Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở QUẢNG NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.51 KB, 11 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN VỚI VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở QUẢNG NAM HIỆN NAY
ThS. LÊ ĐỨC THỌ
Trường Cao đẳng Nghề Đà Nẵng
Tóm tắt
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “huấn luyện
cán bộ là công việc gốc của Đảng”, “có cán bộ tốt việc gì cũng xong”. Thực tiễn cách
mạng nước ta, qua bao cuộc đấu tranh đã chứng minh điều đó – cán bộ là nhân tố quan
trọng của cách mạng. Hiện nay, đất nước đang mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn
ra từng giờ, từng ngày thì vai trò của người cán bộ càng được chú tâm. Cán bộ giỏi lý luận
thì tuyên truyền, vận động tốt; cán bộ giỏi thực tiễn thì mới điều hành được công việc, quản
lý nhân lực; lý luận tốt và thực tiễn giỏi là điều không thể thiếu ở một người cán bộ. Trong
những năm qua, Tỉnh ủy Quảng Nam luôn coi trọng công tác tuyển dụng, đào tạo, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ và đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều tồn tại, hạn chế trong công tác cán bộ cần phải khắc phục. Vì thế, vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn vào việc xây dựng đội ngũ cản bộ ở
Quảng Nam hiện nay là vấn đề cần thiết.
1. NGUYÊN TẮC VỀ SỰ THỐNG
NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH
Hồ Chí Minh không để lại những tác
phẩm chuyên khảo về sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn, nhưng ở nhiều bài
viết, bài nói Người luôn luôn đề cập tới
nguyên tắc cơ bản này bằng nhiều cách
nói, cách viết, cách diễn đạt khác nhau
nhằm giúp cán bộ, đảng viên và quần
chúng nhân dân dễ nhớ, dễ hiểu, dễ vận
dụng. Cả cuộc đời của Người là tấm
gương sáng về việc quán triệt nguyên tắc


thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Một
trong những biểu hiện sinh động ấy là,
trong hoạt động cách mạng Người luôn
luôn sâu sát thực tế, gắn bó với cơ sở, gần
gũi với nhân dân. Trong khoảng 10 năm từ
1955 – 1965, Hồ Chí Minh đã thực hiện
trên 700 lượt đi thăm, tiếp xúc với cán bộ,
bộ đội, công nhân, giáo viên, bác sĩ, nông
dân, các cụ phụ lão, các cháu thanh, thiếu
niên nhi đồng, các đơn vị bộ đội, thanh

niên xung phong, các hợp tác xã, bệnh viện,
trường học… Như vậy, mỗi năm có tới hơn 70
lần xuống cơ sở, gặp gỡ tiếp xúc với quần
chúng nhân dân. Điều này cho thấy Hồ Chí
Minh gắn bó với quần chúng, sâu sát với cơ
sở, thực tế như thế nào.
Hồ Chí Minh dùng nhiều cách diễn đạt khác
nhau: “Lý luận đi đôi với thực tiễn”, “Lý luận
kết hợp với thực hành”, “Lý luận và thực hành
phải luôn luôn đi đôi với nhau”, “Lý luận phải
liên hệ với thực tế”1. Dù nói “đi đôi”, “gắn
liền”, “kết hợp” nhưng điều cốt lõi nhất mà
Người muốn nhấn mạnh là: “Thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản
của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không
có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù
quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực
tiễn là lý luận suông”2. Quán triệt chủ nghĩa
duy vật biện chứng, Hồ Chí Minh cho rằng:

1 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, tr.292
2 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, tr.496

1


“Lý luận là sự tổng kết những kinh
nghiệm của loài người, là tổng hợp những
tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại
trong quá trình lịch sử”3. Người dẫn lời
của Xtalin khi khẳng định lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin là “Khoa học về các
quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội;
khoa học về cách mạng của quần chúng bị
áp bức và bị bóc lột; khoa học về thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội ở tất cả các nước;
khoa học về xây dựng chủ nghĩa cộng
sản”4. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm
việc, Người nêu cụ thể: “Lý luận là đem
thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm,
trong các cuộc đấu tranh, xem xét, so sánh
thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận.
Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế”5.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm và chúc Tết cán
bộ, học viên Trường Dân tộc miền núi Trung
ương, ngày 12-2-1956 (Hình tư liệu)

Theo Hồ Chí Minh, “Chủ nghĩa xã hội

chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ
đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục
triệu người. Muốn thế phải nâng cao trình
độ lý luận chung của Đảng, phải tổ chức
học tập lý luận trong Đảng, trước hết là
trong những cán bộ cốt cán của Đảng”6.
Người đã dẫn lời của Lênin: “Không có lý
luận cách mạng thì không có phong trào
cách mạng” và “chỉ có một đảng có lý
luận tiền phong hướng dẫn thì mới có thể
làm tròn được vai trò chiến sĩ tiên
phong”7. Do vậy, sau khi “Xem kinh
nghiệm của các đảng anh em, thì chúng ta

càng thấy sự bức thiết, sự quan trọng của việc
tổ chức học tập lý luận cho Đảng, trước hết là
cho các cán bộ cốt cán của Đảng”8.
Về vai trò của lý luận đối với thực tiễn, Hồ
Chí Minh cho rằng: “Lý luận như cái kim chỉ
nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong
công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng
túng như nhắm mắt mà đi”9; “Làm mà không
có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm
tối, vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”10;
“không có lý luận thì cũng như một mắt sáng,
một mắt mờ”11. Người cảnh báo, do “kém về
lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận
suông” cho nên nhiều cán bộ, đảng viên của ta
mắc phải bệnh chủ quan. Cũng do kém lý luận
mà cán bộ “gặp mọi việc không biết xem xét

cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo.
Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách
quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả
thường thất bại”12.
Trong thực tiễn cách mạng, có những cán
bộ đảng viên “làm được việc”, “có kinh
nghiệm” và theo Hồ Chí Minh “những anh em
đó rất quý cho Đảng”. “Nhưng họ lại mắc phải
cái bệnh khinh lý luận. Họ quên rằng: nếu họ
7 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, tr.495
8 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, tr.495

3 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.497

9 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội, tr.233-234

4 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.497

10 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.47

5 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.233

11 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, tr.47

6 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.494-495

12 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.234

2


đã có kinh nghiệm mà lại biết thêm lý luận
thì công việc tốt hơn nhiều. Họ quên rằng:
kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng
chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ
thiên về một mặt mà thôi”13. Đối với
những cán bộ đó, “cần phải nghiên cứu
thêm lý luận, mới thành người cán bộ
hoàn toàn”.
Nhấn mạnh vai trò của lý luận, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm công tác
giáo dục, học tập lý luận. Người chỉ dẫn,
“nếu cách học tập lý luận không đúng thì
sẽ không có kết quả”. Do đó, “trong lúc
học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh:
lý luận phải liên hệ với thực tế” 14; “Lý
luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý
luận suông”15.
Hồ Chí Minh nhắc nhở “nhiều lần đồng
chí Lênin nhắc đi nhắc lại rằng lý luận

cách mạng không phải là giáo điều, nó là
kim chỉ nam cho hành động cách mạng;
và lý luận không phải là một cái gì cứng
nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận
luôn luôn cần được bổ sung bằng những
kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh
động. Những người cộng sản các nước
phải cụ thể hóa chủ nghĩa Mác - Lênin cho
thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng
lúc và từng nơi”16. Người cũng chỉ rõ mục
đích của học tập lý luận: “Lý luận cốt để
áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà
không áp dụng vào thực tế là lý luận
suông. Dù xem được hàng ngàn hàng vạn
quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực

hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách” 17.
Bởi vậy, “chỉ học thuộc lòng, để đem lòe thiên
hạ thì lý luận ấy cũng vô ích” và những người
“xem nhiều sách để mà lòe, để làm ra ta đây”
đó không phải là những người “biết lý luận”,
mà “cần phải ra sức thực hành mới thành
người biết lý luận”18. Người yêu cầu “Mỗi cán
bộ, mỗi đảng viên phải học lý luận, phải đem
lý luận áp dụng vào công việc thực tế. Phải
chữa cái bệnh kém lý luận, khinh lý luận và lý
luận suông”19.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “Khi học
tập lý luận thì nhằm mục đích học để vận dụng
chứ không phải học lý luận vì lý luận, hoặc vì

tạo cho mình một cái vốn lý luận để sau này
đưa ra mặc cả với Đảng. Tất cả những động cơ
học tập không đúng đắn đều phải tẩy trừ cho
sạch”20.
Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn được Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần
biện chứng: Thực tiễn cần tới lý luận soi
đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định
hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm,
còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản
ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực
tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều.
Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau,
nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho
nhau.
Theo Hồ Chí Minh, để thực hiện nguyên tắc
lý luận thống nhất với thực tiễn và học tập lý
luận thực sự mang lại hiệu quả là “cải tạo tư
tưởng, tăng cường đảng tính”, thì “cần phải có

13 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.234

17 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.234

14 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.496

18 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội, tr.234

15 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.496

19 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.234-235

16 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.496

20 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.497

3


thái độ học tập cho đúng”. Trong quá trình
học tập lý luận, phải thực sự khiêm tốn,
“cái gì biết thì nói biết, không biết thì nói
không biết. Kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là
kẻ thù số một của học tập”. Hồ Chí Minh
nhắc nhở phải “nêu cao tinh thần chịu
khó, cố gắng, không lùi bước trước bất kỳ
khó khăn nào trong việc học tập. Trong
khi học lý luận, phải “nêu cao tác phong
độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng”; “phải
đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù
quáng từng câu một trong sách, có vấn đề
chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và

thảo luận cho vỡ lẽ. Đối với bất cứ vấn đề
gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải
suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực
tế không, có thật là đúng lý không, tuyệt
đối không nên nhắm mắt tuân theo sách
vở một cách xuôi chiều”21.
2. ĐẶC ĐIỂM TỈNH HÌNH CÔNG
TÁC CÁN BỘ Ở QUẢNG NAM HIỆN
NAY
Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt
Nam và Nghị quyết Hội nghị Trung ương
4 khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng
có chỉ rõ, công tác tổng kết thực tiễn,
nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu
của công cuộc đổi mới. Nhìn chung, lý
luận còn lạc hậu, tính dự báo thấp, kết quả
nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng tốt yêu
cầu của thực tiễn, “thiếu gắn bó mật thiết
giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực
tiễn, giữa cán bộ lý luận và cán bộ lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện, giữa công tác
nghiên cứu lý luận và công tác giảng dạy,
đào tạo lý luận”22. Công tác tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận chưa có chiều sâu,
21 Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.500
22 Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 9 tháng 12 năm
2014 của Bộ Chính trị về công tác lý luận và định
hướng nghiên cứu đến năm 2030.


không theo kịp tình hình thực tế. Cũng vì
những bất cập, yếu kém về lý luận và thực tiễn
của một bộ phận không nhỏ trong đội ngũ cán
bộ nên nhiều chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước chậm đi vào cuộc sống. Thực
tiễn cuộc sống đa dạng, phong phú, trong lúc
đó cán bộ bị tư duy giáo điều chi phối (lý
luận) “vênh” với thực tiễn, không giúp ích gì
được cho thực tiễn. Từ đó, xuất hiện tư tưởng
coi khinh lý luận, hoặc nói một đường, lại làm
một nẻo. Lúc nói chỉ là “lý luận suông”, khi
chỉ đạo thực tiễn lại dựa trên kinh nghiệm vụn
vặt. Trong đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh
đạo, quản lý, kinh nghiệm thì rất cần và quý.
Nhưng nếu không có kiến thức lý luận thì lãnh
đạo, tổ chức chỉ đạo thực hiện chỉ bằng kinh
nghiệm, hơn nữa chỉ là những kinh nghiệm
mảnh đoạn, vụn vặt thì công việc kém hiệu
quả, thậm chí phải trả giá đắt trong thực tiễn.
Chính vì vậy, việc quán triệt tính thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn trong xây dựng đội
ngũ cán bộ ở nước ta nói chung và Quảng
Nam nói riêng đã trở thành một yêu cầu bức
xúc, thời sự và hiện đại. Do đó, việc nghiên
cứu, học tập và vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về sự thống nhất giữa lý luận và hiện
thực, gắn nghiên cứu lý luận với tổng kết thực
tiễn là việc làm hết sức cần thiết, kịp thời
trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ ở Quảng
Nam hiện nay để có thêm những xung lực mới

hoàn thành mục tiêu trọng đại của đất nước
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
Sinh thời, trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Hồ Chủ tịch luôn quan tâm tới việc giáo
dục, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng. Cán bộ,
theo Hồ Chí Minh, “là những người đem chính
sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho
dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem
tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng,
cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho
4


đúng”. Chính vì vậy mà Hồ Chí Minh
khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi
công việc”23.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ, ngày nay Đảng ta xác định: “Xây
dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh gắn
liền với xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của
thời kỳ mới, coi trọng cả đức và tài, với
đức là gốc như Bác Hồ đã dạy. Đó là đội
ngũ cán bộ, công chức từ Trung ương đến
cơ sở có phẩm chất tốt, có lòng yêu nước
nồng nàn, có tinh thần trách nhiệm cao.
Có đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ; đội
ngũ phải đồng bộ về cơ cấu, đảm bảo sự

chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các
thế hệ cán bộ, nhằm thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
giữ vững độc lập, tự chủ, đi lên chủ nghĩa
xã hội”24.
Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đất
nước, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức
quan tâm đến xây dựng và phát triển đội
ngũ cán bộ. Nghị quyết mỗi kỳ Đại hội
Đảng đều nhấn mạnh đến việc xây dựng
và phát triển đội ngũ cán bộ sao cho đáp
ứng yêu cầu xây dựng và phát triển đất
nước. Cho đến nay, sau hơn 30 năm đổi
mới, đội ngũ cán bộ mặc dù có tăng về số
lượng, nâng cao về chất lượng, nhưng vẫn
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng
cao của đất nước, trong đó có yếu kém về
lý luận, không sâu sát thực tiễn.
Công tác cán bộ được tỉnh Quảng Nam
xác định là một đột phá trong công tác xây
dựng Đảng. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Tỉnh
ủy đã cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh lần thứ XX bằng Nghị quyết số
23 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, tr.269.
24 Báo Nhân dân, ngày 21/9/1997, tr.2

04-NQ/TU của Tỉnh ủy về công tác cán bộ
giai đoạn 2011-2015 và định hướng đến năm
2020; ban hành và triển khai thực hiện đồng

bộ các đề án, chính sách cụ thể hóa Nghị quyết
số 04-NQ/TU; các khâu trong công tác cán bộ
được thực hiện nền nếp. Công tác quy hoạch
cán bộ ở cả 3 cấp cơ bản bảo đảm tỷ lệ, cơ
cấu, chất lượng, có tính khả thi, tạo tiền đề
quan trọng để chuẩn bị nhân sự của hệ thống
chính trị cho nhiệm kỳ 2015-2020. Bên cạnh
đó, các cấp ủy còn chỉ đạo thực hiện tốt các
chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, viên chức, nhất là cán bộ quy hoạch các
chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp, triển khai
thực hiện kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực
chất lượng cao; cử cán bộ đi đào tạo sau đại
học ở trong nước và nước ngoài theo Đề án
165 và Đề án phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao của tỉnh; thực hiện tốt Nghị quyết
số 13-NQ/TU của Tỉnh ủy về đào tạo, sử dụng
cán bộ dân tộc thiểu số, Đề án 500, tuyển chọn
sinh viên, đào tạo lý luận chính trị để cung cấp
nguồn cán bộ cấp cơ sở và khu vực miền núi...
từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
ở cả 3 cấp (cán bộ chủ chốt cấp xã có trình độ
đại học ở các huyện đồng bằng chiếm 59,42%,
ở các huyện miền núi chiếm 26,1%; công chức
cấp xã ở các huyện đồng bằng đạt 3 chuẩn
chiếm 70,56%; phó trưởng phòng và tương
đương thuộc huyện có trình độ cao cấp, cử
nhân chính trị chiếm 52,46%; giám đốc, phó
giám đốc sở và tương đương có trình độ sau
đại học chiếm 33,3%, vượt chỉ tiêu 8,3%;

trưởng phòng và tương đương thuộc sở,
ngành, đoàn thể của tỉnh có trình độ đại học
chiếm 97,4%). Qua đó, giúp cấp ủy chủ động
trong công tác bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ
nhiệm cán bộ, khắc phục cơ bản tình trạng hụt
hẫng cán bộ và tạo ra bước đột phá quan trọng
về công tác cán bộ, nhất là cán bộ xã, phường,
thị trấn, cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh.
Ngoài ra, tỉnh còn thực hiện tốt công tác luân
5


chuyển cán bộ đối với các chức danh lãnh
đạo, quản lý chủ chốt ở địa phương và cơ
sở; đồng thời, thực hiện tốt chủ trương
tăng thêm chức danh phó bí thư, phó chủ
tịch ủy ban nhân dân cấp huyện để luân
chuyển và đào tạo cán bộ...
Tuy nhiên, công tác cán bộ nói chung,
từng khâu của công tác cán bộ nói riêng
còn hạn chế và có mặt chưa đáp ứng với
yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Việc nhận xét đánh giá cán bộ vẫn là khâu
yếu nhưng chậm được khắc phục. Công
tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán
bộ chưa thực sự gắn với quy hoạch. Chất
lượng và tính liên thông trong quy hoạch
cán bộ chưa cao. Đào tạo sau đại học ở
nước ngoài và đào tạo ngoại ngữ theo
chuẩn quốc tế, đào tạo người có trình độ

chuyên môn cao ở một số ngành, lĩnh vực
mũi nhọn còn hạn chế. Công tác đề bạt, bổ
nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ ở một số nơi
còn bị động. Tỷ lệ nữ, trẻ là cán bộ lãnh
đạo, quản lý ở các cấp, các ngành còn
thấp. Một số chỉ tiêu đề ra trong Nghị
quyết số 04 của Tỉnh ủy thực hiện chưa
đạt. Tinh thần trách nhiệm, tính năng
động, sáng tạo, năng lực quản lý, điều
hành và thực thi nhiệm vụ của một bộ
phận cán bộ có mặt chưa đáp ứng yêu
cầu25.
Những hạn chế, khuyết điểm trên có
nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân
chủ quan là do: Nguyên nhân khách quan,
do ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, chính
trị, xã hội trong quá trình đổi mới, phát
triển đất nước nảy sinh nhiều vấn đề mới,
phức tạp nên một số trong đội ngũ cán bộ
chưa nắm bắt kịp tình hình thực tiễn.
25 Nghị quyết 04-NQ/TW về nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, kiện toàn tổ chức bộ máy giai đoạn 2016 –
2020 và định hướng đến 2025, ngày 12 tháng 8 năm
2016 của Tỉnh ủy Quảng Nam

Nguyên nhân chủ quan, trình độ học vấn, trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ lý luận
chính trị của đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế.
Một số cấp ủy đảng, người đứng đầu cấp ủy, cơ
quan, đơn vị, địa phương chưa quan tâm đúng

mức đối với công tác cán bộ; thiếu quyết tâm
và chưa có giải pháp chỉ đạo thực hiện các
mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 04; một bộ
phận cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên
thiếu tu dưỡng rèn luyện về phẩm chất chính
trị, đạo đức, tinh thần trách nhiệm, tác phong,
lề lối làm việc..., chưa tự phấn đấu để vươn
lên.
3. GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG
HỒ CHÍ MINH VỀ SỰ THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐỂ
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ Ở
QUẢNG NAM HIỆN NAY
Để xây dựng đội ngũ cán bộ ở Quảng Nam
vững về lý luận, sâu sát thực tiễn, đáp ứng yêu
cầu phát triển của đất nước và tỉnh Quảng
Nam trong tình hình mới, cấn tập trung thực
hiện tốt các giải pháp sau đây:
3.1. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học
trong đội ngũ cán bộ ở Quảng Nam hiện nay
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, trình độ tư
duy, năng lực tư duy mỗi người, suy đến cùng
là do hoàn cảnh kinh tế - xã hội quyết định, mà
ở đó họ sống và tiến hành hoạt động của mình.
Vì thế, nguyên nhân cơ bản làm cho đội ngũ
cán bộ ở nước ta nói chung, Quảng Nam nói
riêng, chưa quán triệt tốt nguyên tắc về sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn theo tư
tưởng Hồ Chí Minh suy cho cùng là do điều
kiện về kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân

trên địa bàn tỉnh còn hạn chết về nhiều mặt.
Để từng bước xây dựng và phát triển đội
ngũ cán bộ ở Quảng Nam vừa có năng lực
chuyên môn lại vừa vận dụng linh hoạt, sáng
tạo mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn, đòi
hỏi trước hết, cần phải đẩy mạnh phát triển
6


kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của
nhân dân. Chính quá trình phát triển kinh
tế - xã hội sẽ tạo ra những điều kiện và
tiền đề khách quan cho cán bộ rèn luyện
và phát triển tư duy lý luận, khắc phục
bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều. Đại hội
VII của Đảng đã khẳng định: “Phải tập
trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đáp ứng
những đòi hỏi cấp bách của nhân dân về
đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội
khác, coi đó là điều kiện quan trọng để
tiến hành thuận lợi đổimới trong lĩnh vực
chính trị”26.

Ban Chỉ huy Quân sự huyện và các đoàn thể
huyện Bắc Trà My sơ kết công tác phối hợp
xây dựng đảng, phát triển kinh tế - xã hội địa
phương (Hình tư liệu)

Có thể nói, thực trạng điều kiện kinh tế
- xã hội thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa hiện nay có nhiều mặt trái của nó đã
ảnh hưởng rất lớn đến tư duy, hoạt động tổ
chức thực hiễn của đội ngũ cán bộ và nhân
dân. Do đó, cải thiện điều kiện kinh tế - xã
hội sẽ làm biến đổi đời sống vật chất, tinh
thần của cán bộ và nhân dân. Xét đến
cùng ngày nay, việc nâng cao trình độ
nhận thức lý luận, năng lực tư duy khoa
học cho đội ngũ cán bộ, yếu tố cơ bản phụ
thuộc vào tiến trình đổi mới và phát triển
kinh tế - xã hội.
3.2. Nâng cao trình độ tư duy lý luận
26 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội
Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.262.

trong đội ngũ cán bộ ở Quảng Nam hiện nay
Sự nghiệp đổi mới ngày càng đi vào chiều
sâu, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, đòi hỏi đội
ngũ cán bộ phải nâng cao tầm tư duy lý luận,
không ngừng phát triển tư duy lý luận khoa
học của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Đổi mới, phát triển tư duy lý luận
đối với đội ngũ cán bộ là mệnh lệnh của cuộc
sống, là thực tiễn đòi hỏi đối với sự nghiệp
cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Chủ động
xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất đạo
đức, bản lĩnh chính trị vững vàng, được đào
tạo cơ bản, có tài năng, tâm huyết với nghề
nghiệp, có vốn sống phong phú, đủ năng lực

công tác, biết tổng kết kinh nghiệm thực tiễn,
phát triển tư duy lý luận, kịp thời giải đáp
những vấn đề về thực tiễn, cuộc sống đang đặt
ra là yêu cầu cấp thiết đối với Quảng Nam
hiện nay.
Để nâng cao trình độ tư duy lý luận, trước
hết đội ngũ cán bộ cần rèn luyện năng lực tư
duy, khái quát hóa và xử lý thông tin, ra quyết
định, tạo ra tri thức mới phản ánh đúng đắn sự
vận động và phát triển không ngừng của thế
giới khách quan. Mặt khác, để nâng cao trình
độ tư duy lý luận khoa học, người cán bộ cần
phải tích cực tham gia các hoạt động thực tiễn,
hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động khoa
học, văn hóa, giáo dục và đào tạo, học tập một
cách tự giác, tích lũy nhiều tri thức vừa rộng,
vừa sâu. Cái thiếu trong đội ngũ cán bộ hiện
nay không chỉ là tri thức lý luận mà là am hiểu
thực tiễn cuộc sống đang biến đổi nhanh
chóng. Vì vậy, tích cực học tập và rèn luyện
trong hoạt động thực tiễn lao động, quản lý là
một biện pháp quan trọng nhất để nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ nói
chung.
Nâng cao trình độ tư duy lý luận là một quá
trình lâu dài, qua nhiều bước, nhiều biện pháp
khác nhau, như kết hợp đào tạo, bồi dưỡng ở
trường và rèn luyện, học hỏi trong thực tiễn;
7



kết hợp nổ lực chủ quan của mỗi cán bộ
với cơ chế, chính sách cán bộ hợp lý.
Nhưng quan trọng hơn hết, vẫn là sự kết
hợp chặt chẽ giữa quá trình học tập và rèn
luyện trong hoạt động thực tiễn của đội
ngũ cán bộ. Vì vậy, phải có cơ chế để họ
thường xuyên được đào tạo, đào tạo lại
bồi dưỡng kiến thức lý luận chính trị, tri
thức khoa học và tích cực tham gia tổng
kết thực tiễn.
3.3. Tăng cường tổng kết công tác
thực tiễn, quán triệt sự thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn trong đội ngũ cán bộ
Tổng kết rút kinh nghiệm là nhằm chỉ
ra những cái đã làm được, những cái chưa
làm được, đánh giá đúng nguyên nhân yếu
kém, tồn tại của nó. Đồng thời, qua tổng
kết mới rút ra được những bài học kinh
nghiệm cho tổ chức thực tiễn tiếp theo. Từ
việc tổng kết kinh nghiệm, người cán bộ
biết vận dụng các bài học kinh nghiệm đó
để ra quyết định mới ngày càng đúng đắn,
sát hợp với tình hình thực tế, nhằm thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa
phương mình phụ trách.

Hội nghị trực tuyến quán triệt, triển khai
Nghị quyết 04 (khóa XXI) của Tỉnh ủy về
công tác cán bộ (Hình tư liệu)


Quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn cũng có nghĩa là quán
triệt quan điểm thực tiễn. Theo V.I.Lênin,
quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải
là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý
luận nhận thức. Quán triệt quan điểm này

đòi hỏi đội ngũ cán bộ trong mọi hoạt động
phải bám sát thực tiễn, lấy thực tiễn làm tiêu
chuẩn cao nhất của chân lý, coi trọng tổng kết
thực tiễn, chống bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo
điều. Việc vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa
lý luận và thực tiễn thường dẫn đến hai sai lầm
cực đoan là bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và
bệnh giáo điều chủ nghĩa. Bệnh kinh nghiệm
và bệnh giáo điều có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, đó là bệnh của sự yếu kém về tư duy lý
luận, ngại học tập lý luận, không thực hiện tốt
nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn. Vi phạm sự thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hai
căn bệnh này. Vì vậy, cần phải thực hiện tốt sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Bời vì, lý
luận mà xa rời thực tiễn thì sớm muộn cũng
dẫn tới giáo điều, thực tiễn mà xa rời lý luận,
không được chỉ đạo bằng lý luận thì sẽ trở
thành “mảnh đất màu mỡ” cho căn bệnh kinh
nghiệm nảy sinh, tồn tại và phát triển. Đội ngũ
cán bộ phải coi trọng việc thực hiện nguyên

tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
hoạt động của mình. Đó là điều kiện rất cần
thiết và quan trọng nhằm ngăn ngừa, khắc
phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều chủ
nghĩa.
3.4. Đổi mới nội dung, chương trình đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Hiện nay, phương thức đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức ở nước ta chưa bảo đảm vị
trí trung tâm của người học, chưa áp dụng các
phương pháp khoa học để phát triển năng lực,
kỹ năng của người học; nội dung chương trình
mất cân đối giữa lý thuyết và thực tế, ít có sự
liên thông, liên kết, thống nhất với nhau. Các
trường chính trị hiện nay đang bố trí quá lệch
về đào tạo lý luận chính trị, ít có các chương
trình đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh và vị
trí việc làm, nặng về dạy lý thuyết, nhẹ về thực
hành, rèn luyện nhân cách, đạo đức, kỹ năng
làm người cán bộ…“Yêu cầu nhiệm vụ cách
8


mạng trong giai đoạn hiện nay không
giống như cách đây vài thập kỷ. Không
thể giữ y nguyên những gì đã có của thế
kỷ trước, thậm chí của thập kỷ trước để
đào tạo cán bộ cho thế kỷ XXI; cũng
không thể lấy cái còn rất xa làm căn cứ
đào tạo cán bộ hiện nay, mà phải chủ yếu

xuất phát từ những yêu cầu cơ bản, cụ thể
của đất nước trong giai đoạn hiện nay để
xác định cho trúng mục tiêu, đối tượng,
nội dung, chương trình, hình thức, phương
thức và biện pháp đào tạo”27.
Do vậy, trong thời gian tới, cần chú
trọng đổi mới theo hướng lấy người học
làm trung tâm, phát triển năng lực học tập
chủ động, tích cực của mỗi cán bộ, đảng
viên, giảm lý thuyết, tăng kiến thức thực
tiễn, kỹ năng thực hành, gắn lý luận với
thực tiễn cuộc sống, với chức danh nghề
nghiệp; áp dụng các phương pháp dạy học
tiên tiến, chú trọng đến phương pháp tình
huống cho từng đối tượng; tăng cường cập
nhật kiến thức mới về chuyên môn, kỹ
năng, nghiệp vụ,…
Xây dựng đội ngũ giảng viên lý luận
chính trị có chất lượng, kiến thức chuyên
môn và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn,
có phương pháp giảng dạy phù hợp và tâm
huyết với nghề. Đây là vấn đề cấp bách, là
khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định
trong nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, đảng viên. Đội ngũ giảng
viên có vị trí, vai trò đặc biệt không thể
thay thế. Để nâng cao chất lượng giảng
viên lý luận chính trị, cần có chính sách
thu hút nhân tài, đãi ngộ xứng đáng; đồng
thời đưa đội ngũ giảng viên đi nghiên cứu

thực tế dài hạn tại các cơ sở để nâng cao
kiến thức thực tiễn, phục vụ bài giảng;

tăng cường đội ngũ giảng viên kiêm chức,
thỉnh giảng là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp
ở trung ương và địa phương làm giảng viên
kiêm nhiệm, thỉnh giảng tại các cơ sở đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ lý luận chính trị.
3.5. Cán bộ, đảng viên cần nêu cao tinh
thần tự học, tự rèn luyện, nghiên cứu lý
luận, gắn lý luận với thực tiễn
Trong sự vận động, biến đổi nhanh chóng
của đất nước và thời đại, để giải quyết được
những nảy sinh của đời sống thực tiễn, cán bộ,
đảng viên cần không ngừng tự học, tự rèn
luyện, nâng cao trình độ, học đi đôi với hành,
lý luận liên hệ với thực tiễn, biết vận dụng
sáng tạo lý luận vào trong thực tiễn; kiên
quyết khắc phục bệnh lười học lý luận, xem
thường lý luận trong một số cán bộ, đảng viên;
đồng thời khắc phục tình trạng xa rời thực
tiễn, không bám sát vào thực tiễn của đất
nước.
KẾT LUẬN
Để xây dựng đội ngũ cán bộ ở Quản Nam
đáp ứng yêu cầu giải quyết được những nảy
sinh của đời sống thực tiễn thì việc đi sâu
nghiên cứu, bảo vệ, phát triển và vận dụng
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn vào xây dựng

đội ngũ cán bộ là nhiệm vụ quan trọng và cấp
thiết trong công tác tư tưởng và lý luận của
chúng ta. Mỗi người cán bộ thấm nhuần lời
dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Học để làm
việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự
đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân,
phụng sự Tổ quốc và nhân loại”28. Bởi vậy,
mỗi cán bộ phải coi trọng và quán triệt nguyên
tắc “học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với
thực tiễn”. Đồng thời, lấy Chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động; và

27 Tô Huy Rứa (2012), Tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng vì công cuộc đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội, tr.270-271

28 Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, tr.684.

9


hơn bao giờ hết, đội ngũ cán bộ của nước
ta nói chung, Quảng Nam nói riêng không
chỉ thấm nhuần Chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn phải dám

nghĩ, dám làm, để lãnh đạo quần chúng, biến
đường lối của Đảng, chủ trương của Nhà nước

thành kết quả và thành công trong cuộc sống.

10


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội
VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
[2]. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[3]. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[4]. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[5]. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[6]. Hồ Chí Minh (2004), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
[7]. Tô Huy Rứa (2012), Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng vì công cuộc đổi mới, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội



×