Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.8 KB, 128 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng ta đều thống nhất về vai trò, vị trí của nhân dân, khẳng định quyền lực
nhà nước thuộc về nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở:
“Nước ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền
hạn đều của dân Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân
cử ra” [29, tr.698]. Điều 2, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) ghi:
“Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân”.
Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực hiện quyền lực
của mình thông qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ
trực tiếp là hình thức thể hiện ý chí trực tiếp của chủ thể quyền lực về những
vấn đề chính yếu, cơ bản của một tập thể, một cộng đồng, một xã hội. Các cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm ghi nhận ý chí đó và bảo đảm đưa vào thực hiện
trong cuộc sống. Dân chủ đại diện là hình thức thể hiện ý chí không trực tiếp
từ chủ thể quyền lực mà thông qua đại diện do chủ thể bầu ra để thực hiện
quyền do chủ thể uỷ thác. Nhân dân (chủ thể quyền lực) có quyền kiểm tra,
giám sát hoạt động của các cơ quan, cá nhân đại diện cho mình để thực hiện
quyền lực nhà nước nhằm hạn chế sự tuỳ tiện, lạm dụng ở đó.
Quyền lực nhà nước được thực hiện thông qua cơ quan nhà nước và là
của nhân dân, do đó cần phải được nhân dân giám sát. Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc khoá X nêu rõ: “Phát huy vai trò của cơ quan dân cử, MTTQ, các tổ
chức chính trị- xã hội và nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức cơ
quan công quyền” “Công khai các quy định về thủ tục hành chính để dân biết,
thực hiện và giám sát”, khẳng định: “Hoạt động của Đảng và Nhà nước phải
chịu sự giám sát của nhân dân” [18, tr.304]. Điều 8, Hiến pháp 1992 quy
định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân
1
dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến


và chịu sự giám sát của nhân dân”. Điều này xuất phát từ thực tiễn của tiến
trình dân chủ hoá xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
hội nhập kinh tế quốc tế; xuất phát từ yêu cầu xây dựng nền hành chính trong
sạch, vững mạnh, tinh gọn và thuận tiện; xuất phát từ thực trạng mất dân chủ,
cửa quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu nhân dân
của một số cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước; xuất phát từ nguyên tắc các
cơ quan thực thi quyền lực nhà nước phải bị giám sát để quyền lực nhà nước
thực sự thuộc về nhân dân.
Mặc dù quan điểm, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước được thể
hiện rõ ràng, song hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước là rất phức tạp,
đa dạng nên bên cạnh những ưu điểm, thành tựu của chương trình cải cách
hành chính giai đoạn 2001-2010 đạt được, thì còn tồn tại những hạn chế, bất
cập, đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện, trong đó hoàn thiện pháp luật về giám sát
của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước là một nội dung hết sức
quan trọng. Bởi chỉ có sự giám sát chặt chẽ của nhân dân thì mới giải quyết
triệt để được mọi hành vi sách nhiễu, cửa quyền, lạm quyền, tham nhũng, tiêu
cực của cơ quan hành chính nhà nước. Chỉ khi những hành vi trên bị ngăn
chặn, xử lý nghiêm minh, kịp thời thì nền dân chủ XHCN, quyền làm chủ của
nhân dân mới thực sự được thực hiện và phát huy trong thực tế.
Giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước có mục
đích là phòng ngừa, phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật, vi phạm quyền công
dân của cơ quan công quyền. Nhân dân có quyền kiến nghị, yêu cầu, khiếu
nại, tố cáo đối với cơ quan hành chính nhà nước. Đó không chỉ là phương tiện
giám sát có hiệu quả việc tuân thủ pháp chế và kỷ luật trong hoạt động quản
lý nhà nước mà còn là biện pháp có tính pháp lý hữu hiệu bảo đảm các quyền
tự do và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức khi bị vi phạm.
Nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền là cán bộ, công chức chỉ
được làm những gì pháp luật cho phép và mọi hoạt động của cơ quan nhà
nước phải chịu sự giám sát của nhân dân. Song, tình trạng một số cơ quan
2

hành chính nhà nước và cán bộ, công chức ở đó lạm quyền, cửa quyền, sách
nhiễu nhân dân, vi phạm pháp luật diễn ra có lúc, có nơi rất nghiêm trọng gây
bức xúc trong dư luận xã hội. Thực trạng đó có nhiều nguyên nhân, trong đó
có nguyên nhân là do thiếu sự giám sát cần thiết của nhân dân. Để nhân dân
thực hiện quyền giám sát của mình với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà
nước, chống lại nguy cơ cơ quan phục vụ dân chuyển thành cơ quan đứng trên
dân, đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ
quan hành chính nhà nước. Mặt khác về phương diện khoa học pháp lý, hoạt
động giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước cũng phải
dựa trên cơ sở pháp luật. Trong khi đó pháp luật về giám sát của nhân dân đối
với cơ quan hành chính nhà nước còn có nhiều bất cập, hạn chế khiến việc
thực hiện còn thiếu hiệu lực, hiệu quả đòi hỏi phải được tiếp tục hoàn thiện.
Từ những căn cứ và lý do trên, học viên chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật
về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước” làm luận
văn thạc sỹ Luật, chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giám sát và nâng cao chất lượng, hiệu quả giám sát đối với cơ quan
nhà nước được đề cập nhiều trong các công trình và diễn đàn khoa học, trên
các sách, báo, tạp chí và được phổ biến khá rộng rãi trong xã hội. Có thể nêu
một số công trình tiêu biểu sau đây:
- Sách chuyên khảo: Tiến sỹ Phạm Ngọc Kỳ (1996), “Về quyền giám
sát tối cao của Quốc hội”; Tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát
của một số nước trên thế giới, sách tham khảo (2001) Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội; “Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước” của
Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên) (2003), Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội; PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2005) “Sự hạn chế quyền lực Nhà
nước”, PGS.TS Nguyễn Đăng Dung (2006), “Nhà nước và trách nhiệm của
nhà nước”
3
- Đề tài nghiên cứu cấp bộ: “Vấn đề nhân dân giám sát các cơ quan

dân cử ở nước ta hiện nay” của Viện Khoa học chính trị, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
- Luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ: “Nâng cao hiệu lực hoạt động
giám sát của HĐND cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ Luật của Vũ Mạnh Thông, 1998; “Thực hiện chức năng giám
sát của MTTQ Việt Nam đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước ở nước
ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Chính trị học của Nguyễn Văn Thanh, 2003;
“Một số giải pháp đổi mới và hoàn thiện pháp luật về kiểm tra, giám sát hải
quan ở nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật của Hoàng Anh Công, 2003;
“Hoàn thiện pháp luật về giám sát hoạt động hành chính của cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương- Từ thực tiễn của tỉnh Vĩnh Phúc", Luận văn
Thạc sĩ Luật của Nguyễn Hoàng, 2006; “Nâng cao hiệu quả giám sát của
HĐND tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật của Hồ
Thị Hưng, 2006; “Giám sát của Quốc hội đối với hoạt động xét xử của Toà án
nhân dân ở Việt Nam hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Luật của Quản Văn Minh,
2006
Bên cạnh đó có một số bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành
như: “Quan niệm về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước và các cơ
chế thực hiện giám sát” của GS.TSKH Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật số 6/2003; “Về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước” của
PGS.TS Võ Khánh Vinh, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 6/2003; “Phát
huy vai trò của MTTQ Việt Nam vận động nhân dân thực hiện giám sát việc
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” của Trần Thanh Bình, Tạp chí Nhà nước
số 9/2003; “Phát huy vai trò của MTTQ Việt Nam trong việc thực hiện giám
sát đối với cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư" của Đỗ Huy Thường,
Tạp chí MTTQ, số 22; “Thiếu một cơ chế giám sát hoàn thiện” của Nguyễn
Khanh, Báo Pháp luật số 222 ngày 16/9/2005; “Tăng cường giám sát trong
Đảng” của Nguyễn Thị Doan, Tạp chí cộng sản số 22, 2004; “Cần tăng
4
cường hơn nữa sự kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với việc phòng chống

quan liêu, tham nhũng hiện nay” của Bùi Thành Phần, Tạp chí Dân vận số
01/2005; “Lênin nói về kiểm tra giám sát để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong sạch” của Lê Trọng Hanh, Tạp chí Tư tưởng văn hoá, số 4/2005
Nhìn chung các công trình, đề tài, bài viết nêu trên đều đề cập đến vấn
đề giám sát, hoạt động giám sát của các cơ quan trong hệ thống chính trị,
giám sát của cơ quan quyền lực đối với cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp;
giám sát hành chính ở trong cơ quan hành chính; giám sát của MTTQ và các
đoàn thể nhân dân đối với cơ quan dân cử, cơ quan hành chính, cơ quan tư
pháp; giám sát của cơ quan tư pháp với cơ quan hành chính Nhưng chưa có
công trình nào đề cập toàn diện, có hệ thống về giám sát của nhân dân đối với
cơ quan hành chính nhà nước cũng như hoàn thiện pháp luật về hoạt động
giám sát đó. Tiếp thu những kết quả nghiên cứu trên, luận văn này tập trung
nghiên cứu hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan
hành chính nhà nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Mục đích: Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
- Nhiệm vụ: Từ mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu làm rõ khái niệm, nội dung, vai trò pháp luật về giám sát
của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
+ Xác định các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về giám
sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
+ Phân tích quá trình phát triển và thực trạng pháp luật về giám sát của
nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
+ Đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về giám sát của
nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
- Phạm vi nghiên cứu: Giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính
nhà nước vừa phản ánh bản chất nhà nước vừa là quyền của công dân, được ghi
5
nhận trong quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước từ 1945 đến

nay. Hoạt động của Nhà nước rất rộng, chủ thể giám sát, hình thức giám sát rất
đa dạng, phong phú, trong luận văn này chỉ đề cập vấn đề giám sát của nhân dân
(trực tiếp và gián tiếp) đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước thông
qua các chủ thể bao gồm: Tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, tập thể lao
động, cơ quan báo chí và giám sát trực tiếp của nhân dân. Trên cơ sở đó luận
chứng các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật để việc thực hiện chức
năng giám sát của nhân dân thực sự hiệu lực, hiệu quả trong thời gian tới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các quan
điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; xây dựng chính quyền
nhân dân và các chính sách, pháp luật do Nhà nước ban hành.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật
biện chứng của triết học Mác-Lênin kết hợp với phương pháp phân tích-tổng
hợp, lôgíc-lịch sử, xã hội học, so sánh
5. Những đóng góp khoa học của luận văn
- Góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về giám sát, giám sát của nhân dân
đối với cơ quan hành chính nhà nước.
- Phân tích quá trình phát triển và đánh giá thực trạng hoạt động giám
sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước. Qua đó, xác định được
tính hoàn thiện của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành
chính nhà nước.
- Luận chứng các quan điểm, giải pháp để hoàn thiện pháp luật về giám
sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần xây dựng cơ sở khoa học
cho việc hoàn thiện pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành
6
chính nhà nước; tăng cường hiệu lực, hiệu quả giám sát của nhân dân; khắc

phục những hạn chế, bất cập trong hoạt động thực tiễn thời gian qua. Đồng
thời là nguồn tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho các công trình khoa học,
công tác nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn liên quan đến giám sát của
nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1. KHÁI NIỆM, NỘI DUNG, VAI TRÒ PHÁP LUẬT VỀ GIÁM SÁT CỦA
NHÂN DÂN ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1.1.1 Khái niệm về giám sát, giám sát của nhân dân, pháp luật về
giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước
1.1.1.1 Giám sát:
Cùng với kiểm tra, thanh tra, kiểm sát, giám sát là một loại nhiệm vụ
trong quá trình thực thi quyền lực chính trị nhằm làm cho các đối tượng (của
chủ thể giám sát) thực hiện đúng yêu cầu, mục đích, chức năng, nhiệm vụ đặt
ra.
Giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức,
cộng đồng người này với cá nhân, tổ chức, cộng đồng người khác trong các
lĩnh vực kinh tế-xã hội, trong thực hiện quan điểm, đường lối, nghị quyết của
Đảng, Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước, các quyền lợi, nghĩa
vụ của công dân, tổ chức, cá nhân để kiến nghị phát huy ưu điểm, thành tựu,
xử lý đối với tổ chức, cá nhân có hành vi sai trái.
Về thuật ngữ giám sát, hiện nay được dùng rất phổ biến trong khoa học
chính trị, pháp lý và được đề cập nhiều trong các văn kiện của Đảng, Nhà
7
nước và các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội cũng như phổ biến ở đời
sống xã hội.

Theo Từ điển Hán- Việt của Đào Duy Anh chủ biên thì “Giám sát là
xem xét và đàn hặc” [1, tr.324].
Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thì “Giám sát là theo dõi và
kiểm tra có thực hiện đúng những điều quy định không” [55, tr.374].
Đại Từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì “Giám sát là
theo dõi, kiểm tra việc thực thi nhiệm vụ” [65, tr.728].
Theo quan điểm của Học viện hành chính quốc gia thì “giám sát là sự
tác động quyền lực nhằm chấn chỉnh những lệch lạc, trái pháp luật, sai trái
mục tiêu của một hệ thống đối với một hệ thống khác nằm ngoài quan hệ trực
thuộc theo chiều dọc” [23, tr.202].
Theo Từ điển Luật học thì giám sát là:
Sự theo dõi, quan sát mang tính chủ động thường xuyên của cơ
quan, tổ chức hoặc nhân dân đối với hoạt động của các đối tượng
chịu sự giám sát và sự tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc
và hướng các hoạt động đó đi đúng quỹ đạo, quy chế nhằm đạt được
mục đích, hiệu quả đã được xác định từ trước đảm bảo cho Hiến
pháp và pháp luật được tuân thủ nghiêm chỉnh. [54, tr.292].
Từ các định nghĩa và cách hiểu như trên, có thể chỉ ra một số đặc trưng
của giám sát đó là:
- Giám sát là hành vi của chủ thể biểu hiện qua theo dõi, quan sát, xem
xét, nhận định về việc làm của đối tượng giám sát.
- Giám sát được tiến hành chủ động, thường xuyên, liên tục trong suốt
quá trình hoạt động của đối tượng giám sát.
- Thông qua hoạt động giám sát cho phép kịp thời nhắc nhở cơ quan tổ
chức, cá nhân chấn chỉnh những biểu hiện “lệch lạc”, “sai trái” trong quá trình
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, những biểu hiện không lành mạnh trong sinh hoạt, đạo đức, lối sống
8
của mỗi cá nhân, cán bộ công chức, viên chức và đề xuất xử lý nhằm khắc
phục sai sót, khuyết điểm.

- Giám sát bảo đảm cho cán bộ, công chức, đảng viên luôn kiên định về
lập trường chính trị, có trách nhiệm công vụ, phẩm chất cách mạng tốt đẹp,
ngăn ngừa những biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống và trong
thực thi nhiệm vụ được giao.
- Giám sát là công việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi chủ thể giám sát
phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, có quyết tâm cao, có kiến thức chuyên
môn và hiểu biết về luật pháp nhất định.
- Giữa chủ thể giám sát và đối tượng giám sát có mối quan hệ pháp lý,
gắn quyền và trách nhiệm của mỗi bên. Khách thể giám sát mà các bên trong
quan hệ giám sát cùng hướng tới là trạng thái hoạt động bình thường, thông
suốt, đúng pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Chủ thể giám sát phải
là “khách quan, bên ngoài” độc lập tương đối với đối tượng giám sát.
Để hiểu rõ về giám sát trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cần
phân biệt giám sát với kiểm tra, thanh tra, kiểm sát.
- Giám sát khác với kiểm tra. Theo Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê
chủ biên thì kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” do
đó kiểm tra là khái niệm bao hàm những thao tác có tính xác định, tính cụ thể
rõ hơn. Kiểm tra được thực hiện khi có dấu hiệu hoặc sự việc sai phạm xảy ra
là “xem xét cụ thể công việc”. Chủ thể và đối tượng kiểm tra có thể cùng hệ
thống với nhau (tự kiểm tra, cấp trên kiểm tra cấp dưới).
- Giám sát khác với thanh tra. Thanh tra theo Từ điển Tiếng Việt là
“Kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”.
Theo Luật Thanh tra (2004), đó là “việc xem xét đánh giá, xử lý của cơ quan
quản lý nhà nước đối với việc thực hiện chính sách pháp luật, nhiệm vụ của
cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục
được quy định” [27, tr.8]. Như vậy, thanh tra và giám sát có chỗ giống nhau
là đều có hoạt động “xem xét, đánh giá” nhưng khác nhau ở chỗ giám sát là
9
sự “chủ động theo dõi” còn thanh tra thường chỉ xem xét khi có dấu hiệu, sự
việc vi phạm xảy ra. Hậu quả pháp lý của giám sát chủ yếu thông qua hình

thức “kiến nghị” còn thanh tra là áp dụng những biện pháp xử lý cụ thể.
Thanh tra được tiến hành bởi chủ thể xác định, có thẩm quyền, với trình tự,
thủ tục chặt chẽ theo luật định, là hoạt động đặc thù của hệ thống hành pháp.
Còn giám sát được tiến hành bởi nhiều chủ thể và mỗi chủ thể lại có quyền,
trách nhiệm khác nhau do địa vị chính trị pháp lý khác nhau.
- Giám sát khác với kiểm sát. Kiểm sát là thuật ngữ để chỉ hoạt động
đặc thù của Viện kiểm sát nhân dân với chức năng kiểm sát các hoạt động tư
pháp và thực hành quyền công tố nhằm “đảm bảo cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất”, “góp phần bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ
chế độ XHCN và quyền làm chủ của nhân dân”. [64, tr.405].
Tóm lại, giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm sát là những thuật ngữ có
nội dung gần nghĩa dùng để chỉ những hoạt động có phạm vi, tính chất gần
nhau, thậm chí có biểu hiện khách quan khá giống nhau (xem xét, đánh giá)
nằm trong cơ chế kiểm soát đối với quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, chúng có
sự khác nhau về quan hệ pháp lý, chủ thể, đối tượng, phạm vi, phương pháp
thực hiện và hậu quả pháp lý.
1.1.1.2. Giám sát của nhân dân
Khái niệm giám sát của nhân dân được sử dụng để phân biệt với giám
sát mang tính quyền lực nhà nước và được coi là một chủ thể quan trọng của
giám sát xã hội. Thực tế ở nước ta, trong khoa học chính trị, pháp lý và các tài
liệu, sách, báo, tạp chí có cách hiểu khác nhau về giám sát xã hội. Thông
thường có sự phân biệt loại hình giám sát theo tính chất tức là giám sát mang
tính nhân dân, giám sát mang tính quyền lực nhà nước. Ngoài ra, các loại
giám sát nói trên được gọi chung là giám sát xã hội, nhưng giám sát xã hội lại
được hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, giám sát xã hội là giám sát của 3 lực lượng cơ bản đó
là: Giám sát của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân. Theo đó, giám sát xã
10
hội bao trùm lên các giám sát khác, bởi vì: Thứ nhất, giám sát đối với quyền
lực nhà nước là giám sát của tiểu hệ thống trong hệ thống rộng hơn là toàn xã

hội, nhà nước là một hiện tượng nảy sinh từ xã hội, thuộc về xã hội, quyền lực
nhà nước là một dạng của quyền lực xã hội; Thứ hai, hoạt động giám sát do
chủ thể Đảng, Nhà nước, nhân dân thực hiện đều có mục đích ngăn ngừa,
khắc phục những sai lệch khỏi các quy phạm mà xã hội đặt ra hoặc thừa nhận.
Theo nghĩa hẹp, giám sát xã hội được hiểu là giám sát của nhân dân bởi
chủ thể giám sát là các tổ chức, cá nhân bên ngoài nhà nước và nó là một loại
giám sát trong tổng thể cơ chế giám sát đối với quyền lực nhà nước. Trong luận
văn này đề cập đến giám sát xã hội theo nghĩa hẹp, tức là giám sát của nhân dân.
Để hiểu rõ giám sát của nhân dân cần phân biệt với giám sát của Đảng
và giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.
- Giám sát của Đảng, là việc cấp uỷ, tổ chức đảng theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát trong việc
chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và
đạo đức, lối sống theo quy định của Ban Chấp hành TW. Tổ chức Đảng cấp
trên được giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên; đảng viên được tham
gia giám sát theo sự phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền. Như vậy,
giám sát của Đảng là giám sát “bên ngoài nhà nước” nhưng do bản chất chính
trị và vị trí hạt nhân của Đảng trong hệ thống chính trị nên giám sát của Đảng
là giám sát của chủ thể lãnh đạo đối với Nhà nước. Hoạt động này được thông
qua cán bộ, đảng viên do đảng giới thiệu, cử lãnh đạo bộ máy nhà nước;
thông qua tổ chức cơ sở đảng được thành lập tương ứng với cơ quan nhà
nước. Giám sát của Đảng có vai trò quan trọng đối với đời sống chính trị-xã
hội của đất nước, góp phần đẩy lùi những biểu hiện thoái hoá, biến chất, tiêu
cực trong Đảng và bộ máy Nhà nước.
- Giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, đó là hoạt động chủ yếu
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhằm giám sát quá trình tổ chức
và thực hiện quyền lực nhà nước. Đặc điểm của loại giám sát này là mang
11
tính quyền lực nhà nước rõ nét, là hệ thống các cơ quan hoạt động có tính
chuyên nghiệp, được quy định rất cụ thể, chặt chẽ trong các văn bản quy

phạm pháp luật, nhất là các luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà
nước (như: Luật Hoạt động giám sát Quốc hội, Luật Tổ chức HĐND và
UBND, quy chế giám sát ). Loại hình giám sát này có quy định cụ thể trình
tự, thủ tục, nội dung, thẩm quyền, trách nhiệm đối với các bên tham gia quan
hệ giám sát thể hiện sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các
cơ quan nhà nước. Giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước hỗ trợ tích cực
cho công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm sát của nhà nước, góp phần xây dựng
và củng cố chính quyền nhân dân ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu lực, hiệu quả để quản lý tốt mọi mặt của đời sống xã hội theo
pháp luật.
- Giám sát của nhân dân, đó là giám sát không mang tính quyền lực
nhà nước, do các tổ chức, cá nhân thực hiện nhằm theo dõi, quan sát, xem xét,
đánh giá hoạt động của các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước
trong việc tổ chức và thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước; làm
cho các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước hoạt động đúng chức năng,
nhiệm vụ, phạm vi, giới hạn được giao. Chủ thể với đặc tính “nhân dân” có
thể là những thành tố nhỏ nhất (cá nhân) hoặc những nhóm xã hội (các cá
nhân tập hợp lại), bên ngoài nhà nước.
Giám sát của nhân dân tuy không mang tính chuyên nghiệp và hậu quả
pháp lý bắt buộc như giám sát mang tính quyền lực nhà nước nhưng có tác
dụng phòng ngừa, góp phần ngăn chặn có hiệu quả vi phạm pháp luật và kỷ
luật nhà nước từ phía cơ quan hành chính. Do đó, có phạm vi rất rộng, thường
xuyên, liên tục tác động đến quyền lực nhà nước bằng “Dư luận xã hội”,
“kiến nghị”, “yêu cầu” giúp cho hoạt động của nhà nước được đúng hướng,
đúng pháp luật.
12
Giám sát của nhân dân được thực hiện thông qua MTTQ, các đoàn thể
nhân dân, các tổ chức xã hội, các tập thể lao động, cơ quan báo chí và trực
tiếp của cá nhân công dân.
1.1.1.3. Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành

chính nhà nước
Thuật ngữ “Hành chính”, theo nghĩa Hán Việt là thi hành những chính
sách và mệnh lệnh của Chính phủ. Hành chính (Admi nistration) còn được
giải thích là những hành vi, biện pháp để thi hành chính sách do cơ quan
chính trị thiết lập. Đó là những hoạt động thường xuyên liên tục để đáp ứng
nhu cầu chung của nhân dân.
Cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam là một bộ phận cấu thành của
bộ máy nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là cơ quan
chấp hành và điều hành của Quốc hội và HĐND các cấp, có hệ thống được tổ
chức theo thứ bậc từ trung ương đến cơ sở, có chức năng quản lý mọi mặt của
đời sống xã hội dựa trên pháp luật.
Pháp luật quy định quyền giám sát của nhân dân đối với tổ chức và
hoạt động của quyền lực nhà nước nói chung, của cơ quan hành chính nhà
nước nói riêng. Theo đó, nhân dân có quyền và trách nhiệm giám sát cơ quan,
cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm tạo điều
kiện để nhân dân và các tổ chức xã hội giám sát hoạt động của mình. Điều 8,
Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định:
Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn
trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân
dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu,
hách dịch, cửa quyền [53, tr.201].
Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, phạm vi đối tượng chịu sự
giám sát là toàn thể các “cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước”
13
trong đó có cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức hoạt động
trong các cơ quan đó.
Giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước, thực chất
là giám sát hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước trong việc chấp hành,
thực hiện pháp luật trong quản lý xã hội theo mục tiêu do Đảng Cộng sản Việt

Nam đề ra, đảm bảo được quyền làm chủ của nhân dân trong tham gia quản lý
nhà nước, xã hội.
Pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà
nước là tổng thể các quy định của pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ
phát sinh và bảo đảm thực hiện hoạt động giám sát của nhân dân đối với cơ
quan hành chính nhà nước.
1.1.2. Nội dung pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan
hành chính nhà nước
Đó là các quy phạm pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ quan
hành chính nhà nước được ghi nhận trong Hiến pháp các thời kỳ 1946, 1959,
1980, 1992 và bổ sung, sửa đổi năm 2001; các luật như: Luật Tổ chức Chính
phủ, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật, Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí, Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Thanh tra, Luật Báo chí, ; Pháp lệnh
Cán bộ công chức, Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, và
các nghị định, nghị quyết của Chính phủ, quyết định, chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ; thông tư, thông tư liên tịch của các bộ, cơ quan ngang bộ trong
đó, xác định rõ chủ thể giám sát, đối tượng giám sát; trình tự thủ tục, hình
thức giám sát và trách nhiệm pháp lý của mỗi bên trong tham gia hoạt động
giám sát tuy nhiên, pháp luật nước ta chưa có quy định chặt chẽ, cụ thể về
giám sát của nhân dân như giám sát mang tính quyền lực nhà nước, mà chỉ
dừng lại ở việc quy định những giới hạn, phạm vi, nguyên tắc giám sát. Có
thể tập hợp tổng thể các quy phạm pháp luật về giám sát của nhân dân đối với
cơ quan hành chính nhà nước gồm những vấn đề cơ bản sau:
14
1.1.2.1. Các quy định về chủ thể giám sát
Chủ thể pháp luật giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính
nhà nước là những cá nhân, tổ chức có khả năng trở thành các bên tham gia
quan hệ pháp luật, có được quyền và nghĩa vụ pháp lý trên cơ sở sự ghi nhận
của những quy phạm pháp luật. Nhân dân với tư cách là chủ thể của quan hệ

giám sát ở đây bao gồm: mọi người dân thuộc các tầng lớp, giai cấp, dân tộc,
tôn giáo khác nhau sống trên cùng lãnh thổ Việt Nam; đồng thời cũng là
những cơ quan, tổ chức được pháp luật quy định. Với tư cách là chủ thể của
quyền lực nhà nước, nhân dân thể hiện ý chí của mình thông qua hình thức
dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Với hình thức trực tiếp nhân dân là các
cá nhân, công dân; với hình thức đại diện, nhân dân là các tổ chức do mình
bầu nên như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Nhân dân còn thực hiện
quyền của mình thông qua các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội, tổ chức xã
hội, tập thể lao động do mình thừa nhận hoặc tham gia. Chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật giám sát của nhân dân rất đa dạng và có xu hướng mở rộng.
Trong đó có những cơ quan, tổ chức ở góc độ này thì là chủ thể nhưng ở góc
độ khác lại là đối tượng giám sát, đồng thời có thể trở thành hình thức trong
quan hệ giám sát, ví dụ như: cơ quan báo chí vừa là chủ thể giám sát của cơ
quan hành chính nhà nước đồng thời là đối tượng giám sát của nhân dân; khi
nhân dân thực hiện quyền giám sát của mình đối với cơ quan hành chính nhà
nước thông qua cơ quan báo chí thì cơ quan báo chí trở thành một trong các
phương thức giám sát của nhân dân. Cũng như vậy, Thanh tra nhân dân vừa là
chủ thể vừa là hình thức giám sát đối với cơ quan hành chính nhà nước.
Nhà nước là cơ quan đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân,
nhận sự uỷ quyền của nhân dân, thay mặt nhân dân quản lý xã hội. Do đó, nhà
nước phải tạo điều kiện để mở rộng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
chịu sự giám sát của nhân dân. Trong luận văn này, chủ thể giám sát được đề
cập đến bao gồm: các tổ chức chính trị- xã hội (Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
15
thể nhân dân), các tổ chức xã hội, các tập thể lao động, các cơ quan báo chí và
cá nhân công dân.
(1) Các tổ chức chính trị xã hội: (MTTQ Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân)
Điều 9, Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) quy định về địa vị
chính trị pháp lý và nhiệm vụ giám sát (chức năng) của MTTQ Việt Nam và

các tổ chức thành viên:
Là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức
chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân
tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn
giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. MTTQ Việt Nam và
các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự
nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng
và củng cố chính quyền nhân dân, cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ
lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện
quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám
sát hoạt động của chính quyền nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ,
viên chức nhà nước [53, tr.202].
Điều 2, Luật MTTQ Việt Nam cũng quy định: “MTTQ Việt Nam
giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước đại biểu dân cử và cán bộ, công
chức nhà nước”. Chức năng giám sát của Mặt trận, các tổ chức chính trị- xã hội
còn được quy định trong nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị định như trong Bộ
Luật Tố tụng Hình sự, Bộ luật Tố tụng Dân sự, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ
chức Chính phủ, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội, Luật Tổ chức HĐND và UBND, Luật Bầu cử đại biểu HĐND, Luật
Tổ chức Toà án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Thanh tra,
Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Phòng, chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết
16
kiệm, chống lãng phí; Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Pháp lệnh Thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Pháp lệnh cán bộ công chức
MTTQ Việt Nam hiện có trên 30 thành viên, trong đó Đảng Cộng sản
Việt Nam vừa là thành viên vừa là hạt nhân lãnh đạo Mặt trận, có 5 thành
viên là tổ chức chính trị-xã hội gồm: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Tổng LĐLĐ
Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội
Cựu chiến binh Việt Nam. Ngoài ra thành viên của Mặt trận là tổ chức còn có

các thành viên là cá nhân tiêu biểu.
Giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên là giám sát
mang tính nhân dân, hỗ trợ cho công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm
sát của nhà nước, góp phần xây dựng, củng cố chính quyền nhân dân, làm cho
bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, bảo
vệ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lợi ích hợp pháp của công dân,
quản lý tốt mọi mặt đời sống xã hội theo pháp luật.
Các tổ chức chính trị-xã hội là thành viên của MTTQ có thể thực hiện
quyền giám sát của mình thông qua Mặt trận; hầu hết điều lệ các đoàn thể có
quy định việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội, đồng thời có quyền giám
sát độc lập, như Điều 10, Hiến pháp 1992 quy định:
Công đoàn cùng cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên
chức và những người lao động khác; tham gia quản lý nhà nước và
xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước,
tổ chức kinh tế [53, tr.202].
MTTQ còn có chức năng tổ chức và chỉ đạo hoạt động của Ban Thanh
tra nhân dân ở cơ sở. Pháp luật quy định đó là hình thức giám sát của nhân
dân đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị
trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước. Tổ chức và
hoạt động của Thanh tra nhân dân được Chính phủ, sau khi trao đổi, thống
nhất với Ban Thường trực Uỷ ban Trung ương MTTQ Việt Nam và Đoàn Chủ
17
tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, quy định tại Nghị định số
99/2005/NĐ-CP.
Theo Nghị định số 99/2005NĐ-CP của Chính Phủ ngày 28/7/2005 thì
việc thành lập Ban Thanh tra nhân dân “để giám sát việc thực hiện chính sách
pháp luật, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ sở, góp phần phát huy dân chủ, đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức” [60, tr.29]. Như

vậy, cùng với các chủ thể khác, Ban Thanh tra nhân dân là chủ thể quan trọng,
một phương thức thực hiện chức năng giám sát của nhân dân đối với cơ quan
nhà nước nói chung, cơ quan hành chính, cán bộ công chức nhà nước nói riêng.
(2) Các tổ chức xã hội: Tổ chức xã hội, là tên gọi chung để chỉ các tổ
chức tự nguyện của quần chúng nhưng không phải là 5 tổ chức chính trị-xã
hội như nêu ở trên. Các tổ chức xã hội có nhiều tên gọi khác nhau tuỳ theo
tính chất, tôn chỉ, mục đích, điều lệ của tổ chức xã hội đó như: Hội, Liên Hiệp
các hội, Hội liên hiệp, Tổng hội, Liên đoàn, Hiệp hội Đặc điểm chung của
các tổ chức xã hội là tự nguyện, tự chịu trách nhiệm về kinh phí, tập hợp kết
nạp hội viên là người cùng ngành, nghề, giới, lứa tuổi, sở thích có điều lệ
hoặc quy chế được thành lập hoạt động một cách thường xuyên để đạt mục
đích nào đó. Tổ chức và hoạt động của các tổ chức đó không được trái với lợi
ích của nhân dân, dân tộc, tổ quốc, chế độ và được pháp luật công nhận (đăng ký
hoạt động, phê chuẩn điều lệ ), đa số các tổ chức xã hội có tư cách pháp nhân.
Các tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động theo qui định của pháp
luật và điều lệ, quy chế của tổ chức đó. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý
đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội, các hội có trách nhiệm
chấp hành sự quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật, đồng thời có
quyền tham gia giám sát hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước.
Quyền giám sát của tổ chức xã hội đối với cơ quan, cán bộ, công chức
nhà nước được quy định trong Hiến pháp và ngày càng được quy định nhiều
và cụ thể trong các văn bản pháp luật mới ban hành như: Luật Phòng, chống
18
tham nhũng; Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Luật về các lĩnh vực,
ngành nghề đặc thù các quy định của pháp luật đều ghi nhận, khuyến khích
tổ chức, cá nhân (Hội, hội viên) bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật của cơ quan, cán bộ, công
chức nhà nước. Kiến nghị với nhà nước về những vấn đề bất cập trong quá
trình quản lý nhà nước và xã hội.
(3) Các tập thể lao động: Các tập thể lao động ở nước ta hiện nay có số

lượng vô cùng lớn với hình thức hết sức đa dạng tập trung trong các doanh
nghiệp, nhà máy, hầm mỏ, đơn vị sự nghiệp, hợp tác xã Tập thể lao động
trong cơ quan hành chính nhà nước tham gia giám sát với ý nghĩa là theo dõi,
xem xét, đánh giá hoạt động của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà
nước có tác dụng quan trọng góp phần hạn chế vi phạm nguyên tắc tập trung
dân chủ, tham nhũng, lãng phí, lạm quyền trong thực hiện công vụ.
(4) Các cơ quan báo chí- với tính chất vừa là chủ thể vừa là phương
tiện giám sát của nhân dân: Chức năng giám sát của báo chí và truyền thông
đại chúng lần đầu tiên được đề cập trong Nghị quyết TW 6 (lần 2) khoá VIII
của Đảng Cộng sản Việt Nam với khẳng định: “Là một trong bốn hệ thống
giám sát xã hội”. Đó là sự xác định, đề cao quyền dân chủ của nhân dân đồng
thời trao cho nhân dân công cụ sắc bén để thực hiện quyền giám sát của mình.
Theo Luật báo chí thì có các loại hình sau:
Báo in (Báo, tạp chí, bản tin thời sự, bản tin thông tấn), báo nói (Đài
phát thanh), báo hình (Đài truyền hình), báo điện tử (được thực hiện trên
mạng vi tính) bằng tiếng Việt, tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài
Với chức năng thông tin, chức năng tạo dư luận xã hội (phản biện) và
chức năng giáo dục, nâng cao dân trí, báo chí ngày càng có vai trò quan trọng
đối với đời sống chính trị-xã hội, hoạt động quản lý nhà nước và nhu cầu của
nhân dân. Do đó, báo chí được coi là chủ thể quan trọng, là công cụ, phương
tiện đắc lực của nhân dân để thực hiện chức năng giám sát đối với cơ quan
hành chính nhà nước.
19
Luật báo chí hiện hành và pháp luật nói chung đều quy định khuyến
khích báo chí đưa tin, phản ánh về những việc làm sai trái của cơ quan, cán
bộ, công chức nhà nước; lên án các hành vi tham nhũng, vi phạm pháp luật và
các hiện tượng tiêu cực xã hội khác; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật tạo diễn đàn để các tầng lớp nhân dân thực hiện quyền giám sát. Cơ quan
báo chí, phóng viên có quyền yêu cầu cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm
quyền cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật.

Các cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông
tin, tài liệu theo quy định của pháp luật đồng thời pháp luật cũng quy định
cơ quan báo chí, phóng viên phải đưa thông tin trung thực, khách quan và
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc đưa tin đó.
(5) Giám sát trực tiếp của công dân: Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy
định 9 quyền về chính trị của công dân, trong đó có 7 quyền trực tiếp hoặc
gián tiếp thể hiện quyền giám sát của công dân đối với nhà nước. Luật Khiếu
nại, tố cáo; Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm chống
lãng phí, Luật Thanh tra cụ thể là các quy định về thanh tra nhân dân, Pháp
lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã thể hiện nội dung giám sát
của cá nhân công dân đối với hoạt động của chính quyền; phẩm chất đạo đức
của cá nhân, cán bộ công chức, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, dự toán và
quyết toán ngân sách, việc sử dụng các khoản kinh phí do nhân dân đóng góp,
các công trình do nhà nước đầu tư, việc thực hiện chính sách pháp luật
thông qua cuộc họp, hội nghị, tiếp xúc cử tri, trưng cầu ý kiến, bỏ phiếu tín
nhiệm
Tóm lại, chủ thể của pháp luật về giám sát của nhân dân đối với hoạt
động của cơ quan hành chính nhà nước gồm có các tổ chức chính trị-xã hội,
các tổ chức xã hội, các tập thể lao động, ban thanh tra nhân dân, cơ quan báo
chí và trực tiếp của công dân. Các chủ thể trên đều có đặc điểm chung là bên
ngoài nhà nước, độc lập hoặc độc lập tương đối với nhà nước, không mang
tính quyền lực nhà nước và do tính chất là những cơ cấu, tổ chức thiết chế
thuộc về xã hội mang tính nhân dân nên gọi là giám sát của nhân dân.
20
1.1.2.2. Các quy định về đối tượng giám sát của nhân dân
Đối tượng pháp luật về giám sát của nhân dân đề cập trong luận văn
này chính là hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.
Cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận của bộ máy nhà nước do
nhà nước lập ra để thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Cũng
như các cơ quan khác của bộ máy nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước có

cơ cấu tổ chức riêng để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình do pháp luật
quy định, đó là hoạt động trên một đơn vị lãnh thổ hành chính hay trên một
lĩnh vực nhất định.
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước do
Hiến pháp, pháp luật quy định. Mặt khác, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của cơ quan hành chính nhà nước do vị trí, tính chất của nó trong hệ thống các
cơ quan nhà nước quyết định. Quyền hạn của cơ quan hành chính nhà nước là
phương tiện pháp lý cần thiết để thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao.
Cơ quan hành chính nhà nước có hệ thống thống nhất từ TW đến địa
phương, đứng đầu hệ thống đó là Chính phủ. Các cơ quan hành chính nhà
nước có thẩm quyền chung (Chính phủ, UBND các cấp) do các cơ quan quyền lực
nhà nước (Quốc hội, HĐND các cấp) lập ra. Do vậy, các cơ quan đó phải chịu sự
giám sát trực tiếp và báo cáo công tác trước các cơ quan quyền lực nhà nước.
Cơ quan hành chính nhà nước là một loại cơ quan nhà nước, một bộ
phận cấu thành của bộ máy nhà nước do đó cơ quan hành chính nhà nước có
các đặc điểm chung của cơ quan nhà nước. Ngoài ra, cơ quan hành chính nhà
nước có những đặc điểm riêng mà qua đó ta có thể phân biệt được cơ quan
hành chính nhà nước và cơ quan khác, đó là:
Thứ nhất, cơ quan hành chính nhà nước có chức năng quản lý hành
chính nhà nước, thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung
do cơ quan quyền lực cùng cấp lập ra. Các cơ quan khác trong bộ máy hành
chính nhà nước không do cơ quan hành chính lập ra nhưng về nguyên tắc vẫn
21
phải chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước, sự giám sát của nhân
dân.
Hoạt động chấp hành, điều hành của cơ quan hành chính nhà nước là
hình thức hoạt động chủ yếu để đưa các văn bản pháp luật của cơ quan quyền
lực nhà nước vào thực tiễn đời sống xã hội và quản lý nhà nước. Trong khi
các cơ quan nhà nước khác chỉ tham gia hoạt động quản lý hành chính trong

phạm vi, lĩnh vực nhất định nhằm tạo điều kiện cần thiết cho việc thực hiện
chức năng nhiệm vụ của mình.
Thứ hai, mỗi cơ quan hành chính nhà nước có một phạm vi thẩm quyền
nhất định được giới hạn trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước do pháp
luật quy định (Hiến pháp, Luật Tổ chức chính phủ, Luật Tổ chức HĐND và
UBND, các nghị định của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và tổ chức bộ máy của các bộ, cơ quan ngang bộ ) và trong phạm vi
thẩm quyền của mình độc lập hành động.
Thứ ba, chỉ có cơ quan hành chính nhà nước mới có hệ thống các đơn
vị trực thuộc. Các đơn vị cơ sở này góp phần tích cực vào việc thực hiện chức
năng cơ bản của cơ quan hành chính nhà nước. Ví dụ như: các trường học,
bệnh viện, doanh nghiệp
Phân loại cơ quan hành chính nhà nước dựa trên nhiều căn cứ khác
nhau, theo các tiêu chuẩn khác nhau. Đó là:
- Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ hoạt động (không gian) cơ quan hành
chính nhà nước được phân thành 2 loại: Cơ quan hành chính nhà nước ở TW
và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Cơ quan hành chính nhà nước
ở Trung ương gồm Chính phủ, các bộ, các cơ quan ngang bộ quản lý về
ngành hay lĩnh vực công tác. Những cơ quan này có phạm vi hoạt động toàn
quốc, các văn bản do các cơ quan đó ban hành về nguyên tắc có hiệu lực trên
phạm vi cả nước. Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương là Uỷ ban nhân
dân các cấp. Đây là những cơ quan hành chính nhà nước được thành lập và
hoạt động trong phạm vi lãnh thổ nhất định. Các văn bản do cơ quan này ban
22
hành chỉ có hiệu lực trong phạm vi hoạt động của các cơ quan, tổ chức, công
dân ở địa phương đó. Trong một số trường hợp các văn bản do cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương ban hành có hiệu lực đối với cả cơ quan, đơn vị
của Trung ương đóng tại địa phương.
- Căn cứ theo phạm vi thẩm quyền, cơ quan hành chính nhà nước được
phân loại thành cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chung và cơ

quan hành chính nhà nước có thẩm quyền riêng. Cơ quan hành chính nhà
nước có thẩm quyền chung gồm Chính phủ và UBND các cấp. Các cơ quan
này theo quy định của Hiến pháp có thẩm quyền giải quyết vấn đề trong các
lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, đối với các đối tượng khác nhau như
cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, công dân. Cơ quan hành chính nhà nước có
thẩm quyền riêng bao gồm các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ, sở, phòng… có chức năng quản lý theo ngành hay theo chức năng, các
cơ quan này hoạt động trong một ngành hay một lĩnh vực, một số ngành hay
một số lĩnh vực nhất định và hoạt động không được vượt ngoài giới hạn phạm
vi thẩm quyền đã được pháp luật quy định.
- Căn cứ theo nguyên tắc tổ chức và giải quyết công việc (theo chế độ
lãnh đạo) cơ quan hành chính nhà nước được phân thành hai loại: Cơ quan tổ
chức và hoạt động theo chế độ lãnh đạo tập thể và cơ quan tổ chức và hoạt
động theo chế độ thủ trưởng một người.
+ Cơ quan hành chính nhà nước theo chế độ tập thể lãnh đạo là cơ quan
hành chính nhà nước có thẩm quyền chung (Chính phủ và UBND các cấp).
Các cơ quan này thường giải quyết các công việc và quyết định các vấn đề
quan trọng có liên quan đến nhiều lĩnh vực nên cần có sự đóng góp trí tuệ tập
thể trong bàn bạc và quyết định. Theo Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001)
các cơ quan như Chính phủ, UBND các cấp hoạt động theo nguyên tắc kết
hợp giữa chế độ tập thể với chế độ thủ trưởng. Đó là cách làm việc của tập thể
Chính phủ và UBND với việc tăng cường quyền hạn, trách nhiệm của Thủ
tướng và Chủ tịch UBND. Cách thức chủ yếu là tập thể thảo luận, quyết định
theo đa số đối với các vấn đề quan trọng thuộc thẩm quyền của cơ quan, đồng
23
thời căn cứ vào nhiệm vụ quyền hạn của mình Thủ tướng, Chủ tịch UBND
các cấp quyết định các vấn đề thuộc phạm vi, chức trách của mình.
+ Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền chuyên môn tổ
chức và hoạt động theo chế độ thủ trưởng một người. Thủ trưởng cơ quan là
người đại diện cho cơ quan, ý chí của họ do sự uỷ nhiệm của pháp luật, là ý

chí của cơ quan. Họ được phép thay mặt cơ quan ra những quyết định nhằm
thực hiện nhiệm vụ, công việc mà pháp luật quy định và chịu trách nhiệm
trước pháp luật. Chế độ làm việc này cho phép thủ trưởng cơ quan quyết định
giải quyết nhanh chóng công việc, nhiệm vụ thuộc thẩm quyền được giao.
Tuy nhiên, trong những vấn đề lớn, quan trọng trước khi quyết định vẫn phải
được tập thể thảo luận, bàn bạc
Tóm lại, cơ quan hành chính nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ
máy nhà nước, trực thuộc cơ quan quyền lực nhà nước trực tiếp hoặc gián tiếp,
trong phạm vi thẩm quyền của mình thực hiện hoạt động chấp hành, điều hành
và tham gia vào các quan hệ quản lý nhân danh quyền lực nhà nước.
Khách thể của quan hệ pháp luật về giám sát của nhân dân đối với cơ
quan hành chính nhà nước là trạng thái hoạt động trật tự, bình thường, đúng
pháp luật của các cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Đó cũng là khách thể
của hoạt động quản lý nhà nước, xã hội mà cơ quan hành chính nhà nước
hướng tới.
1.1.2.3. Các quy định về nội dung, hình thức giám sát của nhân dân
đối với cơ quan hành chính nhà nước
Giám sát của nhân dân có nhiều chủ thể và mỗi chủ thể lại có vị trí,
chức năng khác nhau trong hệ thống chính trị, đời sống xã hội do đó có các
nội dung, hình thức giám sát tương ứng.
- Nội dung giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà
nước, bao gồm:
+ Giám sát quá trình thành lập các cơ quan của bộ máy nhà nước.
24
+ Giám sát đối với hoạt động của các cơ quan chấp hành, điều hành,
hay còn gọi là hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, nắm giữ quyền hành
pháp trong nhà nước, trực tiếp quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Giám sát việc thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, giới hạn
thẩm quyền của cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với cơ quan
khác và với nhân dân.

+ Giám sát đối với các quyết định, hành vi hành chính của cơ quan
hành chính nhà nước xem có hợp hiến, hợp pháp và có tính hợp lý hay không.
+ Giám sát việc tuân thủ và tổ chức thực hiện các văn bản của cơ quan
quyền lực nhà nước cùng cấp, cấp trên cũng như của cơ quan hành chính có
thẩm quyền.
+ Giám sát đối với việc bảo đảm thực hiện các quyền tự do và lợi ích
chính đáng của công dân được pháp luật bảo vệ.
+ Giám sát đối với đội ngũ cán bộ, công chức thực thi trách nhiệm công
vụ trong cơ quan hành chính nhà nước.
+ Giám sát hiệu quả thực hiện nhiệm vụ quản lý hành chính nhà nước,
việc sử dụng các nguồn lực vật chất, tài chính, lao động và các nguồn lực
khác trong tổ chức lao động, sử dụng các thành tựu, công nghệ mới
Việc phân chia nội dung giám sát như trên chỉ có tính chất tương đối
bởi mỗi chủ thể trong giám sát của nhân dân có sự khác nhau về mục đích,
nhiệm vụ, tính chất và vị trí của mình. Mặt khác, cũng không phải chủ thể nào
trong đó đều thực hiện đầy đủ các nội dung giám sát nêu trên, nhưng về tổng
thể, các chủ thể giám sát bao quát toàn bộ hoạt động của hệ thống cơ quan
hành chính nhà nước.
- Hình thức giám sát của nhân dân đối với cơ quan hành chính nhà nước.
Giám sát của nhân dân được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng,
phong phú tuỳ thuộc vào vị trí, tính chất, đặc điểm của chủ thể giám sát. Mỗi
loại chủ thể có những hình thức giám sát phù hợp với vị trí, tính chất và đặc
25

×