Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế, bài học rút ra từ Hàn Quốc và Đài Loan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.37 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Bốn con hổ châu Á hay Bốn con rồng nhỏ châu Á là thuật ngữ để chỉ các nền kinh
tế của Hồng Kông, Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan. Sự thành công về phát triển
kinh tế của các quốc gia này như là các hình mẫu quan trọng đối với nhiều quốc gia
đang phát triển, cụ thể hơn là Việt Nam.
Các quốc gia phát triển đều có sự tăng trưởng kinh tế. Sự thay đổi trong cơ cấu
kinh tế: thể hiện ở tỷ trọng các vùng, miền, ngành, thành phần kinh tế... thay đổi.
Trong đó tỷ trọng của vùng nông thôn giảm tương đối so với tỷ trọng vùng thành thị,
tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp tăng, đặc biệt là ngành dịch vụ. Cuộc sống
của đại bộ phận dân số trong xã hội sẽ trở lên tươi đẹp hơn: giáo dục, y tế, tinh thần
của người dân được chăm lo nhiều hơn, môi trường được đảm bảo. Trình độ tư duy,
quan điểm sẽ thay đổi. Để có thể thay đổi trình độ tư duy, quan điểm đòi hỏi phải mở
cửa nền kinh tế. Phát triển kinh tế là một quá trình tiến hóa theo thời gian và do những
nhân tố nội tại (bên trong) quyết định đến toàn bộ quá trình phát triển đó.
Khác với Việt Nam là thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Hàn
Quốc và Đài Loan vận hành theo cơ chế thị trường tự do và bán tự do.
Thị trường tự do hay nói chính xác hơn là thị trường tự kiểm soát, một thị trường
mà không có sự can thiệp vào nền kinh tế của nhà nước, ngoại trừ việc thực thi các
hợp đồng tư nhân và quyền sở hữu tài sản. Ngược lại, thị trường có kiểm soát, trong
đó nhà nước trực tiếp quy định hàng hoá, dịch vụ và lao động có thể được sử dụng,
định giá giá cả, hoặc phân phối như thế nào, hơn là dựa vào cơ chế sở hữu tư nhân.
Thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam tương đối khá giống với thị
trường có kiểm soát. Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận
rằng chưa có nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa mà chỉ có giải thích nguyên lý chung rằng, đó là một nền kinh
tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
Như Adam Smith đưa ra, các chức năng chính của chính phủ là duy trì luật pháp
và trật tự trong một quốc gia, làm cho quốc phòng mạnh mẽ hơn và điều tiết cung tiền.
Tùy vào mô hình thị trường được áp dụng mà vai trò của nhà nước là khác nhau.


Trong thị trường tự do, vai trò của nhà nước rất hạn chế.
Theo quan điểm của Meade, vai trò, trách nhiệm của nhà nước, chính phủ trong
nền kinh tế thị trường tự do là: Điều hành và kiểm soát các tình huống kinh tế khác
nhau như lạm phát và giảm phát bằng cách xây dựng và thực hiện các biện pháp tài
chính và tiền tệ khác nhau. Kiểm soát sức mạnh của các tập đoàn độc quyền lớn để
tránh những vấn đề kinh tế khác nhau, chẳng hạn như thất nghiệp và phân phối không
công bằng các nguồn lực. Trị an quyền sở hữu các tiện ích công cộng, chẳng hạn như


đường sắt, giáo dục, chăm sóc y tế, nước và điện, những cái mà nền kinh tế cần để
phát triển. Cấm phân biệt đối xử giữa các cá nhân và cung cấp cho họ cơ hội giáo dục
và việc làm bình đẳng. Hạn chế các hoạt động thương mại hạn chế và sức mạnh của
các tập đoàn lớn. Duy trì luật và trật tự, quản lý công lý và bảo vệ sự tự do của các cá
nhân trong một nền kinh tế. Hỗ trợ các dự án tư nhân trong một nền kinh tế. Tạo cơ
cấu quy hoạch tổng thể giúp phát triển nền kinh tế trên quy mô lớn. Xử lý các vấn đề
về môi trường, sự tuyệt chủng của tài nguyên thiên nhiên và tăng trưởng dân số.
Việt Nam đang trên đà phát triển hội nhập với nền kinh tế thế giới để trở thành
một trong những thi trường đầu tư hấp dẫn. Tuy nhiên với thị trường kinh tế hiện nay,
nước ta gặp cũng không ít trở ngại và thách thức để đảm bảo nền kinh tế phát triển
bền vững. Chính vì thế Việt Nam không ngừng học hỏi những bài học kinh nghiệm
phát triển quý giá của các nước đi trước, đặc biệt là những con rồng Châu Á trong đó
có Hàn Quốc và Đài Loan. Từ đó giúp ta rút ngắn được thời gian của quá trình phát
triển nhưng mặt khác cũng chứa đựng nhiều rủi ro và nguy cơ của sự phát triển nóng
vội nên việc áp dụng cần phải qua một quá trình nghiên cứu chọn lọc phù hợp.
Do cơ chế khác nhau nên để tìm ra biện pháp phát triển nền kinh tế nước nhà,
chúng ta cần phải lựa chọn những con đường phù hợp, tương đồng với bối cảnh nền
kinh tế Việt Nam. Để làm được điều đó, trước tiên chúng ta cần tìm hiểu rõ vai trò của
nhà nước trong sự phát triển kinh tế tại Hàn Quốc và Đài Loan. Từ đó, rút ra những
bài học kinh nghiệm dựa trên phân tích và so sánh các điểm khác và giống nhau để
ứng dụng các chính sách phù hợp vào việc phát triển nền kinh tế đất nước.



VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở HÀN
QUỐC VÀ ĐÀI LOAN
1. Vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế ở Hàn Quốc
Sau chiến tranh Triều Tiên, Hàn Quốc bị phá hủy nặng nề, trở thành một trong
những nước nghèo nhất thế giới với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) chỉ đạt 47,7 tỷ
won (tương đương 40,7 triệu USD theo tỷ giá hiện nay) và bình quân thu nhập đầu
người ở mức rất khiêm tốn: 67 USD. Chính trong bối cảnh đó, kế hoạch năm năm
phát triển kinh tế lần thứ nhất do Chính phủ đề ra được đưa vào thực thi từ năm 1962
đã khiến cho tình hình dần thay đổi.
Giai đoạn 1961-1993 được coi là giai đoạn cất cánh kinh tế, có tính bước ngoặt và
nhảy vọt của đất nước này. Cho đến nay, Hàn Quốc là nền kinh tế đứng thứ 4 châu Á
và thứ 11 trên thế giới theo GDP năm 2016. Kinh tế Hàn Quốc đã phát triển nhanh
chóng, từ một trong những nước nghèo nhất trở thành một trong những nước giàu, có
vị thế khá vững chắc trong khu vực và cả thế giới. Phép lạ tăng trưởng kinh tế Hàn
Quốc thường được biết đến là “Kỳ tích trên sông Hàn” đã đưa quốc gia này lên những
vị thế cao trong Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) và Nhóm các nền kinh
tế trên thế giới (G20). Một thập kỷ qua, tỷ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm vượt
5%.

Tốc độ tăng trưởng GDP qua các năm 1985-2013
(Nguồn: />

GDP-PPP bình quân đầu người giai đoạn 1990-2013
(Nguồn: />Sự thần kỳ của Hàn quốc là tổng hợp của nhiều yếu tố thuận lợi như sự ủng hộ
của Mỹ và các nước phương Tây. Đặc biệt là Nhà nước đã hoạch định chính sách
đúng đắn, chiến lược công nghiệp hoá hướng ngoại đúng đắn từ khi các nước khác
vẫn còn theo đuổi chiến lược hướng nội nên đã tận dụng được cơ hội hiếm hoi, linh
hoạt và thực thi hiệu quả, dân tộc có ý chí làm giàu và được giáo dục tốt. Tuy nhiên,

sự thần kỳ đó không tránh khỏi các mâu thuẫn, mất cân đối tiềm tàng làm bùng nổ
khủng hoảng như cơ cấu kinh tế quá chú trọng doanh nghiệp lớn, chính sách tín dụng
và tài chính công chưa minh bạch, nợ và phụ thuộc vào thị trường thế giới.
a) Nông nghiệp
Từ 1948-1960: với đặc trưng là cải cách ruộng đất bằng cách Chính phủ mua
lại của địa chủ bán cho nông dân.
Vào năm 1961 khi GDP bình quân đầu người ít hơn 80 USD, hầu hết người
dân không thể đảm bảo cho nhu cầu sống tối thiểu, nền kinh tế thuần nông lúc đó
cũng phải chịu những trận lũ lụt nối tiếp hạn hán triền miên, nạn đói đã từng xảy
ra không bỏ sót một vùng đất nào, Chính phủ của Tổng thống Park Jung Hee nhận
ra rằng trợ giúp của nhà nước sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu người dân không có
quyết tâm tự lực.
Chính vì vậy, ông đã ban hành chính sách tập trung phát triển nông thôn, xây
dựng phong trào Saemaeul (còn gọi là Saemaul Undong, phong trào cộng đồng cư
dân mới ra đời). Saemaul Undong được xây dựng trên 3 trụ cột đó là Chuyên cần
– Tự giác – Hợp tác. Ba trụ cột đó là những giá trị xuyên suốt quá trình phát triển
nông thôn nói riêng và sự phát triển của toàn xã hội Hàn Quốc nói chung.
Cụ thể là chính phủ chủ trương đầu tư hạ tầng để nông dân tự lực đứng lên,


sản xuất chế biến tại chỗ với nhấn mạnh ‘nông dân là người chủ đích thực’. Ban
đầu chính phủ cấp cho mỗi làng 300 bao xi măng, hệ thống chính quyền cấp làng
tự quyết định phương án sử dụng số xi măng này. Người dân tự bỏ sức lao động
để thực hiện việc xây dựng làng xã. Kết quả là sau một thời gian ngắn, có hơn
16.000 ngôi làng đã có những cải thiện rõ rệt về bộ mặt nông thôn.
Vào năm 1972, ở những làng có kết quả tốt hơn, mức đầu tư của Chính phủ
tăng lên 500 bao xi măng và 1 tấn sắt, thép. Nhờ đó mà khu vực nông thôn của
nước này đã thay đổi mạnh mẽ. Có khoảng 33.267 làng bắt đầu được chia làm 3
thứ hạng, mỗi bậc nhận được mức hỗ trợ khác nhau từ nhà nước.
Bên cạnh việc hỗ trợ phát triển hạ tầng, Chính phủ đẩy mạnh cơ sở đào tạo

nghề nông, đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật, các loại giống mới vào sản xuất như
nấm, cây thuốc lá… Kết quả là đời sống khu vực nông thôn được cải thiện rõ rệt.
Chính phủ Hàn Quốc đã lập nên các kế hoạch trung và dài hạn cho nông
nghiệp bền vững vào tháng 7-1996, và triển khai khuôn khổ chính thức cho việc
khuyến khích nông nghiệp bền vững. Vào tháng mười cùng năm đó, một kế hoạch
hành động cho chính sách nông nghiệp và môi trường cho thế kỷ XXI cũng đã
được thông qua. Dự án này đã được lên kế hoạch và bắt đầu thực hiện theo kế
hoạch trung và dài hạn và kế hoạch hành động từ năm 1997; tiếp đó vào tháng 121997, Đạo luật về khuyến khích nông nghiệp bền vững đã được ra đời. Mục đích
của đạo luật này là theo đuổi một nền nông nghiệp bền vững thân thiện với môi
trường bằng cách đề cao chức năng bảo vệ môi trường của nông nghiệp, giảm ô
nhiễm môi trường do sản xuất nông nghiệp gây ra, và khuyến khích các chủ trang
trại hướng tới nông nghiệp bền vững.
Ngoài ra, Chính phủ đang mở rộng các nguồn vốn để xây dựng các thiết bị xử
lý nhằm tăng tỷ lệ xử lý rác thải chăn nuôi. Nhà nước còn xây dựng trung tâm xử
lý các máy nông trại loại thải, ở đó các máy loại thải được phân loại, tháo dỡ và
ép lại. Đồng thời, cung cấp vốn ưu đãi cho các chủ trang trại xử lý các máy móc
không còn dùng được, cho việc mua các máy móc nông trại mới. Do vật liệu nhựa
nông nghiệp bằng sinh học có thể phân hủy sẽ được phát triển, giảm thiểu ô
nhiễm.


Khí thải Dioxide Carbon ở Hàn Quốc và các nước OECD giai đoạn 19602007
(Nguồn:World Development Indicators,World Development Finance,World
Bank, Washington, D.C.)
Chính phủ Hàn Quốc đã lập kế hoạch xây dựng các dự án cải tạo đất cho toàn
bộ đất trồng trọt ít nhất 6 năm một lần. Đối với đất trồng trọt có năng suất thấp
hoặc đất bị ô nhiễm, đất được lấy từ các vị trí khác cũng được tính vào, nếu hàm
lượng đất sét đạt đến 15%. Từ năm 1997, dự án cải tạo đất cũng được áp dụng cho
đất trồng trọt ở các vùng phụ cận các mỏ đã ngừng khai thác, đất này cũng có thể
được cải tạo. Dự án cải tạo sẽ được thiết kế cho 200 ha đất trồng trọt bị ô nhiễm

bởi kim loại nặng cho đến cuối năm. Chúng đóng vai trò như một bộ phận của dự
án cải tạo chất lượng nước, các tiêu chuẩn về nước cũng được thiết lập một cách
chi tiết, đội trông nom vấn đề ô nhiễm nước được tổ chức ra cho từng đơn vị hành
chính ở cấp huyện. Thêm vào đó, các hiệp hội khuyến nông và khuyến lâm lên kế
hoạch xây dựng các nhóm đặc nhiệm về ô nhiễm để thu thập các trường hợp bị
gây hại do ô nhiễm nước và cung cấp các công nghệ để phục hồi nước ô nhiễm.
Đưa ra các chương trình trợ giúp các trang trại cỡ vừa và nhỏ trong việc sản
xuất các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao đã được khởi xướng từ năm
1995. Mục tiêu của việc trợ giúp bao gồm cả sản xuất và tiếp thị các phương tiện
và thiết bị cho nông nghiệp bền vững, như các thiết bị sản xuất vi sinh tự nhiên,
kho thóc và nhà kính, thiết bị làm lạnh và các loại xe làm lạnh.
b) Công nghiệp
Sự tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc từ đầu những năm 1960 là tập trung
vào công nghiệp hóa theo định hướng xuất khẩu. Chính sách công nghiệp của Hàn


Quốc tập trung vào đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất các
mặt hàng khai thác được lợi thế của đất nước. Ở thời điểm lúc bấy giờ Hàn Quốc
không có lợi thế nào khác ngoài nguồn nhân công rẻ và được đào tạo tốt (năm
1945: 97% người dân mù chữ; năm 1960: còn 20% người dân mù chữ). Do đó,
chính sách của Hàn Quốc là khai thác tối đa khả năng buôn bán của các doanh
nghiệp Hàn Quốc để tìm thị trường xuất khẩu cho hàng hoá rẻ của mình.
Chính phủ Hàn Quốc muốn làm chủ kỹ thuật công nghệ sản xuất thiết bị và
nguyên liệu, một mặt cung cấp cho các cơ sở công nghiệp nhẹ trong nước, đồng
thời tăng tiềm lực quốc phòng (thép, ôtô, đóng tàu....). Để thực hiện thành công
chiến lược chuyển hướng này, Chính phủ đã vạch ra các kế hoạch 5 năm (lần 3,
lần 4) định rõ các ngành chiến lược và đổ nguồn vốn ưu đãi vào đây khá lớn. Nhà
nước đã hỗ trợ các doanh nghiệp bằng chính sách lãi suất tín dụng siêu thấp hoặc
lãi suất thực âm. Tuy nhiên các khoản vay này luôn đi kèm với các chỉ tiêu về mở
rộng thị trường xuất khẩu, nếu các hãng không thực hiện được, áp lực chính trị từ

phía các đảng đối lập đối với đảng cầm quyền sẽ rất lớn. Do đó các doanh nghiệp
sẽ có động lực để tập trung nghiên cứu phát triển sản phẩm. Điển hình là sự thành
công vượt bật của công ty sản xuất ô tô Huyndai so với công ty Proton của
Malaysia.
Chiến lược xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chế biến của Hàn Quốc thành
công là do Hàn Quốc chủ định giảm giá đồng won, bảo hộ thị trường trong nước,
quản lý chặt chẽ ngoại hối, do đó sản phẩm công nghiệp của Hàn Quốc dù không
tốt bằng của Nhật Bản nhưng rẻ hơn nhiều nên có thể vào thị trường Châu Âu và
Mỹ. Kết quả của thời kỳ này là Hàn Quốc đã hình thành các ngành công nghiệp
nặng khá phát triển dựa trên các tập đoàn kinh tế lớn.
Phương thức điều hành của Chính phủ là dùng tín dụng ưu đãi để định hướng
các doanh nghiệp tư nhân. Vì thế các doanh nghiệp thành công trong hoạt động
xuất khẩu, trong công nghiệp, đa phần đều là doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, do
lựa chọn của Chính phủ chú trọng vào một vài doanh nghiệp có khả năng và tạo
cho chúng độc quyền, cung cấp vốn cho chúng thậm chí bảo hộ thị trường cho
chúng nên đã dẫn đến mô hình tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hoá dựa vào
các công ty lớn (Chaebol), không hỗ trợ thích đáng các doanh nghiệp vừa và nhỏ
nên đã dẫn đến hai kết quả tiêu cực: Một mặt, các Chaebol do được hưởng ưu đãi
tín dụng của nhà nước nên hoạt động thiếu tính cạnh tranh, chất lượng hàng hoá
do đó chưa được chú trọng đúng mức và nền kinh tế kém năng động. Mặt khác,
mối quan hệ thân thiện giữa giới quản lý tài chính nhà nước và giới quản lý
Chaebol đã là điều kiện gây ra những quan hệ mờ ám giữa chính trị và kinh tế,
làm cho tình hình tài chính doanh nghiệp khó bị kiểm soát. Đây là một trong
những nguyên nhân gây khủng hoảng kinh tế 1997-1998 ở Hàn Quốc.


c) Phúc lợi cho người dân, giáo dục
Ngay từ năm 1949, Hàn Quốc đã ban hành Đạo luật giáo dục dựa trên các
nguyên tắc tự do dân chủ và được thể hiện trong Hiến pháp và Hiến chương giáo
dục quốc gia. Đạo luật giáo dục đã quy định: Nhà nước bảo đảm phát triển giáo

dục, nhằm tạo cơ hội giáo dục bình đẳng cho mọi công dân trong xã hội, không có
sự phân biệt về tôn giáo, giới tính hay tình trạng kinh tế xã hội của từng cá nhân.
Từ năm 1949 đến năm 1960 được coi là giai đoạn đặt nền móng cho giáo dục
đào tạo ở Hàn Quốc. Cơ cấu hệ thống trường được quy định: Tiểu học 6 năm,
Trung học cơ sở 3 năm, Trung học phổ thông 3 năm và Đại học 4 năm (viết tắt là
6-3-3-4).
Từ năm 1970 đến 1989, ngân sách đầu tư cho giáo dục hàng năm chiếm trên
trên 20% tổng ngân sách quốc gia, tức là khoảng 3-4% GDP. Chi phí dành cho
học sinh tiểu học ở Hàn Quốc trong thời kỳ đó tăng 355%, trong khi chỉ tiêu này ở
Mêhicô và Kênia chỉ tăng tương ứng là 64% và 38%. Bằng cách ưu tiên cho việc
mở rộng cấp tiểu học và trung học cơ sở, nền móng của Kim tự tháp giáo
dục, chính phủ Hàn Quốc đã kích thích được nhu cầu đối với giáo dục bậc cao dựa
trên vốn của cả nhà nước lẫn tư nhân (nhà nước 30% và tư nhân 70%). Đây được
coi là giai đoạn nâng cao chất lượng của nền giáo dục Hàn Quốc, nhằm phục vụ
cho sự nghiệp công nghiệp hoá dựa vào các ngành công nghiệp kỹ thuật cao của
đất nước. Các ngành nghề ở cấp cao đẳng và đại học đã phù hợp với việc chuyển
dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm công nghệ tinh vi hơn như: Quản
trị kinh doanh, công nghệ thông tin, tài chính và luật quốc tế, tiếp thị, kế toán,
kiểm toán... Ngoài ra, chính sách hỗ trợ và phát triển nguồn nhân lực ở Hàn Quốc
còn có những nét đáng chú ý sau: miễn nghĩa vụ quân sự cho các chuyên gia
thuộc các lĩnh vực công nghệ cơ bản và công nghệ tiên tiến trong thời hạn 5 năm;
thu hút các nhà khoa học Hàn Quốc và nước ngoài về sinh sống và làm việc ở
trong nước với mức lương cao; chú trọng cho đi đào tạo ở nước ngoài những
người trẻ tuổi để có học vị tiến sĩ; chú trọng đào tạo các cán bộ khoa học và công
nghệ trong ngành công nghệ thông tin...
Vào đầu những năm 1990, Hàn Quốc bước vào giai đoạn tiên tiến về giáo dục
và đào tạo. Chính phủ của Tổng thống Kim Yong Sam đã công bố kế hoạch cải
cách giáo dục dài hạn, nhằm mục tiêu thực hiện chiến lược Toàn cầu hoá của Hàn
Quốc trong thế kỷ XXI, đưa nền giáo dục của Hàn Quốc đạt trình độ của các nước
công nghiệp phát triển thuộc nhóm G7. Nếu trong thời đại công nghiệp hoá, hiện

đại hoá, năng suất được quan niệm là tập trung vào lao động có kỹ năng thì trong
thời đại Toàn cầu hoá, năng suất tập trung vào tri thức và công nghệ. Vì thế nội


dung chiến lược Toàn cầu hoá của Hàn Quốc đã nhấn mạnh: “Trước tiên và quan
trọng nhất, giáo dục phải được Toàn cầu hoá, hệ thống giáo dục phải được cải
cách triệt để để đào tạo một số lượng đầy đủ những công dân trẻ tuổi, dám nghĩ,
dám làm, là những người lãnh đạo tương lai của đất nước. Trên cơ sở kết hợp
những cải cách giáo dục này với công nghệ thông tin hiện đại sẽ cung cấp những
cơ hội học tập cả đời cho mỗi công dân, sẽ làm cho đất nước nâng cao năng lực trí
tuệ lên những trình độ cao nhất”.
Tiếp đó, chính phủ Hàn Quốc đã công bố một kế hoạch cải cách giáo dục dài
hạn nhằm mục tiêu phát triển toàn diện con người trong thế kỷ XXI, đưa nền giáo
dục đất nước đến năm 2020 đạt đến trình độ của các nước công nghiệp phát triển
nhất thế giới. Cụ thể là Hàn Quốc sẽ phấn đấu đến năm 2020 có 3/100 trường đại
học đứng đầu thế giới trong đó có 1 trường đại học đứng trong danh sách 10
trường đại học có uy tín nhất thế giới.
Chính phủ tuyên bố giai đoạn 2017-2022 chuyển đổi mô hình chính sách kinh
tế sang "nền kinh tế đặt trọng tâm vào con người", tăng số lượng việc làm, giảm
gánh nặng cuộc sống cho người dân, từ đó nâng cao thu nhập, đảm bảo nền kinh
tế Hàn Quốc tăng trưởng 3% mỗi năm.
Cụ thể, Chính phủ sẽ tập trung vào vấn đề tạo việc làm, đưa thu nhập đóng vai
trò chủ đạo trong tăng trưởng kinh tế, hướng tới một nền kinh tế công bằng, tăng
trưởng và đổi mới. Khái niệm nền kinh tế công bằng xuất hiện thường xuyên gần
đây như một chính sách của Ủy ban thương mại công bằng để xóa bỏ những quy
định bất thường hay những thông lệ bất công giữa các tập đoàn lớn, nhóm người
có quyền lực và giới thầu phụ, tiểu thương.
Để thực hiện các chính sách này, Chính phủ sẽ tăng cường giải ngân ngân
sách quốc gia. Rõ nhất là trong năm 2017, Chính phủ Hàn Quốc vừa công bố gói
kích thích kinh tế trị giá 11,2 nghìn tỉ Won (tương đương 10 tỷ USD). Đây là

những bước đi đầu tiên của Tổng thống Moon Jae-in, để thực hiện lời hứa trong
thời kì tranh cử: tạo việc làm và tăng trợ cấp xã hội. Theo Bộ Tài chính Hàn Quốc,
50% gói kích cầu được phân bổ để trợ cấp các dịch vụ công và dịch vụ xã hội.
Ngoài ra, việc bổ sung ngân sách cũng sẽ thúc đẩy thị trường việc làm đang trì trệ,
dự kiến sẽ tạo ra 71.000 việc làm mới đối với khu vực công và 15.000 việc làm
cho khu vực tư nhân. Ước tính, việc tăng chi tiêu này sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế Hàn Quốc thêm ít nhất 0,2% trong năm nay.
d) Khoa học – công nghệ
Phát triển khoa học - công nghệ là yếu tố cơ bản nhất quyết định thành công
của chiến lược quốc gia hướng về xuất khẩu.
Trong những năm 1980, Chính phủ Hàn Quốc xác định việc nâng cao năng


lực kỹ thuật, công nghệ tự chủ trở thành vấn đề then chốt cho phát triển trong giai
đoạn mới. Do vậy, Hàn Quốc đã tập trung vào hai nhiệm vụ: thúc đẩy các họat
động nghiên cứu từ khu vực tư nhân và đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ các
nhà khoa học - công nghệ.
Việc ban hành Luật Tổ chức khoa học Hàn Quốc đã thúc đẩy sự ra đời của
hàng loạt viện nghiên cứu tư nhân. Nếu như năm 1981 mới có 53 viện nghiên cứu
tư nhân thì sau 10 năm có 1.000 viện, đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân cho
nghiên cứu khoa học - công nghệ chiếm tới 80,6% vào năm 1990. Cùng thời gian
này, Hàn Quốc thành lập Đại học Khoa học - công nghệ Hàn Quốc; hợp nhất Viện
Khoa học Hàn Quốc với Viện Nghiên cứu khoa học - công nghệ Hàn Quốc thành
Viện Khoa học - công nghệ Hàn Quốc nhằm tăng sức mạnh kết nối khoa học công
nghệ với thực tiễn sản xuất, cung ứng nguồn nhân lực có chất lượng cao cho các
viện nghiên cứu tư nhân và chính phủ.
e) Đầu tư nước ngoài
Vấn đề chính mà chính phủ Park phải đối mặt trong những năm đầu của thập
niên 1960 là tình trạng nghèo đói đang xói mòn của quốc gia và nhu cầu các chính
sách kinh tế để vượt qua đói nghèo này. Một vấn đề nghiêm trọng là gây quỹ để

thúc đẩy phát triển công nghiệp cần thiết. Tiết kiệm trong nước rất thấp, và có rất
ít vốn trong nước. Trở ngại này đã được khắc phục bằng cách đưa ra các khoản
vay nước ngoài và khơi nguồn những lãi suất hấp dẫn trong nước dẫn vốn của
nước sở tại vào sản xuất. Trong số các nước Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và
Singapore, chỉ có Hàn Quốc tài trợ cho phát triển kinh tế với khoản nợ nước ngoài
tăng lên đáng kể, tổng nợ 46,8 tỷ USD năm 1985, khiến nó trở thành nước lớn thứ
tư thế giới. Đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài chủ yếu là nguồn gốc Nhật
Bản.
Cho đến nay, Chính phủ Hàn Quốc đã mở rộng khuyến khích đối với đầu tư
nước ngoài trên các lĩnh vực như: Ban hành luật xúc tiến đầu tư nước ngoài; mở
rộng ưu đãi thuế cho đầu tư nước ngoài về thời gian (7 năm), về ngành nghề, lĩnh
vực đầu tư, về tỷ lệ chiếm giữ cổ phiếu...; thành lập cơ quan tư vấn đầu tư nước
ngoài... Mặt khác, thái độ của người dân đối với đầu tư nước ngoài đã có sự thay
đổi theo hướng tích cực. Chính vì vậy đầu tư nước ngoài tại Hàn Quốc đã mở rộng
nhanh chóng.
2. Vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế ở Đài Loan
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, nền kinh tế - xã hội Đài Loan lâm vào tình
trạng vô cùng rối ren, bế tắc. Sản xuất đình đốn, hàng hoá khan hiếm, lạm phát với tốc
độ “ngựa đứt dây cương”; nạn tham nhũng, tiêu cực, trộm cắp hoành hành nghiêm
trọng trong xã hội. Có thể nói, vào những năm cuối thập kỷ 40 của thế kỷ XX, nền
kinh tế - xã hội Đài Loan đứng trước nguy cơ suy thoái chưa từng thấy, thách thức đối


với người dân Đài Loan lúc này không chỉ là đói nghèo, lạc hậu, mà còn là nguy cơ
suy tàn, sụp đổ.
Chưa đầy ba chục năm sau, từ một nền kinh tế nông nghiệp trì trệ, lạc hậu, Đài
Loan bước vào hàng các nước và khu vực công nghiệp mới và được đánh giá là một
trong “những nền kinh tế thần kỳ ở Châu Á ”. Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng
năm của Đài Loan trong thập kỷ 50 là 8%; thập kỷ 60 là 9,1; thập kỷ 70 là 10%; thập
kỷ 80 là 8,1% và thập kỷ 90 (tính đến hết năm 2000) là 6,3%. Tổng sản phẩm quốc

dân tăng nhanh: Từ 1,67 tỷ USD vào năm 1952 tăng lên 7,9 tỷ USD vào năm 1972;
48,55 tỷ USD vào năm 1982; 212 tỷ USD vào năm 1992 và 310 tỷ USD vào năm

2000. Từ một xã hội nghèo nàn, hỗ loạn, Đài Loan trở thành một hòn đảo ổn định với
mức thu nhập bình quân đầu người thuộc loại cao trên thế giới: 169 USD vào năm
1952 tăn lên 1.132 USD vào năm 1976 và đạt 14,216 USD vào năm 2000.
GDP bình quân đầu người một số nước ở Châu Á từ năm 1950
(Nguồn: )
Để đạt được điều này,các chính sách của chính phủ là nhân tố chủ chốt trong thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.Sau khi rời sang Đài Loan vào năm 1949, chính phủ Trung
Hoa Dân Quốc đã đề xuất nhiều kế hoạch phát triển kinh tế, trong thập niên 1960 phát
triển thành nền kinh tế tư bản chủ nghĩa định hướng xuất khẩu hạn chế nhập khẩu, tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
a) Nông nghiệp
Đài Loan đã thực hiện chính sách cải cách nông nghiệp, được thực hiện theo
ba bước: Bước1 (1949-1951): giảm thuê mướn; Bước 2 (1951-1953): bán đất
công; Bước 3 (1953-1955): thực hiện chương trình đất dành cho người nông dân
(land-to-the-tiller). Chương trình cải cách nông nghiệp ba bước này đã tạo nền
tảng cho quá trìnhcông nghiệp hóa của Đài Loan trong giai đoạn 1960-1980. Sản


xuất nông nghiệp được cải thiện đáng kể, đạt tăng trưởng hàng năm khoảng 4,7%,
cho phép Đài Loan sử dụng lãi để đầu tư vào công nghiệp.
Sau 30 năm phát triển thành công, do những đòi hỏi của các đối tác thương
mại khác nhau, nhiều sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu từ nước ngoài đã bắt đầu
xâm chiếm thị trường Đài Loan, gây ra sự mất cân đối giữa cơ cấu sản xuất và
xuất nhập khẩu, buộc Đài Loan thực hiện điều chỉnh với “Chương trình chuyển
đổi cơ cấu nông nghiệp và tăng cường thu nhập nông dân” và “Chương trình tăng
cường lúa gạo”.
Để đối phó với những thách thức của tự do hóa mậu dịch, giữ gìn và bảo vệ

môi trường, Đài Loan thực thi chương trình “Điều chỉnh thống nhất” năm 1991,
nhấn mạnh tầm quan trọng của các yếu tố: nguồn nhân lực, đất đai, thị trường, kỹ
thuật, phương pháp tổ chức, phúc lợi xã hội và bảo tồn tự nhiên. “Sách trắng về
chính sách nông nghiệp” năm 1995 đã đưa ra những cam kết dài hạn đối với các
yếu tố sản xuất, bảo vệ môi trường và duy trì mức sống của người dân. Năm 1997,
chương trình “Phát triển nông nghiệp xuyên thế kỷ” phát huy hiệu lực.
b) Công nghiệp
Khi nền nông nghiệp ổn định, Đài Loan đã đưa ra kế hoạch phát triển kinh tế
quốc dân 4 năm lần thứ nhất với chủ trương “Nuôi dưỡng công nghiệp thông qua
nông nghiệp – Phát triển nông nghiệp bằng công nghiệp”
Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp hướng ra xuất khẩu vào cuối
những năm 1950, sớm hơn vài năm so với Hàn Quốc. Việc nới lỏng đối với xuất
nhập khẩu được thực hiện từ sau 1958. Chính sách tỷ giá hối đoái kép được thay
bằng một hệ thống tỷ giá thống nhất. Chính phủ cho phép những doanh nghiệp
sản xuất hàng xuất khẩu được sử dụng các khoản tín dụng ưu đãi và miễn giảm về
thuế.
Chính phủ đầu tư xây dựng một hệ thống kết cấu hạ tầng hoàn chỉnh, bao gồm
cả hạ tầng kỹ thuật – xã hội bên trong và bên ngoài khu công nghiệp tạo sức hấp
dẫn cao cho các nhà đầu tư.
Vào đầu những năm 1970 Đài Loan tiếp tục đẩy mạnh các ngành công nghiệp
hướng vào xuất khẩu và thông qua 10 dự án xây dựng lớn (1973). Chính phủ tiếp
tục tăng cường đầu tư xây dựng mới và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng. Các nganh
công nghiệp như sắt thép, hóa dầu, đóng tàu được tiếp tục củng cố thông qua các
khoản đầu tư khổng lồ của các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Chính phủ Đài Loan đã áp dụng những chính sách hỗ trợ rất hợp lý và mạnh
mẽ, điều này được xem là một trong những nguyên nhân chính cho sự thành công
của ngành công nghiệp công nghệ Đài Loan trên thị trường thế giới. Chính phủ
cho thành lập Trung tâm Thương mại Đài Loan (Taiwan Trade Center), viết tắt là
TAITRA. Trung tâm này chuyên thực hiện quảng bá hình ảnh của các tập đoàn



công nghệ Đài Loan đến với các nước trên thế giới.
Xây dựng sẵn các nhà xưởng cho thuê đạt tiêu chuẩn để các nhà đầu tư có thể
nhanh chóng triển khai hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi được cấp giấy phép
đầu tư. Giá cho thuê thấp và tạo nhiều ưu đãi cho nhà đầu tư.
Tổ chức tốt các dịch vụ phụ trợ để tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Hình thành mạng lưới các doanh nghiệp phụ trợ trong và ngoài KCN từ đó
thực hiện việc chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp trong nước và hình
thành mạng lưới liên kết công nghiệp.
Các chính sách và biện pháp quản lý KCN của Chính quyền Đài Loan linh
hoạt và có hiệu quả. Thực hiện cơ chế “một cửa, tại chỗ”, minh bạch và đơn giản
hóa các thủ tục hành chính, giảm sự phiền hà cho các nhà đầu tư, …
c) Giáo dục, phúc lợi cho người dân
Các dịch vụ công cộng ở Đài Loan luôn có mục đích hướng đến nhân dân.
Điển hình như trong một Văn phòng quận Thất Đổ, tại đây trang thiết bị khá tiện
nghi cho khách hàng, nhân viên khá thân thiện và thoải mái, ngoài ra còn cung
cấp nhiều dịch vụ tiện ích khác như chăm sóc trẻ em cho khách hàng có mang con
theo.
Hệ thống Bảo hiểm y tế cho người dân cũng được cung cấp bằng các hình
thức hiện đại, tiện lợi nhất cho người sử dụng. Về tài chính của hệ thống BHYT,
nguồn tiền khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT chủ yếu do dân chúng, đơn vị sử
dụng lao động và Chính phủ đóng góp. Ngoài ra, còn các khoản thu khác như tiền
phạt trên phí BHYT chậm nộp, các khoản đóng góp xổ số phúc lợi công cộng và
các phụ phí y tế về thuốc lá... cũng được bổ sung vào tiền khám chữa bệnh BHYT.
Phí BHYT thu được chỉ dùng để trả cho chi phí khám chữa bệnh của nhân dân;
còn các chi phí cho hoạt động của NHI, bao gồm: chi phí hành chính, nhân sự,
tiền lương nhân viên đều do Chính phủ chi trả. NHI phải duy trì một quỹ y tế dự
phòng tương đương từ một đến ba tháng của tổng phí BHYT thu được theo quy
định của Luật.
Đài Loan đã rất khôn ngoan khi không hề ngần ngại đầu tư vào giáo dục. Tỉ lệ

người biết đọc biết viết là 96,2% năm 2002, và tháng giêng năm 2011, Tổng thống
Mã Anh Cửu đã tuyên bố đến năm 2014 Đài Loan sẽ thực hiện giáo dục bắt buộc
đến hết lớp 12 (từ 1968 đến nay là lớp 9). Giáo dục phổ thông đến lớp 12 là hoàn
toàn miễn phí, trường tư được nhận học phí nhưng mức thu rất thấp vì vẫn được
nhận tài trợ từ ngân sách và dựa vào nguồn hiến tặng. 95% học sinh phổ thông
được nhận vào đại học, với học phí rất thấp. Học phí tại trường hàng đầu NTU chỉ
1.500 USD/năm, trong khi học phí của một trường tương đương ở Mỹ là 30.00040.000 USD/năm. Ngân sách giáo dục hàng năm của Đài Loan là khoảng 20 tỉ đô
la Mỹ và trong một thập niên gần đây không tăng nhiều.


Giáo viên ở Đài Loan được tuyển chọn và đào tạo tốt, lại được tái đào tạo và
bồi dưỡng liên tục. Có 12 trung tâm đào tạo nâng cao tại chức nhằm cập nhật kiến
thức và huấn luyện giáo viên thực hiện những chính sách về cải cách giáo dục,
giúp họ không ngừng phát triển, không ngừng trưởng thành. Những trung tâm này
có nhiệm vụ cung cấp thông tin và tài liệu tham khảo về giáo dục và quản lý giáo
dục, tạo ra một cơ chế để trao đổi thông tin giữa các nhà giáo dục và những người
lãnh đạo giáo dục, những người hoạch định chính sách ở các địa phương; khuyến
khích giáo viên học tập suốt đời và không ngừng cải thiện việc dạy học. Nó cũng
đem lại cho giáo viên những tư vấn và hỗ trợ cần thiết trong việc giải quyết những
vấn đề cụ thể của giáo dục trong đời sống hàng ngày. Hoạt động của các trung tâm
này phục vụ đắc lực cho cải cách giáo dục và làm cho giáo dục trở nên theo sát
các nhu cầu thực tế của địa phương, cũng như giúp giáo viên thực hiện vai trò của
mình một cách tốt nhất.
Do nhu cầu đẩy mạnh nghiên cứu về khoa học giáo dục nhằm đáp ứng những
thay đổi của thời đại toàn cầu hóa, sau một thập kỷ chuẩn bị mọi mặt, tháng 3 năm
2011, Viện Nghiên cứu Giáo dục Quốc gia Đài Loan (National Academy for
Educational Research- NAER) đã được thành lập. Viện không chỉ thực hiện
những nghiên cứu dài hạn và có tính hệ thống về những vấn đề giáo dục của quốc
gia, mà còn tích cực tìm kiếm các quan hệ đối tác trong nghiên cứu trên toàn thế
giới; thông qua các hoạt động tương tác quốc tế và các chương trình đào tạo nâng

cao, Viện định vị mình như một “think tank” về chính sách giáo dục, chịu trách
nhiệm chính trong việc cải cách chương trình, đánh giá kết quả giáo dục, tư vấn
chiến lược, nhằm cải thiện chất lượng giáo dục của Đài Loan và duy trì năng lực
cạnh tranh toàn cầu của Đài Loan.
d) Khoa học – công nghệ
Đài Loan không chỉ gửi nhiều kỹ sư và cán bộ nghiên cứu triển khai đến Mỹ
học mà còn sử dụng nhiều bằng sáng chế của Mỹ và thu hút được nhiều nhà
khoa học từ Mỹ trở về. Đây chính là nguyên nhân của mối quan hệ gần gũi trong
trích dẫn sáng chế công nghệ Mỹ.
Chính phủ có vai trò quan trọng để phát triển công nghệ, thành tựu của Đài
Loan đạt được trong thời gian qua bắt nguồn từ chính sách phát triển kinh tế với
những lựa chọn chiến lược phù hợp, tạo tiền đề cho phát triển công nghiệp bán
dẫn và công nghệ thông tin. Theo tiến trình phát triển, ưu thế của các ngành công
nghiệp Đài Loan phù hợp với nhu cầu và xu thế phát triển toàn cầu.
Trong những năm đầu thập niên 1990, điện tử đã trở thành ngành xuất khẩu
lớn thứ 2 với năng lực cạnh tranh cao nhờ vào lợi thế lao động rẻ và tính linh
hoạt của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tuy vậy, với nhận thức các ngành công
nghiệp sử dụng nhiều nhân công có thể làm giảm tăng trưởng kinh tế trong


tương lai, nên ngay trong thập kỷ 90, các nhà hoạch định chính sách Đài Loan đã
lựa chọn công nghệ thông tin như một ngành mũi nhọn hỗ trợ để phát triển công
nghệ cao.
Sự phát triển công nghệ từ trước tới nay đều do Chính phủ chỉ đạo và khu
vực phi chính phủ thực hiện. Những biện pháp can thiệp của Nhà nước có thể
tiến hành trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức nghiên cứu triển khai,
chuyển giao tiến bộ khoa học công nghệ, hỗ trợ tài chính, miễn giảm thuế, cho
vay lãi suất thấp và những trợ giúp khác nhằm tạo ưu thế, khuyến khích các
doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu và triển khai (R&D).
Ngoài ra Chính phủ đã nỗ lực xây dựng cơ sở hạ tầng, hỗ trợ doanh nghiệp

phát triển công nghệ cao. Chính phủ đã xây dựng các công viên khoa học nhằm
tạo môi trường tốt cho hoạt động R&D và đổi mới công nghệ. Điển hình như
Công viên Khoa học Tân Trúc, là đơn vị trực thuộc Hội đồng Khoa học Quốc gia
(NSC) được xây dựng năm 1980. Đến cuối 2001, trên địa bàn Công viên đã có
312 công ty khoa học công nghệ hoạt động, tạo ra doanh số bán hàng trên 929,3
tỷ đôla Đài Loan/năm. Về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, tháng 8/1994
Chính quyền Đài Loan đã thành lập Uỷ ban Chỉ đạo Phát triển Cơ sở hạ tầng
công nghệ thông tin với nhiệm vụ thúc đẩy xây dựng mạng lưới thông tin và các
ứng dụng có tính chất đổi mới công nghệ thông tin. Chính phủ Đài Loan đã
thông qua "Chương trình Phát triển Cơ sở Hạ tầng Thông tin" như một định
hướng để đạt được mục tiêu tập trung vào việc phát triển thương mại điện tử;
phổ cập Internet trong từng giai đoạn sản xuất công nghiệp… Trong thời đại
kinh tế dựa trên tri thức, Chương trình này đã tạo dựng chuỗi cung ứng gồm các
hãng trong, ngoài nước tham gia và tạo cơ sở vững chắc để xây dựng mô hình
"Đài Loan và chuỗi cung ứng toàn cầu".
Để đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ nắm bắt kịp công nghệ tiên tiến và
tạo ra năng lực phát triển của chính mình, Chính phủ đã thực thi những giải pháp
để chuyển giao một số công nghệ chủ chốt được lựa chọn từ các nước tiên tiến;
đồng thời thành lập các viện, trung tâm nghiên cứu để khám phá và cấy những
công nghệ học hỏi được này vào Đài Loan.
Trong thời kỳ đầu của quá trình phát triển công nghệ cao (năm 1973), Đài
Loan đã thành lập Quỹ phát triển để đầu tư và điều phối ngân hàng tái cấp vốn
đầu tư mạo hiểm. Thông qua hoạt động này, các nhà đầu tư mạo hiểm đã góp
phần quan trọng vào phát triển các ngành công nghệ cao.
e) Đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài bắt đầu được chú ý vào đầu những năm 1960. Các chính
sách “mở cửa” còn được gọi là “chính sách cải cách và mở cửa” thực sự là sự
kết hợp giữa nhiều chính sách và luật pháp khác nhau một cách linh hoạt.



3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
a) Đào tạo và thu hút nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế dựa
vào tri thức.
Đào tạo và thu hút nguồn nhân lực luôn được xem là tiêu chí hàng đầu nhằm
phát triển đất nước của mỗi quốc gia. Các chính sách phát triển xã hội học tập suốt
đời và cải cách giáo dục phổ thông cần được cân nhắc.
Trong thế kỷ XXI với các điều kiện kinh tế, xã hội và công nghệ thay đổi nhanh
chóng, học sinh cần được trang bị kiến thức chung và kỹ năng nghề nghiệp sâu
trong một số chuyên môn nhất định.
- Cần tính toán làm sao để giảm thiểu tối đa các chi phí học tập, đặc biệt là
ở các cấp tiểu học và trung học để động viên 100% số trẻ em trong độ tuổi
được cắp sách đến trường. Trong điều kiện thu nhập của người dân còn
thấp thì chính phủ phải đầu tư tối đa ngân sách cho cấp học này.
- Cải cách quá trình học theo hướng giúp học sinh phát triển được đầy đủ
hơn để đáp ứng được những thay đổi nhanh trong xã hội.
- Xây dựng mô hình học tập trong đó học sinh làm chủ quá trình học thay
thế cho mô hình giáo viên trung tâm trước đây. mục tiêu phát triển năng
lực cá nhân và khả năng tự học của mỗi học sinh được đề cao.
- Cải cách quá trình giảng dạy và đội ngũ giáo viên. Trọng tâm của cuộc cải
cách này là vai trò người thầy giáo phải được chuyển từ vị trí người "độc
thoại", giảng bài liên tục trong thời gian trên lớp thành người hướng dẫn
học sinh biết cách khai thác bài, còn người học phải tự học và khai thác
bài cho mình. Tiêu chí này hiện tại các trường ĐH tại VN áp dụng khá
hiệu quả.
- Cải cách quản lý giáo dục theo hướng phi tập trung hoá. Bên cạnh việc
thực hiện các cuộc cải cách quá trình học và dạy, tiến hành đổi mới hệ
thống quản lý giáo dục theo hướng nâng cao trách nhiệm của nhà trường
và địa phương. Để chương trình học trở nên sát với thực tiễn hơn, các
cộng đồng dân cư có quyền được tham gia vào việc xây dựng chương
trình học cho HS, SV.

b) Nhấn mạnh phát triển khoa học và công nghệ và đổi mới doanh nghiệp
Một trong những hướng nền tảng cho định hướng phát triển nền kinh tế tri thức
là phát triển khoa học và công nghệ được chính phủ Đài Loan rất chú trọng, mà
chúng ta có thể dùng để làm bài học kinh nghiệm cho mình.
- Chú trọng đến nguồn đầu tư dành cho nghiên cứu và triển khai này. Ở Đài
Loan, thường được huy động từ chính phủ, doanh nghiệp nhà nước và
doanh nghiệp tư nhân. Cũng như nhiều nước có nền công nghiệp phát


triển, phần đóng góp từ nguồn tư nhân là đặc biệt quan trọng, chiếm tỷ
trọng gần một nửa.
- Tăng cường lực lượng cán bộ nghiên cứu lên ngang tầm các nước công
nghiệp phát triển và lựa chọn các lĩnh vực trọng điểm thích hợp như công
nghệ sinh học, chế tạo vật liệu mới, điện tử viễn thông.
- Chính phủ cũng tăng cường bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu và
phát triển với mục tiêu là phát triển và hoàn thiện các công nghệ được du
nhập từ nước ngoài và thành lập các cơ quan quản lý, các viện nghiên cứu
để phổ biến, khai thác và hướng dẫn chuyển giao công nghệ. Nhằm phân
loại tính chất công nghệ và đặc điểm các kênh chuyển giao để tránh nhập
những “công nghệ rác”, mà đi thẳng vào công nghệ hiện đại, công nghệ
cao, tạo ra những ngành công nghiệp mới có giá trị gia tăng cao, tăng
năng lực cạnh tranh quốc gia của họ.
- Thúc đẩy sự phát triển và khả năng sáng tạo từ các sinh viên ở trường
ĐH, tạo thêm nhiều sân chơi thực tiễn giúp các SV có môi trường được
học hỏi và trau dồi kinh nghiệm.
- Chính từ sự đầu tư nhấn mạnh trong phát triển khoa học và công nghệ là
đòn bẩy mạnh mẽ giúp các doanh nghiệp ngành điện tử, hóa chất,…trong
nước có tiềm năng đổi mới. Và thực tế Đài Loan đã chứng minh được
điều này khi họ chiếm được thị phần máy tính quan trọng trên thị trường
Mỹ.

c) Nâng cao hiệu quả quản lý và chất lượng sản xuất nông nghiệp tăng thu nhập
thực tế của người dân nông thôn.
Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp, tuy nhiên
vẫn còn nhiều bất cập trong việc quản lý hiệu quả, chất lượng sản xuất nông
nghiệp dẫn đến phần lớn người nông dân vẫn chưa cải thiện nhiều về điều kiện
sống, cũng như trong việc được tiếp cận với những phương pháp nuôi trồng,
máy móc với công nghệ hiện đại, vì vậy năng suất chưa cao và chủ yếu là phải
dùng sức lao động.
- Cần chú trọng hơn nữa đến khâu tạo việc làm ổn định cho lực lượng lao
động ở nông thôn bằng cách lập các xí nghiệp chế biến nông sản, xí
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu tại các khu vực ngoại thành,
nhằm cải thiện điều kiện sống tốt hơn.
- Thành lập các trang trại nông nghiệp tập trung chuyên môn hóa sản xuất
cây trồng và vật nuôi theo vùng, với quy trình khép kín. Sẽ cho ra năng
suất cao và chất lượng tốt dẫn đến đáp ứng được các tiêu chuẩn xuất khẩu.
- Nhà nước ta cần có nhiều chính sách phát triển nông nghiệp cụ thể và ổn
định hơn mới kích thích được tinh thần hăng hái sản xuất của người nông


dân, giảm bớt tình trạng nông dân ào ạt đổ ra thành thị kiếm việc làm
trong khi nông nghiệp vẫn còn nhiều lĩnh vực cần đầu tư sản xuất.
d) Những ngành công nghiệp truyền thống mà Việt Nam đang chú trọng phát
triển cần được lựa chọn, cân nhắc trong dài hạn.
- Những ngành công nghiệp Việt Nam đang xây dựng và phát triển đều là
những ngành công nghiệp truyền thống như luyện kim, hoá dầu, dệt may,
giày dép, vv... Nghĩa là những ngành công nghiệp tiêu hao nhiều nguyên
vật liệu, năng lượng, gây ô nhiễm môi trường, giá trị thặng dư thấp, ... đang
được các nước phát triển và cả Trung Quốc muốn chuyển giao sang các
nước lạc hậu, chủ yếu để tận dụng nguồn nhân lực giá rẻ, kỹ năng thấp.
- Nếu Việt Nam tiếp nhận tất cả những ngành này, thì chỉ sau một thời gian,

kinh tế Việt Nam sẽ vấp phải những thách thức do giá nguyên nhiên vật
liệu cao, môi trường ô nhiễm, bệnh tật, tai nạn lao động, ...
- Vấn đề đặt ra là trong điều kiện đó Việt Nam cần có sự tính toán, cân nhắc
thận trọng, tiếp nhận những ngành công nghiệp truyền thống nào, không
tiếp nhận những loại công nghệ nào và mức độ phát triển những ngành này
đến đâu là phù hợp.
- Thực tế của Hàn Quốc cho ta thấy khi tiếp nhận, xây dựng, phát triển một
ngành công nghiệp phải tính cho một thời hạn dài, cân nhắc cả những mặt
tích cực và tiêu cực, và khi hết hạn sử dụng thì sẽ phải chuyển đổi thế nào.
Nếu không có sự tính toán, tiên liệu đầy đủ, thì có thể nền kinh tế sẽ gánh
chịu những hậu quả khó lường.
e) Tích cực thu hút đầu tư nước ngoài
Tích cực thu hút đầu tư nước ngoài là nhu cầu cấp bách đối với Việt Nam nhằm
nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật và đổi mới công nghệ của các ngành sản xuất nội
địa.
- Nhìn chung, các nhà đầu tư nước ngoài đều cho rằng, Luật Đầu tư nước
ngoài của Việt Nam là khá thông thoáng, hấp dẫn. Tuy nhiên, do nhiều lý
do nên trong quá trình thực hiện, Luật Đầu tư đã không phát huy hết hiệu
quả và ưu thế, làm hạn chế không nhỏ đến khối lượng, quy mô và tiến bộ
đầu tư của các doanh nghiệp nước ngoài.
- Hiện tại, Việt Nam đang tích cực thực hiện chế độ "một cửa" trong khâu
xét duyệt, cấp giấy phép cho các hạng mục đầu tư, tạo thuận lợi và củng
cố lòng tin cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
- Trong quá trình thu hút đầu tư, cần chú ý đến việc xây dựng các khu chế
xuất thế nào cho hiệu quả. Không thể tuỳ tiện xây dựng một cách vô
nguyên tắc, không tính đến hoặc bỏ qua một số yêu cầu tất yếu mà một
khu chế xuất cần phải có.


-


Bên cạnh đó, Việt Nam nên đẩy mạnh hơn nữa cải cách các tập đoàn và
tổng công ty nhà nước theo hướng cổ phần hoá, chỉ duy trì những tập
đoàn lớn hoạt động trên thị trường thế giới, hoạt động trong lĩnh vực dịch
vụ công, xây dựng cơ sở hạ tầng quan trọng qui mô lớn, rút khỏi thị
trường nội địa về hàng hoá, thương mại và dịch vụ thông thường, kiểm
soát độc quyền; xây dựng các ngành công nghiệp trên cơ sở lợi thế so
sánh, đồng thời phát triển mạnh các ngành dịch vụ phù hợp, các ngành
công nghiệp hiện đại, như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, tài
chính, ngân hàng, ...
f) Định hướng xuất khẩu của Việt Nam là bước chuyển mình quan trọng
Hàn Quốc định hướng xuất khẩu hầu như chỉ tập trung vào một số ngành công
nghiệp chế tạo, chế biến như ô tô, điện tử, may mặc, luyện kim,... Trong khi Việt
Nam lại xuất khẩu chủ yếu là tài nguyên bao gồm dầu thô, than đá, nông lâm hải
sản,... Tỷ trọng hàng công nghiệp trong xuất khẩu của Việt Nam hiện còn rất thấp
chỉ khoảng 30-40%.
Tài nguyên thiên nhiên là có hạn đừng vì lợi ích trước mắt mà không xét tới dài
hạn.
- Cần có chính sách khuyến khích xuất khẩu mạnh mẽ hơn theo hướng duy
trì một VND yếu, có giá chính thức thấp hơn thực tế
- Thực hiện các bước đi lần lượt từ nhập khẩu, đến thay thế nhập khẩu, rồi
xuất khẩu. Cụ thể: đầu tiên các nước này thực hiện xuất khẩu các sản
phẩm truyền thống của nền kinh tế nông nghiệp như lương thực, thực
phẩm thô (bước 1); tiếp đến là tự sản xuất các sản phẩm vốn trước đó phải
nhập khẩu như quần áo, giày dép và các hàng hóa tiêu dùng thông dụng
khác (bước 2); đến xuất khẩu các sản phẩm chế biến có nguồn gốc từ
nông nghiệp như giấy, đồ gồ, dệt may, mía đường... (bước 3); sau đó đến
sản xuất hàng công nghiệp chế tạo lâu bền để thay thế nhập khẩu như máy
móc, dụng cụ... (bước 4); và cuối cùng là xuất khẩu hàng công nghiệp chế
tạo cao cấp như tivi, tủ lạnh, xe hơi, phần mềm... (bước 5).

- Để hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới hầu hết các nước phát
triển đều thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc “Xuất khẩu hay là Chết”.
Nguyên tắc này vừa nhằm đề cao vai trò trách nhiệm của doanh nghiệp,
vừa tạo ra sức ép đối với các doanh nghiệp trên con đường hội nhập kinh
tế quốc tế. Theo nguyên tắc đó, nếu doanh nghiệp nào không tạo được
những sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế thì sẽ không có
cơ hội tồn tại, bởi Chính phủ không “chạy theo” doanh nghiệp mà chỉ
thực hiện hỗ trợ cho một ngành công nghiệp nào đó.
g) Chuyển đổi mô hình phát triển


-

Giảm thiểu sự can thiệp hành chính của nhà nước, mở rộng phạm vi điều tiết
của thị trường;
- Giảm bớt sự trợ giúp của nhà nước đối với các Chaebol, tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển; cải cách các Chaebol theo luật
điều chỉnh độc quyền và luật thương mại bình đẳng;
- Cải cách hệ thống tài chính và tiền tệ theo các nguyên tắc thị trường, tỷ giá
được điều chỉnh linh hoạt hơn, gia tăng sự phân bổ các nguồn vốn thông qua thị
trường chứng khoán, giảm bớt tình trạng phân bổ vốn chủ yếu thông qua các
ngân hàng với sự can thiệp mạnh mẽ của chính phủ;
- Hội nhập, mở cửa và tham gia vào quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ hơn, đặc
biệt là các lĩnh vực dịch vụ, tài chính, ngân hàng; nới rộng các qui định xuất
nhập cảnh và cư trú, sở hữu nhà đất cho các nhà đầu tư nước ngoài; thành lập
các khu kinh tế tự do với thể chế tự trị cao ở đẳng cấp quốc tế, cơ sở hạ tầng
hiện đại nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đến sinh sống và làm việc
nhiều hơn;
- Gia tăng đầu tư nhà nước cho các vấn đề an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã
hội, giảm nghèo bền vững,..

Sự chuyển đổi mô hình phát triển của Hàn Quốc và Đài Loan theo hướng kinh
tế thị trường hiện đại, toàn cầu hoá, hiện đại hoá về công nghệ là một sự chuyển
hướng đúng đắn, tuy có phần chậm trễ. Sự chuyển đổi mô hình phát triển này cho
ta thấy là không có một mô hình phát triển nào có thể tồn tại vĩnh hằng, mà nó
phải thay đổi thích hợp với những điều kiện lịch sử đã thay đổi. Tuy nhiên sự thay
đổi này thường không diễn ra dễ dàng do những hạn chế trong nhận thức của tầng
lớp có quyền lực, do lợi ích của các phe nhóm, do cơ chế, chính sách cứng nhắc
vv... Vấn đề đặt ra là Việt Nam hiện chỉ ở ở giai đoạn đang đuổi mô hình phát
triển công nghiệp hướng về xuất khẩu, nhưng hiện nay xu hướng toàn cầu hoá và
hội nhập ngày càng sâu rộng, các điều kiện quốc tế đã thay đổi, các nền kinh tế
đang chuyển sang phát triển kinh tế tri thức, kinh tế công nghiệp đang lùi dần,
Việt Nam không thể đi theo mô hình phát triển công nghiệp hướng về xuất khẩu
mà Hàn Quốc hay Đài Loan đã đi. Dù phát triển theo mô hình nào Việt Nam cũng
phải lựa chọn phát triển một số ngành công nghiệp theo lợi thế của Việt Nam, một
số ngành dịch vụ và công nghệ hiện đại, không chỉ theo định hướng xuất khẩu, mà
rộng hơn phải theo hướng hội nhập quốc tế. Và mô hình này phải được điều chỉnh
thích ứng với những điều kiện cụ thể.


KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP
Thực tiễn đã chứng minh được ngày nay trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, thì Nhà nước có vai trò rất quan trọng, mang tính quyết định thành công
trong từng bước phát triển.
Thông qua quá trình tìm hiểu vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế cụ thể
là Hàn Quốc và Đài Loan là hai quốc gia từng có giai đoạn phát triển tương đồng với
Việt Nam. Có thể thấy được rõ vai trò của bộ máy lãnh đạo để từ đó rút ra bài học
kinh nghiệm quý báu cho chính đất nước mình. Tất nhiên không phải là những gì họ
làm là thành công thì áp vào Việt Nam cũng là như vậy, chúng ta cần có sự chọn lọc
thận trọng và hết sức cân nhắc kỹ.
Bài tiểu luận phần nào đã phân tích các vai trò cụ thể và hết sức chủ chốt của Nhà

nước trong tiến trình hội nhập và hiểu được vì sao các nước Đài Loan, Hàn Quốc,..
từng ở giai đoạn khó khăn nhưng đã nhanh chóng tiến xa ngoạn mục. Quá trình phân
tích là cơ sở để rút ra bài học kinh nghiệm từ thành công của các nước đi trước.
Để tăng tính khả thi và vận dụng những kinh nghiệm của Hàn Quốc, Đài Loan
vào Việt Nam, chúng ta cần:
-

Tạo lập môi trường thuận lợi để đẩy mạnh sự phát triển vượt bậc. Đó là các
vấn đề về thể chế, chính sách, pháp luật, điều kiện về vốn và lao động,…

-

Thúc đẩy thực hiện các đột phá chiến lược để tháo gỡ các nút thắt tăng trưởng.
Tăng cường khả năng kết nối với thị trường các nước trong khu vực cả về thể
chế kinh tế và kết cấu hạ tầng.

-

Thường xuyên tổng kết và đánh giá kết quả từng bước đi trong tiến trình hội
nhập toàn cầu, học hỏi kinh nghiệm, xem xét các bài học từ nước ngoài để kịp
thời điều chỉnh chính sách cho phù hợp.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. www.wikipedia.org
2. />3. Chính sách phát triển kinh tế Hàn Quốc của TS. Trần Thị Minh Châu đăng
trên Viện Nghiên cứu lập pháp
4. />5. />6. />7. Nghiên cứu Quốc tế số 2 (93), 6/2013 từ trang 197-208: Phát triển Nông
Nghiệp Đài Loan: Tiến trình phát triển và Nhân tố tác động của PGS. TS.
Phạm Thị Thanh Bình

8. ay/paper/dai-loan-quoc-gia-di-dau-trong-cac-phuc-loi-xahoi-1676148
9. />10. Phùng Thị Huệ (2002) Nền kinh tế tri thức Đài Loan: Kinh nghiệm phát triển
các ngành kỹ thuật cao, Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc
11. Lê Bộ Lĩnh, Ngô Thị Trinh (2002), Báo cáo chuyến khảo sát Đài Loan 2002,
Viện Kinh tế Thế giới
12. Lê Danh Tốn (2002), Triển vọng kinh tế Đài Loan thập kỷ đầu thế kỷ 21, Tạp
chí Châu Á-TBD, số 41, 12/2002.
13. Lê Thi Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào
tạo: kinh nghiệm Đông Á, Nxb KHXH, Hà nội.
14. Hàn Quốc trước thềm thế kỷ XXI, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, 1999.
15. Sự thần kỳ Đông á - Tăng trưởng kinh tế và chính sách công, Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997
16. Kinh tế thế giới đương đại, Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin Hà Nội, 1995.
17. Sohn Jung Hoon : Education Reform: An End to Standardized Education,
Korea Focus, The Korea Foundation, 1998, Vol 6, No.2
18. Bae Yang Soo: Hướng hợp tác mong đợi trong lĩnh vực văn hoá giáo dục
Hàn-Việt thời gian tới. Hội Thảo Nhân dịp kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ


19.
20.
21.

22.
23.
24.
25.

ngoại giao Việt Nam - Hàn Quốc, Hà Nội, 4/5/2002.
Iain Pirie, 2007, The Korean Developmental State: From Dirigisme to NeoLiberalism, Routledge.

Jwa, Sung-hee, Palgrave MacMillan, 2001, A New Paradigm for Korea's
Economic Development: From Government Control to Market Economy.
Chwa, Sung-hui, 2001, A New Paradigm for Korea’s Economic Development:
From Government Control to Market Economy, Studies in the Korean
Economy, Houndmills, Basingstoke, Hampshire; New York: Palgrave.
Korea Development Institute, 2001, The Role of the Government in Korea's
Industrial Development.
Emery, Robert F., 2001, Korean Economic Reform: Before and Since the 1997
Crisis, Aldershot; Burlington, VT: Ashgate.
O. Yul Kwon, Sung-Hee Jwa, and Kyung-Tae Lee, 2003, Korea's New
Economic Strategy in The Globalization Era, Edward Elgar.
/>a=d&d=TTbGWOSpoMQW2009.1.21&e=-------vi-20--1--img-txIN-------#



×