Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

SKKN một số biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.11 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Phần I: Đặt vấn đề……………………………………………………… 2
Phần II: Giải quyết vấn đề……………………………………………… 4
1. Cơ sở lý luận…………………………………………………………. 4
2. Thực trạng của việc giải toán có lời văn……………………………… 5
3. Các biện pháp giải quyết vấn đề……………………………………… 6
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm……………………………….. 14
Phần III: Kết luận ……………………………………………………… 15
Tài liệu tham khảo……………………………………………………… 16

1


PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong dạy - học toán ở tiểu học, việc giải toán có lời văn chiếm một vị
trí quan trọng. Trong giải toán, học sinh phải tư duy một cách tích cực và
linh hoạt, huy động tích cực các kiến thức và khả năng đã có vào những tình
huống khác nhau. Trong nhiều trường hợp, phải biết phát hiện những dữ kiện
hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường tận và trong chừng mực nào
đó, phải biết suy nghĩ năng động, sáng tạo. Vì vậy có thể coi giải toán có lời
văn là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ ở học
sinh .
Ở học sinh lớp 5, kiến thức toán đối với các em không còn mới lạ, khả
năng nhận thức của các em đã được hình thành và phát triển ở các lớp trước,
tư duy đã bắt đầu có chiều hướng bền vững và đang ở giai đoạn phát triển.
Vốn sống, vốn hiểu biết thực tế đã bước đầu có những kỹ năng nhất định.
Tuy nhiên trình độ nhận thức của các em không đồng đều, yêu cầu đặt ra khi


giải các bài toán có lời văn cao hơn những lớp trước, các em phải đọc nhiều
hơn, viết nhiều hơn, bài làm phải chính xác với từng phép tính, với từng lời
giải theo các yêu cầu của bài toán đưa ra. Nên các em thường vướng mắc
đến vấn đề trình bày bài giải: sai sót do viết không đúng chính tả hoặc viết
thiếu, viết thừa từ ngữ. Một sai sót đáng kể khác là các em thường không chú
ý đến việc phân tích theo các điều kiện của bài toán, nên đã lựa chọn sai lời
giải và phép tính .
Để thực hiện tốt mục tiêu đó, thì người dạy phải nghiên cứu, tìm biện
pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng,
hiểu sâu được bản chất của vấn đề cần tìm, mặt khác giúp các em có phương
pháp suy luận toán lôgic thông qua cách trình bày: lời giải đúng, ngắn gọn,
sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em có hứng thú, say mê học
toán. Từ những vấn đề trên tôi đã chọn nội dung để nghiên cứu “ Một số
biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5”.

2


PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận
Giải toán là một thành phần quan trọng trong chương trình giảng dạy
môn toán ở bậc tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu
cơ với nội dung của số học, số tự nhiên, các số thập phân, các đại lượng cơ
bản và các yếu tố đại số, hình học có trong chương trình. Vì vậy, việc giải
toán có lời văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các điểm sau :
a) Các khái niệm và các quy tắc về toán trong sách giáo khoa, nói chung
đều được giảng dạy thông qua việc giải toán. Việc giải toán giúp học sinh
củng cố, vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán. Đồng thời qua
việc giải toán của học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những ưu
điểm hoặc thiếu sót của các em về kiến thức, kỹ năng và tư duy để giúp các

em khắc phục và phát huy .
b) Việc kết hợp học với hành, kết hợp giảng dạy với đời sống được thực
hiện thông qua việc cho học sinh giải toán, các bài toán liên hệ với cuộc sống
một cách thích hợp giúp học sinh hình thành và rèn luyện những kỹ năng
thực hành cần thiết trong đời sống hàng ngày, giúp các em biết vận dụng
những kỹ năng đó trong cuộc sống.
c) Việc giải toán góp phần quan trọng trong việc xây dựng cho học sinh
những cơ sở ban đầu của lòng yêu nước, thế giới quan duy vật biện chứng:
Việc giải toán với những đề tài thích hợp, có thể giới thiệu cho các em những
thành tựu trong công cuộc xây dựng đất nước, góp phần giáo dục các em ý
thức bảo vệ môi trường, phát triển dân số có kế hoạch v.v... Việc giải toán
còn có thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học, ví dụ: các số,
các phép tính, các đại lượng v.v... đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện
thực, trong hoạt động của con người, thấy được các mối quan hệ giữa các dữ
kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm v.v..

3


d) Việc giải toán góp phần quan trọng vào việc rèn luyện cho học sinh
năng lực tư duy và những đức tính tốt của người lao động mới. Khi giải một
bài toán, tư duy của học sinh phải hoạt động một cách tích cực vì các em cần
phân biệt cái gì đã cho và cái gì cần tìm, để các em thiết lập mối liên hệ giữa
các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Để từ đó các em suy luận, nêu ra
những phán đoán, rút ra những kết luận, thực hiện những phép tính cần thiết
để giải quyết vấn đề đặt ra v.v... Hoạt động trí tuệ có trong việc giải toán góp
phần giáo dục cho các em ý chí vượt khó, đức tính cẩn thận, làm việc có kế
hoạch, thói quen xem xét có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc
mình làm sau khi đã hoàn tất, sự độc lập suy nghĩ và sự sáng tạo v.v...
2. Thực trạng của việc giải toán có lời văn

Chương trình toán của lớp 5 phong phú và đa dạng hơn trong hệ thống
chương trình toán ở các lớp dưới. Mỗi đề bài có kênh chữ nhiều hơn, lắt léo
hơn, phần đã cho và phần phải tìm cũng nhiều hơn, đa dạng hơn, các quan hệ
toán học cũng phức tạp hơn. Vì thế để giải được bài toán đòi hỏi học sinh
phải động não nhiều hơn, phải biết vận dụng nhiều kiến thức, nhiều phương
pháp đã học cùng lúc .
Trong khi đó, phần lớn ở độ tuổi này các em học sinh còn ham chơi
hơn ham học, tư duy của các em còn non nớt, nhiều em chưa xác định đúng
đắn việc học là “ học cho ai ? và học để làm gì ?”. Bên cạnh đó điều kiện
cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn nhất là vùng nông thôn. Vì thế vấn
đề phải quan tâm nhắc nhở, hướng dẫn, kiểm tra,… việc học của con em
mình đối với phụ huynh là hết sức khó khăn và còn nhiều hạn chế. Lâu ngày
đã tạo cho các em thói quen xấu lười suy nghĩ, ngại khó,…Nên khi gặp phải
vấn đề cần phải động não suy nghĩ thì các em trở nên lúng túng, chán nản,
dẫn đến việc bỏ qua hoặc làm bài mà không cần biết là đúng hay sai. Đặc
biệt là ở môn toán, mà nhất là dạng toán có lời văn, phần lớn các em chỉ đọc

4


đề bài qua loa rồi làm bài theo như mẫu ở phần tìm hiểu bài ( sách giáo
khoa) hoặc rập khuôn theo bài giải của giáo viên hướng dẫn ở bảng lớp. Mà
không chịu đọc kĩ đề bài, không chịu suy nghĩ để xác định dạng toán và phân
tích bài toán theo qui tắc để giải bài toán theo từng bước như giáo viên đã
giảng …
3. Các biện pháp giải quyết vấn đề
Qua thực tế giảng dạy tôi đã từng bước giúp các em khắc phục những
khó khăn trong việc giải toán có lời văn. Tôi đã tiến hành hướng dẫn các em
tìm hiểu cấu tạo bài toán có lời văn. Cấu tạo đó bao giờ cũng gồm có hai
phần chính :

- Phần đã cho, hay còn gọi giả thiết của bài toán.
- Phần phải tìm , hay còn gọi kết quả của bài toán.
Ngoài ra, tôi cũng hướng dẫn các em tìm hiểu mối quan hệ giữa phần
đã cho và phần phải tìm hay thực chất là mối quan hệ phụ thuộc vào giả thiết
và kết quả của bài toán.
Bên cạnh đó tôi yêu cầu học sinh phải nắm bắt được quy trình giải
toán có lời văn qua các bước như sau :
- Nghiên cứu kỹ đề bài: Trước hết tôi yêu cầu học sinh đọc kỹ đề
toán , suy nghĩ về nội dung bài toán, ý nghĩa của bài toán, đặc biệt chú ý đến
câu hỏi bài toán .
- Thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho: Yêu cầu học sinh diễn đạt
lại nội dung bài toán hoặc tóm tắt bài toán bằng lời, hoặc minh hoạ bằng sơ
đồ, hình vẽ,…
- Lập kế hoạch giải toán: Yêu cầu học sinh phải suy nghĩ xem để trả
lời câu hỏi của bài toán thì phải thực hiện phép tính gì? Suy nghĩ xem từ số
đã cho và điều kiện của bài toán có thể biết gì? có thể làm tính gì? phép tính
đó có thể giúp ta trả lời câu hỏi của bài toán hay không? Dựa trên các cơ sở
đó, để các em suy nghĩ rồi thiết lập trình tự giải bài toán .

5


- Thực hiện phép tính theo trình tự đã thiết lập để tìm đáp số: Quá
trình thực hiện phép tính, tôi yêu cầu học sinh cần phải kiểm tra lại kết quả
đã tính đúng chưa? Phép tính được thực hiện có dựa trên các giả thiết đã cho
hay không ?...
- Giải xong bài toán, tôi yêu cầu các em cần phải thử lại để xem đáp số
tìm được có trả lời đúng câu hỏi của bài toán không ? có phù hợp với các
điều kiện của bài toán không ? Trong một số trường hợp, tôi khuyến khích
các em tìm thêm cách giải khác của bài toán để các em có điều kiện so sánh

và chứng minh cho kết quả tìm được của bài toán và lựa chọn cách giải hợp
lý, ngắn gọn và đúng nhất .
Ví dụ: Thùng to có 21 lít nước mắm, thùng bé có 15 lít nước mắm. Số
nước mắm trong cả hai thùng được chứa vào các chai như nhau, mỗi chai
chứa 0,75 lít. Hỏi có tất cả bao nhiêu chai nước mắm ?
Tôi đã hướng dẫn học sinh thực hiện bài toán trên bằng cách dùng
phương pháp hỏi đáp, kết hợp với minh họa bằng tóm tắt đề toán .
- Phân tích nội dung bài toán : Tôi dùng hai câu hỏi:
Bài toán cho biết gì ? Bài toán hỏi gì ? Để giúp học sinh thấy rõ nội dung
bài toán là:
+ Thùng to có 21 lít nước mắm.
+ Thùng nhỏ có 15 lít nước mắm.
+ Mỗi chai chứa 0,75 lít nước mắm.
+ Hỏi có tất cả bao nhiêu chai nước mắm ?
- Tóm tắt bài toán:
Dựa trên những câu trả lời của học sinh, tôi hướng dẫn các em tóm tắt như
sau :
Thùng to:

21 lít.

Thùng nhỏ :

15 lít.

Mỗi chai chứa :

0,75 lít

6


Có ? chai nước mắm


Tóm tắt trên chính là chỗ dựa cho học sinh tìm ra trình tự giải và phép
tính tương ứng.
- Thiết lập trình tự giải: Tôi lại đặt câu hỏi:
+ Muốn biết có bao nhiêu chai nước mắm, em làm thế nào ?
+ Học sinh trả lời: Trước hết ta phải tìm tổng số lít nước mắm có ở cả
hai thùng; sau đó mới tìm tổng số chai chứa hết số lít nước mắm đó.
- Tìm phép tính và thực hiện phép tính: Tôi yêu cầu học sinh nêu các
bước tính, sau đó mới nhận xét – bổ sung, rồi yêu cầu học sinh thực hiện đặt
lời giải và thực hiện giải. Cuối cùng tôi nhận xét đánh giá và sửa sai nếu các
em có sai sót.
Bài giải
Tổng số lít nước mắm ở cả hai thùng có là:
21 + 15 = 36 (lít )
Số chai chứa hết số lít nước mắm của cả hai thùng là:
36 : 0,75 = 48 ( chai)
Đáp số: 48 chai.
+ Tôi lại nêu câu hỏi: Ngoài cách giải đó, em còn có cách giải nào
khác không ?
+ Nếu các em không nêu được tôi sẽ gợi ý như sau :
- Số 21 và số 15 có chia hết cho số 0,75 không? Để từ đó các em suy
nghĩ và có định hướng là: phải tìm số chai chứa hết số lít nước mắm của mỗi
thùng, sau đó cộng số chai chứa hết số nước mắm của 2 thùng lại thì sẽ trả
lời được câu hỏi của bài toán .
Và tôi yêu cầu các em làm thêm cách này vào ngoài giờ lên lớp để rèn
luyện thêm.
* Trong quá trình dạy học sinh giải toán có lời văn, tôi đã vận dụng

một số phương pháp như sau :

7


a. Phương pháp trực quan:
Bởi nhận thức của trẻ ở lứa tuổi từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể,
gắn với các hình ảnh và hiện tượng cụ thể, trong khi đó kiến thức của môn
toán lại có tính trừu tượng và khái quát cao. Sử dụng phương pháp này giúp
học sinh có chỗ dựa cho hoạt động tư duy, bổ sung vốn hiểu biết, phát triển
tư duy trừu tượng. Ví dụ: tôi có thể cho học sinh quan sát hình vẽ hoặc sơ đồ,
sau đó yêu cầu các em lập tóm tắt đề bài, rồi mới đến bước chọn phép tính.
b. Phương pháp thực hành luyện tập:
Tôi sử dụng phương pháp này để giúp các em thực hành luyện tập kiến
thức, kỹ năng giải toán từ đơn giản đến phức tạp (Chủ yếu ở các tiết luyện
tập). Trong quá trình học sinh luyện tập, tôi có thể phối hợp các phương pháp
như: gợi mở - vấn đáp và cả giảng giải - minh hoạ .
c. Phương pháp gợi mở - vấn đáp:
Theo tôi phương pháp này cũng rất cần thiết và thích hợp với học
sinh tiểu học, nhằm rèn cho học sinh cách suy nghĩ, cách diễn đạt bằng lời,
tạo niềm tin và khả năng học tập cho từng học sinh.
d. Phương pháp giảng giải - minh hoạ:
Với phương pháp này chỉ khi cần thiết tôi mới sử dụng, nhưng chỉ nói
gọn, rõ ràng và kết hợp với gợi mở - vấn đáp, phối hợp giảng giải với hoạt
động thực hành của học sinh ( Ví dụ: Bằng hình vẽ, mô hình, sơ đồ ...) để
học sinh phối hợp nghe, nhìn và thực hiện .
e. Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng, hình vẽ :
Việc sử dụng sơ đồ đoạn thẳng để thể hiện các đại lượng đã cho ở
trong bài và mối quan hệ phụ thuộc giữa các đại lượng đó. Tôi chọn độ dài
các đoạn thẳng sao cho phù hợp với giá trị của các số giúp học sinh dễ dàng

thấy được mối quan hệ phụ thuộc giữa các đại lượng để tạo ra hình ảnh cụ
thể, giúp các em suy nghĩ tìm tòi cách giải.

8


Muốn phân tích được tình huống của bài toán, lựa chọn được lời giải
và phép tính thích hợp, tôi gợi mở để giúp các em nhận thức được: cái gì đã
cho, cái gì cần tìm, mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm trong bài
toán. Trong bước đầu giải toán: việc nhận thức và lựa chọn lời giải, phép tính
thích hợp đối với các em là một việc khó.
Để giúp các em khắc phục khó khăn này, cần dựa vào các hoạt động
cụ thể của các em với vật thật, với mô hình, dựa vào hình vẽ, các sơ đồ toán
học.... giúp các em hiểu khái niệm “gấp” với phép nhân, khái niệm “một
phần ...” với phép chia, trong mối quan hệ của bài toán .
Đối với toán có lời văn ở lớp 5, chủ yếu là các bài toán hợp, giải bài
toán hợp cũng có nghĩa là giải quyết các bài toán đơn. Mặt khác, các dạng
toán đều đã được học ở các lớp trước, bao gồm hai nhóm chính như sau :
a) Nhóm 1: Các bài toán hợp mà quá trình giải không theo một
phương pháp thống nhất cho các bài toán đó.
b) Nhóm 2: Các bài toán điển hình, các bài toán mà trong quá trình
giải có phương pháp riêng cho từng dạng bài toán.
Chương trình toán 5 có những dạng điển hình sau:
- Tìm số trung bình cộng.
- Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.
- Tìm hai số khi biết tổng và tỉ của hai số đó.
- Tìm hai số khi biết hiệu và tỉ số của hai số đó.
- Bài toán liên quan đến đại lượng tỉ lệ .
- Giải toán về tỉ số phần trăm .
- Giải toán về hình học .

- Giải toán chuyển động đều .
Vì thế yêu cầu chúng ta, những người làm công tác giảng dạy phải
nắm vững các dạng toán. Để khi hướng dẫn học sinh giải toán, thì trước hết
phải yêu cầu học sinh xác định dạng toán để có cách giải phù hợp.
9


Giải toán là một hoạt động trí tuệ khó khăn, phức tạp. Hình thành kỹ
năng giải toán khó hơn nhiều so với hình thành kỹ năng thực hiện tính vì bài
toán là sự kết hợp đa dạng nhiều khái niệm, nhiều quan hệ toán học. Giải
toán không chỉ là nhớ bài giải mẫu để rồi áp dụng theo khuôn mẫu, mà đòi
hỏi người giải phải nắm chắc khái niệm, quan hệ toán học, nắm chắc ý nghĩa
của phép tính, đòi hỏi khả năng độc lập suy luận, đòi hỏi kỹ năng tính đúng,
tính nhanh .
Các bước để giải một bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp 5
nói riêng đã được đề cập ở một số sách nói về phương pháp giải toán ở bậc
tiểu học. Ở đây, qua thực tế dạy học, tôi rút ra một số kinh nghiệm trong việc
dạy học sinh lớp 5 giải toán có lời văn của mình .
Ở lớp 5 việc học phân số, số thập phân, các đơn vị đo đại lượng, ...
cũng được kết hợp với việc học các phép tính. Học giải toán được kết hợp
một cách hữu cơ để có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau. Việc dạy cho học sinh nắm
được phương pháp chung để giải toán được chú trọng ngay từ khi các em
giải bài toán đầu tiên ở đầu bậc tiểu học và sau này vẫn được thường xuyên
quan tâm, các em luôn được rèn luyện việc tìm hiểu đề toán, phân tích đề
bài để tìm ra cái gì đã cho, cái gì phải tìm trong quá trình suy nghĩ tìm ra
cách giải và thực hiện giải. Đặc biệt, các em phải thường xuyên sử dụng việc
tóm tắt đề toán bằng sơ đồ, hình vẽ , …để tìm ra hướng giải bài toán .
Sau đây là một số ví dụ về các dạng bài toán có lời văn ở lớp 5 mà tôi
đã hướng dẫn học sinh giải :
Ví dụ 1: Bài 1 ( tr 20 SGK Toán 5 ) Ôn tập và bổ sung về giải toán

10 người làm xong một công việc phải hết 7 ngày. Nay muốn làm xong
công việc đó trong 5 ngày thì cần bao nhiêu người ?(Mức làm của mỗi
người như nhau)

10


Để giải được bài toán này tôi cho các em phải đọc kỹ đề bài, xác lập
được quan hệ giữa 2 đại lượng: ngày làm và số người làm, để từ đó lập được
tóm tắt như sau :
Tóm tắt : 7 ngày :
5 ngày :

10 người
…. người?

Qua tóm tắt các em dễ dàng nhìn thấy đại lượng ngày làm đã giảm đi
(5 ngày ít hơn 7 ngày là 2 ngày ).
Với vốn hiểu biết từ thực tế, các em hiểu được ngay là làm ít ngày thì số
người làm sẽ tăng lên. Để từ đây các em suy luận ra : Muốn biết số người
làm trong 5 ngày thì phải tìm trong 1 ngày làm cần bao nhiêu người, mà số
người làm trong 7 ngày đã biết nên các em dễ dàng tìm được.
Như vậy là các em đã xác định được dạng toán đại lượng tỷ lệ và giải
bài toán theo cách rút về đơn vị.
Việc tiếp theo là hướng dẫn các em dựa vào phép toán đã định hướng (
phép toán đó dùng tìm cái gì ?) để thiết lập lời giải vừa ngắn gọn và vừa đủ
ý. Việc còn lại là kỹ năng tính toán của các em .
Bài giải
Muốn làm xong công việc trong 1 ngày cần:
10 x 7 = 70 ( người )

Muốn làm xong công việc trong 5 ngày cần:
70 : 5 = 14 ( người )
Đáp số : 14 người .
Ví dụ 2: Bài 3( tr143 SGK Toán 5) Toán chuyển động đều
Vận tốc một con chim đại bàng là 96 Km/giờ. Tính thời gian để con
đại bàng đó bay được quãng đường dài 72 km ?
Sau khi đọc kỹ đề bài các em nhận ra ngay đây là dạng toán chuyển
động và biết sử dụng các ký hiệu của vận tốc ( v ); của quãng đường ( s ) và
của thời gian ( t ), để nêu và tóm tắt được bài toán :

11


Tóm tắt :

v = 96 km / h
s = 72 km
t=?

Qua tóm tắt bài toán các em dễ nhận thấy cần áp dụng qui tắc và công
thức tính thời gian để giải bài toán: ( t = s : v ).
Việc đặt lời giải cho phép tính các em phải dựa vào câu hỏi của bài toán
Bài giải
Thời gian để chim đại bàng bay được quãng đường là:
72 : 96 = 0,75 (giờ) = 45 phút
Đáp số: 45 phút
Đối với các bài toán có lời văn như trên, tôi luôn khuyến khích học
sinh tự nêu ra các giả thiết đã biết, cái cần phải tìm, cách tóm tắt bài toán,
tìm và nêu cách giải. Các phép tính giải chỉ là khâu mang tính kĩ thuật nhưng
cũng không kém phần quan trọng, đòi hỏi các em phải có kĩ năng tính thành

thạo.
Đối với những đối tượng học sinh đã giải được và giải một cách thành
thạo các bài toán cơ bản theo yêu cầu về kiến thức kĩ năng. Thì việc đưa ra
hệ thống bài tập nâng cao là rất quan trọng và hết sức cần thiết để cho học
sinh có điều kiện phát huy năng lực trí tuệ của mình, vượt ra khỏi tư duy cụ
thể chỉ mang tính ghi nhớ và áp dụng một cách máy móc trong công thức và
nhằm phát triển trí thông minh cho học sinh.

12


4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua thời gian nghiên cứu và thử nghiệm một số biện pháp giải toán có
lời văn của lớp 5, tôi nhận thấy việc thực hiện giải toán có lời văn của học
sinh lớp tôi phụ trách ngày càng tiến bộ. Số lượng học sinh ham thích giải
toán có lời văn ngày càng tăng. Các em tự tin hơn trong việc giải toán và
kết quả ngày càng cao hơn .
* Kết quả đạt được của môn toán lớp 5 trong năm học 2011-2012 như sau :

Kết quả
Thời gian

Tổng số

kiểm tra học sinh
Giữa kỳ I
31
Cuối kỳ II
31


Giỏi
SL
%
7
10

Khá
SL
%

22,6
32,3

5
9

16,1
29

TB
SL

%

15
12

48,4
38,7


Yếu
SL
%
4
0

12,9

Từ những kết quả đạt được nêu trên, tôi thấy dạy học giải toán có lời
văn ở lớp 5 không những chỉ giúp cho học sinh củng cố vận dụng các kiến
thức đã học, mà còn giúp các em phát triển tư duy, sáng tạo trong học toán
và biết vận dụng vào thực tiễn cuộc sống.

13


PHẦN III: KẾT LUẬN
Việc hướng dẫn và giúp học sinh giải toán có lời văn nhằm giúp các
em phát triển tư duy trí tuệ, tư duy phân tích và tổng hợp, khái quát hoá, trừu
tượng hoá, rèn luyện tốt phương pháp suy luận lôgic. Bên cạnh đó, đây là
dạng toán rất gần gũi với đời sống thực tế.
Do vậy, việc giảng dạy toán có lời văn một cách hiệu quả nhằm giúp
các em trở thành những con người linh hoạt, sáng tạo, làm chủ trong mọi
lĩnh vực và trong cuộc sống thực tế hàng ngày.
Những kết quả mà tôi đã thu được trong quá trình giảng dạy không
phải là cái mới so với kiến thức chung về môn toán ở bậc tiểu học, song lại
là cái mới đối với bản thân tôi, với mỗi khóa học sinh lớp 5. Trong quá trình
giảng dạy, tôi đã phát hiện và rút ra nhiều kinh nghiệm lý thú và bổ ích về
phương pháp dạy học giải toán có lời văn ở bậc tiểu học. Tôi tự thấy mình
được bồi dưỡng thêm lòng kiên trì, nhẫn nại, sự ham muốn, say mê với công

việc của mình. Tuy nhiên kinh nghiệm của tôi đã trình bày trên đây không
thể tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi mong muốn nhận được ý kiến đóng
góp của các đồng nghiệp - những người trực tiếp giảng dạy - để bổ sung
thêm kinh nhiệm và khắc phục những thiếu sót của bản thân.
Người viết

Nguyễn Thị Hồng Hạnh

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Phương pháp dạy học toán tiểu học - Đỗ Trung Hiệu, Đỗ Đình Hoan
- Sách giáo khoa và sách giáo viên toán 5 - Đỗ Đình Hoan (NXB Giáo dục)
- Tâm lý tiểu học - Bùi Văn Huệ

15


Đánh giá của Hội đồng khoa học cơ sở
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………
………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………
Chủ tịch Hội đồng

16



×