Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

SKKN rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.1 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
Các phần chính
Đặt vấn đề
Giải quyết vấn đề
I. Cơ sở lí luận của vấn đề
II. Thực trạng của vấn đề
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết

Ghi chú
Trang số 1
Trang số 4
Trang số 4
Trang số 5
Trang số 6

vấn đề
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết luận và kiến nghị
I. Kết luận
II. Kiến nghị

Trang số 18
Trang số 22
Trang số 22
Trang số 23

DANH MỤC CÁC CHỮ ĐƯỢC VIẾT TẮT

0



ST

Nội dung viết tắt

Chữ viết tắt

T
1
2
3

Sách giáo khoa
Tổng số học sinh
Sáng kiến

SGK
TSHS
SK

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ

1


Theo xu thế phát triển của nước ta hiện nay đòi hỏi con người phải có đủ
cả đức lẫn tài. Hay nói cách khác, nước ta đang trong thời kỳ hội nhập kinh
tế quốc tế, chủ nhân của đất nước phải là những con người phát triển toàn
diện. Để đáp ứng được những yêu cầu đó ngành giáo dục phải đổi mới,
trong đó sự đổi mới về phương pháp quản lý, phương pháp dạy học là mục
tiêu cơ bản của ngành. Những phương pháp dạy học kích thích tính tự giác,

sự tìm tòi, sáng tạo của học sinh đặc biệt được chú ý. Mục tiêu giáo dục của
Đảng đã chỉ rõ: "... Đào tạo có chất lượng tốt những người lao động mới có
ý thức và đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hóa phổ thông và hiểu
biết kỹ thuật, có kỹ năng lao động cần thiết, có óc thẩm mỹ, có sức khoẻ
tốt...’’. Muốn đạt được mục tiêu này thì việc dạy và học trong các nhà
trường rất quan trọng .Trong đó toán học là một bộ môn quan trọng không
thể thiếu của quá trình dạy học. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói về vị
trí, vai trò quan trọng không thể thiếu của môn Toán: " Trong các môn khoa
học và kỹ thuật, toán học giữ một vị trí nổi bật. Nó có tác dụng lớn đối với
kỹ thuật, với sản xuất và chiến đấu. Nó là một môn thể thao của trí tuệ,
giúp chúng ta nhiều trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương
pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết các vấn đề,
giúp chúng ta rèn luyện trí thông minh sáng tạo. Nó còn giúp chúng ta rèn
luyện nhiều đức tính quý báu khác như: Cần cù và nhẫn nại, tự lực cánh
sinh, ý chí vượt khó, yêu thích chính xác, ham chuộng chân lý ”. Để đáp ứng
những yêu cầu mà xã hội đòi hỏi, Giáo dục và đào tạo phải có những cải
tiến, điều chỉnh, phải thay đổi về nội dung chương trình, đổi mới phương
pháp giảng dạy cho phù hợp. Hội nghị Ban chấp hành trung ương khoá VIII
lần thứ 2 đã chỉ rõ: " Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo,
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện tư duy sáng tạo của người
học. Từng bước áp dụng phương pháp tiên tiến, phương pháp hiện đại vào
quá trình dạy học". Trong luật Giáo dục, Khoản 2, điều 24 đã ghi: " Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác , chủ động
2


sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học;
bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào
thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho
học sinh". Đổi mới phương pháp dạy học là vấn đề then chốt của chính sách

đổi mới giáo dục Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đổi mới phương pháp
dạy học thực chất không phải là sự thay thế các phương pháp dạy học cũ
bằng một loạt các phương pháp dạy học

mới. Mục đích của đổi mới

phương pháp dạy học chính là làm thế nào để học sinh phải thực sự tự giác,
tích cực, chủ động, và sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và lĩnh hội
cả cách thức để có được tri thức ấy nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách
của mình. Muốn đạt được những yêu cầu đó đòi hỏi người giáo viên phải
luôn cập nhật, nắm bắt và hiểu đúng nghĩa của việc "Đổi mới phương pháp
dạy học’’, để đưa vào thực hiện tốt trong quá trình giảng dạy.
Đối với môn Toán lớp 1, môn học có vị trí nền tảng là điểm xuất phát
của cả một bộ môn khoa học. Môn Toán mở đường cho các em đi vào thế
giới tự nhiên, thế giới kỳ diệu của cuộc sống.
Nhất là với mạch kiến thức : "Giải toán có lời văn", là một trong các
dạng kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Thông
qua giải toán có lời văn, các em được phát triển trí tuệ, được rèn luyện kỹ
năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Toán có lời văn là
mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức toán học là chiếc cầu nối
giữa toán học và thực tế đời sống hàng ngày và giữa toán học với các môn
học khác.
Trong năm học 2011 – 2012, tôi được phân công giảng dạy ở lớp 1D. Tôi
thấy các em đa số thích học toán nhưng khi làm đên các bài toán có lời văn
các em đều e ngại và không khí khi học dạng toán này trầm hẳn. Mặc dù tôi
cố gắng hướng dẫn thật kỹ nhưng số học sinh tham gia phát biểu còn hạn
chế. Tôi tham khảo giáo viên dạy lớp 1 khác và được biết đó là tình trạng
chung của học sinh lớp 1. Trong thực tế dạng toán này nó gắn liền với
3



những sự vật, sự việc diễn ra trong cuộc sống hàng ngày của các em. Tại
sao các em lại không thích và cho là toán khó? Vậy làm thế nào để học sinh
lớp 1 hiểu và giải được các bài toán có lời văn đúng? Làm thế nào để các
em cảm thấy thích thú khi học dạng toán có lời văn? Làm thế nào để các em
say mê học toán? Điều đó làm tôi trăn trở, suy nghĩ và quyết định tìm ra con
đường ngắn nhất, dễ hiểu nhất để dẫn các em từ từ đi khám phá và tìm hiểu
chính cái hàng ngày mà các em đã thấy, đã biết đang diễn ra trong cuộc
sống hàng ngày của các em. Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, qua thực tế giảng
dạy, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số kinh nghiệm: “ Rèn kĩ năng giải toán
có lời văn cho học sinh lớp Một ”. Sau khi áp dụng sáng kiến này, học sinh
lớp tôi đã có những chuyển biến rõ dệt. Các em đã dần hiểu ra vấn đề ‘ Các
bài toán có lời văn’ thật gần gũi với những sự việc diễn ra hàng ngày. Từ đó
các em thích thú hơn thậm chí còn rất thích học dạng toán này.

PHẦN II : GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận của vấn đề
4


Trong các tuyến kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu học thì tuyến
kiến thức “Giải toán có lời văn” là tuyến kiến thức khó khăn nhất đối với
học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một. Bởi vì đối với lớp
Một: Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của
các em còn rất hạn chế. Một vấn đề nổi bật hiện nay là học sinh chưa biết
cách tự học, chưa học tập một cách thực sự tích cực. Nhiều khi với một bài
toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng phép tính của bài nhưng
không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được phép tính như
vậy. Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự lúng túng khi giải bài toán
có lời văn. Đa số các em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đề

toán để tìm ra cách giải, chưa biết trình bày bài giải. Ngôn ngữ toán học
cũng rất hạn chế, kỹ năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa
học, học toán và giải toán còn mang tính máy móc, dập khuôn, bắt chước.
Tư duy của học sinh lớp Một là tư duy cụ thể, để học sinh học tốt “Giải
toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy rất cần đồ dùng dạy học để minh
hoạ. Nhưng trong thực tế một số giáo viên còn ngại sử dụng đồ dùng trong
giảng dạy, ngại phân tích, giảng giải dẫn dắt các em tìm ra cách giải những
bài toán khó, mà giáo viên thường chỉ dẫn và làm mẫu luôn.
Về mặt nhận thức giáo viên còn coi việc dạy cho học sinh dạng toán
“Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp 1 là đơn giản, dễ dàng nên chưa tìm
tòi nghiên cứu để có phương pháp giảng dạy có hiệu quả.
Vốn từ, vốn kiến thức, kinh nghiệm thực tế của học sinh lớp 1 cũng rất
hạn chế nên khi giảng dạy cho học sinh lớp 1 giáo viên đã diễn đạt như với
các lớp trên làm các em khó hiểu và không thể tiếp thu được kiến thức và
không đạt kết quả tốt trong việc giải các bài toán có lời văn. Khả năng phối
hợp, kết hợp với nhiều phương pháp để dạy tuyến kiến thức: “Giải toán có
lời văn” ở lớp 1 còn thiếu linh hoạt. Giáo viên còn lúng túng khi tạo các
tình huống sư phạm để nêu vấn đề. Chưa khuyến khích động viên và giúp
đỡ một cách hợp lý các nhóm cũng như các đối tượng học sinh trong quá
5


trình học. Khả năng kiên trì của học sinh lớp 1 trong quá trình học toán nói
chung, học “Giải toán có lời văn” nói riêng còn chưa cao.
II. Thực trạng của vấn đề
1. Thuận lợi
Trường Tiểu học Bạch Hạc nằm trên địa bàn phường Bạch Hạc. Là một
phường vùng ven của thành phố Việt trì, đời sống của nhân dân còn nghèo
nhưng họ cũng đã có sự quan tâm đến việc học tập của con em mình.
Được sự quan tâm của các cấp nên cơ bản trường lớp khá khang trang,

bàn ghế đầy đủ đảm bảo cho việc dạy và học.
Cán bộ giáo viên nhiệt tình và tâm huyết với nghề nghiệp. Học sinh
ngoan ngoãn, có đủ SGK và một số đồ dùng học tập cơ bản.
2. Khó khăn
Bạch Hạc là một phường vùng ven của thành phố Việt Trì, đời sống của
nhân dân còn nghèo, chủ yếu làm ruộng và nghề sông nước nên thời gian
quan tâm đến việc học tập của con cái còn nhiều hạn chế. Việc dạy dỗ, rèn
luyện cho các em gần như phó mặc cho nhà trường. Điều đó ảnh hưởng
không ít đến việc học tập của các em.
Đội ngũ giáo viên của trường không ổn định, luân chuyển thường xuyên.
Điều đó cũng ảnh hưởng nhiều đến việc học tập của các em.
Học sinh nhận thức không đồng đều, chưa chăm chỉ học tập, nhiều em
nhận thức chậm.
Trong năm học 2011 – 2012 , tôi được phân công giảng dạy lớp 1D. Từ
những thực trạng trên , nhất là đối với học sinh lớp 1, việc dạy đọc – viết
cho các em đã gặp khó khăn, việc dạy toán nhất là tuyến kiến thức “ Toán
có lời văn’’ còn gặp nhiều khó khăn hơn .Vì để giải được một bài toán có lời
văn đúng, khoa học các em không chỉ biết đọc mà còn phải đọc hiểu được
nội dung bài toán, biết cách tóm tắt, phân tích bài toán, cách trình bày bài
giải,… Qua điều tra cụ thể học sinh do chính lớp tôi giảng dạy ,kết quả cho
thấy số học sinh thích học và thực hiện tốt dạng toán này còn hạn chế, số
6


còn lại các em không thích học dạng toán này. Mặc dù tôi đã cố gắng giảng
và hướng dẫn kỹ nhưng các em vẫn cho rằng dạng toán này khó. Trên đây là
kết quả điều tra ban đầu của lớp 1D đầu tháng 1/ 2012 như sau:
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
TSHS Đạt điểm 9-10
18

5

Đạt điểm 7- 8
6

Đạt điểm 5 - 6
5

Điểm dưới 5
2

Qua bảng điều tra ban đầu, tôi thấy mình cần phải có biện pháp, phương
pháp dạy học mới để cải thiện tình trạng trên. Điều ấy làm tôi luôn suy
nghĩ, trăn trở quyết định nghiên cứu tìm hiểu nguyên nhân : Tại sao học
sinh không chỉ lớp tôi mà cả học sinh lớp 1 khác trong trường lại không
thích học và làm các bài toán có lời văn? Tại sao giáo viên khi dạy đến dạng
toán này cảm thấy vất vả? Từ cơ sở lý luận và thực tiễn, qua thực tế giảng
dạy , tháng 1/2012 tôi quyết định chọn chủ đề : “ Rèn kĩ năng giải toán có
lời văn cho học sinh lớp Một ”làm đề tài nghiên cứu của mình nhằm giải
quyết, tháo gỡ những khó khăn trong dạy học dạng toán có lời văn cho học
sinh lớp 1. Để nâng cao chất lượng giáo dục của lớp cũng như chất lượng
giáo dục của nhà trường.
III. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
1. Nắm chắc nội dung chương trình
Để dạy tốt môn Toán lớp 1 nói chung, "Giải bài toán có lời văn" nói
riêng, điều đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chương
trình, sách giáo khoa. Nhiều người nghĩ rằng Toán tiểu học, và đặc biệt là
toán lớp 1 thì ai mà chẳng dạy được. Đôi khi chính giáo viên đang trực tiếp
dạy cũng rất chủ quan và cũng có những suy nghĩ tương tự như vậy. Trong
chương trình toán lớp Một giai đoạn đầu học sinh còn đang học chữ nên

chưa thể đưa ngay "Bài toán có lời văn". Mặc dù đến tận tuần 23, học sinh
mới được chính thức học cách giải "Bài toán có lời văn" xong chúng ta cần

7


cho các em làm quen và ngầm chuẩn bị từ xa cho việc làm này ngay từ bài
"Phép cộng trong phạm vi 3 " ở tuần 7.
* Từ tuần 7 đến tuần 16 hầu hết các tiết dạy về phép cộng, trừ trong phạm
vi 10 đều có các bài tập thuộc dạng "Nhìn tranh viết phép tính thích hợp" ở
đây học sinh được làm quen với việc:
- Xem tranh vẽ.
- Nêu bài toán bằng lời.
- Nêu câu trả lời.
- Điền phép tính thích hợp (với tình huống trong tranh).
Ví dụ: Sau khi xem tranh vẽ ở trang 46 (SGK), học sinh tập nêu bằng lời :
"Có 1 quả bóng bay trắng và 2 quả bóng bay xanh. Hỏi có tất cả mấy quả
bóng bay?" rồi tập nêu miệng câu trả lời : "có tất cả 3 quả bóng bay", sau đó
viết vào năm ô trống để được phép tính :
1

+

2

=

3

* Tiếp theo đó, kể từ tuần 17, học sinh được làm quen với việc đọc tóm tắt

rồi nêu bài toán bằng lời, sau đó nêu cách giải và tự viết phép tính vào các ô
trống. Ở đây không còn tranh vẽ nữa (xem bài 3b - trang 87, bài 4- trang 88
và bài 5 - trang 89,…).
Ví dụ: từ tóm tắt Bài 4 trang 88( SGK), học sinh nhìn vào tóm tắt rồi nêu
bài toán.
Tổ 1

: 6 bạn

Tổ 2

: 4 bạn

Cả hai tổ: … bạn?
Tổ 1 có 6 bạn, tổ 2 có 6 bạn. Hỏi cả hai tổ có tất cả mấy bạn?
Giáo viên hỏi: để biết cả hai tổ có mấy bạn ta làm thế nào? Để học sinh
trả lời miệng: Ta phải làm phép tính cộng, lấy 6 cộng 4 bằng 10, rồi viết
vào các ô trống để được phép tính:
6

+

4

=

10
8



Giáo viên hỏi tiếp: Cả hai tổ có mấy bạn? ( Cả hai tổ có 10 bạn)
Cứ làm như vậy nhiều lần, học sinh sẽ quen dần với cách nêu lời giải
bằng miệng. Do đó các em sẽ dễ dàng viết được các câu lời giải sau này.
* Trước khi chính thức học "Giải các bài toán có lời văn" học sinh được
học bài nói về cấu tạo của một bài toán có lời văn gồm 2 yếu tố cơ bản là
những cái đã cho (đã biết) và những cái phải tìm (chưa biết).
+ Những cái đã cho (dữ kiện)
+ Và cái phải tìm (câu hỏi).
Để làm việc này sách Toán 1 đã vẽ bốn bức tranh, kèm theo là bốn đề
toán: 2 đề còn thiếu dữ kiện, 1 đề còn thiếu câu hỏi, 1 đề thiếu cả dữ kiện
lẫn câu hỏi (biểu thị bằng dấu ...) Học sinh quan sát tranh rồi nêu miệng đề
toán, sau đó điền số vào chỗ các dữ kiện rồi điền từ vào chỗ câu hỏi (còn để
trống). Từ đó giáo viên giới thiệu cho các em " Bài toán thường có hai phần
":
+ Những số đã cho.
+ Số phải tìm (câu hỏi).
Bài này giúp các em hiểu sâu hơn về cấu tạo của "Bài toán có lời văn".
b. Các loại toán có lời văn trong chương trình chủ yếu là hai loại toán
"Thêm và Bớt" thỉnh thoảng có biến tấu một chút:
- Bài toán "Thêm" thành bài toán gộp, chẳng hạn: "An có 4 quả bóng,
Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?", dạng này khá phổ
biến.
- Bài toán "Bớt" thành bài toán tìm số hạng, chẳng hạn : " Lớp 1A có 35
bạn, trong đó có 20 bạn nữ. Hỏi lớp 1A có bao nhiêu bạn nam?", dạng này ít
gặp vì dạng này hơi khó.
* Về hình thức trình bày bài giải, học sinh phải trình bày bài giải đầy đủ
theo quy định thống nhất từ lớp 1 đến lớp 5:
- Câu lời giải.
- Phép tính giải.
9



- Đáp số.
Ví dụ: Bài toán "Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An
có tất cả mấy con gà?"
* Học sinh lớp 1 phải giải bài toán như sau:
Bài giải
5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số : 9 con gà
* Để lường trước về vốn từ và khả năng đọc hiểu của học sinh khi "Giải
bài toán có lời văn" chương trình toán 1 đã có những giải pháp:
- Hạn chế dùng các vần khó và tiếng khó trong đề toán như: thuyền, Huyền,
Quỳnh, ... tăng cường dùng các vần và tiếng dễ đọc , dễ viết như :
cam, gà, Lan, ... trong các đề toán.
- Lựa chọn câu hỏi trong đề toán sao cho học sinh chỉ cần chỉnh sửa một
chút xíu thôi là được ngay câu lời giải đúng.
- Cài sẵn "cốt câu" lời giải vào tóm tắt để học sinh có thể dựa vào tóm tắt
mà viết câu lời giải.
- Cho phép (thậm chí khuyến khích) học sinh tự nghĩ ra nhiều cách đặt lời
giải khác nhau. Chẳng hạn, với bài toán : "An có 4 quả bóng. Bình có 3 quả
bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?"; Học sinh có thể đặt lời giải theo
rất nhiều cách như:
+ Cả hai bạn có: ........
+ Hai bạn có: ..........
+ An và Bình có: ..........
+ Tất cả có: ..........
+ Số bóng tất cả là: ...........
2. Sử dụng đồ dùng dạy học
Như chúng ta đã biết, con đường nhận thức của học sinh tiểu học là: "Từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng trở lại

thực tiễn". Đồ dùng thiết bị dạy học là phương tiện vật chất, phương tiện
10


hữu hình cực kỳ cần thiết khi dạy "Giải toán có lời văn" cho học sinh lớp
Một. Cũng trong cùng một bài toán có lời văn, nếu chỉ dùng lời để dẫn dắt,
dùng lời để hướng dẫn học sinh làm bài thì vừa vất vả tốn công, vừa không
hiệu quả và sẽ khó khăn hơn rất nhiều so với dùng đồ dùng , tranh ảnh, vật
thực để minh hoạ bài dạy. Chính vì vậy việc sử dụng đồ dùng dạy học để
dạy học sinh trong "Giải bài toán có lời văn"là rất cần thiết và vô cùng hiệu
quả. Nhưng trong thực tế là một số giáo viên còn ngại, hoặc lúng túng khi
sử dụng đồ dùng dạy học trong các tiết dạy nói chung và khi dạy "Giải toán
có lời văn" nói riêng. Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc hướng dẫn
các em học sinh lớp 1 trong việc giải các bài toán có lời văn khó khăn hơn.
Để khắc phục tình trạng này, giáo viên cần có ý thức chuẩn bị đồ dùng dạy
học trước khi lên lớp và sử dụng thường xuyên tạo hứng thú học tập, thu hút
học sinh hơn khi học phần giải toán có lời văn..
3. Cách thực hiện dạy "Giải bài toán có lời văn" ở lớp Một.
3.1. Quy trình " Giải bài toán có lời văn’’:
- Đọc và tìm hiểu đề bài.
- Tìm đường lối giải bài toán.
- Trình bày bài giải
- Kiểm tra lại bài giải.
a. Đọc và tìm hiểu đề toán
Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu
tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần
tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu được một số từ khoá quan trọng
như " thêm , và , tất cả, ... " hoặc "bớt, bay đi, ăn mất, còn lại , ..." (có thể
kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên
cần gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài. Khi gạch chân nên dùng phấn

màu khác cho dễ nhìn.
Những bài toán đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng
cách đàm thoại " Bài toán cho biết gì? Hỏi gì?" và dựa vào câu trả lời của
11


học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề
toán. Đây là cách rất tốt để giúp trẻ ngầm phân tích đề toán.
Nếu học sinh gặp khó khăn trong khi đọc đề toán thì giáo viên nên cho
các em nhìn tranh và trả lời câu hỏi. Ví dụ, với bài 3 trang 118, giáo viên có
thể hỏi:
- Em thấy dưới ao có mấy con vịt? (... có 5 con vịt)
- Trên bờ có mấy con vịt? ( ... có 4 con vịt)
- Em có bài toán thế nào? (...)
Sau đó giáo viên cho học sinh đọc (hoặc nêu) đề toán ở SGK.Trong
trường hợp không có tranh ở SGK thì giáo viên có thể gắn mẫu vật (gà,
vịt, ...) lên bảng từ (bảng cài, bảng nỉ, ...) để thay cho tranh; hoặc dùng tóm
tắt bằng lời hoặc sơ đồ đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọc đề toán.
+ Có 3 cách tóm tắt đề toán:
- Tóm tắt bằng lời:
* Ví dụ 1: Nam:

3 quyển

Hải:

2 quyển

Cả hai bạn có:


... quyển?

- Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng:
* Ví dụ2:

Bạn trai :


 ? bạn


Bạn gái :
- Tóm tắt bằng sơ đồ mẫu vật:
* Ví dụ 3:

Hàng trên:





Hàng dưới:

? qủa cam

Với các cách tóm tắt trên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu và dễ sử dụng.
Với cách viết thẳng theo cột như:
Lan có:

14 quyển



12

Có:

17 con gà


Hà có:

12 quyển

Bán:

5 con gà

Cả hai bạn:

... quyển

Còn lại: …con gà?

Kiểu tóm tắt như thế này khá gần gũi với cách đặt tính theo hàng dọc
nên có tác dụng gợi ý cho học sinh lựa chọn phép tính giải. Có thể lồng "cốt
câu" lời giải vào trong tóm tắt, để dựa vào đó học sinh dễ viết câu lời giải
hơn. Chẳng hạn, dựa vào dòng cuối của tóm tắt ví dụ học sinh có thể viết
ngay câu lời giải là : "Cả hai bạn có:" hoặc "Số vở cả hai bạn có:" hoặc: "Cả
hai bạn có số vở là:". Tuy nhiên học sinh thường có thói quen cứ thấy dấu ...
là điền số (dấu) vào đó nên giáo viên cần lưu ý các em là: "Riêng trong

trường hợp này (trong tóm tắt ) thì dấu ... thay cho từ "mấy" hoặc "bao
nhiêu" ; các em sẽ phải tìm cho ra số đó để ghi vào Đáp số của Bài giải chứ
không phải để ghi vào chỗ ... trong tóm tắt. Giai đoạn đầu nói chung bài
toán nào cũng nên tóm tắt rồi cho học sinh dựa vào tóm tắt nêu đề toán. Cần
lưu ý dạy giải toán là cả một quá trình, không nên vội vàng yêu cầu các em
phải đọc thông thạo đề toán, viết được các câu lời giải, phép tính và đáp số
để có một bài chuẩn mực ngay.
b. Tìm đường lối giải bài toán.
* Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và cái
phải tìm, chẳng hạn:
- Bài toán cho biết gì? (Nhà An có 5 con gà. Mẹ mua thêm 4 con gà)
- Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?)
Giáo viên nêu tiếp: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em làm
phép tính gì? (tính cộng) Mấy cộng mấy? (5 + 4) ; 5 + 4 bằng mấy? (5 + 4 =
9); hoặc: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em tính thế nào? (5 + 4 =
9); hoặc: "Nhà An có tất cả mấy con gà ?" (9) Em tính thế nào để đ ược 9 ?
(5 + 4 = 9).
Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp "9 này là 9 con gà", nên ta
viết "con gà" vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà).
13


Tuy nhiên cũng có những học sinh nhìn tranh ở sách giáo khoa để đếm ra
kết quả mà không phải là do tính toán. Trong trường hợp này giáo viên vẫn
xác nhận kết quả là đúng, song cần hỏi thêm: "Em tính thế nào?"
(5 + 4 = 9). Sau đó nhấn mạnh: "Khi giải toán em phải nêu được phép tính
để tìm ra đáp số (ở đây là 9). Nếu chỉ nêu đáp số thì chưa phải là giải toán.
Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, nhiều khi việc hướng dẫn
học sinh đặt câu lời giải rất khó hơn thậm chí khó hơn nhiều so với việc
chọn phép tính và tính ra đáp số. Với học sinh lớp 1, lần đầu tiên được làm

quen với cách giải loại toán này nên các em rất lúng túng. Thế nào là câu lời
giải, vì sao phải viết câu lời giải? Không thể giải thích cho học sinh lớp 1
hiểu một cách thấu đáo nên có thể giúp học sinh bước đầu hiểu và nắm được
cách làm. Có thể dùng một trong các cách sau:
Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ (Hỏi) và từ (mấy con
gà ? Bao nhiêu con gà? ) để có câu lời giải : "Nhà An có tất cả:" hoặc thêm
từ "là" để có câu lời giải : "Nhà An có tất cả là: "
Cách 2: Đưa từ "con gà" ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ "Hỏi" và
thêm từ Số (ở đầu câu), là (ở cuối câu) để có: "Số con gà nhà An là:"
Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của câu
lời giải rồi thêm từ (là) ở cuối câu.
*Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Có tất cả: ... con gà ?". Học sinh viết
câu lời giải: " Có tất cả là:" hoặc “Có tất cả số con gà là:’’
Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: "Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà?"
để học sinh trả lời miệng: "Nhà An có tất cả 9 con gà" rồi thêm phép tính
vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính):
Nhà An có tất cả:
5 + 4 = 9 (con gà)
Ở đây giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự nêu nhiều câu lời giải
khác nhau, sau đó chọn ra câu thích hợp nhất. Không nên bắt buộc trẻ nhất
nhất phải viết theo một kiểu.
14


c. Trình bày bài giải
Có thể coi khâu trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư duy.
Thực tế hiện nay các em học sinh lớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn chế, kể
cả học sinh khá giỏi. Cần rèn cho học sinh nề nếp và thói quen trình bày bài
giải một cách chính xác, khoa học, sạch đẹp kể cả trong giấy nháp, bảng
lớp, bảng con hay vở, giấy kiểm tra. Các bước trình bày bài giải một bài

toán có lời văn như sau:
Bài giải
Nhà An có tất cả là:
5 + 4 = 9 ( con gà )
Đáp số : 9 con gà
Nếu lời giải ghi: "Số gà nhà An là:"hoặc “ Nhà An có số con gà là:” thì
phép tính có thể ghi: “5 + 4 = 9 (con)”. (Lời giải đó có sẵn danh từ "gà").
Tuy nhiên nếu học sinh viết quá chậm mà lại gặp phải các từ khó như
"thuyền, quyển, ..." thì có thể lược bớt danh từ cho nhanh.
Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao từ "con gà" lại được dặt trong dấu
ngoặc đơn? Đúng ra thì 5 + 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) chứ 5 + 4 không
thể bằng 9 con gà được. Do đó, nếu viết: "5 + 4 = 9 con gà" là sai. Nói cách
khác , nếu vẫn muốn được kết quả là 9 con gà thì ta phải viết như sau mới
đúng: "5 con gà + 4 con gà = 9 con gà". Song cách viết phép tính với các
danh số đầy đủ như vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó khăn và tốn
nhiều thời gian đối với học sinh lớp 1. Ngoài ra học sinh cũng hay viết thiếu
và sai như sau:
5 con gà + 4 = 9 con gà
5 + 4 con gà = 9 con gà
5 con gà + 4 con gà = 9
Về mặt toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ được viết 5 + 4 = 9
thôi. Song vì các đơn vị cũng đóng vai trò rất quan trọng trong các phép
tính giải nên vẫn phải tìm cách để đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới
15


ghi thêm đơn vị "con gà" ở trong dấu ngoặc đơn để chú thích cho số 9 đó.
Có thể hiểu rằng chữ "con gà” viết trong dấu ngoặc ở đây chỉ có một sự
ràng buộc về mặt ngữ nghĩa với số 9, chứ không có sự ràng buộc chặt chẽ
về toán học với số 9. Do đó, nên hiểu: 5 + 4 = 9 (con gà) là cách viết của

một câu văn hoàn chỉnh như sau: "5 + 4 = 9, ở đây 9 là 9 con gà". Như vậy
cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một cách viết phù hợp. Trong đáp số của bài
giải toán thì không có phép tính nên ta cứ việc ghi: " Đáp số : 9 con gà" mà
không cần ngoặc đơn.
d. Kiểm tra lại bài giải
Học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp Một thường có thói quen khi
làm bài xong không xem hay kiểm tra lại bài đã làm. Giáo viên cần giúp
học sinh xây dựng thói quen học tập này. Cần kiểm tra về lời giải, về phép
tính, về đáp số hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác.
3.2. Biện pháp khắc sâu loại “Bài toán có lời văn"
Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu và giải tốt "Bài toán có lời văn" giáo
viên cần giúp các em hiểu chắc, hiểu sâu loại toán này. Ở mỗi bài, mỗi tiết
về "Giải toán có lời văn" giáo viên cần phát huy tư duy, trí tuệ, phát huy
tính tích cực chủ động của học sinh bằng việc hướng cho học sinh tự tóm tắt
đề toán, tự đặt đề toán theo dữ kiện đã cho, tự đặt đề toán theo tóm tắt cho
trước, giải toán từ tóm tắt, nhìn tranh vẽ, sơ đồ viết tiếp nội dung đề toán
vào chỗ chấm (...), đặt câu hỏi cho bài toán.
*Ví dụ 1: Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán, rồi giải bài
toán đó:
Bài toán: Dưới ao có ... con vịt, có thêm ... con vịt nữa chạy xuống.
Hỏi ..........................................................................?
*Ví dụ 2: Giải bài toán theo tóm tắt sau:


:

Tô màu

:


7 hình tròn
3 hình tròn

Không tô màu : .......... hình tròn?
16


Tiết 108

Luyện tập chung

Đây là phần tổng hợp chốt kiến thức của cả 2 dạng toán đơn thêm và bớt
ở lớp 1
Bài 1 trang 152
a,

Bài toán : Trong bến có .....ô tô, có thêm....ô tô vào bến.
Hỏi................................................................?

HS quan sát tranhvà hoàn thiện bài toán thêm rồi giải bài toán với câu
lời giải có cụm từ có tất cả
b, Bài toán :

Lúc đầu trên cành có 6 con chim, có ....con bay đi.

Hỏi .............................................?
HS quan sát tranh rồi hoàn thiện bài toán bớt và giải bài toán với câu lời
giải có cụm từ còn lại
Lúc này HS đã quen với giải bài toán có lời văn nên hướng dẫn cho HS
chọn cách viết câu lời giải gần với câu hỏi nhất đó là:

- Đọc kĩ câu hỏi.
- Bỏ chữ Hỏi đầu câu hỏi.
- Thay chữ bao nhiêu ( hoặc mấy ) bằng chữ số.
- Thêm vào cuối câu chữ là và dấu hai chấm .
Cụ thể Bài 1 trang 152
A, Câu hỏi là:

Hỏi có tất cả bao nhiêu ô tô?

Câu lời giải là:
B, Câu hỏi là:

Có tất cả

số

ô tô là :

Hỏi trên cành còn lại bao nhiêu con chim?

Câu lời giải là:

Trên cành còn lại

số

con chim là :

VD khác:
+ Câu hỏi là: Hỏi con sên bò được tất cả bao nhiêu xăng-ti-mét?

Câu lời giải là:

Con sên bò được tất cả

số

xăng-ti-mét là?

+ Câu hỏi là: Hỏi Lan còn phải đọc bao nhiêu trang nữa thì hết quyển
sách?
Câu lời giải là:

Lan còn phải đọc
17

số

trang nữa ...là:


............................................
Trên đây là 2 mẫu toán đơn điển hình của phần giải toán có lời văn ở
lớp 1.Tôi đã đưa ra phương pháp dạy từ dễ đến khó để HS có thể giải toán
mà không gặp khó khăn ở bước viết câu lời giải.Tối thiểu học sinh có lực
học trung bình yếu cũng có thể chọn cho mình 1 cách viết đơn giản nhất
bằng cụm từ: Có tất cả là :

Hoặc : Còn lại là :

Với HS khá giỏi các em có thể chọn cho mình được nhiều câu lời giải

khác nhau đúng với câu hỏi của bài toán mà không gặp khó khăn.
3.3. Một số phương pháp thường sử dụng trong dạy: "Giải bài toán có
lời văn" ở lớp Một.
a. Phuơng pháp trực quan
Khi dạy “Giải bài toán có lời văn” cho học sinh lớp 1 thường sử dụng
phương pháp trực quan giúp học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt đề toán, tìm ra
cách giải thuận lợi hơn. Đặc biệt trong sách giáo khoa Toán 1 có hai loại
tranh vẽ giúp học sinh “Giải toán có lời văn” dễ hơn, đó là: một loại gợi ra
phép cộng, một loại gợi ra phép trừ. Như vậy chỉ cần nhìn vào tranh vẽ học
sinh đã định ra được cách giải bài toán. Trong những trường hợp này bắt
buộc giáo viên phải sử dụng tranh vẽ và phương pháp trực quan.
b. Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại)
Sử dụng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề bài, tìm đường
lối giải, chữa bài làm của học sinh ...
c. Phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề.
Phương pháp này giúp các em khắc sâu những kiến thức về “Giải toán
có lời văn” . Trong quá trình giảng dạy giáo viên nên áp dụng phương pháp
dạy học này.
Vận dụng những kinh nghiệm đúc rút được qua quá trình dạy học vào
thực tế trong giảng dạy của mình trong năm học 2011 – 2012, tôi được phân
công giảng dạy lớp 1D trường Tiểu học Bạch Hạc. Kết quả đạt được sau khi
18


thực hiện các giải pháp nêu trên thể hiện qua các bài kiểm tra đánh giá cụ
thể của học sinh lớp 1D năm học 2011 – 2012 như sau :
KẾT QUẢ KHẢO SÁT
Bài kiểm tra tháng 1

Bài kiểm tra tháng 2


Bài kiểm tra tháng 3

TSHS: 18

TSHS: 18

TSHS: 18

Giỏi:

5/18 tỉ lệ: 27,8% Giỏi:

8/18 tỉ lệ: 44,4%

Giỏi: 11/18 tỉ lệ: 61,1%

6/18 tỉ lệ: 33,3%

Khá:

Khá: 6/18 tỉ lệ: 33,3%

Khá:

T.bình:5/18 tỉ lệ: 27,8%

T.bình: 3/18 tỉ lệ: 16,7%

T.bình: 1/18 tỉ lệ: 5,6%


Yếu: 2/18 tỉ lệ: 11,1%

Yếu:

Yếu:

1/18 tỉ lệ: 5,6%

6/18 tỉ lệ: 27,8%
0

+ Qua những kết quả đạt được nêu trên cho thấy số học sinh biết giải bài
toán có lời văn tăng dần. Trong thực tế giảng dạy tôi thấy các em không
những làm tốt loại toán này mà các em còn rất thích học loại toán “ Giải
toán có lời văn’’. Vì vậy tôi đã mạnh dạn đưa sáng kiến của mình cho đồng
nghiệp, tổ chuyên môn cùng tham khảo, đóng góp ý kiến và được đồng
nghiệp hưởng ứng, vận dụng luôn vào giảng dạy lớp mình.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Trong quá trình giảng dạy ở Tiểu học, đặc biệt dạy lớp 1, tôi nhận thấy
hầu như giáo viên nào cũng phàn nàn khi dạy đến phần giải toán có lời văn
ở lớp 1. Học sinh rất lúng túng khi nêu câu lời giải, thậm chí nêu sai câu lời
giải, viết sai phép tính, viết sai đáp số. Những tiết đầu tiên của giải toán có
lời văn mỗi lớp chỉ có khoảng 25% số HS biết nêu câu lời giải, viết đúng
phép tính và đáp số. Số còn lại là rất mơ hồ, các em chỉ nêu theo quán tính
hoặc nêu miệng thì được nhưng khi viết các em lại rất lúng túng, làm sai,
một số em làm đúng được phép tính thì lại viết sai câu lời giải. Chứng tỏ
các em chưa nắm được một cách chắc chắn cách giải bài toán có lời văn.
Giáo Viên phải mất rất nhiều công sức khi dạy đến phần này.
Sau khi áp dụng những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã đúc rút được vào

19


thực hiện ngay từ cuối học kỳ I ( tháng 1/ 2012), tôi nhận thấy các em rất
hào hứng và thích thú khi học dạng toán này. Vì khi các em đã hiểu và nắm
chắc cách giải thì tự nhiên các em thấy được “ Toán có lời văn” không chỉ
đơn thuần là bài học mà nó chính là những điều , những sự việc, sự vật gần
gũi thường thấy trong cuộc sống hàng ngày của các em. Nên các em cảm
thấy thích thú và thích khám phá, điều đó đã khơi dậy trong các em sự hiếu
động và sáng tạo, tìm tòi và phát hiện nhiều cách học mới. Từ đó thúc đẩy
các em thi đua nhau học tập tốt, phát huy được tính tích cực trong học tập
của các em. Đó là nguồn động viên khích lệ rất lớn, giúp tôi ngày càng cố
gắng tìm tòi phương pháp dạy học mới, những kinh nghiệm hay để chất
lượng giáo dục của lớp cũng như nhà trường ngày càng được nâng cao.
Trên đây là kết quả khảo sát học sinh sau khi đưa vào áp dụng sáng kiến
cho toàn khối 1 của trường để minh hoạ cho thành công của mình. Thực
hiện khảo sát cuối tháng 4 năm học 2011 – 2012 như sau:

20


KẾT QUẢ KHẢO SÁT
Lớp

Trước khi áp dụng SK

Sau khi áp dụng SK

1A
TSHS: 30


1B

1C

1D

TSHS: 30

Giỏi:

16/ 30

tỉ lệ: 53,3%

Giỏi:

20/ 30

tỉ lệ: 66,7%

Khá:

8/ 30

tỉ lệ: 26,7%

Khá:

7/ 30


tỉ lệ: 23,4%

T.bình: 4/ 30

tỉ lệ: 13,4%

T.bình: 2/ 30

tỉ lệ: 6,6%

Yếu:
2/ 30
TSHS: 30

tỉ lệ: 6,6%

Yếu:
1 /30
TSHS: 30

tỉ lệ: 3,3%

Giỏi:

12/ 30

tỉ lệ: 40,0%

Giỏi:


17/ 30

tỉ lệ: 56,7%

Khá:

8/ 30

tỉ lệ: 26,7%

Khá:

7/ 30

tỉ lệ: 23,3%

T.bình: 7/ 30

tỉ lệ: 23,3%

T.bình: 4/ 30

tỉ lệ: 13,4%

Yếu:
3/30
TSHS: 24

tỉ lệ: 10,0%


Yếu:
2/30
TSHS: 24

tỉ lệ: 6,6%

Giỏi:

8/ 24

tỉ lệ: 33,3%

Giỏi:

13/ 24

tỉ lệ: 54,2%

Khá:

8/ 24

tỉ lệ: 33,3%

Khá:

7/ 24

tỉ lệ: 29,1%


T.bình: 6/ 24

tỉ lệ: 25,0%

T.bình: 3/ 24

tỉ lệ: 12,5%

Yếu:

tỉ lệ: 8,3%

Yếu:

tỉ lệ: 4,2%

2/24

TSHS: 18

1/24

TSHS: 18

Giỏi:

5/18

tỉ lệ: 27,8%


Giỏi:

12/18

tỉ lệ: 66,7%

Khá:

6/18

tỉ lệ: 33,3%

Khá:

5/18

tỉ lệ: 27,8%

T.bình: 5/18

tỉ lệ: 27,8%

T.bình: 1/18

tỉ lệ: 5,6%

Yếu:

tỉ lệ: 11,1%


Yếu:

2/18

0

Năm học 2012 – 2013 tổ chuyên môn ( Tổ 1) tiếp tục đưa những kinh
nghiệm trên vào thực hiện ngay từ đầu năm học và kết quả cho thấy, học
sinh tiếp thu bài nhanh hơn, hứng thú hơn khi làm các bài tập “nhìn tranh
viết phép tính’’. Các em nhìn tranh nêu được bài toán phù hợp với tình
huống trong tranh và nêu đúng câu hỏi giáo viên đưa ra, viết đúng phép tính
thích hợp với tranh vẽ, so với cùng kỳ năm học trước.
Trên đây là kết quả khảo sát học sinh toàn khối 1 của trường vào giữa
tháng 10 năm học 2012 – 2013 như sau:
21


KẾT QUẢ KHẢO SÁT
Lớp

TSHS

Đạt điểm

Đạt điểm

Đạt điểm

Đạtđiểm


25

9 - 10
18

7-8
4

5-6
3

dưới 5
0

23
23
19

15
17
11

5
4
4

3
2
3


0
0
1

1A
1B
1C
1D

Kết quả trên càng khẳng định được những thành công của mình trong
việc đổi mới phương pháp dạy học. Tôi nghĩ rằng mình càng phải cố gắng
hơn nữa để có những phương pháp dạy học mới, những sáng kiến hay kích
thích ý thức học tập tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong học
tập. Từ đó chất lượng giáo dục của trường ngày càng được nâng lên, sánh
kịp với các trường ở trung tâm thành phố.

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận

22


Quá trình nghiên cứu và kinh nghiệm dạy toán có lời văn theo chương
trình sách giáo khoa mới, tôi nhận thấy về cơ bản nội dung sách giáo khoa
và chương trình khá phù hợp .Tất nhiên để có được kinh nghiệm dạy giải
toán có lời văn cho Học sinh lớp 1, người giáo viên phải dày công nghiên
cứu tài liệu và theo dõi HS qua nhiều năm, nắm bất được điểm yếu của HS
để tập trung khắc phục . Có như vậy việc giảng dạy và giáo dục mới thành
công như mong muốn.

Phương pháp dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 1 giúp học sinh
hoàn thiện một bài giải đủ 3 bước: câu lời giải + phép tính + đáp số là vấn
đề đang được các thầy cô trực tiếp dạy lớp 1 rất quan tâm. Vấn đề đặt ra là
giúp học sinh lớp 1 viết câu lời giải của bài toán sao cho sát với yêu cầu mà
câu hỏi của bài toán đưa ra. Chính vì vậy, tôi mạnh dạn đưa ra kinh nghiệm
mà bản thân tôi đã vận dụng vào trong quá trình dạy và đạt kết quả tương
đối khả quan. Vì vậy theo chủ quan của bản thân tôi thì kinh nghiệm này có
thể áp dụng rộng rãi cho cả cấp Tiểu học. Cụ thể khi giảng dạy giáo viên
cần:
- Phải nắm vững nội dung chương trình, nội dung bài dạy, chuẩn bị bài
giảng kỹ càng, để xác định được trong mỗi tiết học phải dạy cho học sinh
cái gì, dạy như thế nào?
- Đối với học sinh tiểu học và đặc biệt là học sinh lớp Một, cần coi trọng
sử dụng đồ dùng trực quan trong giảng dạy nói chung và trong dạy “Giải
toán có lời văn” nói riêng, tuy nhiên cũng không vì thế mà lạm dụng trực
quan hoặc trực quan một cách hình thức.
- Dạy “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp Một không thể nóng vội mà
phải hết sức bình tĩnh, nhẹ nhàng, tỉ mỉ, nhưng cũng rất cương quyết để
hình thành cho các em một phương pháp tư duy học tập đó là tư duy khoa
học, tư duy sáng tạo, tư duy lô gic. Rèn cho các em đức tính chịu khó, cẩn
thận trong “Giải toán có lời văn” nói riêng và trong học tập nói chung.
23


- Vận dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp, linh hoạt phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh.
Trên đây là quá trình nghiên cứu, áp dụng kinh nghiệm vào đổi mới
phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy giải toán có lời văn
cho học sinh lớp 1 nói riêng. Tôi hy vọng sẽ tiếp tục nghiên cứu thành công
về đổi mới phương pháp dạy Toán cũng như đổi mới phương pháp dạy học

các môn học khác và nâng cao hiểu biết cho bản thân trong quá trình dạy
học ở Tiểu học.
II. Kiến nghị
* Đối với tổ chuyên môn và nhà trường:
Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn nên lồng ghép hoặc có những buổi
sinh hoạt chuyên môn dành riêng thảo luận về vấn đề dạy học, đổi mới
phương pháp dạy học, bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém,
vấn đề rèn chữ giữ vở,… như thế nào để đạt hiệu quả cao nhất. Để giáo viên
trong tổ, trong trường có nhiều thời gian trao đổi với nhau về kinh nghiệm
và những sáng kiến hay của mình trong công tác dạy học. Nhằm thúc đẩy sự
tìm tòi, sáng tạo của giáo viên trong công tác giảng dạy. Từ đó chất lượng
dạy và học của trường ngày càng được nâng cao.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Bạch Hạc, ngày 20 tháng 10 năm 2012
Người viết

Đinh Thị Thanh Hương

TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Sách giáo khoa toán lớp 1
24


×