Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Bai tap 2 PPLNCKH giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.33 KB, 16 trang )

THUYẾT MINH ĐỀ TÀI
1.Tên đề tài:
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan
hành chính nhà nước hiện nay.
2. Tính cấp thiết của đề tài:
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta
đều thống nhất về vai trò, vị trí của nhân dân, khẳng định quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở: “Nước ta là một
nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân...
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân cử ra” [29, tr.698]. Điều
2, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi: “Nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực của
mình thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp
là hình thức thể hiện ý chí trực tiếp của chủ thể quyền lực về những vấn đề chính
yếu, cơ bản của một tập thể, một cộng đồng, một xã hội. Các cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm ghi nhận ý chí đó và bảo đảm đưa vào thực hiện trong cuộc sống. Dân
chủ đại diện là hình thức thể hiện ý chí không trực tiếp từ chủ thể quyền lực mà
thông qua đại diện do chủ thể bầu ra để thực hiện quyền do chủ thể uỷ thác. Nhân
dân (chủ thể quyền lực) có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, cá
nhân đại diện cho mình để thực hiện quyền lực nhà nước nhằm hạn chế sự tuỳ tiện,
lạm dụng ở đó.


Quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua cơ quan nhà nước và là của
nhân dân, do đó cần phải được nhân dân giám sát. Văn kiện Đại hội Đảng toàn
quốc khoá X nêu rõ: “Phát huy vai trò của cơ quan dân cử, mặt trận Tổ quốc, các tổ
chức chính trị- xã hội và nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức cơ quan
công quyền” “Công khai các quy định về thủ tục hành chính để dân biết, thực hiện
và giám sát”, khẳng định: “Hoạt động của Đảng và Nhà nước phải chịu sự giám sát


của nhân dân” [18, tr.304]. Điều 8, Hiến pháp 1992 quy định: “Các cơ quan nhà
nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân
dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân
dân”. Điều này xuất phát từ thực tiễn của tiến trình dân chủ hoá xã hội, thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế; xuất phát từ yêu
cầu xây dựng nền hành chính trong sạch, vững mạnh, tinh gọn và thuận tiện; xuất
phát từ thực trạng mất dân chủ, cửa quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng, lãng
phí, sách nhiễu nhân dân của một số cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước; xuất
phát từ nguyên tắc các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước phải bị giám sát để
quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân.
Mặc dù quan điểm, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước được thể hiện
rõ ràng, song hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước là rất phức tạp, đa dạng
nên bên cạnh những ưu điểm, thành tựu của chương trình cải cách hành chính giai
đoạn 2001-2010 đạt được, thì còn tồn tại những hạn chế, bất cập, đòi hỏi phải tiếp
tục hoàn thiện, trong đó hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ
quan hành chính nhà nước là một nội dung hết sức quan trọng. Bởi chỉ có sự giám
sát chặt chẽ của nhân dân thì mới giải quyết triệt để được mọi hành vi sách nhiễu,
cửa quyền, lạm quyền, tham nhũng, tiêu cực của cơ quan hành chính nhà nước. Chỉ
khi những hành vi trên bị ngăn chặn, xử lý nghiêm minh, kịp thời thì nền dân chủ


xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân mới thực sự được thực hiện và phát
huy trong thực tế.
Giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước có mục đích là
phòng ngừa, phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật, vi phạm quyền công dân của cơ
quan công quyền. Nhân dân có quyền kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo đối với
cơ quan hành chính nhà nước. Đó không chỉ là phương tiện giám sát có hiệu quả
việc tuân thủ pháp chế và kỷ luật trong hoạt động quản lý nhà nước mà còn là biện
pháp có tính pháp lý hữu hiệu bảo đảm các quyền tự do và lợi ích hợp pháp của
công dân, tổ chức khi bị vi phạm.

Nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền là cán bộ, công chức chỉ được
làm những gì pháp luật cho phép và mọi hoạt động của cơ quan nhà nước phải chịu
sự giám sát của nhân dân. Song, tình trạng một số cơ quan hành chính nhà nước và
cán bộ, công chức ở đó lạm quyền, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, vi phạm pháp
luật diễn ra có lúc, có nơi rất nghiêm trọng gây bức xúc trong dư luận xã hội. Thực
trạng đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là do thiếu sự giám sát
cần thiết của nhân dân. Để nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình với tư cách
là chủ thể của quyền lực nhà nước, chống lại nguy cơ cơ quan phục vụ dân chuyển
thành cơ quan đứng trên dân, đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật về giám sát của
nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. Mặt khác về phương diện khoa học
pháp lý, hoạt động giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước
cũng phải dựa trên cơ sở pháp luật. Trong khi đó pháp luật về giám sát của nhân
dân đối với cơ quan hành chính nhà nước còn có nhiều bất cập, hạn chế khiến việc
thực hiện còn thiếu hiệu lực, hiệu quả đòi hỏi phải được tiếp tục hoàn thiện. Từ
những căn cứ và lý do trên, tôi chọn đề tài “Giải pháp hoàn thiện pháp luật về
giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước hiện nay” làm luận
văn Thạc sỹ.


3. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Giám sát và nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát đối với cơ quan nhà
nước được đề cập nhiều trong các công trình và diễn đàn khoa học, trên các sách,
báo, tạp chí và được phổ biến khá rộng rãi trong xã hội. Có thể nêu một số công
trình tiêu biểu sau đây:
- Sách chuyên khảo: Tiến sỹ Phạm Ngọc Kỳ (1996), “Về quyền giám sát tối
cao của Quốc hội”; Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát của một số
nước trên thế giới, sách tham khảo (2001) Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; “Giám
sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước” của Đào Trí Úc và Võ
Khánh Vinh (đồng chủ biên) (2003), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; PGS.TS
Nguyễn Đăng Dung (2005) “Sự hạn chế quyền lực Nhà nước”, PGS.TS Nguyễn

Đăng Dung (2006), “Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước”...
- Đề tài nghiên cứu cấp bộ: “Vấn đề nhân dân giám sát các cơ quan dân cử ở
nước ta hiện nay” của Viện Khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
- Luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ: “Nâng cao hiệu lực hoạt động giám
sát của HĐND cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn
Thạc sĩ Luật của Vũ Mạnh Thông, 1998; “Thực hiện chức năng giám sát của
MTTQ Việt Nam đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước ở nước ta hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ Chính trị học của Nguyễn Văn Thanh, 2003; “Một số giải pháp
đổi mới và hoàn thiện pháp luật về kiểm tra, giám sát hải quan ở nước ta hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ Luật của Hoàng Anh Công, 2003; “Hoàn thiện pháp luật về giám
sát hoạt động hành chính của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương- Từ thực
tiễn của tỉnh Vĩnh Phúc", Luận văn Thạc sĩ Luật của Nguyễn Hoàng, 2006; “Nâng
cao hiệu quả giám sát của HĐND tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay”, Luận


văn Thạc sĩ Luật của Hồ Thị Hưng, 2006; “Giám sát của Quốc hội đối với hoạt
động xét xử của Toà án nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật của
Quản Văn Minh, 2006...
Bên cạnh đó có một số bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như:
“Quan niệm về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước và các cơ chế thực hiện
giám sát” của GS.TSKH Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2003;
“Về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước” của PGS.TS Võ Khánh Vinh,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2003; “Phát huy vai trò của mặt trận Tổ quốc
Việt Nam vận động nhân dân thực hiện giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở” của Trần Thanh Bình, Tạp chí Nhà nước số 9/2003; “Phát huy vai trò của
mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc thực hiện giám sát đối với cán bộ, công
chức, đảng viên ở khu dân cư" của Đỗ Huy Thường, Tạp chí mặt trận Tổ quốc, số
22; “Thiếu một cơ chế giám sát hoàn thiện” của Nguyễn Khanh, Báo Pháp luật số
222 ngày 16/9/2005; “Tăng cường giám sát trong Đảng” của Nguyễn Thị Doan,

Tạp chí cộng sản số 22, 2004; “Cần tăng cường hơn nữa sự kiểm tra, giám sát của
nhân dân đối với việc phòng chống quan liêu, tham nhũng hiện nay” của Bùi
Thành Phần, Tạp chí Dân vận số 01/2005; “Lênin nói về kiểm tra giám sát để xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch” của Lê Trọng Hanh, Tạp chí Tư tưởng
văn hoá, số 4/2005...
Nhìn chung các công trình, đề tài, bài viết nêu trên đều đề cập đến vấn đề
giám sát, hoạt động giám sát của các cơ quan trong hệ thống chính trị, giám sát của
cơ quan quyền lực đối với cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp; giám sát hành
chính ở trong cơ quan hành chính; giám sát của mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
nhân dân đối với cơ quan dân cử, cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp; giám sát
của cơ quan tư pháp với cơ quan hành chính... Nhưng chưa có công trình nào đề
cập toàn diện, có hệ thống về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính


nhà nước cũng như hoàn thiện pháp luật về hoạt động giám sát đó. Tiếp thu những
kết quả nghiên cứu trên, luận văn này tập trung nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về
giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu:
Giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước vừa phản ánh
bản chất nhà nước vừa là quyền của công dân, được ghi nhận trong quan điểm,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước từ 1945 đến nay. Hoạt động của Nhà
nước rất rộng, chủ thể giám sát, hình thức giám sát rất đa dạng, phong phú, trong
luận văn này chỉ đề cập vấn đề giám sát của nhân dân (trực tiếp và gián tiếp) đối
với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước thông qua các chủ thể bao gồm:
Tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, tập thể lao động, cơ quan báo chí và giám
sát trực tiếp của nhân dân. Trên cơ sở đó luận chứng các quan điểm, giải pháp hoàn
thiện pháp luật để việc thực hiện chức năng giám sát của nhân dân thực sự hiệu
lực, hiệu quả trong thời gian tới.
5. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
- Mục đích: Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám

sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
- Nhiệm vụ: Từ mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu làm rõ khái niệm, nội dung, vai trò pháp luật về giám sát của
nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
+ Xác định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về giám sát
của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.


+ Phân tích quá trình phát triển và thực trạng pháp luật về giám sát của nhân
dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
+ Đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân
dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
6. Đóng góp của đề tài:
- Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về giám sát, giám sát của nhân dân đối
với cơ quan hành chính nhà nước.
- Phân tích quá trình phát triển và đánh giá thực trạng hoạt động giám sát của
nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. Qua đó, xác định được tính hoàn
thiện của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
- Luận chứng các quan điểm, giải pháp để hoàn thiện pháp luật về giám sát
của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
7. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận: Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan
điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng chính quyền
nhân dân và các chính sách, pháp luật do Nhà nước ban hành.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng của triết học Mác-Lênin kết hợp với phương pháp phân tích - tổng hợp,
logic - lịch sử, xã hội học, so sánh...
8. Kết cấu nội dung cần nghiên cứu:



Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu, đề xuất các giải pháp
hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà
nước. Để có thể hoàn thành mục tiêu ấy, tôi xác định cần thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu dưới đây: Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần xây dựng cơ sở
khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan
hành chính nhà nước; tăng cường hiệu lực, hiệu quả giám sát của nhân dân; khắc
phục những hạn chế, bất cập trong hoạt động thực tiễn thời gian qua. Đồng thời là
nguồn tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho các công trình khoa học, công tác nghiên
cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn liên quan đến giám sát của nhân dân đối với cơ
quan hành chính nhà nước.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, 8 tiết.
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC
1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, VAI TRÒ PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT
CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1.1 Khái niệm về giám sát, giám sát của nhân dân, pháp luật về giám sát
của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước
1.1.1.1 Giám sát
1.1.1.2. Giám sát của nhân dân
1.1.1.3. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà
nước


1.1.2. Nội dung pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành
chính nhà nước
1.1.2.1. Các quy định về chủ thể giám sát

1.1.2.2. Các quy định về đối tượng giám sát của nhân dân
1.1.2.3. Các quy định về nội dung, hình thức giám sát của nhân dân đối với
cơ quan hành chính nhà nước
1.1.1.2. Giám sát của nhân dân
1.1.1.3. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà
nước
1.1.2. Nội dung pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành
chính nhà nước
1.1.2.1. Các quy định về chủ thể giám sát
1.1.2.2. Các quy định về đối tượng giám sát của nhân dân
1.1.2.3. Các quy định về nội dung, hình thức giám sát của nhân dân đối với
cơ quan hành chính nhà nước
1.1.2.4. Các quy định về quy trình, thủ tục giám sát của nhân dân đối với cơ
quan hành chính nhà nước
1.1.2.5. Các quy định về hậu quả pháp lý giám sát của nhân dân đối với cơ
quan hành chính nhà nước
1.1.3. Vai trò pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính
nhà nước


1.2. TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC
1.2.1. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà
nước phải có tính đồng bộ, thống nhất
1.2.2. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà
nước đòi hỏi phải thuận lợi, đơn giản, dễ thực hiện
1.2.3. Pháp luật về giám sát của nhân dân phải đảm bảo tính khả thi trong
thực tế
1.2.5. Pháp luật về giám sát của nhân dân phải đảm bảo tính công khai, minh

bạch
1.2.5. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà
nước phải đảm bảo kỹ thuật lập pháp
1.3. PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VẬN
DỤNG Ở VIỆT NAM
1.3.1. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính một số
nước
1.3.2. Bài học kinh nghiệm vận dụng cho giám sát của nhân dân đối với cơ
quan hành chính nhà nước ở Việt Nam


Chương 2: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP
LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC
2.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA
NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
2.1.1. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về giám sát của nhân
dân đối với cơ quan nhà nước, trong đó có cơ quan hành chính nhà nước
2.1.2. Các giai đoạn phát triển của pháp luật về giám sát của nhân dân đối
với cơ quan hành chính nhà nước
2.1.2.1. Giai đoạn 1946- 1959
2.1.2.2. Giai đoạn 1959- 1979
2.1.2.3. Giai đoạn 1980-1992
2.1.2.4 Giai đoạn 1992 đến nay
2.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI
VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
2.2.1. Ưu điểm và những kết quả thực hiện pháp luật về giám sát của nhân
dân đối với cơ quan hành chính nhà nước
2.2.1.1 Về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trịxã hội đối với cơ quan hành chính nhà nước

2.2.1.2 Về giám sát của các tổ chức xã hội đối với cơ quan hành chính nhà
nước


2.2.1.3 Về giám sát của các tập thể lao động đối với cơ quan hành chính nhà
nước
2.2.1.4. Về giám sát của cơ quan báo chí, dư luận xã hội đối với cơ quan
hành chính nhà nước
2.2.1.5. Về giám sát trực tiếp của công dân
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với
cơ quan hành chính nhà nước
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC
3.1. YÊU CẦU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC
3.1.1. Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân
3.1.2. Yêu cầu kế thừa, phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế, bất cập trong
thực tiễn thời gian qua
3.1.3. Yêu cầu hội nhập quốc tế của đất nước
3.2. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA
NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC


3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân phải dựa trên các quan
điểm có tính nguyên tắc của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân nhằm nâng cao vai trò

của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong tham gia quản lý nhà nước
và xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành
chính nhà nước nhằm xây dựng nền hành chính dân chủ, thông suốt, hiện đại và
hiệu quả
3.2.4. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành
chính nhà nước phải bảo đảm tính khả thi và hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát
của nhân dân
3.3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN
DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
3.3.1. Hoàn thiện cơ chế tổng thể về giám sát đối với quyền lực nhà nước,
trong đó tăng cường vai trò giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà
nước
3.3.2. Hoàn thiện những quy định pháp luật về giám sát của Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội đối với cơ quan hành chính nhà nước
3.3.3. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của các tổ chức xã hội, tập thể lao
động
3.3.4. Hoàn thiện pháp luật về giám sát của cơ quan báo chí truyền thông đối
với cơ quan hành chính nhà nước


3.3.5. Hoàn thiện pháp luật về quyền giám sát trực tiếp của công dân đối với
cơ quan hành chính nhà nước
3.3.5.1. Hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo của công dân
3.3.5.2. Hoàn thiện pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở, nâng cao năng
lực giám sát trực tiếp của nhân dân
3.3.5.3. Xây dựng và ban hành Luật trưng cầu ý dân
3.3.5.4. Hoàn thiện các quy định về công tác tiếp dân, xử lý, trả lời đơn thư
dân nguyện
9. Dự kiến sản phẩm tạo ra và khả năng áp dụng:

Luận văn với đề tài “Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân
dân đối với cơ quan hành chính nhà nước hiện nay”được xây dựng với quan
điểm cung cấp những khái niệm cơ bản về giám sát, các loại hình giám sát trong cơ
chế kiểm soát quyền lực nhà nước; phân biệt giám sát với các khái niệm gần nghĩa.
Trên cơ sở phân tích quá trình phát triển và thực trạng thực hiện pháp luật về giám
sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước ở Việt Nam cũng như pháp
luật về giám sát của các nước trên thế giới trong thời gian qua và hiện nay. Từ đó
luận giải các yêu cầu khách quan đòi hỏi hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân
dân đối với cơ quan hành chính nhà nước dựa trên các tiêu chí làm cơ sở cho hoàn
hiện pháp luật trong thời gian tới.
Mặt khác, bản chất nhà nước và đặc điểm hệ thống chính trị nước ta cùng
với yêu cầu hợp tác, hội nhập quốc tế, tiến trình dân chủ hoá, tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và thực
trạng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước đòi hỏi phải tăng cường giám sát


và phản biện của mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các thiết chế xã hội
khác và giám sát trực tiếp của công dân cũng như phải hoàn thiện pháp luật để
giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước thực sự có hiệu lực,
hiệu quả trong thời gian tới.
10. Những vấn đề có thể cần tiếp tục nghiên cứu:
Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính
nhà nước đòi hỏi phải có giải pháp toàn diện, đồng bộ, với bước đi thích hợp. Đó
không chỉ là những giải pháp, cơ chế trên cơ sở pháp luật mà còn là những giải
pháp chi tiết, bao gồm các nội dung cần bổ sung, hoàn thiện theo các tiêu chí kỹ
thuật lập pháp. Như vậy, với việc đề xuất ban hành Luật giám sát của nhân dân,
Luật trưng cầu ý dân, Luật về công chức, công vụ; sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu
nại, tố cáo, Luật Báo chí…; bổ sung các quy định của Luật mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Luật Công đoàn; hoàn thiện pháp luật về thanh tra nhân dân, ban hành Luật
Thực hiện dân chủ ở cơ sở... và các văn bản pháp luật có liên quan... chính là

những giải pháp cơ bản để hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với
cơ quan hành chính nhà nước.
Trong tiến trình dân chủ hoá mọi mặt của đời sống xã hội và hoạt động của
nhà nước, giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước là một trong
những yêu cầu cấp bách mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc. Việc đề cao và từng
bước hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân cần chú trọng vai trò giám sát
trực tiếp của công dân, đồng thời, cần mở rộng và cụ thể hoá hơn nữa vai trò giám
sát của các tổ chức xã hội, tập thể lao động và các thiết chế xã hội khác, từng bước
chuyển giao một số hoạt động giám sát của cơ quan nhà nước cho các tổ chức xã
hội đảm nhận. Tiếp tục đề cao vai trò của cơ quan báo chí- truyền thông trong tham


gia giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, coi đó là phương tiện giám sát hữu
hiệu của công dân.
Hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính
nhà nước sẽ góp phần hoàn thiện thể chế dân chủ, thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, đáp ứng yêu cầu hợp tác và hội nhập
quốc tế; hỗ trợ cho việc phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; đảm bảo cho hoạt động
nhà nước được đúng hướng với nền hành chính trong sạch, thông suốt, hiện đại,
hiệu quả và phục vụ nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có
chất lượng, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của
nhân dân./.



×