Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Chính sách cải cách kinh tế của Myanmar giai đoạn 1996 - 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (795.97 KB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN XUÂN TÙNG

CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH KINH TẾ MYANMAR
GIAI ĐOẠN 1996 -2016

Chuyên ngành: Kinh tế học
Mã số: 83.10.10.1

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN CHIẾN THẮNG

HÀ NỘI - 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chƣơng 1 : Cơ sở lý luận về chính sách cải cách kinh tế

01
08

1.1. Khái niệm

08


1.2. Chính sách kinh tế

12

1.3. Cải cách kinh tế

18

Chƣơng 2 : Thực trạng chính sách cải cách kinh tế của
Myanmar giai đoạn 1996 - 2016
2.1. Khái quát về Myanmar

27
27

2.2. Thực trạng chính sách cải cách kinh tế ở Myanmar giai đoạn
1996 – 2016

29

Chƣơng 3: Một số đánh giá về chính sách cải cách kinh tế ở
Myanmar và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

52

3.1. Đánh giá về chính sách cải cách kinh tế ở Myanmar

52

3.2. Bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho Việt Nam


67

KẾT LUẬN

72

TÀI LIỆU THAM KHẢO

74


DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Bảng 2.1

Biến động tỷ giá giữa đồng Kyatt (MMK) với USD

50

Bảng 3.1

Một số chỉ tiêu cơ bản của Myanmar giai đoạn

53

1998 - 2005
Bảng 3.2

Top 10 các lĩnh vực đầu tư tính đến hết năm 2011


55

Bảng 3.3

Tốc độ tăng trưởng GDP của Myanmar giai đoạn

59

2013 - 2016
Bảng 3.4

Chỉ số lực lượng lao động của Myanmar giai đoạn

61

2013 - 2016
Bảng 3.5

Số liệu xuất nhập khẩu của Myanmar giai đoạn

64

2013 - 2016
Biểu đồ 3.1

Xuất nhập khẩu của Myanmar giai đoạn 2009 –

56

2011 (tỷ USD)

Biểu đồ 3.2

Tăng trưởng GDP theo ngành của Myanmar giai

60

đoạn 2013 - 2016
Biểu đồ 3.3

Phân bổ lực lượng lao động theo ngành của
Myanmar giai đoạn 2013 – 2016

61


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
AEC

Cộng đồng kinh tế ASEAN

CSTK

Chính sách tài khóa

CSTT

Chính sách tiền tệ

WEF


Diễn đàn Kinh tế thế giới

SME

Doanh nghiệp vừa và nhỏ

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

RCEP

Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

AFTA

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

NHTW

Ngân hàng Trung ương

NSNN

Ngân sách nhà nước


MOPF

Tổ chức Thống kê Trung ương trực thuộc Bộ
Kế hoạch và Tài chính Myanmar

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

GNP

Tổng sản lượng quốc gia

TGHĐ

Tỷ giá hối đoái


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Myanmar là một quốc gia đa sắc tộc và chịu sự kiểm soát chặt chẽ của
giới quân sự từ năm 1960 khiến cho nền kinh tế Myanmar trì trệ, kém phát
triển. Trải qua hàng thập kỷ ở tình trạng là nước nghèo nhất thế giới,
Myanmar được xếp vào một trong những quốc gia kém phát triển nhất năm
1987. Tuy nhiên, tình hình bắt đầu thay đổi sau sự kiện đảo chính năm 1988,
đặc biệt khi Myanmar tiến hành cải cách mở cửa từ năm 1996, thi hành bãi bỏ
chính sách tập trung hoá nền kinh tế, tự do hoá một số ngành và lĩnh vực, mở
rộng quan hệ với các nước láng giềng kết hợp với việc là một quốc gia giàu
tài nguyên thiên nhiên. Theo đó, kinh tế Myanmar có nhiều khởi sắc, từng
bước chuyển từ nền kinh tế có cơ cấu mất cân đối, phụ thuộc vào nông

nghiệp, tự cung, tự cấp sang nền kinh tế thị trường, hội nhập ngày càng sâu
rộng với nền kinh tế các nước trong khu vực. Tăng trưởng kinh tế của
Myanmar dần được cải thiện, đồng thời bước đầu thu hút được nguồn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đẩy mạnh xuất khẩu.
Myanmar và Việt Nam không chỉ là những quốc gia thành viên của
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) mà còn có cơ cấu kinh tế khá
tương đồng như thế mạnh về nguồn tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao
động dồi dào... Do vậy, việc nghiên cứu, phân tích một số chính sách cải cách
kinh tế Myanmar giai đoạn 1996 - 2016, đánh giá thành tựu đạt được, hạn
chế, tồn tại và nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm có thể áp dụng vào
quá trình phát triển cũng như hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam là hết sức
quan trọng.

1


Trong bối cảnh đó, “ Chính sách cải cách kinh tế của Myanmar giai
đoạn 1996 - 2016” được chọn làm đề tài nghiên cứu luận văn cao học, chuyên
ngành kinh tế học là có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cấp bách.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát:
Trên cơ sở lý luận về chính sách kinh tế, tổng quan, nhận diện các
chính sách cải cách kinh tế của Myanmar từ năm 1996 đến năm 2016, rút ra
bài học kinh nghiệm cho phát triển kinh tế của Việt Nam.
2.2. Mục tiêu cụ thể:
+ Hệ thống hoá cơ sở lý luận về chính sách cải cách kinh tế
+ Phân tích, đánh giá một số chính sách cải cách kinh tế của Myanmar
giai đoạn 1996 - 2016
+ Bài học kinh nghiệm cho quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam
trong giai đoạn phát triển mới.

3. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nƣớc
3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Đến nay, các công trình, bài viết của các học giả, nhà khoa học trong nước
liên quan đến chính sách cải cách kinh tế của Myanmar hầu như rất ít. Có thể
chỉ ra một số nghiên cứu như:
- Cuốn sách “Quá trình phát triển của Myanma” (năm 1997) của tác giả
Vũ Quang Thiện đề cập đến chặng đường phát triển của Liên bang Myanmar
trong giai đoạn 1948 - 1962, đồng thời trình bày một số chính sách, cũng như
những vấn đề nổi bật trong quá trình phát triển kinh tế của Myanmar. Mặc dù

2


viết về tình hình phát triển kinh tế của Myanmar trước năm 1988, nhưng đây
là tư liệu tham khảo có giá trị làm cơ sở so sánh nền kinh tế hiện nay với giai
đoạn trước đó.
- Cuốn “Myanmar: cuộc cải cách vẫn đang tiếp diễn ” của PGS. TS
Nguyễn Duy Dũng, xuất bản năm 2013 đã khái quát về tiến trình cải cách
kinh tế cũng như chính trị của Myanmar từ năm 2008 tới 2013. Đặc biệt, tác
giả đã tập trung phân tích một số khía cạnh về cơ chế, chính sách cũng như
tiến trình cải cách kinh tế của đất nước Myanamar.
- Cuốn “Mianma lịch sử và hiện tại” do Đại sứ Chu Công Phùng, chủ
biên, xuất bản năm 2011 và cuốn “Biến đổi chính trị, kinh tế ở Myanmar từ
2011 đến nay: bối cảnh, nội dung và tác động” của TS. Võ Xuân Vinh, xuất
bản năm 2013 là những công trình nghiên cứu có giá trị khoa học, giúp người
đọc hình dung được một cách khái quát về cải cách kinh tế của quốc gia này.
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu nói trên chưa phân tích cụ thể vào
vấn đề chính sách cải cách kinh tế ở Myanmar cho giai đoạn 1996 - 2016.
- Bài viết “Phương Tây từng bước dỡ bỏ lệnh trừng phạt đối với
Myanmar” và bài “Cải cách tại Myanmar mới chỉ vượt qua được thử thách

đầu tiên?”/ Tin Tham khảo thế giới, xuất bản năm 2011, cho biết việc các
nước phương Tây dần dỡ bỏ lệnh trừng phạt đối với đất nước này đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tiến trình cải cách dân chủ, đổi mới chính trị cũng như kinh
tế và những thử thách lớn trong quá trình cải cách toàn diện ở Myanmar trong
giai đoạn phát triển đã qua.
3.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước của đề tài:
Các nghiên cứu của các học giả nước ngoài về vấn đề chính sách cải
cách kinh tế Myanmar cũng chưa được đề cập nhiều. Các tài liệu đã có chỉ đề
3


cập khái quát về tình hình Myanamar, chưa phân tích cụ thể vấn đề chính sách
cải cách kinh tế của Myanmar. Một số công trình tiêu biểu như sau:
- Cuốn “Study of Economic Reformsin Selected Planned Asian Developing
Countries. Myanmar” (năm 1991) tập trung vào nghiên cứu về cải cách kinh
tế trong kế hoạch đã được lựa chọn ở các nước phát triển châu Á, đặc biệt là
cải cách kinh tế ở Myanmar với một số nội dung như: Lịch sử vấn đề; phương
sách cơ bản và cơ sở hạ tầng; sự phát triển của hệ thống kinh tế, cải cách khu
vực và sự phân quyền kinh tế ở Myanmar.
- Năm 2002, cuốn “Myanmar: facts and figures” được xuất bản, đề cập
đến những sự kiện chính, xoay quanh vấn đề chính trị, kinh tế của Myanmar
khi đất nước này đang trong quá trình cải cách về chính trị và kinh tế.
- Tác giả Myat Thein với cuốn: “Economic development of Myanmar”
(năm 2004), trình bày một số điểm nổi bật trong quá trình phát triển kinh tế
của Myanmar trong giai đoạn 1948 - 2000. Nội dung nghiên cứu được chia
làm ba giai đoạn: 1948 - 1962; 1962 - 1988 và 1988 - 2000 giúp cho người
đọc có một cái nhìn khái quát và rõ nét về quá trình phát triển kinh tế ở
Myanmar.
- Bên cạnh đó, cuốn “Financial Resources for Developmenr in Myanmar:
Lesson from Asia” của tác giả Myat Thein, và “Statistics on the Burmese

Economy: The 19th and 20th Centuries” do Teruko Saito, Lee Kin Kiong chủ
biên, đã phân tích khá rõ nét về cải cách kinh tế ở Myanmar, bao gồm các số
liệu thống kê minh chứng về tình hình tăng trưởng kinh tế trong quá trình cải
cách, từ đó rút ra một số kinh nghiệm cho phát triển kinh tế - xã hội của
Myanmar.

4


Như vậy, qua khái quát hoá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài,
có thể nói đến nay chưa có nhiều công trình trong và ngoài nước nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề chính sách cải cách kinh tế ở Myanmar, đặc biệt là
trong giai đoạn 1996 - 2016. Vì thế, việc nghiên cứu cụ thể về chính sách cải
cách kinh tế ở Myanmar trong giai đoạn này là hết sức cần thiết, giúp hiểu rõ
hơn chính sách cải cách kinh tế của Myanmar nhằm tăng cường hợp tác cũng
như rút ra bài học kinh nghiệm để Việt Nam có thể tham khảo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu chính sách cải cách kinh tế của Myanmar giai đoạn 1996 2016.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Nghiên cứu chính sách cải cách kinh tế của Myanmar
giai đoạn 1996 - 2016, rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong thời
gian tới.
- Về không gian: Chính sách cải cách kinh tế ở Myanmar.
- Về thời gian: Phân tích, đánh giá chính sách cải cách kinh tế của
Myanmar giai đoạn 1996 - 2016, tập trung vào giai đoạn 2012 - 2016.
5. Cách tiếp cận, phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
5.1. Cách tiếp cận:
Đề tài sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu khoa học xã hội trong quá trình
phân tích, đánh giá, tiếp cận hệ thống kinh tế, chính trị của Myanmar trong

giai đoạn 1996 - 2016.
5


5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong
đó chủ yếu là phương pháp định tính, phương pháp thống kê, so sánh, trao đổi
với chuyên gia và các phương pháp nghiên cứu liên ngành của khoa học xã
hội khác, cụ thể như sau:
- Phương pháp nghiên cứu định tính: Với cấu trúc chặt chẽ, khả năng
giải thích rõ ràng, hướng đến việc xây dựng giả thuyết và giải thích nội dung
nghiên cứu về cải cách kinh tế của Myanmar trong giai đoạn 1996 - 2016.
Đồng thời, phương pháp này được sử dụng để giới hạn quy trình nghiên cứu
một cách hệ thống hoặc thông qua việc thu thập những bằng chứng có thể
cung cấp chỉ những phát hiện chưa rõ trong giai đoạn trước, cũng như chỉ ra
những phát hiện mới ngoài giới hạn của chủ đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu: trên cơ sở thu thập các
tài liệu liên quan đến kinh tế, chính sách cải cách kinh tế của Myanmar trong
giai đoạn trước và trong giai đoạn nghiên cứu từ các xuất bản phẩm, công
trình nghiên cứu ở trong và ngoài nước, báo cáo đánh giá, khảo sát của các đề
tài đã thực hiện, số liệu đánh giá của các tổ chức quốc tế về nội dung nghiên
cứu. Theo đó, sử dụng quy trình xử lý tài liệu và mô tả phân tích theo các tiêu
chí và yêu cầu của nội dung nghiên cứu, đảm bảo tính toàn diện, hệ thống và
liên ngành khi xử lý các tài liệu thu thập được góp phần minh chứng các nội
dung liên quan đến nghiên cứu, đánh giá chính sách cải cách kinh tế của
Myanmar.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Hệ thống hóa và làm rõ cơ sở lý luận về cải cách
kinh tế, chính sách cải cách kinh tế.


6


- Ý nghĩa thực tiễn: Đánh giá thực trạng chính sách cải cách kinh tế ở
Myanmar giai đoạn 1996 - 2016, từ đó rút ra một số bài học kinh nghiệm có
thể áp dụng cho quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn
mới.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chính sách cải cách kinh tế
Chương 2: Thực trạng chính sách cải cách kinh tế của Myanamar giai
đoạn 1996 - 2016.
Chương 3: Một số đánh giá về chính sách cải cách kinh tế ở Myanmar
và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

7


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH KINH TẾ
1.1. Khái niệm
1.1.1. Khái niệm chính sách
Từ các góc độ tiếp cận khác nhau, cho đến nay, xuất hiện nhiều quan
niệm khác nhau về “chính sách”, theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, chính
sách được hiểu là “những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ;
được thực hiện trong thời gian nhất định, trên một lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản
chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc tính chất của đường
lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…” [ 13, tr. 599].
Cần nhấn mạnh rằng để đưa ra được những chính sách đúng thì mỗi

quốc gia cần căn cứ vào tình hình thực tiễn trong từng lĩnh vực, từng giai
đoạn cũng như phải giữ vững mục tiêu, phương hướng được xác định trong
đường lối, nhiệm vụ chung, đồng thời phải linh hoạt vận dụng vào hoàn cảnh
và điều kiện cụ thể.
1.1.2. Khái niệm chính sách kinh tế
Chính sách kinh tế của Nhà nước được tiếp cận theo nghĩa Nhà nước
đưa ra các quyết định can thiệp hoặc không can thiệp vào nền kinh tế thị
trường nhằm thực hiện một hoặc một số mục tiêu mong muốn nào đó. Nói
cách khác, chính sách kinh tế, theo Từ điển Bách khoa Việt Nam là “chính
sách và biện pháp kinh tế mà nhà nước áp dụng trong một giai đoạn, một thời
kỳ lịch sử, nhằm đạt được những yêu cầu và mục tiêu kinh tế, chính trị nhất
định. Chính sách có thể mang tính chất đường lối, chiến lược lâu dài, có thể
mang tính chất sách lược ngắn hạn. Chính sách kinh tế được xây dựng trên cơ

8


sở những điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước và xu hướng phát triển của
xã hội” [13, tr. 601].
Hệ công cụ và cơ chế tác động của chính sách kinh tế của nhà nước là
các phương tiện mà cơ quan quản lý kinh tế của Nhà nước sử dụng để tác
động vào nền kinh tế, hướng các hoạt động kinh tế đến các mục tiêu mà chủ
thể chính sách mong muốn. Hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách phụ thuộc
vào hiệu lực, hiệu quả tác động của hệ công cụ mà chính sách sử dụng.
Khi bàn về chính sách kinh tế của Nhà nước, cần làm rõ các yếu tố: chủ
thể của chính sách, đối tượng tác động của chính sách, mục tiêu của chính
sách và bộ công cụ của chính sách. Cụ thể như sau:
Chủ thể của chính sách kinh tế là các cơ quan quản lý kinh tế của Nhà
nước. Trong điều kiện kinh tế thị trường, một số cơ quan Nhà nước, trong
phạm vi quyền hạn được ban hành chính sách kinh tế: Quốc hội, Chính phủ

và chính quyền địa phương (Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân các cấp).
Trong đó, Quốc hội ban hành các chính sách kinh tế có phạm vi thực hiện
trong cả nước, liên quan đến các vấn đề quốc kế, dân sinh như các luật kinh
tế, các chính sách thu, chi của chính phủ, các quyết định về hợp tác kinh tế
quốc tế ở tầm quốc gia… Chính phủ ban hành các chính sách thực thi luật,
nghị quyết của Quốc hội và tổ chức thực hiện các chính sách đó. Chính quyền
địa phương ban hành các chính sách cụ thể hóa luật và chính sách của Chính
phủ và tổ chức thực hiện chính sách phù hợp với địa phương.
Đối tượng chịu tác động chính sách kinh tế của Nhà nước là người tiêu
dùng và người sản xuất, trong đó đối tượng thụ hưởng là những người, tổ
chức được lợi từ chính sách; còn đối tượng chịu ảnh hưởng là những người, tổ
chức bị thiệt từ chính sách. Chính sách kinh tế của Nhà nước phải thông qua
hành vi của doanh nghiệp và người tiêu dùng mới phát huy tác dụng trong nền
9


kinh tế thị trường. Nếu chính sách kinh tế gây thiệt hại tới lợi ích của người
sản xuất và người tiêu dùng thì sẽ gặp phải phản ứng chống đối của họ.
Mục tiêu của chính sách kinh tế của Nhà nước nhằm duy trì trạng thái vĩ
mô ổn định (ổn định thị trường, kiềm chế lạm phát, cân đối tích cực ngân sách
Nhà nước, kiểm soát cán cân thanh toán quốc tế trong giới hạn an toàn…),
phát triển kinh tế bền vững (tốc độ tăng trưởng phù hợp, hình thành cơ cấu
nền kinh tế hiệu quả, bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng sống của người
dân), công bằng (giảm phân phối bất công bằng). Mỗi chính sách có thể có
một hoặc một số mục tiêu được cụ thể hóa thành hệ thống chỉ tiêu.
Mỗi quốc gia đều có những chính sách kinh tế khác nhau, yêu cầu đặt
ra là đảm bảo phù hợp với điều kiện cụ thể và mục tiêu phát triển của mình.
Ví dụ đối với nước ta, chính sách kinh tế của nhà nước là xây dựng nền kinh
tế sản xuất hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, với mục đích xây dựng một nền kinh tế phát triển với

cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ hợp lý, hợp tác kinh tế quốc tế,
xây dựng nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.1.3. Khái niệm chính sách cải cách kinh tế
Cải cách kinh tế, theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, được hiểu là “ …sự
thay đổi trong nền kinh tế quốc dân trên cơ sở quan điểm, đường lối, chính
sách đổi mới nhằm giải quyết mâu thuẫn trong từng thời kỳ giữa yêu cầu phát
triển của lực lượng sản xuất một cách năng động với tình trạng lạc hậu của
các quan hệ sản xuất và của những hình thức tổ chức và cơ chế quản lý”. [13,
tr. 336].
Trong lịch sử phát triển đất nước nói chung, phát triển kinh tế nói riêng
của các quốc gia, ứng với mỗi thời kỳ nhất định, phụ thuộc vào bối cảnh quốc
tế và trong nước, chính phủ các nước thường đề ra các chủ trương, chính sách
10


phù hợp nhằm đổi mới cơ cấu kinh tế, đưa nền kinh tế từ lạc hậu, chậm phát
triển sang phát triển một cách có hiệu quả và bền vững. Ví dụ, cuối những
năm 1970, Trung Quốc đã tiến hành công cuộc cải cách mở cửa nền kinh tế từ
thực hiện cơ chế kế hoạch tập trung đưa nền kinh tế trở thành một trong
những nền kinh tế hàng đầu thế giới; còn ở Việt Nam, cũng giống như Trung
Quốc, từ thực hiện mô hình kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân, nhưng từ Đại
hội lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam (năm 1986) công cuộc đổi mới
kinh tế được bắt đầu nhằm mục tiêu thay đổi cơ cấu kinh tế phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội trong nước và quan hệ quốc tế, thay đổi cơ chế tổ chức
quản lý kinh tế xã hội, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
chuyển từ cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu và bao cấp sang cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kết
hợp chặt chẽ đổi mới chủ trương, chính sách kinh tế, tổ chức quản lý nhà
nước ở tầm vĩ mô trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế khách quan của
nền kinh tế hàng hoá, phát huy hết các mặt tích cực, hạn chế các nhân tố tiêu

cực của kinh tế thị trường; đổi mới cơ chế kinh tế, tổ chức ở tầm vi mô, phát
huy triệt để vai trò chủ động, khả năng tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, tự
chủ về tài chính. Kết hợp cải cách kinh tế với cải cách hành chính và đổi mới
tổ chức và phương thức hoạt động của hệ t hống chính trị. Những phương
hướng đó đã thu được thành tựu nổi bật, khắc phục tình trạng sản xuất trì trệ
và khủng hoảng kinh tế, kiềm chế lạm phát, giải phóng mọi năng lực sản xuất
tạo ra nhịp độ phát triển kinh tế xã hội cao, cải thiện một bước đời sống nhân
dân về vật chất cũng như tinh thần [13, tr. 337].
Như vậy, từ khái niệm về chính sách kinh tế cũng như cải cách kinh tế
có thể hiểu chính sách cải cách kinh tế là việc đề ra các quan điểm chủ
trương, chính sách đổi mới của Nhà nước nhằm giải quyết những bất hợp lý
trong phát triển kinh tế đất nước với cơ cấu kinh tế, hình thức tổ chức và cơ
11


chế quản lý phù hợp với từng giai đoạn nhất định, đáp ứng đòi hỏi trong bối
cảnh trong nước và quốc tế mới, mang lại hiệu quả thiết thực cho quốc gia,
dân tộc.
1.2. Chính sách kinh tế
1.2.1. Vai trò của chính sách kinh tế
- Chính sách kinh tế là bộ công cụ quản lý của Nhà nước phù hợp với
nền kinh tế thị trường. Về cơ bản, chính sách kinh tế sử dụng các công cụ của
thị trường để điều tiết hành vi của các chủ thể kinh tế. Chính sách kinh tế, một
mặt, tạo các điều kiện cho phép thị trường hoạt động hiệu quả, mặt khác, bổ
sung cơ chế điều tiết của Nhà nước trong các lĩnh vực thị trường bất lực. Với
cách hành xử như vậy, chính sách kinh tế của Nhà nước có khả năng thích
ứng với các quan hệ thị trường.
- Chính sách kinh tế là bộ công cụ quản lý tổng hợp giúp Nhà nước thực
hiện thành công các mục tiêu rộng lớn, phức tạp, trong khuôn khổ thời gian
và nguồn lực có hạn. Ngày nay, khoa học kỹ thuật và công nghệ quản lý

chương trình mục tiêu cho phép các cơ quan Nhà nước hoạch định các
chương trình dài hạn trên cơ sở tính toán khoa học các nguồn lực đầu vào
(vốn, nhân lực, tài nguyên, thời gian), các phương thức hành động (giải pháp,
tổ chức quản lý) và các đầu ra dự kiến tương đối chính xác (mục tiêu). Thông
qua xây dựng và thực hiện chính sách kinh tế, Nhà nước có thể can thiệp một
cách chủ động vào nền kinh tế với hiệu quả và mức độ thành công khá cao.
Hơn nữa, chính sách kinh tế là một chương trình hành động có hệ thống, có
cân nhắc, nhất quán theo thời gian để hướng tới các mục tiêu, kết hợp tính
ngắn hạn với tính dài hạn. Quản lý nền kinh tế bằng chính sách, các cơ quan
Nhà nước có thể lựa chọn các phương án hành động tối ưu, cân đối giữa

12


nguồn lực hạn chế và mục tiêu lựa chọn để có thể vận dụng các thành tựu
khoa học vào quản lý hiệu quả nền kinh tế quốc dân.
- Chính sách kinh tế của Nhà nước cho phép các chủ thể kinh tế khác
có thể linh hoạt, tự chủ trong các quyết định sản xuất tiêu dùng của họ. Tính
chất có thể thay đổi linh hoạt và tác động kích thích lợi ích của chính sách
kinh tế cho phép các chủ thể kinh tế hoạt động tự chủ. Với chính sách kinh tế,
Nhà nước có thể hướng các gia đình và doanh nghiệp hoạt động phù hợp với
mục tiêu Nhà nước mong muốn mà không cần can thiệp vào các quyết định
cụ thể của họ.
- Chính sách kinh tế là một công cụ quản lý cho phép Nhà nước hành
động thích ứng với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự dung hòa các chính
sách kinh tế quốc gia theo hướng hợp tác phát triển và cùng có lợi là một
trong những con đường để có thể thực hiện quá trình hội nhập quốc tế hiệu
quả. Chính sách kinh tế, do phù hợp với thông lệ kinh tế thị trường chung cho
toàn thế giới, nên tạo điều kiện cho các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau
có thể hợp tác với nhau để tồn tại hòa bình và phát triển. Ngoài ra, chính sách

kinh tế cũng là căn cứ để các nước có thể đàm phán các hoạt động hợp tác
kinh tế với nhau.
1.2.2. Hệ thống chính sách kinh tế
1.2.2.1. Chính sách kinh tế vĩ mô
Chính sách kinh tế vĩ mô (hoặc chính sách quản lý tổng cầu) được hiểu
là các chính sách kinh tế nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ mô và đạt trạng
thái toàn dụng lao động, gồm chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Mục
tiêu chủ yếu của chính sách này bao gồm: i) Ổn định kinh tế. Đây là kết quả
của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh tế cấp bách, làm giảm bớt giao động
của chu kỳ kinh doanh để tránh lạm phát cao và thất nghiệp nhiều. Nhược
13


điểm lớn nhất của nền kinh tế thị trường là tự động tạo ra các chu kỳ kinh
doanh (sản lượng thực tế giao động lên xuống xoay quanh trục sản lượng tiềm
năng), nền kinh tế luôn luôn có xu hướng không ổn định. Khi nền kinh tế ở
trạng thái mức sản lượng thực tế cao hơn sản lượng tiềm năng thì đi kèm theo
nó là mức thất nghiệp thấp, lạm phát cao và ngược lại. Khoảng cách giữa mức
sản lượng thực tế và sản lượng tiềm năng được gọi là chênh lệch sản lượng,
chênh lệch này càng lớn thì hai thái cực thất nghiệp và lạm phát càng nghiêm
trọng. Vì vậy, muốn ổn định cần duy trì sản lượng ở mức sản lượng tiềm năng
để tránh được tình trạng lạm phát cao và thất nghiệp nhiều. ii) Tăng trưởng,
chính là tốc độ tăng sản lượng của nền kinh tế đạt được mức cao nhất. Một
nền kinh tế phát triển ổn định chưa chắc đã có được một tốc độ tăng trưởng
nhanh. Một quốc gia có tốc độ tăng trưởng chậm thì có nguy cơ tụt hậu và nếu
tăng trưởng nhanh thì có thể có khả năng đuổi kịp và vượt các quốc gia đi
trước. Vì vậy sau mục tiêu ổn định là mục tiêu tăng trưởng. Vấn đề đặt ra là
muốn có được tăng trưởng thì cần có chính sách thúc đẩy quá trình tạo vốn,
tăng năng suất lao động nhằm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế và tăng
nhanh sản lượng tiềm năng [9, tr.12].

Ngoài ra, khi đo lường mức độ thành công của một nền kinh tế, có thể
căn cứ vào một số chỉ tiêu kinh tế chính như: Thứ nhất, mức sản lượng quốc
dân cao và không ngừng tăng. Mục tiêu cuối cùng của hoạt động kinh tế là
cung cấp hàng hoá và dịch vụ mà người dân mong muốn. Thước đo toàn diện
nhất của tổng sản lượng trong một nền kinh tế là tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) - là thước đo theo giá thị trường tất cả các hàng hoá và dịch vụ cuối
cùng được sản xuất ra tại một nước trong một năm. Có hai chỉ tiêu GDP: i)
GDP danh nghĩa xác định theo giá thị trường năm hiện hành; và ii) GDP thực
tế xác định theo giá thị trường năm gốc hay giá cố định. Thứ hai, việc làm
nhiều và thất nghiệp thấp. Thực tế ngày nay cho thấy mục tiêu đảm bảo việc
14


làm đầy đủ cho tất cả mọi người lao động thật khó mà thực hiện được bởi tỷ
lệ công ăn việc làm cao không đơn thuần là một mục tiêu kinh tế. Thứ ba, ổn
định giá cả [9, tr.17]. Trên thị trường tự do, giá cả được xác định bởi quy luật
cung cầu trong một mức độ lớn nhất có thể được và chính phủ tránh không
kiểm soát giá cả của từng mặt hàng riêng lẻ. Đồng thời, ngăn chặn không cho
mức giá chung lên xuống quá nhanh vì sự thay đổi đột ngột của giá sẽ bóp
méo các quyết định kinh tế của các hãng và cá nhân. Thước đo phổ biến nhất
của mức giá chung là chỉ số giá tiêu dùng (viết tắt là CPI). Sự thay đổi trong
mức giá gọi là tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ này ghi nhận tốc độ tăng (giảm) của mức
giá từ năm này sang năm khác. Hầu hết các quốc gia đều tìm kiếm một cách
dung hoà hợp lý giữa việc định giá theo thị trường tự do với xu hướng tăng
dần của giá cả. Muốn thực hiện được mục tiêu đề ra, chính phủ thường có
những công cụ nhất định, trong đó, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
được coi là quan trọng nhất.
1.2.2.2. Chính sách kinh tế đối ngoại:
Đây được coi là hệ thống các quan điểm, mục tiêu, nguyên tắc, công cụ
và biện pháp do nhà nước hoạch định và thực hiện để điều chỉnh hoạt động

kinh tế đối ngoại của quốc gia trong một thời gian nhất định nhằm đạt được
các mục tiêu phát triển đó [45]. Với 3 chức năng chính: i) Kích thích: tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường ra nước
ngoài, tham gia chủ động và mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế và
mậu dịch quốc tế, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước,
thu hút ngày càng nhiều các nguồn lực từ bên ngoài như vốn, công nghệ và
trình độ quản lý tiên tiến nhằm phát triển kinh tế quốc dân; ii) Bảo hộ: tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có khả năng đứng vững và vươn
lên trong các hoạt động kinh doanh quốc tế, tăng cường sức cạnh tranh với

15


các hàng hóa dịch vụ từ bên ngoài vào, tạo thêm việc làm và đạt tới quy mô
tối ưu cho các ngành kinh tế, đáp ứng cho yêu cầu tăng cường lợi ích quốc
gia; iii) Phối hợp và điều chỉnh: tạo điều kiện cho nền kinh tế trong nước
thích ứng với sự biến đổi và vận động mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, tham
gia tích cực vào quá trình khu vực hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới,
thiết lập cơ chế điều chỉnh thích hợp trong điều kiện tỷ giá hối đoái thường
xuyên thay đổi, tác động vào cán cân thanh toán quốc tế theo chiều hướng có
lợi cho mỗi quốc gia.
Cần thấy rằng chính sách này giữ vai trò rất quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội đất nước, cụ thể là: i) Tạo cơ hội việc phân phối và sử dụng
hợp lý các nguồn lực trong nước và thu hút nguồn lực ngoài nước vào việc
phát triển các ngành và các lĩnh vực có hiệu quả cao của nền kinh tế quốc dân,
khắc phục tình trạng thiếu các nguồn lực cho sự phát triển, đồng thời tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp trong nước vươn ra thị trường thế giới; ii) Tạo khả
năng cho việc phát triển nhân công lao động quốc tế: giữa các doanh nghiệp
trong nước và nước ngoài, bảo đảm đầu vào và đầu ra cho nền kinh tế một
cách ổn định và phù hợp, tạo thuận lợi cho việc hình thành các tập đoàn kinh

doanh tầm cỡ quốc gia. Hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới; iii)
Phục vụ cho việc xây dựng các ngành công nghiệp mới có trình độ công
nghiệp cao, phát triển các hình thức kinh doanh đa dạng và phong phú, tạo lập
các khu vực có hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân, góp phần tăng nhanh GDP
cũng như tăng nhanh tích lũy và tiêu dùng; iv) Góp phần vào việc tăng cường
sức mạnh và tiềm lực quốc phòng an ninh, phát triển quan hệ về kinh tế, chính
trị, ngoại giao, khoa học công nghệ giữa các quốc gia và các dân tộc trên cơ
sở độc lập, bình đẳng giữ vững chủ quyền và các bên cùng có lợi.

16


Chính sách kinh tế đối ngoại gồm một số chính sách chủ yếu như: Chính
sách thương mại quốc tế, chính sách đầu tư quốc tế, chính sách tỷ giá hối
đoái.
1.2.2.3. Chính sách điều tiết hoạt động kinh tế
Mục tiêu của chính sách này là điều chỉnh các hoạt động kinh tế vì
những lý do nhất định, chẳng hạn như bảo hộ cho doanh nghiệp nhà nước hay
chống độc quyền, bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng. Chính sách này bao
gồm các biện pháp hành chính như hệ thống luật và quy định, hoặc các biện
pháp kinh tế dựa vào lãi suất, thuế, thuế quan,…
1.2.2.4. Chính sách phát triển kinh tế
Chính sách này bao gồm tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp
và các công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế - xã
hội nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định trên lĩnh vực kinh tế [9]. Chính
sách phát triển kinh tế có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng cho
việc hướng dẫn, sử dụng và tận dụng các nguồn lực: nhân tài, vật lực, vốn,
môi trường, điều kiện quốc tế… với chức năng chính là kích thích sự phát
triển và chức năng điều tiết nền kinh tế.
1.2.3. Phân loại chính sách kinh tế

Chính sách kinh tế thường được xét theo thời gian phát huy hiệu lực và
cấp độ chính sách, trong đó:
1.2.3.1.Xét theo thời gian phát huy hiệu lực
- Chính sách dài hạn được áp dụng lâu dài nhằm thực hiện những mục
tiêu chiến lược, dài hạn của đất nước. Ví dụ, ở Việt Nam, một trong những
chính sách dài hạn là chính sách phát triển các thành phần kinh tế, chính sách

17


này có tác dụng khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, yên tâm đầu
tư để phát triển sản xuất kinh doanh lâu dài, làm giàu cho bản thân và cho xã
hội.
- Chính sách trung hạn có hiệu lực trong khoảng thời gian từ 3-7 năm.
Chính sách này tập trung vào những vấn đề có ảnh hưởng không nhỏ đến đời
sống kinh tế - xã hội, nhưng có thể giải quyết trong một thời gian nhất định.
Những chính sách loại này có thể là chính sách chống lạm phát, chính sách
chống suy thoái kinh tế…
- Chính sách ngắn hạn được áp dụng trong khoảng thời gian không lâu
(dưới ba năm) nhằm vào những vấn đề có thể giải quyết tương đối nhanh
chóng. Các chính sách ngắn hạn có thể là chính sách ổn định tỷ giá hối đoái,
chính sách kiểm soát chặt chẽ các ngân hàng cổ phần, chính sách áp dụng
mức giá trần đối với thu mua nông sản….
1.2.3.2. Xét theo cấp độ chính sách
Cấp độ chính sách phụ thuộc vào chủ thể quyết định chính sách, cụ thể:
i) Chính sách quốc gia do Quốc hội quyết định; ii) Chính sách của Chính phủ;
và iii) Chính sách của địa phương.
1.3. Cải cách kinh tế
1.3.1. Nội dung cải cách kinh tế
1.3.1.1. Tự do hóa

- Tự do hóa thương mại: là quá trình loại bỏ từng bước giảm dần và tiến tới
xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan như thuế, giấy phép xuất nhập
khẩu, quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, yêu cầu kiểm dịch, phương
pháp đánh thuế… giữa các quốc gia.

18


Nhà nước áp dụng các biện pháp cần thiết để từng bước giảm thiểu những
trở ngại trong hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong quan hệ mậu dịch
quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc phát triển các hoạt động
thương mại quốc tế cả về bề rộng và chiều sâu [24, tr.2]. Tự do hóa thương
mại nhằm thực hiện việc mở rộng quy mô xuất khẩu của mỗi nước cũng như
đạt tới điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động nhập khẩu, mở cửa để hàng hóa,
công nghệ nước ngoài dễ dàng xâm nhập vào thị trường nội địa. Cách thức để
thực hiện tự do hóa thương mại bao gồm việc nới lỏng dần dần và đi tới xóa
bỏ các rào cản về thương mại, các công cụ bảo hộ mậu dịch đã và đang tồn tại
trong thương mại quốc tế trên cơ sở thỏa thuận song phương và đa phương
giữa các quốc gia.
- Tự do hóa tỷ giá: cho phép tỷ giá được tự xác định trên thị trường. Khái
niệm này được hình thành trong quá trình tự do hóa tài chính bởi trong bối
cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, tự do hóa tài chính là một trong những tiền đề
quan trọng trong việc hội nhập quốc tế. Thông qua tự do hóa tài chính, các
quốc gia dần từ bỏ việc kiểm soát chặt chẽ tỷ giá, tăng sức cạnh tranh của
đồng nội tệ.
Tự do hóa tỷ giá thể hiện thông qua việc bỏ ấn định tỷ giá, các biện
pháp quản lý hành chính về ngoại tệ được loại bỏ và sử dụng các công cụ
mang tính thị trường, xác định tỷ giá dựa trên cơ sở cung cầu ngoại tệ. Bên
cạnh những lợi thế do tự do hóa tỷ giá đem lại cho các quốc gia như trở thành
công cụ để thực hiện mục tiêu kinh tế vĩ mô, giúp nền kinh tế vượt qua những

trở ngại khi cố định tỷ giá cũng như ổn định đồng tiền trước những biến động
tỷ giá giữa các đồng tiền mạnh, có ảnh hưởng lớn trên thế giới,… thì việc tự
do tỷ giá cũng tiềm ẩn những bất ổn tác động tiêu cực tới việc hội nhập kinh
tế quốc tế đặc biệt đối với các nền kinh tế đang phát triển.

19


- Thành phần kinh tế: Theo Mác - Lênin, thành phần kinh tế là „những
mảnh, những bộ phận" của một kết cấu kinh tế xã hội [8, tr.15]. Nói cách
khác, thành phần kinh tế là một kiểu quan hệ kinh tế được hình thành trên cơ
sở hình thức sở hữu này hay hình thức sở hữu khác. Nền kinh tế của bất kỳ
quốc gia nào cũng có thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế tư
nhân cũng như đồng thời diễn ra cả quá trình tư nhân hóa lẫn nhà nước hóa.
Cả hai thành phần này không chỉ là động lực cho sự tăng trưởng nhanh và bền
vững của nền kinh tế thị trường mà còn đan xen, tác động lẫn nhau và cùng
chịu sự quản lý chặt chẽ của nhà nước. Ngoài ra, sự thành công của mỗi quốc
gia trong việc phát triển kinh tế đều thuộc phạm vi hợp lý của hai thành phần
này, nếu vi phạm mức độ hợp lý trên sẽ dẫn đến nền kinh tế bị trì trệ, chậm
phát triển, thậm chí khủng hoảng.
Kinh tế nhà nước gồm các doanh nghiệp nhà nước, kết cấu hạ tầng,
ngân hàng nhà nước, ngân sách, các công trình trong lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật,… Trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, kinh tế nhà nước nắm giữ những ngành, lĩnh vực then chốt trong nền
kinh tế. Kinh tế nhà nước không chỉ bao gồm các xí nghiệp quốc doanh, các
doanh nghiệp kinh doanh của nhà nước mà còn có rất nhiều hoạt động dịch vụ
như: y tế, quốc phòng, an ninh,… [46]. Nhà nước có vai trò vô cùng quan
trọng trong việc đảm nhiệm và định hướng cho nền kinh tế phát triển, đảm
bảo sự ổn định tăng trưởng, hiệu quả và công bằng. Kinh tế nhà nước có 4
chức năng chính: i) Tạo tiền đề vững chắc cho sự ổn định, tăng trưởng nhanh

và bền vững, công bằng và hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế trong quá trình
chuyển sang nền kinh tế thị trường; ii) Thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị
trường trong nông nghiệp và nông thôn, góp phần giải phóng sức lao động xã
hội trong nông nghiệp và nông thôn, tạo thêm nhiều việc làm mới; iii) Nâng
cấp và xây dựng mới hệ thống kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển của
20


nền kinh tế nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; và iv) Thu hút và
sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư hợp tác với nước ngoài.
Kinh tế tư nhân là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
của một quốc gia. Phát triển kinh tế tư nhân là chiến lược lâu dài trong nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự phát triển của khu vực kinh tế tư
nhân góp phần không nhỏ trong quá trình phát triển của đất nước bởi kinh tế
tư nhân giải quyết nhu cầu việc làm, cải thiện đời sống của người dân cũng
như tăng thu cho ngân sách của quốc gia. Kinh tế tư nhân được cấu thành từ 3
bộ phận: Kinh tế cá thể (cá nhân, gia đình); kinh tế tiểu chủ; kinh tế tư bản tư
nhân [8, tr.12]. Kinh tế tư nhân có thể kinh doanh trong hầu hết các lĩnh vực
trong nền kinh tế, ngoại trừ một số ít lĩnh vực mà Nhà nước giữ độc quyền
nhằm đảm bảo an ninh và quốc phòng. Kinh tế tư nhân góp phần quan trọng
tạo ra thành tựu tăng trưởng kinh tế nói chung, đồng thời là lĩnh vực chính thu
hút lao động xã hội và huy động các nguồn lực trong dân cư vào phát triển
kinh tế.
1.3.1.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh
- Thứ nhất, cải thiện môi trường đầu tư. Môi trường đầu tư được hiểu là
tập hợp các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Môi
trường đầu tư gồm các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tự nhiên,
công nghệ. Một môi trường đầu tư tốt không chỉ khuyến khích các doanh
nghiệp đầu tư, giảm thấp chi phí và rủi ro mà còn mang lại lợi nhuận cao cho
doanh nghiệp cũng như nâng cao hiệu quả hoạt động trên phạm vi toàn xã hội.

Để có một môi trường đầu tư thực sự hấp dẫn, có sức cạnh tranh so với các
quốc gia khác, không những chỉ đòi hỏi mỗi quốc gia phải giữ vững ổn định
chính trị, kinh tế, an toàn xã hội, mà còn phải nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, khắc phục những yếu kém về kết cấu hạ tầng, xóa bỏ các rào cản về

21


×