Tải bản đầy đủ (.docx) (78 trang)

Giáo dục ở một số nước Đông Nam Á thời thuộc địa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (389 KB, 78 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Quá trình thâm nhập của thực dân phương Tây vào Đông Nam Á với mục đích
thực dân diễn ra ngay từ đầu thế kỉ XVI. Sự giàu có về hương liệu và khoáng sản, vị
trí quan trọng về giao thông và quân sự, v.v… là những lí do chính khiến người
phương Tây “để mắt” đến và nảy sinh ý đồ thôn tính, xâm lược Đông Nam Á.
Về cơ bản, đến cuối thế kỉ XIX, tất cả các quốc gia Đông Nam Á (trừ Xiêm) đều
rơi vào tay thực dân phương Tây. Tuy nhiên, tùy theo tình hình cụ thể của mỗi nước
mà quá trình đô hộ của thực dân phương Tây ở từng nước diễn ra sớm muộn và nhanh
chậm khác nhau, với cách thức khác nhau như xâm chiếm đất đai, dùng vũ lực, gây
sức ép cả về kinh tế, chính trị lẫn quân sự, v.v…
Sau khi hoàn thành việc xâm chiếm Đông Nam Á các nước thực dân phương
Tây liền bắt tay vào thực hiện các chính sách về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội.
Trong đó, chính sách giáo dục, một nội dung của chính sách văn hóa – xã hội song có
liên quan rất lớn đến sự phát triển kinh tế, chính trị của thuộc địa, đồng thời cũng
được coi là phần trọng tâm trong chính sách cai trị. Bên cạnh nền giáo dục truyền
thống đã tồn tại lâu đời, ăn sâu bám rễ vào đời sống của người dân ở các quốc gia
Đông Nam Á như: trước khi Anh đặt ách đô hộ ở Miến Điện đã có một nền giáo dục
tồn tại qua nhiều thế kỷ - giáo dục nhà chùa hay như ở Malaya giáo dục Hồi giáo càng
không thể tách rời khỏi cuộc sống của người dân ở đây cũng như ở Philippin trước khi
người Tây Ban Nha tới hòn đảo này sự tồn tại một nền giáo dục sơ khai đã được hình
thành thông qua dạy chữ và dạy nghề cho trẻ em. Khi thực dân phương Tây đặt chân
đến và thực hiện chính sách cai trị của mình, sự xuất hiện của một nền giáo dục thế
tục mới theo mô hình phương Tây đã tạo nên những màu sắc đầy mới mẻ cho bức
tranh về giáo dục ở các nước thuộc địa, nhiều nét mới đã xuất hiện trong nền giáo dục


đó, từ hệ thống trường học, độ tuổi đến trường, nội dung các môn học đến hệ thống
quản lý hay là giáo dục dành cho nữ giới… Sự thay đổi đó đã có những tác động đối
với các nước thuộc địa, khách thể tiếp nhận nền giáo dục ấy, công bằng mà nói trong
một số khía cạnh còn tạo ra một cơ sở vững chắc cho sự phát triển toàn diện sau này
khi các quốc gia Đông Nam Á lần lượt giành được độc lập dân tộc và bước vào thời kì
xây dựng đất nước.
Sự đổi mới về văn hóa, nhất là nửa đầu thế kỉ XX đã tạo mọi tiền đề cho sự phát
triển nền văn hóa mới khi các dân tộc ở đây giành được độc lập. Có một tình hình
đáng chú ý là nếu như trong thời kì còn bị thực dân thống trị, các dân tộc Đông Nam
2


Á thường có khuynh hướng bài trừ, chống đối văn hóa phương Tây thì sau khi giành
được độc lập, các quốc gia Đông Nam Á đã tiếp nhận toàn bộ gia sản của chính quyền
thực dân để xây dựng một quốc gia độc lập theo hướng hiện đại. Trong hoàn cảnh đó,
không có con đường nào khác, họ buộc phải học theo mô hình văn hóa phương Tây
mà trước hết là mô hình của những nước trước kia đã thống trị họ [2, tr. 10]. Ở đó,
giáo dục là vấn đề lưu tâm của mỗi quốc gia trên con đường muốn xây dựng và phát
triển đất nước thịnh vượng.
Từ những lí do nêu trên cho thấy việc nghiên cứu giáo dục mang tính chất thế
tục theo mô hình phương Tây ở các nước Đông Nam Á có ý nghĩa khoa học và thực
tiễn sâu sắc, do đó chúng tôi chọn vấn đề “Giáo dục ở một số nước Đông Nam Á
thời thuộc địa” làm đề tài Khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nghiên cứu về giáo dục Miến Điện: Có nhiều tài liệu của các tác giả đã đề cập
đến giáo dục Miến Điện thời thuộc địa đặc biệt những tài liệu nước ngoài. Trong số
các công trình đó, Luận văn Thạc sĩ của tác giả Lê Thị Quí Đức: “Tình hình giáo dục
ở Miến Điện thời thuộc Anh (1854-1948)” đã trình bày một cách có hệ thống đầy đủ
tình hình giáo dục ở Miến Điện – nền giáo dục truyền thống – trước khi trở thành

thuộc địa của Anh và tình hình giáo dục ở Miến Điện thời thuộc Anh (1854-1948).
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã tiếp thu có chọn lọc luận văn để hoàn
thiện đề tài của mình, nhất là phần giáo dục Miến Điện thời thuộc Anh (1854-1948).
Cuốn sách của Vũ Quang Thiện (2005) : “Lịch sử Myanmar” đã trình bày khái
quát tiến trình của đất nước Miến Điện từ thời văn hóa đá cũ cho đến cuối thế kỷ XX.
Trong đó, tác giả đề cập về chính sách thực dân của Anh ở Miến Điện trên các lĩnh
vực nông nghiệp, công nghiệp, giáo dục… nhưng vẫn còn chung chung và mang tính
khái quát.
Nghiên cứu về giáo dục Malaya:
Bài viết của Lí Tường Vân (2011),“Chính sách giáo dục của Anh đối với cộng
đồng người Malay bản địa (từ nửa cuối thế kỉ XIX đến đầu thế kỉ XX)”,(Tạp chí
nghiên cứu Đông Nam Á, số 5), bài viết đã điểm qua vài nét quá trình xác lập quyền
cai trị của Anh ở Malaya, đặc biệt nhấn mạnh một cách chi tiết đến chương trình giáo
dục dành cho tầng lớp quý tộc Malaya và chương trình giáo dục dành cho tầng lớp
nông dân Malaya.

3


Luận văn Thạc sĩ của tác giả Võ Trần Phi Long (2015), Tình hình Malaya giai
đoạn 1786-1957 đã trình bày về tình hình Malaya giai đoạn 1786 – 1914 và tình hình
Malaya giai đoạn 1914 – 1957, trong hai giai đoạn này đã đề cập ít nhiều về lĩnh vực
văn hóa – giáo dục của Malaya.
Hay khóa luận tốt nghiệp của tác giả Dương Thị Bảo Ngọc (2016): “Chính sách
giáo dục của Anh tại Mianma (1854-1948) và Malaysia (1824-1941)”, khóa luận đã
trình bày một cách khá đầy đủ về giáo dục Mianma thời thuộc Anh (1854-1948) và
giáo dục Malaysia dưới thời thuộc Anh (1824-1941) đồng thời nêu ra một số nét
tương đồng và khác biệt về chính sách giáo dục của Anh đối với hai nước thuộc địa
này.
Lily T. K. D, Colonial education in Burma and Malaya: The move away from Indian

education policy, Malaysian Journal of History, Politics and Strategic Studies, chuyên
khảo này rút ra một số so sánh về mô hình, hệ thống giáo dục, cách quản lý của người Anh
ở Miến Điện và Malaya
Nghiên cứu về giáo dục Philippin:
Công trình “Tìm hiểu lịch sử - văn hóa Philippin” (Viện nghiên cứu Đông Nam
Á, Nxb Khoa học xã hội, 1996) đã trình bày một cách chung nhất về sự phát triển của
lịch sử và văn hóa Philippin. Trong đó có đề cập một vài nét về giáo dục Philippin
thời thuộc địa Tây Ban Nha.
Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu về Philippin giai đoạn 1571-1989
như công trình “Lịch sử Đông Nam Á” của D.E.G. Hall (Bùi Thanh Sơn, Nguyễn
Thái Yên Hương, Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn Vũ Tùng, Đoàn Thắng dịch) xuất bản
năm 1997. Công trình này đã nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các
quốc gia ở khu vực Đông Nam Á từ thời cổ đại cho đến giữa thế kỷ XX. Trong đó,
ông điểm qua những nét cơ bản về giáo dục Philippin thời thuộc Tây Ban Nha, nhất là
phần cải cách giáo dục năm 1863.
Tác phẩm “Lịch sử Đông Nam Á” (tập IV) do Trần Khánh chủ biên, xuất bản
năm 2012 đã đề cập đến lịch sử các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Philippin.
Cùng với việc trình bày về quá trình xâm lược, bành trướng lãnh thổ và thiết lập chế
độ thuộc địa của Tây Ban Nha ở Philippin, cuốn sách còn dành một dung lượng để
trình bày về chính sách khai thác thuộc địa và những hệ quả về kinh tế, xã hội đối với
Philippin, tình hình giáo dục ở thuộc địa này đã được đề cập một cách khái quát với
nền giáo dục thần quyền, thực hiện cải cách giáo dục năm 1863.

4


Đặc biệt là công trình “Giáo dục Philippin dưới thời thuộc địa Tây Ban Nha
(1571-1898)” của tác giả Ngô Thị Anh Chương (Luận văn Thạc sĩ Sử học, ĐHSP
Huế, 2014) đã đề cập một cách có hệ thống và chi tiết về tình hình giáo dục Philippin
dưới thời thuộc địa Tây Ban Nha trong giai đoạn 1571 đến 1898. Những nội dung mà

tác giả trình bày trở thành nguồn tham khảo quan trọng cho chúng tôi trong việc hoàn
thành đề tài nhất là phần giáo dục công lập ở Philippin thời thuộc địa Tây Ban Nha.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn tham khảo một số công trình, luận văn thạc sĩ của
các tác giả như: Corpuz (Xuân Huy dịch) (1979), Philippines; Lê Thị Liên (2011),
“Tình hình Philippin dưới thời thuộc địa Tây Ban Nha (1762-1898)” (Luận văn Thạc
sĩ Sử học, ĐHSP Huế).
Trong các công trình nghiên cứu nước ngoài về giáo dục Philippin dưới thời
thuộc địa Tây Ban Nha, tiêu biểu nhất có công trình “A history of education in the
Philippines 1565-1930” (Encanacion Alzona, University of the Philippin, Manila,
1932) là công trình nghiên cứu chuyên sâu về giáo dục Philippin từ 1565 đến 1930.
Tất cả những tài liệu trên chính là những nguồn tư liệu bổ ích và có tác dụng gợi
mở để giúp chúng tôi hoàn thành đề tài này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là giáo dục ở một số nước Đông Nam Á
thời thuộc địa nhưng chỉ tập trung vào nền giáo dục mang tính chất thế tục ở các nước
Miến Điện, Malaya và Philippin thời thuộc địa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Giáo dục mang tính chất thế tục ở Miến Điện:
Về không gian: nghiên cứu tình hình giáo dục ở Miến Điện giai đoạn 1854 –
1948.
Về thời gian: chủ yếu từ năm 1854 đến năm 1948. Năm 1854, người Anh kiểm
soát được Hạ Miến Điện sau cuộc chiến tranh Anh – Miến lần thứ hai (1852-1853),
thực dân Anh mới bắt đầu thực hiện chính sách giáo dục ở Miến Điện. Năm 1948 là
năm mà người Miến được giải phóng khỏi ách cai trị của chính quyền thực dân Anh,
kéo theo đó là việc chấm dứt vai trò của người Anh với tư cách là chủ thể thực hiện
chính sách giáo dục ở Miến Điện
Giáo dục mang tính chất thế tục ở Malaya:

5


Về không gian: nghiên cứu tình hình hình giáo dục ở Malaya giai đoạn 1824 –
1941.
Về thời gian: chủ yếu từ năm 1824 đến năm 1941. Năm 1824 là mốc thời gian
mà người Anh bắt đầu có những quan tâm và vạch ra những chính sách đầu tiên về
giáo dục bản địa của thuộc địa Malaya nhằm mục đích chia để trị đối với quốc gia
này. Năm 1941 trong chiến tranh thế giới thứ II kể từ khi Nhật Bản chiếm Malaya
cũng là mốc chấm dứt quyền thống trị của Anh để nhường chỗ cho Nhật Bản. Sau
khoảng thời gian này đến năm 1946 thực dân Anh lấy lại quyền kiểm soát đối với
Malaya cho đến khi Malaya được trao trả độc lập, tuy nhiên trong giai đoạn này, chính
sách giáo dục của người Anh không còn mấy quan tâm như các giai đoạn trước.
Giáo dục mang tính chất thế tục ở Philippin:
Về không gian: nghiên cứu tình hình giáo dục Philippin giai đoạn 1571-1898.
Trong đó chủ yếu là giai đoạn 1863-1898.
Về thời gian: chủ yếu từ năm 1571 đến năm 1898. Năm 1571, là năm đánh dấu
Tây Ban Nha thiết lập quyền thống trị ở Philippin và bắt đầu thành lập các trường học
trên quần đảo. Năm 1898 là năm Philippin giành được độc lập, chấm dứt vai trò chủ
thể chính trị và giáo dục của Tây Ban Nha đối với Philippin.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục tiêu của khóa luận là cung cấp về nền giáo dục mang tính chất thế tục ở một
số nước Đông Nam Á thời thuộc địa bao gồm Miến Điện, Malaya thời thuộc Anh và
Philippin thời thuộc Tây Ban Nha.
Khóa luận đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể như sau:
- Khái quát về quá trình cai trị của Anh ở Miến Điện, Malaya và Tây Ban Nha ở
Philippin.
- Khái quát về tình hình giáo dục ở ba nước Miến Điện, Malaya và Philippin thời
tiền thuộc địa.

- Nghiên cứu giáo dục mang tính chất thế tục ở ba nước Miến Điện, Malaya,
Philippin thời thuộc địa.
- So sánh, rút ra đặc điểm và tác động của nền giáo dục mang tính chất thế tục
này đối với giáo dục của ba nước trên.

6


5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi dựa vào những nguồn tài liệu như sau:
Các công trình nghiên cứu xuất bản trong nước bằng tiếng Việt như các công
trình chuyên khảo về lịch sử thế giới, lịch sử Đông Nam Á có nội dung liên quan đến
đề tài.
Các bài nghiên cứu trên các tạp chí chuyên nghành trong nước: Nghiên cứu
Đông Nam Á, Nghiên cứu Châu Âu…
Các luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp chuyên nghành lịch sử thế giới.
Các tài liệu website trên mạng có liên quan như: ,
...
5.2. Phương pháp ngiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng kết hợp phương pháp lịch
sử và phương pháp logic. Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như so sánh, phân tích, đối chiếu, tổng hợp, khái quát… nhằm đánh giá một cách
khách quan và khoa học về giáo dục mang tính chất thế tục ở một số nước Đông Nam
Á thời thuộc địa.
6. Đóng góp của đề tài

Thứ nhất: Cung cấp một số tư liệu cơ bản có tính hệ thống, đặc biệt là giáo dục

mang tính chất thế tục ở Miến Điện, Maylaya, Philippin thời thuộc địa.
Thứ hai: Rút ra một số đặc điểm, tác động của nền giáo dục mang tính chất thế
tục ở Miến Điện, Maylaya, Philippin thời thuộc địa.
Thứ ba: Là tài liệu tham khảo phục vụ cho nghiên cứu về lịch sử giáo dục Miến
Điện, Malaya, Philippin nói riêng và lịch sử Đông Nam Á nói chung.
7. Bố cục đề tài

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận
chia làm 5 chương:
Chương 1: Quá trình trở thành thuộc địa của các quốc gia Đông Nam Á từ thế kỉ
XVI đến thế kỉ XIX.
7


Chương 2: “Giáo dục thế tục” ở Miến Điện thời thuộc Anh (1854 – 1948).
Chương 3: “Giáo dục thế tục” ở Malaya thời thuộc Anh (1824 – 1941).
Chương 4: “Giáo dục thế tục” ở Philippin thời thuộc Tây Ban Nha (1571 –
1898).
Chương 5: Một số nhận xét về “giáo dục thế tục” ở một số nước Đông Nam Á
dưới thời thuộc địa.

8


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUÁ TRÌNH TRỞ THÀNH THUỘC ĐỊA CỦA CÁC QUỐC
GIA ĐÔNG NAM Á TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN THẾ KỈ XIX
Đông Nam Á là khu vực có nhiều biển đảo, tài nguyên thiên nhiên phong phú,
nằm ở vị trí chiến lược, nơi ảnh hưởng trực tiếp của hai nền văn minh lớn nhất phương
Đông là Trung Quốc và Ấn Độ nên Đông Nam Á từ rất sớm, song song với các thể chế

nông nghiệp, cũng hình thành nên những quốc gia lấy kinh tế thương nghiệp, đặc biệt là
hải thương làm cơ sở kinh tế chính yếu. Sự phát triển của các vương quốc Phù Nam (thế
kỷ I – VII), Champa (thế kỷ II – XV), Đại Việt (thế kỷ X – XVIII), Srivijaya (thế kỷ VII
– XIII), Majapahit (thế kỷ XIII – XVI), Malacca (thế kỷ XV – XVI) hay ở đảo Java (thế
kỷ XVI – XVIII)… là những minh chứng cho quan điểm đó. Như vậy trước khi thực dân
phương Tây xâm nhập vào khu vực này, tại Đông Nam Á không chỉ là các “Quốc gia
nông nghiệp” mà cả những “Quốc gia thương nghiệp”. Phần lớn những “Quốc gia nông
nghiệp” được hình thành ở vùng Đông Nam Á lục địa, ở miền trung hay hạ lưu của các
dòng sông. Trong khi đó, các “Quốc gia thương nghiệp” đều hình thành ở vùng hải đảo,
hoặc những khu vực ven biển [12, tr. 14-15].
Đông Nam Á trước ngưỡng cửa xâm nhập và thôn tính thuộc địa của phương
Tây có bức tranh kinh tế - xã hội nhiều gam màu khác nhau. Với đặc trưng bao trùm là xã
hội nông nghiệp với nền sản xuất tiểu nông, khép kín, tự cung, tự cấp là chính, nhưng ở
Đông Nam Á từ thế kỷ XIV – XVI đã có những bước chuyển lớn trong sự hình thành các
trung tâm kinh tế, đô thị thương nghiệp, trong đó hoạt động thương mại đã trở thành một
trong những hoạt động chính của các tầng lớp thị dân và giới chức cầm quyền, nhất là ở
các quốc gia hải đảo hay khu vực ven biển.
Bối cảnh chính trị và kết cấu quyền lực ở Đông Nam Á trước ngưỡng cửa xâm
nhập và thôn tính thuộc địa của phương Tây là khá đa dạng, có nhiều biến động. Trong
khi một số quốc gia phong kiến lâu đời như Đại Việt, Cao Miên (Campuchia), Burma
(Miến Điện), Majapahit (Java) và Champa (Chămpa) lần lượt có những biểu hiện suy
9


yếu, thậm chí diệt vong thì một số quốc gia khác như Ayutthaya của người Thái và Lạn
Xạng của người Lào trên đà phát triển mạnh. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia sự suy thoái diễn
ra không đồng đều về mặt thời gian.
Do nằm ở vị trí địa lý thuận lợi trong đi lại giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình
Dương, giàu có và đa dạng về tài nguyên thiên nhiên, nên từ thời Trung cổ, Đông Nam Á
đã trở thành nơi tranh giành ảnh hưởng giữa nền văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa (từ đầu

Công nguyên) và sau đó là nền văn hóa Ảrập – Batư (từ thế kỷ XIV). Các tôn giáo chính
của thế giới lúc đó là Hinđu giáo, Phật giáo và Hồi giáo đã xâm nhập sâu rộng, thiết lập
được vị trí khá vững bền trước khi người phương Tây xâm nhập và bành trướng thế lực
tại khu vực này.
Khi các nước tư bản Âu – Mĩ bước vào giai đoạn chuyển lên chủ nghĩa đế quốc
thì đây cũng là thời kỳ chế độ phong kiến ở các nước Đông Nam Á bị suy yếu, rơi vào
cuộc khủng hoảng triền miền về chính trị, kinh tế. Nhân cơ hội này, các nước thực dân
phương Tây mở rộng và hoàn thành việc xâm chiếm Đông Nam Á.
1.1.Các nước Đông Nam Á hải đảo mất độc lập
Inđônêxia vào thời trung đại, ở Giava đã ra đời các quốc gia lớn mà quyền lực
tỏa ra không những ở Inđônêxia mà cả một số nước lân cận. Nhà nước phong kiến tập
quyền Môgiôphahit tan rã vào thế kỉ XVI, khi mà bọn thực dân phương Tây (Bồ Đào
Nha) đầu tiên đặt chân đến đây.
Lợi dụng sự suy yếu, đất nước chia cắt, những cuộc xung đột vũ trang giữa các
tiểu quốc, bộ tộc; thực dân phương Tây tiến hành xâm lược đất nước rộng lớn gần 2 triệu
kilômét vuông này. Đầu tiên là thương nhân Bồ Đào Nha chiếm Malaca (1511) và lập
một số thương điếm trên các đảo, chủ yếu là Amboa và mong muốn kiểm soát ngoại
thương cả vùng Đông Nam Á. Năm 1595, phái đoàn thương mại đầu tiên của Hà Lan đến
Inđônêxia, xây dựng thương điếm, ráo riết cạnh tranh với các thương nhân ngoại quốc
khác, chủ yếu là Bồ Đào Nha. Do không đứng vững trước sự tấn công về thương mại và
ngoại giao của công ti Đông Ấn Độ của Hà Lan, nên Bồ Đào Nha phải rút khỏi nước này.
Lợi dụng mâu thuẫn giữa các tiểu vương ở Inđônêxia, Hà Lan chiếm Giacácta,
sau đổi tên là Batavia. Song các tiểu vương như Maratam, Bantam cho đến giữa thế kỉ
10


XVII vẫn không thừa nhận sự chiếm đóng của Hà Lan ở Giava. Hai vương quốc này còn
khá mạnh, nên công ti Đông Ấn Độ Hà Lan nhiều lần bị đe đọa đuổi khỏi Inđônêxia. Vì
vậy, Hà Lan tìm mọi cách chia rẽ, gây xung đột giữa 2 vương quốc này và giữa các
vương quốc khác với nhau để giữ vững và mở rộng sự chiếm đóng của mình.

Đến cuối những năm 20 của thế kỉ XVII, Hà Lan đã loại được đối thủ mạnh nhất
của mình đó là người Bồ Đào Nha trong mọi hoạt động thương mại ở Inđônêxia. Sự cạnh
tranh của người Anh khiến cho Hà Lan phải nhanh chóng xâm chiếm Inđônêxia. Việc
xâm lược đã tiến hành mạnh mẽ sau khi công ti Đông Ấn Độ của Hà Lan sụp đổ và chính
phủ trực tiếp nắm mọi quyền hành.
Vào đầu thế kỉ XIX, cùng với Pháp, Hà Lan tuyên chiến với Anh. Năm 1811,
Inđônêxia rơi vào tay Anh. Sau chiến tranh Napôlêông, năm 1814, Anh trả lại thuộc địa
cho Hà Lan. Hà Lan đẩy mạnh việc bành trướng và chiếm nốt các đảo còn lại của
Inđônêxia.
Trải qua gần 3 thế kỉ1 xâm chiếm đất đai, hoặc bằng vũ lực hay “thương lượng”
với sức ép quân sự, chính trị, kinh tế, Hà Lan đã hoàn thành việc xây dựng thuộc địa của
mình ở Inđônêxia [11, tr. 52-53].
Philippin. Trước thế kỉ XVI, cư dân Philippin dường như tách biệt với thế giới
bên ngoài, hoàn toàn xa lạ với phương Tây. Năm 1521, nhà hàng hải Bồ Đào Nha
Magienlăng trong chuyến đi vòng quanh thế giới đã cùng một toán binh sĩ Tây Ban Nha
đổ bộ lên đảo Măctan của Philippin. Rất tiếc, Magienlăng đã bị giết trong cuộc xung đột
với dân đảo.
Năm 1571, Tây Ban Nha dùng sức mạnh quân sự đánh chiếm toàn bộ Philippin
và xây dựng thành phố Manila.
Ba thế kỉ rưỡi, quần đảo Philippin nằm dưới sự thống trị của Tây Ban Nha. Nhân
dân bị bóc lột tàn tệ. Họ phải cày cấy không công cho bọn địa chủ Tây Ban Nha, chịu
thuế má nặng nề.
1 Thực tế đến năm 1904, giới cầm quyền phong kiến, các tiểu vương Inđônêxia mới công nhận chính thức

Hà Lan đô hộ.

11


Cuộc đấu tranh của nhân dân Philippin chống thực dân Tây Ban Nha không

ngừng nổ ra. Năm 1898, Hoa Kì tuyên chiến với Tây Ban Nha, nhằm chiếm các thuộc địa
Philippin, Cu ba của nước này, nhưng lại lấy danh nghĩa “bạn của Philippin”, “giúp giải
phóng khỏi ách đô hộ của nước ngoài”. Sau khi đánh thắng quân Tây Ban Nha, Hoa Kì
lại tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Philippin (1899-1902) và thiết lập sự thống trị
của mình trên quần đảo này [11, tr. 53].
Mã Lai bị các nước tư bản thực dân nhòm ngó sớm và cuối cùng trở thành “Đất
thực dân eo biển” (Straits settlements) của Anh. Từ nửa sau thế kỉ XIX, Anh đánh chiếm
các tiểu bang nằm sâu trong nội địa Mã Lai.
Năm 1874, lợi dụng việc hòa giải cuộc tranh chấp giữa Hoa kiều và nhân dân địa
phương về việc khai thác mỏ thiếc ở Prăc, Anh buộc Xuntan Pêrăc nhận sự bảo hộ của
mình. Cũng năm đó, Anh gây ra các cuộc bạo loạn ở Xêlango và Xembilan để đặt sự bảo
hộ ở hai bang này. Năm 1888 đặt nền đô hộ ở bang Pahang. Năm 1895, Anh hợp nhất 4
bang Pêrăc, Xêlango, Xembilan, Pahang thành Liên bang Mã Lai, do một viên công sứ
Anh cai trị.
Năm 1909, Anh buộc Xiêm kí kết hiệp ước Băng Cốc nhường cho mình 4 bang
Kêda, Kêlantan, Tơrenganu, và Peclixơ, rồi đặt nền đô hộ ở Giôhô. Các bang trên hợp
thành “Xứ bảo hộ ngoài Liên bang Mã Lai” [11, tr. 56].
Đến đầu thế kỉ XX, Mã Lai hoàn toàn trở thành thuộc địa của Anh, với 3 phần:
-“Đất thực dân eo biển” gồm Xingapo, Pênang, Ôênlêxây, Maclacca và Naninh,
đó là những thuộc địa trực trị.
-“Liên bang Mã Lai” gồm các bang bảo hộ Pêrăc, Xêlango, Xembilan và
Pahang.
-“Xứ bảo hộ ngoài Liên bang Mã Lai” về danh nghĩa vẫn được độc lập, song trên
thực tế thực dân Anh điều khiển mọi mặt [7, tr. 340].
Toàn bộ Mã Lai đặt dưới quyền một viên thống đốc, do vua Anh cử và trực thuộc
Bộ thuộc địa Anh.
1.2. Các nước Đông Nam Á lục địa mất độc lập

12



Nếu như các nước Đông Nam Á hải đảo lần lượt bị các nước phương Tây xâm
chiếm, trong khi đó ở các nước Đông Nam Á lục địa, tình trạng vẫn diễn ra tương tự, các
nước sớm trở thành đối tượng, nơi tranh giành ảnh hưởng và trở thành thuộc địa của các
nước phương Tây, chỉ trừ Xiêm nước thoát khỏi vòng xoáy của sự xâm chiếm đó những
vẫn là một nước bị lệ thuộc.
Miến Điện bị thực dân phương Tây dòm ngó từ lâu, vì đây là một địa điểm quan
trọng đối với tàu bè đi lại từ Ấn Độ đến Xiêm và Mã Lai.
Vào cuối thế kỉ XVI đã có một đơn vị lính đánh thuê người Bồ Đào Nha đồn trú
ở Aracan. Năm 1635, Hà Lan đặt thương điếm ở Xiriam và đến năm 1676 phải đóng cửa
vì số lãi thu ngày một giảm. Năm 1647, Anh đặt thương điếm ở Xiaram, song do sự bao
vây của Hà Lan và sự cạnh tranh của thương nhân Ấn Độ, nên đến năm 1657 phải đóng
cửa.
Từ cuối thế kỉ XVII, Anh, Hà Lan, sau đó là Pháp cạnh tranh mạnh mẽ ở vùng
bán đảo Đông Dương, đặc biệt ở Nam Miến Điện và Xiêm. Năm 1686 không thuyết phục
được vương triều Miến Điện công nhận quyền đô hộ của mình. Anh đánh chiếm đảo
Nêgra ở phía tây châu thổ Iraoađi và thực hiện mưu đồ xâm chiếm toàn bộ Miến Điện.
Hơn nữa, Ấn Độ thuộc Anh lại có đường biên giới chung với Miến Điện, nên việc làm
chủ các cảng ở Nam Miến Điện sẽ củng cố sự thống trị của Anh ở Ấn Độ. Thực dân Pháp
cũng tìm cách xâm nhập Miến Điện. Để chống lại âm mưu của Pháp, năm 1795, toàn
quyền Anh ở Ấn Độ cử đại diện của mình đến thương thuyết với vua Miến Điện, song
không thành công. Khi Miến Điện sáp nhập Atxam vào lãnh thổ của mình, thì sự căng
thẳng giữa Anh và Miến Điện ở vùng biên giới này tăng lên. Thực dân Anh quyết định
thôn tính toàn bộ Miến Điện.
Cuộc xâm lược của Anh ở Miến Điện tiến hành qua ba cuộc chiến tranh. Trong
cuộc chiến tranh lần thứ nhất (1824-1826), Anh đánh bại quân Miến Điện chiếm Aracan
Tênaxêrin, một phần Manipua và Atxam. Ngày 3-1-1826, rồi 24-2-1826, hòa ước Anh –
Miến kí kết, chiến tranh lần thứ nhất kết thúc.
Thực dân Anh lại chuẩn bị cuộc chiến tranh xâm lược thứ hai. Tháng 1-1852, lấy
cớ viên tỉnh trưởng Pêgu không chịu tiếp đón đoàn đại biểu của mình, chỉ huy hạm đội

13


Anh Lambectơ ra lệnh nổ súng, tiêu diệt toàn bộ tàu thuyền Miến Điện đậu ở Rănggun,
kể cả hành khách. Ngày 1-4-1852, không được Vua Miến Điện chấp nhận những yêu sách
vô lí trong tối hậu thư, tháng 2-1852, quân Anh tấn công chiếm Rănggun và nhiều nơi
khác, trong đó có những trung tâm lớn nhất của Miến Điện. Cuộc thương lượng giữa hai
bên không thành công vì thực dân Anh nuôi tham vọng chiếm cả Miến Điện.
Tháng 11-1885, quân Anh tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược thứ ba, chiếm
Minla, Pagan rồi nhanh chóng tiến về kinh đô Manđalây. Ngày 28-11-1885, ba đơn vị
lính Anh đổ bộ lên bờ sông. Manđalây đầu hàng. Vua Miến Điện bị bắt đày sang Ấn Độ.
Như vậy ở Miến Điện (nay là Myanmar), cuối năm 1885, thực dân Anh hoàn
thiện việc xâm lược, toàn bộ Miến Điện trở thành một tỉnh của Ấn Độ thuộc Anh.
Xiêm (nay là Thái Lan) vào nửa sau thế kỷ XIX còn là một trong những nhà
nước phong kiến mạnh ở Đông Nam Á và trở thành một đối tượng xâm lược của các
nước tư bản phương Tây.
Từ năm 1852, Xiêm kí nhiều hiệp ước với Anh, Mĩ, Pháp, Đan Mạch, Bồ Đào
Nha, Thụy Điển, Na Uy. Những hiệp ước này đều cho phép người nước ngoài được tự do
buôn bán, chịu thuế xuất nhập khẩu nhẹ, được tư do truyền đạo. Trên thực tế, Xiêm vẫn
giữ được độc lập, song đã dần dần phụ thuộc vào nước ngoài, nhất là Anh và Pháp. Đầu
thế kỉ XX, các nước lớn bắt đầu đầu tư nhiều vào Xiêm.
Xiêm có nhiều tranh chấp với Pháp, nhất là khi Pháp đã làm chủ Đông Dương.
Tuy được Anh ủng hộ, song do thế lực yếu, nên năm 1887, Xiêm buộc phải kí với Pháp
một hiệp định từ bỏ mọi quyền lợi của mình ở Campuchia, còn Pháp đồng ý cho Xiêm
chiếm các tỉnh Battamboong và Xiêmriệp.
Sự phát triển thuộc địa của Anh ở Miến Điện, Mã Lai, của Pháp ở Đông Dương
dẫn đến sự xung đột về quyền lợi giữa hai đế quốc lớn này ở Xiêm. Sau một thời gian
thương lượng, ngày 15-1-1896, hiệp ước Anh – Pháp được kí kết, quy định Xiêm là quốc
gia độc lập và trở thành khu đệm giữa các thuộc địa Anh và Pháp. Năm 1909, Xiêm lại kí
với Anh hiệp ước mới, nhường cho Anh các vương quốc chư hầu ở Mã Lai, Anh cũng từ

bỏ quyền lãnh sự tài phán và cung cấp cho Xiêm tín dụng để xây dựng đường sắt ở bán
đảo Malaca.
14


Trong hơn nửa thế kỷ (từ nửa sau thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX), nhờ thực hiện
một đường lối ngoại giao mềm dẻo, tiến hành những cải cách kinh tế, chính trị có hiệu
quả, Xiêm phát triển mạnh. Mặt khác, Xiêm lợi dụng được vị trí tương đối thuận lợi so
với các nước trong khu vực – nằm giữa hai thuộc địa của Anh và Pháp - mà tránh được
cuộc xâm lược. Tuy nhiên Xiêm vẫn là nước bị phụ thuộc nặng nề vào các nước đế quốc
nhất là Anh về kinh tế và ngoại giao.
Ở khu vực bán đảo Đông Dương, với điều ước Patenotre (1884), Pháp xác lập
quyền đô hộ ở Việt Nam. Năm 1863, Pháp gây áp lực buộc vua Campuchia phải chấp
nhận quyền bảo hộ. Sau khi gạt bỏ ảnh hưởng của Xiêm, Pháp buộc vua Nôrôđôm ký
hiệp ước năm 1884, biến Campuchia thành thuộc địa. Năm 1893, Lào trở thành thuộc địa
của Pháp. Đến đây, xem như Pháp đã hoàn thành quá trình xâm lược 3 nước Đông
Dương.


Tiểu kết:

Như vậy, sau gần 4 thế kỉ, từ khi đặt thương điếm đầu tiên vào thế kỉ XVI, thực
dân phương Tây đã hoàn thành việc xâm lược, chi phối nền độc lập của tất cả các nước
Đông Nam Á. Sử dụng vũ lực là chủ yếu, kết hợp với nhiều thủ đoạn đe dọa, mua chuộc,
các nước thực dân phương Tây đặt ách đô hộ ở Đông Nam Á và biến bọn vua quan phong
kiến thành những kẻ tay sai cho chúng. Các nước Đông Nam Á từ chế độ phong kiến (với
các hình thức và trình độ khác nhau) đã dần dần trở thành nước thuộc địa, nữa phong
kiến. Sau khi hoàn thành việc xâm lược, các nước phương Tây liền bắt tay thực hiện các
chính sách về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội ở các nước thuộc địa, trong đó có nội
dung về chính sách giáo dục với sự xuất hiện của nền giáo dục mang tính chất thế tục của

chính quyền thuộc địa.

15


CHƯƠNG 2: “GIÁO DỤC THẾ TỤC” Ở MIẾN ĐIỆN THỜI THUỘC ANH
(1854 – 1948)
2.1. Khái quát về giáo dục truyền thống (giáo dục Phật giáo) ở Miến Điện trước khi
người Anh xâm chiếm
Trước khi người Anh thực hiện chính sách giáo dục ở Miến Điện thì giáo dục
của đất nước này được thực hiện dưới hai hình thức: giáo dục trong nhà chùa và giáo
dục tại nhà. Trong đó, nam giới được giáo dục trong các nhà chùa, còn nữ giới - chỉ được
phép đến các đền miếu trong những dịp đặc biệt - được giáo dục tại tư gia. Trong hai loại
hình trên, giáo dục nhà chùa đóng vai trò chủ đạo trong nền học vấn truyền thống của
Miến Điện
Hệ thống giáo dục nhà chùa ở Miến Điện tập trung trong các kyaung – trường
học tăng viện. Học sinh trong các kyaung được gọi là kyaung-tha. Nhà chùa ở Miến Điện
trong nhiều thế kỷ không chỉ là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của người dân mà còn là
trường học chính, giáo dục con em người Miến và các tộc người theo Phật giáo khác tại
Miến Điện. Nói cách khác, kyaung đảm nhận hai vai trò, vừa là trường học vừa là các
ngôi chùa.
Ở Miến Điện, trong mỗi làng bản hay thành thị đều có trường học nhà chùa
(kyaung), độc lập với sự kiểm soát của chính quyền trung ương. Vì vậy, chương trình
giáo dục cũng như chất lượng của nội dung kiến thức được truyền dạy ở đây là không
hoàn toàn đồng nhất. Bởi trong các kyaung, hoạt động giảng dạy được tiến hành mà
không có bất cứ một giáo trình giảng dạy hay một hình thức kiểm tra đánh giá tập trung
nào. Tất cả đều nằm trong tay các sư trụ trì (abbot) cũng đồng thời là hiệu trưởng của
trường học nhà chùa.
Về độ tuổi đến trường: Theo truyền thống, độ tuổi đi học của trẻ em Miến Điện là
từ 8 tuổi và kết thúc lúc 20 tuổi - khi người học hoàn thành chương trình giáo dục cơ bản.

Sau đó, họ có thể lựa chọn một trong hai con đường: một là, trở về cuộc sống bình thường
của người dân; hai là, tiếp tục cuộc sống tu học tại chùa với tư cách là một nhà sư thực sự .
16


Về hệ thống giáo dục: Bậc tiểu học là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục
nhà chùa ở Miến Điện. Sau khi hoàn thành chương trình tiểu học ở các kyaung với những
bước chuẩn bị ban đầu cho cuộc sống tu hành, người học sẽ chuyển lên giai đoạn trung
học (ko-yin).
Về nội dung giáo dục: giáo dục truyền thống ở Miến Điện đồng nghĩa với việc
nghiên cứu về đạo đức, giáo lý Phật giáo, về đặc điểm, sự phát triển của đạo đức và
tinh thần. Các môn học liên quan đến Phật giáo thường được giảng dạy ở bậc tiểu học
trong các kyaung ở Miến Điện bao gồm:
1. Những bài thơ mô tả về chiến thắng của Đức Phật đối với Mara “ma quỷ”.
2. Kinh Mangala-sutta (Kinh Điềm lành - Phước đức - Hạnh phúc).
3. Kinh Singalovada-sutta: là lời khuyên của Đức Phật dành cho những người
đàn ông trẻ.
4. Lokaniti: đề cập đến những quy tắc và nguyên tắc đạo đức người tu hành.
5. Shin kyint wut: đề cập đến những quy tắc, quy định đối với một Samabera người mới tu.
6. Parritta: là một tập hợp các bài diễn thuyết được lựa chọn trong kinh điển Pali.
Để việc tìm hiểu, học tập, tiếp thu những nội dung của các văn bản Phật giáo
trên được diễn ra thuận lợi, các kyaung-tha sau khi vào học ở kyaung, đầu tiên, họ sẽ
được dạy đọc và viết chữ Miến Điện.
Ở bậc tiểu học, môn số học được đưa vào giảng dạy. Ngoài những văn bản liên
quan đến Phật giáo, các môn học thế tục cơ bản của kyaung ở bậc tiểu học được thể hiện
trong công thức 3 R (read, write, arithmetic - đọc, viết, số học).
Đến bậc trung học, người học sẽ có cơ hội được tìm hiểu những văn bản quan
trọng của Phật giáo bao gồm: ngữ pháp Kaccayana, Abhidhamma tthassangaha và
17



Patimokkha. Nhiều môn học thế tục được đưa vào chương trình giảng dạy ở bậc trung
học, ngoài 3 R còn có các môn: thiên văn học (astrology), y học (medicine), toán học
(mathematics), phép thuật (magic) và pháp luật (law) [5, tr. 40]. Nhưng số lượng kyaung
cung cấp những môn học này ở Miến Điện là rất hạn chế (chỉ có trường Lokuttara ở
Toungoo và trường Bagaya ở Amarapuran).
Đối với những người có kế hoạch ở lại lâu dài trong các kyaung sẽ được cung
cấp một chương trình học mang tính chuyên biệt, tập trung chủ yếu vào giáo pháp
(Dhamma) và giới luật (Vinaya). Thiên văn học và y khoa vẫn tiếp tục được nhấn mạnh
trong chương trình giảng dạy ở bậc học này. Ngoài các kiến thức trên, các trường học ở
thành thị còn cung cấp những kiến thức về lễ nghi hoàng gia, xây dựng và các hoạt động
sản xuất khác [5, tr. 40]. Đây được xem là những môn học rất cần thiết trong cuộc đời
của một nhà sư Miến Điện.
Nhìn chung, mặc dù các môn học thế tục được đưa vào chương trình học trong
các kyaung nhưng số lượng cũng như phạm vi giảng dạy của chúng rất hạn chế. Nội dung
giảng dạy của các trường chùa chủ yếu vẫn là những văn bản liên quan đến Phật giáo,
nhằm mục đích phát triển đạo đức và tinh thần cho người học, định hướng cho họ trở
thành những nhà sư trong tương lai.
Về phương pháp học tập - đánh giá: học sinh thường học một văn bản nhiều lần
dưới sự hướng dẫn của một hoặc nhiều giáo viên khác nhau cho đến khi nắm vững nó.
Sau quá trình “đào xới” và nắm vững các văn bản đó, người học được gọi là
Kyangyipauk. Một trong những đặc trưng của phương pháp nghiên cứu văn bản không
chính thức trong nền giáo dục truyền thống ở Miến Điện là việc không có hình thức kiểm
tra, đánh giá chính thức nào được áp dụng cho các trường chùa trong toàn quốc.
Về cách thức quản lý: Giáo dục nhà chùa ở Miến Điện luôn nhận được sự bảo
trợ của hoàng gia Miến Điện. Nhưng các sư trụ trì - hiệu trưởng các kyaung vẫn hoàn
toàn có quyền kiểm soát về cả hoạt động hành chính lẫn công tác giáo dục trong các cơ
sở giáo dục của họ.
18



Về giáo dục nghề nghiệp: Kyaung nhận thấy rằng không cần thiết để đưa giáo dục
nghề nghiệp vào nội dung giảng dạy chính thức ở các trường học, người học sẽ tự tìm hiểu
thông qua việc học nghề ngay tại các cơ sở nghề khác nhau.
Về giáo dục thể chất: Trước thế kỷ XIX, cuộc sống cộng đồng trong xã hội Miến
Điện đã cung cấp những điều kiện thích hợp để thanh niên Miến Điện có thể rèn luyện về
thể chất. Hầu như mọi thanh niên Miến Điện lúc bấy giờ đều thành thạo các môn bơi lội,
cưỡi ngựa, đấu kiếm, đấu vật, đấm bốc kiểu Miến….
Về giáo dục cho nữ giới: Người Miến đề cao một người phụ nữ chu toàn việc nội
trợ hơn là một người phụ nữ biết đọc viết. Vì vậy, ở Miến Điện, tỷ lệ về trình độ văn hóa
của phụ nữ là rất thấp. Dù phần đông nữ giới Miến Điện không có khả năng đọc viết, song
họ là những người có giáo dục.
Đến thế kỷ XVII, giáo dục truyền thống Miến Điện chứng kiến một sự thay đổi
mang tính bước ngoặt. Đó là sự chuyển đổi từ phương pháp nghiên cứu không chính thức
(như đã đề cập ở trên) sang phương pháp đánh giá chính thức với các giáo trình chung và
các kỳ thi tập trung. Dưới thời trị vị của vua Thalun, nhà vua ra lệnh áp dụng các kỳ thi kiểm tra chính thức nhằm loại khỏi Sangha những thành viên không đủ trình độ, qua đó,
bổ sung nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của đất nước lúc bấy giờ.
Đến thời trị vị của vua Bodawpaya (1782 - 1819), một lần nữa, việc áp dụng các
kỳ thi chính thức được nhà vua đưa ra với hoàn cảnh và mục đích tương tự như dưới thời
vua Thalun. Dưới thời Bodawpaya, kỳ thi tập trung này được mang tên là Pathamapyan.
Thí sinh tham dự kỳ thi được gọi là Pathamasar taw pyan - “thí sinh tuyệt vời của kỳ thi
hoàng gia”[5, tr. 40]. Đồng thời, vua Miến còn ra lệnh khen thưởng cho các thí sinh tham
gia kỳ thi cả về vật chất lẫn địa vị xã hội.
Từ thế kỉ XVII cho đến trước khi Anh kiểm soát hoàn toàn Miến Điện, hình thức
giáo dục truyền thống trong các tăng viện vẫn được duy trì khá mạnh, song song với sự
phát triển hạn chế của hình thức giáo dục do nhà nước kiểm soát. Sự tồn tại hàng nghàn
năm của hệ thống giáo dục nhà chùa thông qua các kyaung có ý nghĩa rất quan trọng đối
19



với xã hội Miến Điện.
2.2. Tình hình giáo dục Miến Điện thời thuộc Anh (1854 - 1948)
2.2.1. “Giáo dục thế tục” trong giáo dục nhà chùa ở Miến Điện thời thuộc Anh
Nếu trong thời kỳ từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XIX, việc áp dụng các
kỳ thi chính thức trong nền giáo dục nhà chùa ở Miến Điện luôn vấp phải sự phản đối
của Sangha, thì cục diện đó đã hoàn toàn thay đổi trong thời gian cầm quyền của vua
Mindon (1853 - 1878).
Mindon không chú trọng thay đổi về giáo trình của kỳ thi mà chủ yếu tập trung
vào hình thức của nó. Từ hai cấp độ: Laung Pazin cho nhà sư và Laung Slzin cho người
mới tu dưới thời Bodawpaya, Mindon đã chuyển thành bốn cấp độ: Pathanagne (cơ
bản), Pathamalat (trung bình), Pathamagyi (nâng cao) và mức cao nhất, Pathamakyaw.
Trong đó, Pathamakyaw không có giáo trình riêng biệt. Đây là danh hiệu được trao cho
người vượt qua và giành được điểm cao nhất trong kỳ thi cấp Pathamagyi [5, tr. 46].
Các giáo trình của kỳ thi Pathamapyan được thiết kế để học sinh hoàn thành bậc tiểu
học có được một nền tảng vững chắc về tiếng Pali và Abhidamma-pitaka ( Vi diệu pháp
tạng). Trong kỳ thi Pathamapyan diễn ra vào năm 1874, có gần một nghìn thí sinh tham
dự.
Đến thời Thibaw (1878 - 1885), các kỳ thi Pathamapyan tiếp tục được tổ chức.
Và lần đầu tiên, Thibaw áp dụng thêm hình thức kiểm tra viết bên cạnh hình thức đọc
thuộc lòng và vấn đáp trước đây, tuy nhiên các kỳ thi này chỉ tồn tại đến năm 1884.
Trong giai đoạn đầu thôn tính được Miến Điện người Anh đã bỏ đi kì thi
Pathamapyan nhưng đến năm 1895, chính quyền Anh đã cho khôi phục lại kỳ thi
Pathamapyan vì nhận thấy tầm quan trọng của Phật giáo trong hệ thống giáo dục bản địa.
Trong thời kỳ Miến Điện thuộc Anh vào năm 1905, số lượng thí sinh là hơn
400 người, đến năm 1912 là 1200 người. Trong những năm 1930, số lượng thí sinh
tham gia vào kỳ thi Pathamapyan là khoảng 3500 người mỗi năm. Trong số đó có 1/4
20


đến 1/3 thí sinh vượt qua kỳ thi này.

Hình thức của kỳ thi Pathamapyan thời thuộc Anh vẫn giữ nguyên như trong
triều đại của Mindon và Thibaw với bốn cấp độ. Người đạt được danh hiệu
Pathamakyaw sẽ được trao bằng chứng nhận có chữ ký của Phó Toàn quyền, và các
quan chức thực dân cao nhất ở Miến Điện. Bên cạnh đó còn có phần thưởng bằng
tiền: 50; 75; 100 và 150 rupi tương ứng cho thí sinh vượt qua từng cấp độ trong kỳ
thi Pathamapyan.
Không chỉ dừng lại ở việc khôi phục kỳ thi Pathamapyan, chính quyền thuộc địa
còn muốn thành lập một viện đại học hiện đại phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu của
các nhà sư Miến Điện vào thời gian ấy. Điểm đáng lưu ý là người Anh không những
không cản trở việc dạy và học chữ Pali, mà còn khuyến khích chúng. Ngoài ý nghĩa duy
trì nền học vấn chữ Pali và những giá trị văn hóa của nó, người Anh muốn người Miến
theo học chữ Pali để họ gắn bó hơn với văn hóa Ấn Độ [9, tr. 249]. Đây chính là mục
đích sâu xa trong chính sách mà chính quyền thực dân thực hiện tại Miến Điện.
Như vậy, ở Miến Điện thời thuộc Anh, nền giáo dục nhà chùa vẫn tiếp tục tồn tại
và có những thay đổi quan trọng khi toàn bộ lãnh thổ trở thành thuộc địa của Anh, với
những toan tính của chính quyền thực dân, nền giáo dục nhà chùa với kỳ thi tập trung nói
trên vẫn tiếp tục được duy trì và thậm chí còn đạt được những kết quả lớn hơn so với thời
kỳ trước đó.
2.2.2. Quá trình thành lập hệ thống giáo dục ở Miến Điện thời thuộc Anh
2.2.2.1. Giai đoạn 1854 – 1898
Cải tiến hệ thống giáo dục Miến Điện…
Trước cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai (1852-1853), người Anh đã thực
hiện chính sách không can thiệp (laissez – faire) trong lĩnh vực giáo dục ở Miến Điện. Họ
tránh việc cản trở những hoạt động của các kyaung cũng như chưa có kế hoạch xây dựng
một hệ thống giáo dục theo mô hình phương Tây ở đất nước Phật giáo này.

21


Tuy nhiên, từ năm 1854, khi đã làm chủ được khu vực Hạ Miến, lần đầu tiên,

nhà cầm quyền Anh tìm cách mở rộng ảnh hưởng của họ đối với hệ thống giáo dục ở
Miến Điện. Chính sách này được thể hiện trong tuyên bố của Ban Giám đốc Công ty
Đông Ấn Anh (Board of Directors of the British East India Company) năm 1854: “Việc
truyền bá một nền giáo dục cho đông đảo nhân dân (Miến Điện) là mục tiêu trong chính
sách của chính phủ, để truyền tải những kiến thức hữu ích và thực tế, phù hợp với mọi
hoàn cảnh của đời sống, đối với đại đa số quần chúng nhân dân” [5, tr. 49]. Qua đó, 1)
đào tạo nguồn nhân lực bản xứ phục vụ cho ý đồ thống trị thực dân của người Anh, 2)
truyền bá những kiến thức phương Tây vào Miến Điện.
Tuyên bố trên chính là nền tảng trong chính sách giáo dục của Anh ở những khu
vực thuộc quyền quản lý của họ ở Miến Điện, đánh dấu việc từ bỏ chính sách không can
thiệp đối với giáo dục trước đây.
Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của các kyaung đối với giáo dục Miến
Điện, thực dân Anh sau khi chiếm được Hạ Miến Điện năm 1854 đã không vội vàng xóa
bỏ hệ thống giáo dục nhà chùa (kyaung). Thay vào đó, họ sử dụng chúng như một công
cụ để truyền bá kiến thức, trong đó, có việc thế tục hóa những kiến thức khoa học tự
nhiên và luật pháp phương Tây. Điều đó có nghĩa là chính quyền thuộc địa tiến hành xây
dựng nền giáo dục theo phong cách phương Tây ngay trong các kyaung ở Miến Điện.
Đồng thời, để thực hiện kế hoạch này, chính quyền thuộc địa còn cung cấp ngân sách
cũng như phương tiện dạy học cho các trường học nhà chùa.
Đến năm 1866, chính sách giáo dục của Anh ở Miến Điện có một số thay đổi.
Ủy viên trưởng của Miến Điện thuộc Anh (Commissioner of British Burma) – Arthur
Phayre tiến hành xây dựng một kế hoạch nhằm hệ thống hóa giáo dục Miến Điện theo
kiểu phương Tây. Theo đó, sẽ tiến hành kết hợp các môn học thế tục ở bậc tiểu học với
việc giảng dạy và rèn luyện đạo đức, kỷ luật – những trụ cột của giáo dục kyaung ở Miến
Điện. Phayre đã cung cấp giáo trình của các môn học thế tục như số học, bảng chữ cái,
ngữ pháp cơ bản cho các nhà sư để thêm vào chương trình giảng dạy ở các kyaung. Để
thuận lợi hơn cho các nhà sư, Phayre còn sử dụng các giáo sĩ truyền giáo dòng Baptist
của Mỹ dịch những giáo trình trên sang tiếng Miến. Đồng thời, nhà nước còn cung cấp
tiền, thiết bị để xây dựng trường sở.
…Đến hệ thống giáo dục công lập.

Dù chính quyền thuộc địa có những sự chuẩn bị khá chu đáo về xây dựng kế
hoạch, chu cấp về vật chất, chuẩn bị giáo trình để cải tiến giáo dục truyền thống (giáo dục
Phật giáo) ở Miến Điện, song rất ít nhà chùa ở Miến Điện chấp nhận sự trợ giúp trên hoặc
22


đồng ý đưa các môn học thế tục vào chương trình giảng dạy của họ. Mãi đến năm 1871
mới chỉ có 46 kyaung thông qua kế hoạch của Phayre.
Chính sự thất bại này đã khuyến khích chính quyền thuộc địa Anh từ bỏ kế
hoạch cải tiến hệ thống giáo dục Miến Điện thông qua các kyaung. Thay vào đó, Anh đã
cho thành lập các trường công và trường tư tồn tại độc lập, song song với trường chùa.
Các môn học trong hệ thống giáo dục mới này cũng bao gồm 3 R, và đặc biệt không cung
cấp những giáo trình về đạo đức và kỷ luật. Trước sự lo sợ bị đồng hóa về văn hóa, trong
thời gian này, giới tu sĩ nhà chùa ở Miến Điện đã ra lệnh cấm các tăng viện đưa các môn
học thế tục vào hệ thống kyaung. Tuy nhiên, trước sức ép công việc trong tình hình mới,
ngày càng có nhiều con em người Miến theo học các trường phổ thông với nền giáo dục
thế tục công lập [9, tr. 249].
Hệ thống trường học, bậc học: Hệ thống trường học thế tục tiếp tục được hoàn
thiện năm 1880 với những nổ lực của Ban Giáo dục Ấn Độ (Educational Department of
the Indian Government). Theo đó, hệ thống trường học được tổ chức theo chín tiêu chuẩn
(nine standards) và chia thành hai bậc: tiểu học và trung học.
Bậc tiểu học, từ tiêu chuẩn I đến tiêu chuẩn IV, dành cho trẻ em từ 6 đến 10 tuổi.
Các trường tiểu học được thành lập với hai nhiệm vụ: 1. tiến hành giảng dạy các môn học
đọc, viết, số học và đo đạc đất đai – những môn học này dạy người nông dân những kỹ
năng để họ có thể tiến hành hoạt động sản xuất nông nghiệp thuận lợi hơn; 2. cung cấp
cho người học các cơ hội và phương tiện để tiếp tục tham gia vào những bậc học cao hơn
trong bậc thang giáo dục [5, tr. 51].
Bậc trung học được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn 1, từ tiêu chuẩn V đến
tiêu chuẩn VII, dành cho trẻ em từ 10 đến 13 tuổi và giai đoạn 2, từ tiêu chuẩn VIII đến
tiêu chuẩn IX, dành cho trẻ em từ 13 đến 15 tuổi. Ở các trường này, ngoài 3 R, trong nội

dung giảng dạy còn giới thiệu các môn học về lịch sử nước Anh và nghiên cứu hiến pháp
Anh.
Ngôn ngữ và giáo viên giảng dạy: Ngoài nội dung giảng dạy thì sự khác biệt
giữa bậc tiểu học và bậc trung học trong hệ thống giáo dục do chính quyền thuộc địa xây
dựng còn ở ngôn ngữ và giáo viên giảng dạy. Ở bậc tiểu học, các môn học được giảng
dạy bằng tiếng Miến – tức là ngôn ngữ được nói bởi tất cả người Miến và hầu hết các dân
tộc thiểu số ở Miến Điện. Tiếng Anh được dạy như một môn học đặc biệt dành cho những
người có kế hoạch tiếp tục theo đuổi việc học ở bậc trung học. Những người Anh bản địa
được giao nhiệm vụ giảng dạy tiếng Anh bởi nếu không “người học sẽ không phát âm
được một cách chính xác”. Trong khi đó, tất cả các tài liệu giảng dạy ở bậc trung học đều
23


bằng tiếng Anh. Những giáo viên người Miến chỉ được dạy ở bậc tiểu học, còn bậc trung
học, giáo viên là người Anh hoặc người Ấn Độ.
Loại hình trường học: Vào những thập niên cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, do
nhu cầu phát triển thị trường việc làm và lao động, làm cho chính phủ thuộc địa quan tâm
nhiều hơn vào giáo dục và đào tạo, trong đó có việc mở rộng trường dạy song ngữ Anh –
Miến. Chính nhu cầu đó đã thúc đẩy nhiều học sinh Miến Điện chuyển hướng sang các
trường dạy song ngữ Anh – Miến của chính phủ. Trường song ngữ kiểu này đầu tiên được
chính phủ thành lập ở Rangoon vào năm 1873.
Từ đó, Miến Điện tồn tại ba loại hình trường học do chính quyền thuộc địa xây
dựng:
1. Trường bản ngữ, trong đó ngôn ngữ giảng dạy là tiếng Miến.
2. Trường song ngữ Anh – Miến, trong đó tiếng Anh được sử dụng trong giảng
dạy như một ngôn ngữ thứ hai và các ngôn ngữ dùng để giảng dạy là tiếng Anh và tiếng
Miến.
3. Trường Anh ngữ, trong đó ngôn ngữ giảng dạy là tiếng Anh, còn tiếng Miến là
ngôn ngữ thứ hai.
Hệ thống giáo dục trên đây của chính quyền thuộc địa tiếp tục được duy trì cho

đến năm 1898. Nó được xem là xương sống của nền giáo dục phương Tây ở Miến Điện.
Giáo dục Đại học (cao đẳng – dự bị đại học, đại học): Một bộ phận không thể
thiếu trong hệ thống giáo dục mới của Anh ở Miến Điện là giáo dục đại học. Đó là kết
quả của các biện pháp nhằm cải tổ giáo dục – thúc đẩy nhanh quá trình Âu hóa giáo dục,
được Hội đồng thanh tra thuộc Ban giáo dục của chính phủ Anh tại Ấn Độ (the
Education Department Board of Examiners of the British government in India) ban hành
năm 1880. Cùng với việc tổ chức hệ thống giáo dục ở Miến Điện thành chín tiêu chuẩn,
Hội đồng đã quyết định tạo điều kiện để phát triển trường trung học chính phủ Rangoon
(thành lập năm 1873) thành một “khoa Đại học”. Khoa này, liên kết với Đại học Calcutta
(Ấn Độ) có chức năng như một trường dự bị đại học hay cao đẳng, chuẩn bị cho sinh viên
những nền tảng cần thiết để tiếp tục theo đuổi hoạt động nghiên cứu ở bậc đại học. Đến
năm 1884, khoa này phát triển lên trở thành trường cao đẳng công lập đầu tiên ở
Rangoon với tên gọi trường Cao đẳng Rangoon.
Nội dung giảng dạy của trường cao đẳng Rangoon bao gồm các môn học về
nghệ thuật tự do (liberal arts), luật pháp, và tiếng Anh. Đến năm 1918, chỉ có 400 sinh
viên từ Miến Điện trúng tuyển vào trường Đại học Calcutta. Trong số đó, có nhiều sinh
24


viên là người Ấn Độ hoặc những người lai hai dòng máu Ấn – Anh sinh sống ở Miến
Điện.
2.2.2.2. Giai đoạn 1898 – 1942
Trải qua gần nửa thế kỉ tồn tại, đến năm 1898, hệ thống giáo dục của Anh ở Miến
Điện đã có sự thay đổi, khi George Curzon được bổ nhiệm làm Toàn quyền tại Ấn Độ
(1898-1905). Chính sách giáo dục do G.Curzon ban hành nhằm mục đích tăng cường cơ
sở hạ tầng cho giáo dục cũng như mở rộng sự quan tâm của chính phủ đối với giáo dục
nghề nghiệp cho người dân Miến Điện.
Xuất phát từ sự giảm sút học sinh cũng như số lượng trường học thế tục. Khi mà
nền giáo dục phương Tây chưa chú trọng đến đúng mức giáo dục tiểu học và chương
trình giảng dạy bằng ngôn ngữ bản địa thì nhiều người dân Miến đã đưa con em họ quay

trở lại học tập trong các kyaung. Đặc biệt, kinh phí mà chính phủ Anh ở Ấn Độ cung cấp
cho giáo dục tiểu học ở Miến Điện không phải lúc nào cũng được sử dụng đúng mục
đích. Do đó, chính sách của G.Curzon trước hết tập trung vào việc mở rộng cơ sở hạ tầng
cho giáo dục tiểu học. Kết quả của những biện pháp đó là sự gia tăng trở lại số lượng của
học sinh, cũng như các trường thế tục vào đầu thế kỷ XX. Trong đó, số lượng trường học
đã tăng từ 4250 trường lên 5316 trường, số lượng học sinh tăng từ 127.066 em lên đến
280.990 em trong giai đoạn 1901-1911 [5, tr. 56].
Thành lập các trường nghề: Điểm đáng lưu ý thứ hai là do các nhà chức trách
thuộc địa nhận thấy rằng nền giáo dục mà họ áp dụng ở Miến Điện trong gần nửa thế kỷ
qua quá thiên về phương diện học thuật mà ít mang tính thực hành. Từ đó, G.Curzon
nhấn mạnh tầm quan trọng của các trường nghề, đặc biệt là các trường về nông nghiệp.
Kết quả là, đến năm 1900, chính quyền thuộc địa đã thành lập được mười trường dạy
nghề và kỹ thuật, trong đó có năm trường đào tạo giáo viên, hai trường khảo sát trắc địa
thuộc Cục quản lý đất đai và nông nghiệp, một trường lâm nghiệp, một trường đào tạo nữ
hộ sinh và trường kỹ sư. Năm 1907, một trường y khoa đã được thành lập ở Rangoon.
Đến năm 1924, trường dạy nông nghiệp đầu tiên của Miến Điện mới được thành lập.
Thành lập một trường Đại học ở Miến Điện (trường Đại học Rangoon): Trước
tình hình rất ít sinh viên Miến Điện có thể tham gia học tập ở trường đại học Calcutta,
nhà chức trách Anh đã thành lập các trường học khác phục vụ cho giáo dục đại học. Đến
đầu thế kỷ XX, các trường đào tạo giáo viên, kỹ sư, lâm nghiệp viên, nữ hộ sinh được
thành lập. Tất cả các trường học này đều được giảng dạy bằng ngôn ngữ địa phương. Các
nhà truyền giáo dòng Baptist cũng mở một trường cao đẳng nhỏ cho người Karen –
trường Cao đẳng dòng American Baptist, ở Rangoon
25


×