưởng của Người. Tin ở dân, dựa vào dân, tổ chức và
phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, bồi dưỡng, đào tạo và phát huy mọi năng lực
của dân (ở từng cá nhân riêng lẻ và của cả cộng đồng), đó là tư tưởng được Hồ Chí
Minh vận dụng và phát triển trong toàn bộ sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành
độc lập dân tộc cũng như xây dựng đất nước. Tư tưởng đó cũng chính là nội dung
cơ bản ủa toàn bộ tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Đối với Hồ Chí Minh,
con người vừa tồn tại vừa tư cách cá nhân, vừa là thành viên của gia đình và của
cộng đồng, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hòa, phong phú. Người
đã nêu một định nghĩa về con người: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em,
họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả lồi người.
Quan điểm đó thể hiện ở chỗ Người chưa bao giờ nhìn nhận con người một cách
chung chung, trừu tượng. Khi bàn về chính sách xã hội, cũng như ở mọi nơi, mọi
lúc, trong mọi hoàn cảnh, Người ln quan tâm đến nhu cầu, lợi ích của con người
với tư cách nhu cầu chính đáng. Đem lại lợi ích cho con người chính là tạo ra động
lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, vì nếu như những nhu cầu, lợi ích của
mỗi cá nhân khơng được quan tâm thỏa đáng thì tính tích cực của họ sẽ không thể
phát huy được. Trong khi phê phán một cách nghiêm khắc chủ nghĩa cá nhân,
Người viết: "Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là "giày xéo lên lợi
ích cá nhân". Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của
bản thân và của gia đình mình". Trong quan điểm về thực hiện một nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, theo Người, phải là một nền dân chủ chân chính, khơng hình thức,
khơng cực đoan, trong đó mỗi con người cụ thể phải được đảm bảo những quyền
lợi và nghĩa vụ của mình theo hiến pháp và pháp luật. Con người, với tư cách là
những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với
cộng đồng dân tộc và với các loài người trên toàn thế giới. Con người trong tư
tưởng Hồ Chí Minh khơng tồn tại như một phạm trù bản thể luận có tính trừu
tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến một cách cụ thể, đó là nhân dân
Việt Nam, những con người lao động nghèo khổ bị áp bức cùng cực dưới ách thống
trị của phong kiến, đế quốc; là dân tộc Việt Nam đang bị đô hộ bởi chủ nghĩa thực
dân; và mở rộng hơn nữa là những "người nơ lệ mất nước" và "người cùng khổ".
Lơgíc phát triển tư tưởng của Người là xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước để đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Theo lơgíc phát triển
tư tưởng ấy, khái niệm "con người" của Hồ Chí Minh tiếp cận với khái niệm "giai
cấp vơ sản cách mạng". Người đề cập đến giai cấp vô sản cách mạng và sự thống
nhất về lợi ích căn bản của giai cấp đó với các tầng lớp nhân dân lao động khác
(đặc biệt là nông dân). Người nhận thức một cách sâu sắc rằng, chỉ có cuộc cách
mạng duy nhất và tất yếu đạt tới được mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và tồn thể nhân loại khỏi mọi sự nơ dịch, áp bức. Tồn bộ các tư tưởng, lý
luận (chiếm một khối lượng lớn trong các tác phẩm của Người) bàn về cách mạng
(chiến lược giải pháp; bàn về người cách mạng và đạo đức cách mạng, về hoạch
định và thực hiện các chính sách xã hội; về rèn luyện và giáo dục con người v.v...)
về thực chất chỉ là sự cụ thể hóa bằng thực tiễn tư tưởng về con người của Hồ Chí
Minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được khái niệm vừa là mục tiêu của sự
nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, vừa là động lực của chính sự nghiệp
đó. Tư tưởng đó được thể hiện rất triệt để và cụ thể trong lý luận chỉ đạo cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trong lý luận về xây dựng chế độ mới, Hồ Chủ tịch đã khẳng định xây dựng chế
độ dân chủ nhân dân gắn liền với việc thực hiện bước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong kháng chiến giải phóng dân tộc cần xây dựng chế độ dân chủ nhân dân để
đẩy mạnh công cuộc kháng chiến, đồng thời tạo ra những tiền đề cho việc xây
dựng chủ nghĩa xã hội; trong xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải thực hiện chế độ
dân chủ nhân dân, vì như Người nói: "Đây là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại
những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi". Cuộc chiến
đấu ấy sẽ không đi đến thắng lợi, nếu không "dựa vào lực lượng của toàn dân". Về
chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh khơng bao giờ quan niệm hình thái xã hội đó như
một mơ hình hồn chỉnh, một cơng thức bất biến. Bao giờ Người cũng coi trọng
những điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa khách quan. Người chỉ đề ra
những mục tiêu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội với những bước đi thiết
thực và những nội dung cơ bản nhất. Theo Người: "Nói một cách tóm tắt, mộc
mạc, chủ nghĩa xã hội trước hết là làm cho nhân dân lao động thoát khỏi bần cùng,
làm cho mọi người có cơng ăn việc làm, được ấm no và được sống đời hạnh phúc";
"Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân"
xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là làm cho nhân dân ta có một đời sống thật sung
sướng, tốt đẹp. Người dạy xây dựng chủ nghĩa xã hội phải thiết thực, phù hợp với
điều kiện khách quan, phải nắm được quy luật và phải biết vận dụng quy luật một
cách sáng tạo trên cơ sở nắm vững tính đặc thù, tránh giáo điều, rập khn máy
móc. Sự sáng tạo đó gần gũi, tương đồng, nhất quán với luận điểm của Ăngghen:
"Đối với chúng ta, chủ nghĩa cộng sản không phải là trạng thái cần phải sáng tạo
ra, không phải là một lý tưởng mà hiện thực phải khuôn theo. Chúng ta gọi chủ
nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái hiện nay". Vì vậy,
không chỉ trong lý luận về đấu tranh giành độc lập dân tộc mà cả trong lý luận xây
dựng chủ nghĩa xã hội khi định ra những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, trước hết,
"cần có con người xã hội chủ nghĩa", Hồ Chí Minh đã thể hiện nhất quán quan
điểm về con người: con người là mục tiêu, đồng thời vừa là động lực của sự nghiệp
giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người.
Tấm lịng Hồ Chí Minh ln hướng về con người. Người yêu thương con người,
tin tưởng con người, tin và thương yêu nhân dân, trước hết là người lao động, nhân
dân mình và nhân dân các nước. Với Hồ Chí Minh, "lịng thương u nhân dân,
thương u nhân loại" là "khơng bao giờ thay đổi". Người có một niềm tin lớn ở
sức mạnh sáng tạo của con người. Lòng tin mãnh liệt và vơ tận của Hồ Chí Minh
vào nhân dân, vào những con người bình thường đã được hình thành rất sớm. Từ
những năm tháng Người bơn ba tìm đường cứu nước, thâm nhập, lăn lộn, tìm hiểu
thực tế cuộc sống và tâm tư của những người dân lao động trong nước và nước
ngoài. Người đã khẳng định: "Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương
ẩn giấu một cái gì đang sơi sục, đang gào thét, và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm
khi thời cơ đến"1. Tin vào quần chúng, theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đó là
một trong những phẩm chất cơ bản của người cộng sản. Và đây cũng chính là chỗ
khác căn bản, khác về chất, giữa quan điểm của Hồ Chí Minh với quan điểm của
các nhà Nho yêu nước xưa kia (kể cả các bậc sĩ phu tiền bối gần thời với Hồ Chí
Minh) về con người. Nếu như quan điểm của Hồ Chí Minh: "Trong bầu trời khơng
có gì q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực lượng đoàn
kết tồn dân", thì các nhà Nho phong kiến xưa kia mặc dù có những tư tưởng tích
cực "lấy dân làm gốc", mặc dù cũng chủ trương khoan thư sức dân", nhưng quan
điểm của họ mới chỉ dừng lại ở chỗ coi việc dựa vào dân cũng như một "kế sách",
một phương tiện để thực hiện mục đích "trị nước", "bình thiên hạ". Ngay cả những
bậc sĩ phu tiền bối của Hồ Chí Minh, tuy là những người yêu nước một cách nhiệt
thành, nhưng họ chưa có một quan điểm đúng đắn và đầy đủ về nhân dân, chưa có
đủ niềm tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân. Quan điểm tin vào dân, vào
nhân tố con người của Người thống nhất với quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin:
"Quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử".
Tin dân, đồng thời lại hết lòng thương dân, tình thương u nhân dân của Hồ Chí
Minh có nguồn gốc sâu xa từ trong truyền thống dân tộc, truyền thống nhân ái
ngàn đời của người Việt Nam. Cũng như bao nhà Nho yêu nước khác có cùng quan
điểm "ái quốc là ái dân", nhưng điểm khác cơ bản trong tư tưởng "ái dân" của
Người là tình thương ấy khơng bao giờ dừng lại ở ý thức, tư tưởng mà đã trở thành
ý chí, quyết tâm thực hiện đến cùng sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân
tộc, giải phóng nhân loại cần lao, xóa bỏ đau khổ, áp bức bất công giành lại tự do,
nhân phẩm và giá trị làm người cho con người. ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa u
nước gắn bó khơng tách rời với chủ nghĩa quốc tế chân chính. Tình thương u
cũng như tồn bộ tư tưởng về nhân dân của Người không bị giới hạn trong chủ
nghĩa dân tộc hẹp hịi mà nó tồn tại trong mối quan hệ khăng khít giữa các vấn đề
dân tộc và giai cấp, quốc gia với quốc tế. Yêu thương nhân dân Việt Nam, Người
đồng thời yêu thương nhân dân các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Trong sự
nghiệp lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh ln coi trọng sức mạnh đồn kết tồn
dân và sự đồng tình ủng hộ to lớn của bè bạn khắp năm châu, của cả nhân loại tiến
bộ. Người cũng xác định sự nghiệp cách mạng của nước ta là một bộ phận khơng
thể tách rời trong tồn bộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng nhân loại trên phạm vi
tồn thế giới.
Tóm lại: Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống nhất của
"cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa
cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin
tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người, đó chính là
những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Xuất phát
từ những luận điểm đúng đắn đó, trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh ln tin ở
dân, hết lịng thương u, q trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh
của nhân dân. Tư tưởng về con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng
của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành một sức mạnh vật chất to
lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy.
Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh dựa trên thế giới quan duy vật triệt để của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính vì xuất phát từ thế giới quan duy vật triệt để ấy, nên
khi nhìn nhận và đánh giá vai trị của bản thân mình (với tư cách là lãnh tụ), Người
khơng bao giờ cho mình là người giải phóng nhân dân. Theo quan điểm của Hồ
Chí Minh, người cán bộ (kể cả lãnh tụ) chỉ là "đầy tớ trung thành" có sứ mệnh
phục vụ nhân dân, lãnh tụ chỉ là người góp phần vào sự nghiệp cách mạng của
quần chúng. Tư tưởng này đã vượt xa và khác về chất so với tư tưởng "chăn dân"
của những người cầm đầu nhà nước phong kiến có tư tưởng yêu nước xưa kia. Và
đây, cũng chính là điều đã làm nên chủ nghĩa nhân văn cao cả ở Hồ Chí Minh, một
chủ nghĩa nhân văn cộng sản trong cốt cách của một nhà hiền triết phương Đông.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lấy chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động. Tư tưởng về con người của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán với tư tưởng
về con người của Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy được thể hiện qua đường lối lãnh
đạo cách mạng và qua các chủ trương chính sách của Đảng trong suốt q trình
Đảng lãnh đạo cơng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, tư tưởng đó tiếp tục
được Đảng ta quán triệt vận dụng và phát triển. Con người Việt Nam đang là trung
tâm trong "chiến lược phát triển toàn diện"; đang là động lực của công cuộc xây
dựng xã hội mới với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh,
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".
Câu 4:Tại sao nói chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh la chủ nghĩa nhân văn hành
đọng,chủ nghĩa nhân văn chiến đấu?
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Người đề ra những
nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói và diệt giặc dốt cùng với việc chống giặc ngoại
xâm. Trước mắt phải xóa đói nghèo, làm cho kinh tế phát triển "làm cho người
nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu và người khá giàu thì giàu thêm" (Hồ Chí
Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.1995, t5, tr65). Kinh tế có phát triển, đời sống đồng
bào có ấm no thì đất nước mới cường thịnh. Người từng nói: Tơi thấy các cháu
bụng ỏng, mắt choẹt, tơi hết sức đau lịng". Người yêu cầu những người lãnh đạo
chính quyền phải chăm lo đến đời sống nhân dân, phải chăm lo từ việc "tương cà,
mắm muối của dân", không được áp bức quần chúng nhân dân.
Người chăm lo đến việc nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ, phát
triển giáo dục. Người từng nói "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Người yêu
cầu đảng cầm quyền phải chăm lo đến nâng cao trình độ học vấn cho nhân dân,
chăm lo phát triển mọi mặt của dân tộc ta. Người thường nói chế độ thực dân đã
dùng mọi thủ đoạn ngu dân để đầu độc dân tộc ta, để hủ hóa nhân dân ta bằng
những thói xấu như lười biếng, gian xảo, tham ô. Cho nên phải làm sao để dân tộc
Việt Nam trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc
xứng đáng với nước Việt Nam độc lập, "sánh vai với các cường quốc năm châu".
Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh khơng chỉ giới hạn ở nhân dân Việt
Nam mà ở tình bác ái bao la. Người từng vạch rõ: "Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ
bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả
những người khác thì ta phải u q, kính trọng, giúp đỡ... Phải thực hành chữ
Bác-Ái" (Hồ Chí Minh tồn tập, Nxb CTQG, H.1995, t5, tr644). Người cịn nói
"Lịng u thương của tôi đối với nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi"
và trước lúc đi xa, Người viết "Đầu tiên là vấn đề con người" và "Cuối cùng tơi để
lại mn vàn tình thân u cho tồn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các
cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các
bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế".
Chăm lo, bồi dưỡng, phát huy sức mạnh của con người, tin tưởng vững chắc vào
khả năng và phẩm giá tốt đẹp của con người. Cách mạng Tháng Tám thành công,
tại cuộc họp đầu tiên của ủy ban nghiên cứu kế hoạch, kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu
rõ mục tiêu của Nhà nước là: "Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho
dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành". Người cịn nói: "Chúng ta đã hy sinh
phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi... Chúng ta tranh được tự
do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng khơng làm gì .
Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ".
Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng kiệt xuất của các anh hùng, hào kiệt của dân tộc như
Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi... về sức mạnh của nhân dân "Khoan thư sức dân để
làm kế bền gốc, sâu rễ", "đẩy thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân".
Người còn kế thừa tư tưởng nhân văn "lấy dân làm gốc" và chủ nghĩa nhân đạo
hiện thực của học thuyết Mác để hình thành tư tưởng nhân văn mới, tin tưởng
mãnh liệt vào sức mạnh, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân và lịng
tơn trọng, kính trọng nhân dân lao động. Người nói "Trong bầu trời khơng có gì
q bằng nhân dân. Trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của
nhân dân".
Trong điều kiện bị đế quốc thực dân thống trị, kẻ thù đàn áp dã man, cùng với
chính sách ngu dân của chúng, người dân các nước thuộc địa tưởng chừng không
thể gượng dậy nổi, song Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tin tưởng ở nhân dân mình, dân
tộc mình "...đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đơng Dương đang dấu một cái
gì đang sơi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến..."
và sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ cần
phải làm cái việc là gieo hạt giống của cơng cuộc giải phóng nữa thơi. Trong quá
trình đấu tranh, Người đã làm cho nhân dân thế giới nhận thức rõ vấn đề thuộc địa,
đoàn kết giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc là giúp đỡ cho chính mình.
Người nhận thấy rõ vai trị của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng,
"người là gốc của làng nước", "nước lấy dân làm gốc", "gốc có vững cây mới bền",
"xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Người cịn nói rằng: "Dân như nước, mình
như cá", "lực lượng nhiều là ở dân hết". "Công việc đổi mới là trách nhiệm ở dân".
Do đó, Người yêu cầu "Đem tài dân, sức dân, của dân, làm lợi cho dân".
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất tồn diện. Con người khơng phải là
thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu. Bởi vậy, theo Người phải "làm cho phần tốt
trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi". Người
yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm, đánh thức những gì tốt đẹp trong con
người. Ngay cả đối với những người lầm đường lạc lối, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng rất khoan dung, độ lượng: "Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài.
Nhưng vắn dài đều họp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế
này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta
phải khoan hồng đại độ".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng "con người mới" vì đây là động
lực quyết định hướng đi lên của xã hội Việt Nam tương lai. Người địi hỏi phải có
chiến lược trồng Người. Con người mới vừa là nhân vừa là quả của quá trình đấu
tranh xây dựng xã hội mới. Theo Người, con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam
phải có tinh thần làm chủ xã hội "đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan gánh
vác, khơng ỷ lại, khơng ngồi chờ". Con người mới phải có tri thức văn hóa và khoa
học, có trình độ chun mơn nghiệp vụ. Con người mới phải có phẩm chất đạo đức
cách mạng "cần, kiệm, liêm, chính', "Chí cơng, vơ tư". Phải nghiêm khắc chống
chủ nghĩa cá nhân. Nhưng chống chủ nghĩa cá nhân khơng có nghĩa là phủ định lợi
ích chính đáng của cá nhân. Người nói: "Mỗi người đều có tính cách riêng, sở
trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình. Nếu lợi ích cá nhân đó
khơng trái với lợi ích tập thể thì khơng phải là xấu".Theo Người, con người mới
Việt Nam là con người phải mang đậm truyền thống dân tộc, đồng thời giàu chất
quốc tế xã hội chủ nghĩa.
Một điểm rất nổi bật là tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có tính vượt thời đại. Đó
là sự tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi ngày mai, lo cho tương lai của đất nước.
Trong chiến tranh ác liệt, vận mệnh đất nước lâm nguy, nhưng với nhãn quan duy
vật biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy được thắng lợi tất yếu của cách mạng
Việt Nam. Thật hiếm thấy ở một vị lãnh đạo quốc gia nào mà sự quan tâm đến con
người, đến nhân dân lại được đặt lên tầm lớn lao, sâu sắc nhưng hết sức cụ thể,
thiết thực như ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tính nhân văn cao cả trong tư tưởng Hồ
Chí Minh là đặt hạnh phúc nhân dân lên trên hết. ở Hồ Chí Minh, nhân dân không
phải là một khái niệm chung chung, mơ hồ mà là cộng đồng Việt Nam, là đồng
bào, là từng con người, từng cuộc đời, từng hoàn cảnh cụ thể. Cho đến lúc đi xa,
Người chỉ nghĩ đến sự đoàn kết toàn dân, sự phát triển và tiến bộ của Đảng, của
dân tộc; Người vẫn dành mn vàn tình thương yêu cho mọi người.
Cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hình mẫu của con người nhân văn
của thời đại mới. Trong con người Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa lòng yêu
thương con người với lịng tin, sự tơn trọng và ý chí cùng hành động triệt để giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
Câu 5: Phân tích vị trí chức năng văn hố trong tư tưởng Hồ Chí Minh?Nội dung
của những tính chất đó?
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về văn hóa chiếm một vị trí quan
trọng. Nó là sự chắt lọc, tổng hợp và kết tinh những giá trị văn hóa của Việt Nam,
của Phương Đông và Phương Tây, của truyền thống và hiện đại, của dân tộc và
quốc tế mà cốt lõi là sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với tinh hoa, bản sắc văn
hóa dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh có vai trò to lớn trong đời sống của mỗi quốc gia dân tộc.
Trước hết: văn hóa là mục tiêu, động lực của cách mạng. Văn hóa là kiến trúc
thượng tầng của xã hội, vì vậy việc lật đổ chế độ xã hội cũ, xã hội thực dân phong
kiến và xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) tốt đẹp là mục tiêu
của văn hóa. Cách mạng XHCN ở nước ta, theo Hồ Chí Minh là phải “thay đổi
triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn
năm… Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa cao
và đời sống tươi vui hạnh phúc”(1). Khi chỉ rõ “văn hóa phải soi đường cho quốc
dân đi”(2), Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh vai trị động lực của văn hóa. Theo Người:
tiến lên CNXH phải có cả vật chất lẫn tinh thần, song con người là quyết định; để
đưa đất nước đi lên, không thể không đặt trọng tâm vào kinh tế, nhưng chủ thể của
hoạt động kinh tế lại chính là con người và thước đo trình độ con người lại chính là
văn hóa.
Với một cảm quan văn hóa trên bình diện rộng, Hồ Chí Minh coi Văn hóa là
một mặt hợp thành tồn bộ đời sống xã hội. Người nhấn mạnh: “trong công cuộc
kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề chú ý đến; cùng phải coi trọng ngang nhau:
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội”(3). Vì thế, văn hóa khơng thể đứng ngồi “mà
phải ở trong kinh tế và chính trị” và ngược lại kinh tế, chính trị cũng nằm “trong
văn hóa”. Tăng trưởng kinh tế phải đi đơi với phát triển văn hóa và giải quyết
những vấn đề xã hội; nếu chỉ coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu duy nhất thì chẳng
những mơi trường văn hóa– xã hội bị hủy hoại mà mục tiêu kinh tế cũng không đạt
được.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh văn hóa là linh hồn, bản sắc dân tộc. Hồ Chí Minh
cho rằng, văn hóa khơng thể tách rời với quốc gia dân tộc, văn hóa trước hết là văn
hóa của một dân tộc, nó mang tâm hồn, diện mạo dân tộc, đó chính là bản sắc dân
tộc của văn hóa. Rất nhiều lần Người thường nhắc nhở phải “chăm lo đặc tính dân
tộc”, “phát huy cốt cách dân tộc”, “lột cho hết tinh thần dân tộc” trong xây dựng
văn hóa, trong sáng tác nghệ thuật. Với văn hóa Việt Nam, Người tự hào: “nghệ
thuật của cha ông ta hay lắm”(4), “âm nhạc dân tộc của ta rất độc đáo”(5) và “tiếng
nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải
giữ gìn nó, q trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp” (6). Từ đó, Hồ
Chí Minh nhấn mạnh: “Lấy kinh nghiệm tốt của văn hóa xưa và văn hóa nay trau
dồi cho văn hóa Việt Nam thật có tinh thần thuần túy Việt Nam” (7), “cần phải mở
rộng kiến thức của mình về văn hóa thế giới”(8), “Phương Đơng hay Phương Tây có
cái gì hay, cái gì tốt ta phải học lấy”(9); song điều cốt yếu là “đừng biến ta thành kẻ
bắt chước”(10), và “đừng chịu vay mà không trả”(11) – “cái gốc của văn hóa mới là
dân tộc”(12). Học tập văn hóa hiện đại của các nước phải phù hợp với điều kiện Việt
Nam, kết hợp với văn hóa Việt Nam tạo ra những giá trị mới đóng góp vào việc
phát triển văn hóa nhân loại.
Hồ Chí Minh đã xác định văn hố là một trong bốn vấn đề chủ yếu của đời sống xã
hội. Theo Người, văn hoá cũng quan trọng ngang hàng với chính trị, kinh tế, xã
hội.
- Người cịn chỉ rõ bốn vấn đề đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau khơng thể tách
rời. Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hố mới được giải phóng. Xây
dựng kinh tế để tạo diều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hoá. Ngược lại,
văn hoá phải phục vụ nhiệm vụ chính trị, thúc đẩy xây dựng và phát triển kinh tế.
Theo Hồ Chí Minh, văn hố có ba chức năng cơ bản:
- Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho nhân dân, loại bỏ
những sai lầm và thấp hèn có thể có trong tư tưởng, tình cảm của mỗi người.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng những tư tưởng và tình cảm
lớn có ý nghĩa chi phối đời sống tinh thần của mỗi người và của cả dân tộc. Tư
tưởng lớn nhất mà Người yêu cầu Đảng và nhân dân ta phải xây dựng là lý tưởng
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Những tình cảm lớn mà Hồ Chí
Minh chủ trương xây dựng cho mỗi người là lòng yêu nước, tình yêu thương con
người; yêu cái chân, cái thiện và cái mỹ; yêu tính trung thực, thuỷ chung, chân
thành, ghét những thói hư, tật xấu, sa đoạ, biến chất,v.v…
- Hai là, nâng cao dân trí. Đó là nâng cao trình độ hiểu biết, trình độ kiến thức của
người dân. Trình độ đó phải từ chỗ khơng biết chữ đến chỗ biết chữ, từ chỗ biết
chữ đến chỗ hiểu biết các lĩnh vực khác cần thiết cho hoạt động cuả mỗi người như
kinh tế, chính trị, văn hố, khoa học kỹ thuật, chuyên môn nghề nghiệp, thực tiễn
Việt Nam và thế giới,v.v…
- Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh luôn
hướng con người vươn tới chân, thiện, mỹ.
Muốn tham gia vào việc tạo ra những giá trị văn hoá, đồng thời biết hưởng thụ
một cách đúng đắn những giá trị văn hoá của xã hội, mỗi người khơng chỉ cần có
những tư tưởng đúng đắn, tình cảm cao đẹp, những hiểu biết ngày càng được nâng
cao, mà cịn phải trau dồi cho mình những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách
lành mạnh. Văn hóa phải giúp cho con người biến những tư tưởng đúng đắn, tình
cảm cao đẹp thành phẩm chất và phong cách của chính mình mới có thể sử dụng
được kiến thức để tham gia vào việc tạo ra những giá trị văn hoá cho xã hội và biết
hưởng thụ một cách đúng đắn những giá trị văn hoá của xã hội. Mỗi người phải
biết phân biệt cái tốt đẹp, lành mạnh với cái xấu xa, hư hỏng, cái tiến bộ thúc đẩy
sự phát triển xã hội với cái lạc hậu cản trở mỗi người và cả dân tộc tiến lên phía
trước. Từ đó, mỗi người phải phấn đấu làm cho cái tốt đẹp, lành mạnh ngày càng
tăng, cái tiến bộ ngày càng nhiều, cái lỗi thời, lạc hậu ngày càng giảm bớt, cái xấu
xa, hư hỏng ngày càng bị loại bỏ khỏi đời sống con người và xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, nền văn hố mới mà chúng ta chủ trương xây dựng là nền văn
hố có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
+ Tính dân tộc của nền văn hóa thể hiện ở đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc của
nền văn hóa. Nó là kết quả của sự kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa
tốt đẹp của dân tộc, những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo của dân
tộc.
+ Tính khoa học của nền văn hóa thể hiện ở sự phù hợp của nền văn hóa dân tộc
với sự tiến hóa chung của nền văn hóa nhân loại, ở khả năng đóng góp của văn hóa
vào sự nghiệp cải tạo xã hội.
+ Tính đại chúng của nền văn hóa thể hiện ở chỗ nền văn hóa đó do quần chúng
nhân dân vun trồng nên, quần chúng nhân dân vừa là chủ thể sáng tạo vừa là chủ
thể hưởng thụ những giá trị của nền văn hóa đó.
- Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng hiện nay là nền văn hóa có tính chất tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Thực chất nền văn hóa này là sự tiếp nối và triển khai
tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nền văn hóa có tính chất dân tộc, khoa học
và đại chúng.
Tiên tiến là khoa học, hiện đại, là xã hội chủ nghĩa, là biết tiếp thu tinh hoa văn
hóa của nhân loại. Đậm đà bản sắc dân tộc là biết kế thừa, phát huy những truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, phát triển những truyền thống tốt đẹp ấy cho
phù hợp với những điều kiện lịch sử mới của dân tộc
Câu 6:Xây dựng nền văn hố Hồ Chí Minh đã đưa ra những tính chất nào?Hãy
phân tích những tính chất ấy?
Đó là một hệ thống các quan điểm lý luận mang tính khoa học và cách mạng về
văn hóa và xây dựng nền văn hóa Việt Nam. Được kết tinh và chắt lọc những giá
trị cả văn hóa phương Đơng, phương Tây, của truyền thống và hiện đại, của dân
tộc và quốc tế.
Theo Hồ Chí Minh, văn hóa có ý nghĩa vơ cùng to lớn và giữ vị trí đặc biệt quan
trọng. Theo Người: Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng; những cơ sở hạ tầng của
xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển
được; có thực mới vực được đạo; xã hội thế nào thì văn hóa thế ấy. Nhưng mặt
khác, đến lượt mình, văn hóa là động lực của sự phát triển xã hội, phát triển kinh
tế; văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
Văn hóa được xây dựng và bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử, nó làm nên
nền tảng tinh thần của một xã hội, giữ vai trò quan trọng vừa là mục tiêu, vừa là
động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong rất nhiều bài nói và bài viết,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến việc phải giữ gìn và phát huy những truyền
thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Đó là những giá trị bền vững, những tinh hoa của
cộng đồng dân tộc Việt Nam được hun đúc nên qua hàng ngàn năm lịch sử. Đó là
lịng u nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đồn kết, ý thức cộng
đồng, lịng nhân ái khoan dung, trọng đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao
động, dũng cảm trong chiến đấu…Bên cạnh việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân
tộc phải biết tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, biết gạn đục khơi trong, nâng cao
trình độ văn hóa của nhân dân, biệt chọn lọc, sáng tạo cho phù hợp với hồn cảnh
và đặc tính của dân tộc mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tấm gương cho mọi
thế hệ Việt Nam, trong đó có tuổi trẻ noi theo.
Với nhận thức là văn hóa có nhiệm vụ phụng sự Tổ quốc và nhân dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh xuất phát từ quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”,
“nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân”. Vì vậy, văn hóa cũng phải
thấm nhuần sâu sắc quan điểm: Vì nhân dân phục vụ và phát huy sứ mạng của tồn
dân làm văn hóa. Làm cho văn hóa thấm sâu vào đời sống và hoạt động xã hội, vào
mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người là yêu cầu rất cao, là nhiệm vụ khó