Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Phân tích hoàn cảnh ra đời và vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự hình thành Đảng Cộng Sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.17 KB, 12 trang )

Câu I: Phân tích hoàn cảnh ra đời và vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với
sự hình thành Đảng Cộng Sản Việt Nam
 Hoàn cảnh lịch sử của sự ra đời Đảng Cộng Sản Việt Nam.
1. Hoàn cảnh quốc tế:
- Trên thế giới lúc này Chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ và chuyển sang Đế
quốc chủ nghĩa, chúng tiến hành đi xâm chiếm các nước khác, nhiều dân tộc bị áp bức
thống trị. Vấn đề dân tộc nổi lên và trở thành vấn đề của thời đại.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin lúc này đã phát triển mạnh mẽ, Cách Mạng Tháng 10 Nga
thành công và một nước Xã Hội Chủ Nghĩa đầu tiên ra đời, mở ra một thời đại mới trong
lịch sử phát triển của loài người, thức tỉnh và cổ vũ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu
tranh giải phóng. Cuộc cách mạng đó đã đem lại cho nhân dân một cuộc sống mới tốt đẹp
hơn.
- Nhiều nước học tập kinh nghiệm của Cách Mạng Tháng 10 (Cách Mạng Vô Sản
đã làm thay đổi toàn bộ bộ mặt của nước Nga biến một nước Nga tiền Tư bản rất lạc hậu,
người dân vô cùng cực khổ thành một nước Xã Hội Chủ Nghĩa hoàn toàn và trong đó có
Việt Nam, sự học tập này kinh nghiệm đúng đắn của Cách Mạng Tháng 10 Nga đã dẫn
đến sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Các Đảng Cộng Sản liên kết với nhau thành lập Quốc tế Cộng Sản, trong quốc tế
Cộng Sản có rất nhiều Đảng Cộng Sản rất nhiệt tình ủng hộ và giúp đỡ Việt Nam, trong
đó nổi bật nhất là: Đảng Cộng Sản Pháp, Đảng Cộng Sản Ấn Độ, Đảng Cộng Sản Trung
Quốc và Đảng Cộng Sản Thái Lan.
2. Hoàn cảnh trong nước:
a. Việt Nam từ nước phong kiến độc lập trở thành nước thuộc địa
- Từ đâu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây, trong đó có đế quốc Pháp, đã
âm mưu xâm lược nước ta, mở đầu bằng việc khai thông buôn bán và truyền giáo.
- Nǎm 1858, đế quốc Pháp vũ trang xâm lược nước ta. Vua quan triều đình nhà
Nguyễn từng bước đầu hàng chúng. Ngày 6 tháng 6 nǎm 1884, triều đình nhà Nguyễn đã
ký Hiệp ước Patơnốt, hoàn toàn dâng nước ta cho đế quốc Pháp. Từ đó, Việt Nam trở
thành thuộc địa của đế quốc Pháp. Dưới chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai của
chúng, xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
- Về chính trị thực dân Pháp thi hành chính sách chuyên chế. Mọi quyền hành đều


nằm trong tay người Pháp, vua quan nhà Nguyễn chỉ đóng vai trò bù nhìn. Chúng thi
hành chính sách chia để trị. Chúng chia rẽ giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương, rồi
lập ra xứ Đông Dương thuộc Pháp nhằm xoá tên các nước Việt Nam, Lào, Campuchia
trên bản đồ thế giới.


- Về kinh tế tư bản Pháp không phát triển công nghiệp ở nước ta, mà chỉ mở mang
một số ngành trực tiếp phục vụ cho bộ máy thống trị và khai thác tài nguyên để cung cấp
nguyên liệu cho nền công nghiệp của nước Pháp.
- Chính sách độc quyền kinh tế Pháp đã biến Việt Nam thành thị trường của chính
quốc, nơi vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công rẻ mạt.
- Bên cạnh sự bóc lột nhân công và cướp đoạt tài nguyên, đất đai, bọn thực dân
Pháp còn duy trì chế độ phong kiến để giúp chúng bóc lột địa tô, lợi tức và các hình thức
thuế khoá rất nặng nề.
- Các mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên sâu sắc. Mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ
yếu là nông dân, với giai cấp phong kiến địa chủ chưa được giải quyết, thì mâu thuần
giữa dân tộc ta với bọn đế quốc Pháp thống trị và phong kiến tay sai của chúng lại phát
sinh, càng đẩy nhanh quá trình cách mạng của nhân dân ta.
- Đánh giá về hiện tượng xã hội nói trên, đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết: "Sự tàn
bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là
gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi"
- Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của tư bản Pháp trùm lên phương thức
sản xuất phong kiến lỗi thời đã làm phân hoá các giai cấp cũ, tạo ra kết cấu giai cấp mới.
b. Giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hoá, giai cấp công nhân ra đời
- Giai cấp địa chủ phong kiến trong những thế kỷ trước đã từng giữ vai trò tiến bộ
nhất định trong lịch sử. Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng đế quốc Pháp thì bản thân
giai cấp này cũng bị phân hóa. Một bộ phận can tâm làm tay sai cho đế quốc Pháp để duy
trì quyền lợi của bản thân, một bộ phận không ít tiếp tục truyền thống dân tộc, đề xướng
và lãnh đạo các phong trào Vǎn thân, Cần vương chống đế quốc Pháp xâm lược, khôi
phục triều đình phong kiến. Một số trở thành những lãnh tụ của phong trào quần chúng

nông dân, vừa đấu tranh chống đế quốc Pháp, vừa chống lại triều đình bán nước.
- Một bộ phận nhỏ chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa. Giai cấp tư
sản Việt Nam xuất hiện từ trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918),
vừa ra đời đã bị sự chèn ép của tư bản Pháp và phân hoá thành hai bộ phận. Một số ít ôm
chân đế quốc, tham gia vào các cơ quan chính trị và kinh tế của đế quốc Pháp, trở thành
lớp tư sản mại bản. Một bộ phận khác tuy có mâu thuẫn nhất định với tư bản Pháp và
triều đình phong kiến, nhưng thế lực kinh tế yếu ớt, què quặt, phụ thuộc, khuynh hướng
chính trị cải lương. Do vậy, giai cấp tư sản dân tộc Việt Nam tuy có tinh thần yêu nước,
chống phong kiến và đế quốc, nhưng họ không có khả nǎng lãnh đạo cách mạng. Họ chỉ
có thể tham gia cuộc đấu tranh ấy trong điều kiện nhất định.
- Tầng lớp trí thức và tiểu tư sản là những người vốn được chế độ phong kiến và
thực dân đào tạo. Nhưng do truyền thống yêu nước chi phối, họ khao khát độc lập, tự do,


dân chủ, nên cũng bị phân hoá. Một số ít cam tâm làm tay sai. Số đồng vẫn giữ được khí
tiết dù ở hoàn cảnh nào cũng không nguôi lòng cứu nước. Khi có điều kiện, những trí
thức yêu nước thường đóng vai trò truyền bá những tư tưởng mới và là ngòi pháo của các
cuộc đấu tranh chống thực dân, phong kiến.
- Giai cấp nông dân khao khát độc lập và ruộng đất, hǎng hái chống đế quốc và
phong kiến. Sau phong trào Vǎn thân, Cần vương, nhất là sau thất bại của cuộc khởi
nghĩa Yên thế (1913), phong trào nông dân bị phân tán. Nông dân là một lực lượng đông
đảo, yêu nước, nhưng không thể tự vạch ra đường lối đúng đắn để tự giải phóng và không
thể đóng vai trò lãnh đạo cách mạng.
- Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, khi
thực dân Pháp xây dựng một số cơ sở công nghiệp, đồn, trại và thành phố phục vụ cho
cuộc xâm lược và binh định nước ta.
- Sinh trưởng trong một nước thuộc địa, nửa phong kiến, cũng như nông dân và
các tầng lớp lao động khác, giai cấp công nhân Việt Nam bị ba tầng áp bức, bóc lột của đế
quốc, phong kiến và tư sản, phần lớn xuất thân từ nông dân. Đó là cơ sở khách quan

thuận lợi cho hai giai cấp cơ bản này có sự liên minh tự nhiên từ khi ra đời và phát triển
trong quá trình đấu tranh cách mạng.
- Ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, không có cơ sở xã hội cho chủ nghĩa công
đoàn và chủ nghĩa cải lương thâm nhập, lũng đoạn từ bên trong, do vậy, giai cấp công
nhân Việt Nam tuy còn trẻ, số lượng ít, trình độ vǎn hoá, kỹ thuật còn thấp, nhưng ở nước
ta đó là giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiến bộ nhất, sống tập trung, có ý thức kỷ
luật, có nǎng lực cách mạng triệt để và có tinh thần quốc tế vô sản.
- Là con đẻ của một dân tộc anh hùng, lớn lên trong thời đại mới, khi mà giai cấp
công nhân Nga dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Bônsêvích đã giành được chính
quyền, Quốc tế cộng sản đã thành lập, lại được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giác ngộ, giai
cấp công nhân Việt Nam đã từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, nhanh chóng phát
triển từ tự phát đến tự giác.
c. Cuộc khủng hoảng đường lối giải phóng dàn tộc, nhiều đảng phái xuất hiện
- Lịch sử nước ta từ khi đế quốc Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của thế
kỷ này đã chứng kiến hơn 300 cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta chống đế
quốc Pháp xâm lược. Nhưng cuối cùng đều không giành được thắng lợi vì không có một
đường lối cứu nước đúng đắn.
- Trước kia, chế độ phong kiến khi đang ở giai đoạn hưng thịnh, giai cấp phong
kiến đã từng lãnh đạo dân tộc đánh thắng bọn phong kiến phương bắc lớn mạnh xâm
lược. Nhưng khi chế độ phong kiến đã suy tàn và phải đối phó với một kẻ thù mới, một


đế quốc thuộc loại cường quốc thế giới, thì giai cấp phong kiến bất lực và trở thành phản
động.
- Thất bại của phong trào Cần vương là do thiếu đường lối đúng, thiếu một tổ chức
cách mạng có khả nǎng dắt dẫn dân tộc đến thắng lợi. Thất bại của phong trào này đánh
dấu sự chấm dứt thời kỳ dấu tranh chống ngoại xâm trong khuôn khổ hệ tư tưởng phong
kiến. Thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Thế dưới sự lãnh đạo của cụ Hoàng Hoa Thám
cũng chứng tỏ đó không phải là con đường giành thắng lợi.
- Khi các phong trào trên chấm dứt thì cuộc khủng hoảng đường lối cứu nước ở

nước ta bộc lộ sâu sắc. Sau khi từng bước ly khai con đường giải phóng dân tộc theo hệ tư
tưởng phong kiến, nhiều người yêu nước Việt Nam hướng ra nước ngoài, tìm đến nhưng
con đường mới để mưu sự nghiệp giải phóng dân tộc như: con đường Duy Tân của Nhật
Bản (1860), con đường Cách mạng tư sản Pháp (1789), con đường Cách mạng Tân Hợi
của Trung Quốc (1911)...
- Ý thức hệ tư sản phương Tây đã thâm nhập vào Việt Nam. Một số sĩ phu tiến bộ
tiếp thu tràn lưu tư tưởng này, mong muốn nước mạnh, dân giàu theo con đường tư bản
chủ nghĩa. Họ muốn noi theo con đường phát triển của Nhật Bản, dựa vào Nhật để đánh
Pháp. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là hội Duy Tân do cụ Phan Bội Châu sáng lập, với
mục đích cổ động phong trào, tổ chức lực lượng chống Pháp theo tôn chỉ "mở mang dân
trí, chấn hưng dân khí, vun trồng nhân tài". Số khác như các cụ: Lương Vǎn Can, Nguyễn
Quyền... mở trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội nhằm cổ động tinh thần yêu nước,
bài xích chính sách cai trị của thực dân Pháp, khuyến khích cải cách, chế diễu lũ phong
kiến, cường hào v.v.. Là một nhà yêu nước nhiệt thành, nhưng chủ trương của cụ Phan
Chu Trinh khác hẳn với cụ Phan Bội Châu. Cụ Phan Chu Trinh tiêu biểu cho xu hướng
cải cách dân chủ tư sản (1789), phản đối việc vũ trang bạo động chống Pháp. Cụ nói: "Bất
bạo động, bạo động tắc tử, bất vọng ngoại, ngoại vọng tất vong". Đó là lời tuyên bố của
cụ Phan Chu Trinh sau khi đi Nhật về (15-8-1906). Phong trào Đông Du, Đông Kinh
Nghĩa Thục, chống đi phu, nộp thuế ở Trung Kỳ là kết quả của khuynh hướng tư tưởng tư
sản.
- Tính chất phong trào dân tộc ở thời kỳ này có chuyển biến khác trước Một số tổ
chức yêu nước ra đời như hội Duy Tân (1904), trường Đông Kinh Nghĩa Thục (1907), hội
Đông Á đồng minh (1908), Việt Nam quang phục Hội (1912-1924) v.v.. Song, vì đường
lối chính trị của các tổ chức này không rõ ràng, nhất là không dựa vào quần chúng lao
động, mà dựa vào uy tín cá nhân, nên không tạo ra được sự thống nhất trong những người
đề xướng phong trào. Vì vậy, khi những người thủ lĩnh bị đế quốc Pháp bắt thì phong trào
cũng tan rã theo.
- Cách Mạng Tháng 10 Nga thành công (1917) đánh dấu bước phát triển mới trong
lịch sử nhân loại. Quốc tế cộng sản, bộ tham mưu của giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp
bức toàn thế giới được thành lập. ở Trung Quốc, sau phong trào Ngũ Tứ, Đảng cộng sản

Trung Quốc ra đời (1921). ở Pháp, Đảng cộng sản Pháp được thành lập (1920), sự kiện


lịch sử này không chỉ là thắng lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Pháp, mà
còn là thắng lợi của các dân tộc thuộc địa Pháp.
- Đồng thời, với những chuyển biến trên thế giới, cách mạng Việt Nam lúc này
cũng bắt đầu có những chuyển biến mới. Tuy nhiên để tránh những sai lầm về đường lối,
chủ trương, Cách Mạng Việt Nam cần tìm được con đường cứu nước đúng đắn, phản ánh
đúng nhu cầu phát triển của của xã hội Việt Nam.
Tất cả các bối cảnh trên đã đặt ra một nhu cầu nóng bỏng cho dân tộc và Cách mạng Việt
Nam đó là cần một tổ chức có đường lối đúng đắn, xây dựng cơ sở đường lối chính trị
phù hợp với sự phát triển của Cách Mạng Việt Nam và đối với phong trào Cách Mạng thế
giới. Và tổ chức đó chính là Đảng Cộng Sản Việt Nam, tuy nhiên để chuẩn bị cho sự ra
đời của Đảng Cộng Sản cần trải qua một giai đoạn chuẩn bị dài và kỹ càng về mặt lý
luận. Và người có công lớn đối với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam đó là Nguyễn
Ái Quốc.
 Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự hình thành của Đảng Cộng Sản
Việt Nam.
1. Chuẩn bị về mặt tư tưởng chính trị:
a) Tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân các nước thuộc địa.
- Người viết nhiều bài đăng trên các báo: "Người cùng khổ", "Đời sống công
nhân", "Nhân đạo", tạp chí "Cộng sản", "Thư tín quốc tế", đặc biệt là năm 1925 người
viết tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" đã gây tiếng vang và ảnh hưởng lớn đến các
phong trào yêu nước ở trong nước và các thuộc địa. . .
- Trong nội dung của các bài báo, các tác phẩm, Người đều tập trung lên án chủ
nghĩa thực dân, vạch trần bản chất xâm lược, phản động, bóc lột, đàn áp tàn bạo của
chúng. Người tố cáo đanh thép trước thế giới và nhân dân Pháp tội ác tày trời của chủ
nghĩa thực dân Pháp đối với các thuộc địa và thức tỉnh lòng yêu nước, ý chí phản kháng
của các dân tộc thuộc địa.
b) Phát thảo đường lối cứu nước (thể hiện tập trung trong tác phẩm "Đường cách

mệnh", năm 1927). Nội dung cơ bản của tác phẩm:
- Đi sâu vạch rõ bản chất phản động của chủ nghĩa thực dân. Chủ nghĩa thực dân
là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trên thế giới, là kẻ thù trực tiếp và nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa...
- Con đường đi lên của Cách mạng Việt Nam là làm cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc tiến lên làm cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Hai giai
đoạn cách mạng này có quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau.


- Mối quan hệ giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa có mối quan hệ
khăng khít với nhau. Phải thực hiện sự liên minh chiến đấu giữa các lực lượng cách mạng
ở thuộc địa và chính quốc. Đặc biệt Người chỉ rõ, cách mạng thuộc địa có tính chủ động,
độc lập, có thể giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc, góp phần đảy mạnh cách
mạng ở chính quốc.
- Về lực lượng cách mạng: công nông là chủ, là gốc của cách mạng; còn người học
trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công nông. Cách mạng là công việc chung
của dân chúng chứ không phải là việc của một hai người.
- Mục tiêu cách mạng: quyền lực thuộc về nhân dân.
- Về đoàn kết quốc tế: đặt Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới; phải thực hiện liên minh, đoàn kết với các lực lượng cách mạng thế giới.
- Về Đảng, tác phẩn nhấn mạnh: cách mạng muốn thắng lợi trước hết phải có
Đảng Cộng Sản lãnh đạo. Đảng đó phải lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm hệ tư tưởng và vận
dụng học thuyết đó vào Việt Nam.
Đó là những hoạt động chính trị và những tư tưởng chủ yếu của Nguyễn Ái Quốc
được truyền bá vào Việt Nam đầu thế kỷ XX, hướng cho các phong trào giải phóng dân
tộc theo Cách mạng Vô Sản, dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
 2. Chuẩn bị về mặt tổ chức
- Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà cách mạng ở các nước thuộc địa
Pháp lập ra Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa, nhằm tập hợp lực lượng chống chủ nghĩa
thực dân.

- Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc tới Quảng Châu. Người đã cùng những nhà lãnh
đạo cách mạng Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Thái Lan, Indônêxia...thành lập Hội liên
hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông.
- Tháng 6 năm 1925, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên để huấn luyện cán bộ trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công
nhân, phong trào yêu nước ở Việt Nam. Đây là tổ chức tiền thân của Đảng.
- Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên và tác phẩm "Đường Cách Mệnh" đã trực
tiếp chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập chính đảng vô sản ở Việt
Nam, dẫn đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam: Đông Dương cộng sản
đảng (6-1929), An nam cộng sản đảng (7-1929), Đông dương cộng sản liên đoàn (11930). Từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã họp ở
Cửu Long-Hương Cảng-Trung quốc dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc, đã nhất trí
thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam. Hội nghị thông qua Chính Cương vắn tắt, sách lược
tóm tắt, điều lệ vắn tắt của đảng và lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc nhân dịp thành lập
Đảng.


- Các văn kiện quan trọng của đảng được hội nghị thông qua là cương lĩnh đầu tiên
của Đảng.
 3. Kết quả của sự chuẩn bị đó:
- Chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối cách mạng vô sản được truyền bá ngày càng
sâu rộng vào Việt Nam.
- Tổ chức Việt Nam cách mạng thanh niên đã phát triển rất mạnh mẽ khắp các
miền đất nước và kiểu bào nước ngoài với hàng ngàn hội viên với một hệ thống tổ chức
cơ sở đến cả nước. Đó là các chiến sỹ yêu nước trẻ tuổi đầy nhiệt huyết đang đấu tranh
giải phóng dân tộc theo con đường Cách Mạng Vô Sản và đang tự giác phấn đấu để trở
thành các chiến sĩ cộng sản.
- Phong trào đấu tranh của quần chúng dưới sự hướng dẫn của Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên phát triển ngày càng mạnh mẽ với hàng trăng cuộc đấu tranh và đang có
sự thay đổi về chất lượng các phong trào, và Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội
đã không còn kiểm soát được các phong trào nữa nên cần phải có một đội ngũ thành lập

Đảng Cộng Sản (3/2/1930) . Đây là tổ chứctiên phong có đủ thế và lực để làm điều này.
Câu II: Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện ở những điểm chú ý nào
trong điều lệ Đảng ?
- Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định bản chất giai cấp công nhân
của mình.
+ Trong "Chương trình tóm tắt" được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng
khẳng định: "Đảng là đội tiên phong lãnh đạo của đội quân vô sản gồm một số lớn giai
cấp công nhân và làm cho họ có đủ năng lực lãnh đạo quần chúng".
+ Sách lược vắn tắt viết: "Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp, phải thu
phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo đợc quần
chúng".
+ Đại hội X đã thông qua sự diễn đạt về Đảng là: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội
tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân
lao động và của dân tộc".
- Sự diễn đạt như trên thể hiện ở hai nội dung sau:
+ Đảng là đội tiền phong của giai cấp công nhân Việt Nam và đồng thời là đội tiền
phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc.
+ Đảng là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của dân tộc Việt Nam.


- Xuất phát từ nhận thức khoa học về vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân.
+ Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất của Chủ Nghĩa
xã hội khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những
cống hiến vĩ đại nhất của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ khái niệm
giai cấp công nhân.
+ Khái niệm giai cấp công nhân (theo Nghị quyết Trung ương 6 khoá X).

- Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lợng xã hội to lớn, đang phát
triển, bao gồm những ngời lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các
loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch
vụ có tính chất công nghiệp.
- Là một lực lượng to lớn, quan trọng trong xã hội, chưa định hình rõ nét,
còn có sự biến đổi, phát triển.
+ Thành phần: bao gồm những người lao động chân tay và trí óc.
+ Đặc điểm: làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và
dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:
+ Trước hết phải lãnh đạo tiến hành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng Sản Việt Nam, đấu tranh giành chính
quyền, thiết lập nền chuyên chính dân chủ nhân dân.
+ Trong giai đoạn cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa, giai cấp công nhân từng bước
lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng thành công Chủ Nghĩa Xã Hội, không có người bóc
lột người, giải phóng nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, bất công.
 Hai nội dung trên quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình thực hiện. Thể
hiện sự nghiệp vĩ đại của giai cấp công nhân là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc,
giải phóng con người và nhân loại khỏi mọi áp bức, bóc lột, nghèo nàn lạc hậu, xây dựng
xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh.
+ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ ý
nghĩa, nội dung căn bản, thể hiện cụ thể của sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam
trong giai đoạn mới là: Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc
trong mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn liền với Chủ Nghĩa Xã Hội, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".


- Ở nước ta, giai cấp công nhân tuy số lượng còn ít, nhưng giai cấp công nhân Việt
Nam và chính Đảng của mình luôn đứng trên lập trường cách mạng, giữ vững bản chất
giai cấp, lấy Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng,

kim chỉ nam cho hành động.
- Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi ra đời đã giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và Chủ Nghĩa Xã Hội, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa giai cấp và dân tộc... Thắng
lợi của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ đều bắt nguồn từ việc giải quyết đúng đắn
mối quan hệ mật thiết giữa giai cấp và dân tộc.
+ Trong điều kiện của nước ta, quyền lợi của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của dân tộc là thống nhất.
+ Sự gắn kết máu thịt giữa Đảng với giai cấp và dân tộc đã được thể hiện ngay từ
nguồn gốc ra đời của Đảng ta. Đảng ra đời không chỉ là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin
với phong trào công nhân mà còn với phong trào yêu nước.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định rằng: Đảng ta không chỉ là Đảng
của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
- Trong báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng (tháng
2 - 1951), Bác chỉ rõ: "Đảng Lao động Việt Nam phải là người lãnh đạo sáng suốt, kiên
quyết, trung thành của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của nhân dân Việt
Nam... Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam".
- Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, được toàn dân thừa nhận là đội
tiên phong lãnh đạo nhân dân. Về vấn đề lợi ích, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài
mục đích phục vụ nhân dân, phục vụ dân tộc. Cụ thể:
+ Trên thực tế, Đảng ta ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích không chỉ của giai
cấp công nhân mà còn vì lợi ích của nhân dân lao động, của toàn dân tộc.
+ Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng ta nêu khẩu hiệu: "Độc lập dân tộc" và
"Ngời cày có ruộng".
+ Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đề ra mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
* Để giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong tình
hình mới, nhiệm vụ của mỗi đảng viên của Đảng là:
+ Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+ Kiên định và vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh. Xuất phát từ thực tiễn lịch sử của nước ta đề ra đường lối, chủ tr-


ương và các chính sách đúng đắn; đồng thời bằng hành động cách mạng biến đường lối,
chủ trương đó thành hiện thực sinh động trên mọi mặt của đời sống xã hội.
+ Đấu tranh kiên quyết, kịp thời chống lại mọi biểu hiện cơ hội, hữu khuynh, giáo
điều, bảo thủ; phê phán những luận điệu và thủ đoạn của các thế lực thù địch phủ nhận,
xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Luôn luôn phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn
hoá, tri thức của thời đại để làm giàu kiến thức, giải quyết thành công những vấn đề lý
luận và thực tiễn của cách mạng nước ta, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của thế
giới.
+ Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và sinh hoạt Đảng, tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Thờng xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết
thống nhất trong Đảng.
+ Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của
giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ và đảng viên theo quan điểm của giai cấp
công nhân.
+ Củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân, chăm lo đời sống và thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
+ Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, tạo
nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng.
Câu III : Vì sao vấn đề xây dựng động cơ phấn đấu vào Đảng đúng đắn được đặt
lên hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đối với việc phấn đấu trở thành Đảng viên Đảng
Cộng Sản Việt Nam ?
Đối với mỗi cá nhân muốn trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải
tự mình trả lời những câu hỏi: Tại sao ta vào Đảng ? Vào Đảng để làm gì ?, Mục tiêu lý
tưởng của Đảng ta là gì ?.
Lúc sinh thời Bác Hồ đã dạy: “Vì sao chúng ta vào Đảng ? Phải chăng để thăng

quan, phát tài ? Không phải !... Chúng ta vào Đảng là để hết lòng, hết sức phục vụ giai
cấp, phục vụ nhân dân, làm trọn nhiệm vụ của người đảng viên”. Cũng trong Di chúc của
mình, Người viết “... Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân...” .
Những người muốn vào Đảng phải xây dựng cho mình được động cơ đúng đắn bởi nó có
ý nghĩa quyết định đối với việc phấn đấu trở thành đảng viên, nó sẽ là động lực lớn thúc
đẩy mọi hành động, việc làm của chúng ta sau này. Để trở thành một đảng viên mỗi
chúng ta cần thực hiện tốt những nhiệm vụ cơ bản sau:


- Một là, không ngừng rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng.
Bản lĩnh chính trị được thể hiện ở tính kiên định mục tiêu, lý tưởng đã lựa chọn trong bất
kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu,
trung thành với lợi ích của Đảng, với lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc, suốt
đời tận tâm trung thành phục vụ cho Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thấy sai phải biết phê
phán... Trong bất kỳ tình huống khó khăn nào cũng không dao động giảm sút niềm tin và
ý chí chiến đấu. Khí tiết của người cách mạng là “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó
không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”. Đây chính là nét nổi bật của người
đảng viên.
- Hai là, không ngừng nâng cao năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao,
thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng. Là một người đảng viên chân chính, mẫu mực
không chỉ hoàn thành nhiệm vụ mà phải gương mẫu hoàn thành tốt, đảm bảo chất lượng
công việc cũng như đem lại hiệu quả cao. Để làm được điều đó đòi hỏi người đảng viên
không chỉ nâng cao về năng lực mà còn cả năng lực về trí tuệ và năng lực thực tiễn,
không ngừng học hỏi trau dồi để đủ kiến thức đáp ứng yêu cầu của cuộc sống.
- Ba là, người đảng viên phải gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia
hoạt động đoàn thể cũng như các công tác xã hội. Điều đó được thể hiện ở ngay chính nơi
ở, nơi làm việc cũng như các mối quan hệ với các quần chúng khác, biết lắng nghe, hiểu
được tâm tư nguyện vọng của quần chúng, biết chăm lo đến lợi ích, phát huy quyền làm

chủ của nhân dân. Vận động nhân dân sống và làm việc theo đường lối, chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước. Những hoạt động chính là cơ hội tốt giúp cho chúng ta
tiến bộ, trưởng thành về chính trị, tạo dựng sự tín nhiệm của nhân dân tạo đà cho mỗi
quần chúng phấn đấu trở thành đảng viên.
- Bốn là, tích cực tham gia xây dựng Đảng cơ sở. Để được đứng trong hàng ngũ
của Đảng chúng ta không những tự giác thừa nhận, tôn trọng sự lãnh đạo của Đảng mà
còn cần tích cực tham gia xây dựng Đảng, giúp Đảng phát hiện những quần chúng mất tư
cách đạo đức, phát hiện những đảng viên tha hoá về đạo đức, lối sống, chống tham nhũng
trong Đảng...
- Năm là, mỗi người chúng ta không ngừng đấu tranh với những hành vi vi phạm
pháp luật, đi ngược với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, vận động quần
chúng nhân dân sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, tích cực góp phần xây
dựng sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh,
xã hội công bằng văn minh...
Động cơ thôi thúc chúng ta phấn đấu vào Đảng là để đứng trong một tổ chức tự
nguyện của những người cùng chung một chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội mới
tốt đẹp dân giàu, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên Chủ nghĩa xã
hội. Mỗi người chúng ta nguyện phấn đấu vào Đảng chính là tự nguyện dấn thân theo lý
tưởng cách mạng, chấp nhận hy sinh, không sợ khó, sợ khổ, quyết tâm theo đuổi đến cùng
con đường dẫn đến mục tiêu Chủ nghĩa xã hội. Mỗi đảng viên phải hiểu rõ cơ hội lớn của


công cuộc đổi mới hiện nay, ra sức nắm bắt để vận dụng vào nhiệm vụ của mình; phải
tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách,
nghị quyết của Đảng và Nhà nước, chống lại sự phá hoại của kẻ thù. Thực hiện nghiêm
túc tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng, bảo đảm toàn thể thống nhất trong nội
bộ làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, tích cực làm công tác phát triển đảng viên
mới.
Cái được lớn nhất khi vào Đảng là có cơ hội được phục vụ cách mạng, phục vụ
nhân dân trong cuộc đấu tranh cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.

Động cơ vào Đảng đúng đắn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết quyết định. Bởi,
chỉ có động cơ đúng đắn mới có thể đáp ứng được những yêu cầu của Đảng và Đảng cũng
chỉ kết nạp những người giác ngộ về mục đích, lý tưởng cách mạng, quyết không thu
nhận vào hàng ngũ mình những người có động cơ thiếu trong sáng, lệch lạc, càng không
để cho các phần tử cơ hội lọt vào Đảng. Để có động cơ vào Đảng đúng đắn chúng ta ta
cần hiểu sâu sắc bản chất, mục đích của Đảng bằng chính việc làm hàng ngày của mình,
đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân góp phần thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm
vụ do Đảng đề ra, thường xuyên trau dồi đạo đức cách mạng, đấu tranh khắc phục mọi
biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, kiêu căng, thực dụng, vụ lợi, xa lạ với bản chất của
người chiến sĩ cách mạng. Lúc sinh thời Bác Hồ đã căn dặn “... Nếu không phục vụ được
nhân dân, phục vụ được cách mạng thì đừng vào Đảng. Bởi Đảng là tổ chức cách mạng
có sứ mệnh cao cả đoàn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và chủ nghĩa xã
hội chứ không phải là nơi để tìm kiếm danh vọng, địa vị, thu hái lợi lộc...”. Độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội chính là niềm tin, lẽ sống, là động lực tinh thần to lớn của mỗi
chúng ta.
Xây dựng động cơ vào Đảng đúng đắn hiện nay có ý nghĩa rất quan trọng. Trong
điều kiện hòa bình, Đảng cầm quyền và cơ chế kinh tế thị trường, mỗi người chúng ta nói
chung, người Đảng viên nói riêng, luôn phải đối mặt với bao khó khăn, thử thách và
những cám dỗ của quyền lực, tiền tài … Nếu người vào Đảng không có động cơ vào
Đảng trong sáng sẽ không vượt qua được những thử thách, không thắng nổi sự cám dỗ vật
chất và những thủ đoạn ‘‘ diễn biến hòa bình ’’ của các thế lực thù địch.



×