Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

LỊCH sử TRIẾT học ĐÔNG PHƯƠNG o

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.99 KB, 16 trang )

Câu 01: Bối cảnh lịch sử của Ấn Độ.
Ấn Độ nằm ở phía Nam Á trên tiểu lục Ấn Độ, từ Đông Nam đến Tây Nam tiếp giáp với
vịnh Bengan và Ấn Độ Dương, phía Bắc được án ngữ bởi dãy Hymalaya tạo thành vòng cung
dài 2600km.
Phía Nam Ấn là vùng đồng bằng Ấn- Hằng có các sông lớn như sông Ấn( Indus) chảy về
phía Tây ra Ấn Độ Dương. Sông Hằng(Gange) cũng bắt nguồn gần sông Ấn nhưng chảy theo
hướng ngược lại về phía Đông, chảy ra vịnh Bengela. Từ những dòng sông này đã tạo nên
những trung tâm dân cư, kinh tế, văn hóa… tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông
nghiệp, thương nghiệp và tạo nên những vùng di tích nổi tiếng.
Đặc điểm thiên nhiên và khí hậu rất phức tạp, rất đa dạng, khắc nghiệt. Đây là những thế
lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu ấn đậm nét trong đời sống và tư tưởng của người
Ấn Độ cổ.
Văn hóa Ấn Độ được chia ra làm 3 thời kỳ:
- Nền văn minh Indus – sông Ấn( XXVI – XVII TCN)
Chủ nhân là tộc người bản địa gốc của Ấn Độ. Những cuộc khai quật di tích cổ đã cho
thấy nền văn minh sông Ấn (hay văn minh Harappa) là một nền văn minh đồ Đồng đang tiến
vào giai đoạn đầu xã hội chiếm hữu nô lệ, trong giai đoạn này nông nghiệp, thủ công nghiệp…
hay đã hình thành nên các khu đô thị. Thành phố được chia thành 2 khu, khu “dưới thấp” và
“trên cao” chứng tỏ xã hội đã phân chia người giàu và kẻ nghèo rõ rệt.
- Khoảng thế kỷ XVII – VII TCN là thời kỳ văn hóa Vệ - đà.
Đây là thời kỳ hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ đầu tiên của người Arya trên lưu
vực sông Hằng và sông Ấn. Người Arya vốn là dân du mục định cư ở vùng Trung Á, họ đã
tiến dần xuống Đông Nam và làm chủ lưu vực sông Hằng và cao nguyên Dekhan. Những
người dân bản địa như Munda, Dravida đều bị chinh phục và biến thành nô lệ. Trong khoảng
thế kỷ X TCN, người Arya lập ra tôn giáo Rig-veda, có một phần ảnh hưởng đến tôn giáo tín
ngưỡng của dân tộc bản địa Dravida.
Thời kỳ Veda này cũng hình thành các tôn giáo lớn mà tư tưởng và tín ngưỡng của nó
ảnh hưởng đậm nét tới đời sống tinh thần xã hội Ấn Độ cổ đại như: Rig-veda, Bà-la- môn
giáo, sau đó có đạo Phật và đạo Jaina…
Trong quá trình phân hóa xã hội thì vấn đề phân chia đẳng cấp giữa quý tộc và thường
dân ngày càng sâu sắc. Đó là xã hội dựa theo sự phân biệt chủng tộc, màu da, dòng dõi, nghề


nghiệp, tôn giáo, quan hệ giao tiếp…
Theo thánh điển Bà-la-môn và bộ luật Manu người ta phân biệt xã hội thành rất nhiều
chủng tánh, nhưng có thể quy thành 4 chủng tính lớn:
- Bradman: Đứng đầu là đẳng cấp Tăng lữ, lễ sư Bà-la-môn.
- Kshatriya:Thứ 2 là đẳng cấp Vương công, Vua chúa, tướng lĩnh, võ sĩ.
- Vaishya: đẳng cấp thương nhân, điền chủ, thường dân Arya.
- Shurda, Sudra: đẳng cấp tiện dân và nô lệ ngoài ra còn có những hạng người ngoài lề
đẳng cấp như người cùng đinh, hạ đẳng, Paria như người Chandala…
Việc phân chia đẳng cấp trong xã hội với những tính chất khắt khe, nghiệt ngã. Đã tạo
nên một làn sóng phản đối sự thống trị của đạo Bà-la-môn và chế độ đẳng cấp đã làm rúng
động cả nông thôn và thành thị. Trong lĩnh vực tư tưởng, cuộc đấu tranh giữa các chủ nghĩa
duy vật, vô thần, chủ nghĩa hoài nghi chống lại uy thế kinh Veda và các tín điều của Bà-lamôn giáo đã diễn ra quyết liệt, đòi bình đẳng xã hội trong thời kỳ này.
- Từ thế kỷ VI – I trước CN
Page | 1


Trong thời kỳ này các quốc gia chiếm hữu nô lệ đã thực sự phát triển và chiến tranh xâm
lược thôn tính lẫn nhau. Đặc biệt nhất là các triều đại, các vương quốc như: Magadha, Maurya
với thời kỳ vua Ashoka.
Về xã hội chiếm hữu nô lệ ngoài chế độ phân chia đẳng cấp, sự tồn tại dai dẳng của
những công xã nông thôn là chủ yếu và nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền,
các đế vương nắm quyền lực vô hạn về chính sách đất đai, sự phân chia đẳng cấp nghiệt ngã,
thể chế xã hội phức tạp, điều kiện tự nhiên vô cùng khắc nghiệt là những thế lực đè nặng lên
đời sống vốn cực khổ của người dân Ấn Độ.
Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ thì giai cấp nô lệ được coi là “ tài sản hai chân” của chủ
nô. Họ bị bắt lao động khổ sai, và chịu những hình phạt tàn khốc như cùm kẹp, đánh đập…
Câu 2: Những đặc điểm chính của Triết học Ấn độ
Nhân loại loài người cho đến ngày nay và hễ còn tồn tại thì luôn luôn phải đối mặt với
ba mâu thuẫn lớn:
- Mâu thuẫn xung đột giữa con người với thiên nhiên.

- Mâu thuẫn xung đột giữa con người với con người.
- Mâu thuẫn xung đột với chính mình.
Trong lịch sử văn hóa nhân loại đã tồn tại 3 trung tâm truyền thống văn hóa lớn: Ấn Độ,
Trung Hoa và châu Âu. Ba truyền thống này thể hiện khá nhiều đặc trưng riêng của mình như:
Trung Hoa nhấn mạnh vào vấn đề xã hội; châu Âu nhấn mạnh vào thiên nhiên; còn Ấn Độ lại
nhấn mạnh vào vấn đề tâm lý. Trên cơ sở này có thể khái quát một số đặc điểm chính sau:
1. Triết học Ấn độ là triết học tâm lý
- Điều kiện tự nhiên và xã hội Ấn Độ hết sức đặc biệt. Thiên khắc nghiệt, mờ ảo, biến
đổi khôn lường, nó như trò chơi đầy quỷ thuật và huyền ảo của vũ trụ. Đứng trước thiên nhiên
có vẻ khó chinh phục, nó như một thách thức khó có thể vượt qua, và họ cảm thấy bất lực
trước sức mạnh tự phát của thiên nhiên.
- Xã hội đầy những vấn đề sâu xa nhất là ranh giới màu da, sự phân chia đẳng cấp đầy
nghiệt ngã khiến họ bất lực, hết hy vọng. Do đó, người Ấn Độ từ rất sớm đã quay về nội
hướng, đem hết sức mình chú ý vào vấn đề tâm lý.
- Tri thức con người hiểu biết về tự nhiên là “hạ chí”, là phương tiện, do vậy, họ không
nhầm lẫn phương tiện với mục đích tối cao của nhận thức” thượng trí”.
- Khi đã hiểu được bản chất thực tại tuyệt đối, duy nhất, tìm ra chân bản của mình, phân
biệt cái linh hồn bất tử với phần thể xác hữu hạn, hữu hình, vô thường ấy sẽ đưa đến giải
thoát.
Thứ 2: Triết học Ấn Độ là triết học tôn giáo.
Người Ấn Độ đời sống của họ là đời sống tôn giáo và là trọng tâm của tôn giáo; tư
tưởng và tôn giáo hòa quyện lẫn nhau. Mặc dù triết học và tôn giáo có khác nhau ở một số
điểm, nhưng không bao giờ có kiểu tấn công hủy diệt mà nó củng cố cho nhau, để ở mỗi lĩnh
vực có thể tìm ra những đặc điểm riêng của nó.
Thứ 3: Giải thoát (Moksa) là tư tưởng “quán thông” trong lịch sử triết học Ấn Độ.
Tín đồ Hindu có 4 cách phân loại tư tưởng mà họ cho là đáng học hỏi và truyền đạt. Hệ
thống phân loại có 4 mục đích hay cứu cánh hoặc 4 lĩnh vực trong cuộc sống con người:
1). Artha là những sở hữu của cải, những sự vật hữu hình được hưởng thụ và mất đi.
Chúng cần thiết cho đời sống thường nhật, duy trì gia đình, hoàn thành những bổn phận tôn
giáo và đạt đến sự giàu có và thịnh vượng. Theo nghĩa rộng nhất” cái khả giác, đối tượng của

giác quan”, liên quan đến ngoại giới của tâm linh như mục tiêu, mục đích, ước muốn, khát
vọng, nguyên nhân, lý do, quyền lợi, ham muốn và mối bận tâm.
Page | 2


2). Kama hay dục(lòng ham muốn) là mục đích thứ hai của cuộc sống, là sự khoái lạc và
tình thương yêu.
3). Dharma (Pháp) bao gồm toàn bộ văn cảnh về bổn phận tôn giáo và đạo đức.
4). Moksa là sự cứu chuộc hay giải thoát tâm linh. Nó có nghĩa nguyên gốc là: buông,
thả, trả tự do, giải phóng…
Ba yếu tố đầu được gọi là Trivarga( Tam chúng) là những theo đuổi của thế gian, mỗi thứ
bao hàm khuynh hướng riêng hay “triết lý sống” của nó, và có một nền văn chương đặc biệt
cho mỗi thứ.
Nhưng cái bao quát nhất, tầm cỡ nhất của tư tưởng, nghiên cứu, giáo pháp đều liên quan
đến chủ đề tâm linh tối hậu là giải thoát khỏi vô minh và những si mê ảo ảnh thông thường
của thế gian.
Theo Dharma của Ấn Độ giáo, đời người được chia thành 4 giai đoạn:
a). Giai đoạn của một đệ tử được dạy dỗ, tham gia, chờ đợi và phục vụ cho đạo sư của
họ.
b). Thứ hai là người chủ hộ, là giai đoạn quan trọng của sự trưởng thành, thực hiện vai
trò xứng đáng của mình ở thế gian.
c). Thứ ba là giai đoạn quy ẩn vào rừng để tu tập thiền định.
d). Thứ tư là giai đoạn khất sĩ.
Trong 4 giai đoạn này Moksa được dành cho 2 giai đoạn sau. Như vậy Moksa cũng là
một tiến trình, một quá trình, có chuẩn bị và thực hành; có khởi đầu và chung cuộc và tất
nhiên phải có điều kiện, nó không sảy ra từ những lo âu về cuộc sống thường nhật, vốn đã trôi
qua như giấc mộng
Moksa nhìn thấy bên ngoài những tinh tú chứ không phải con đường làng.
Moksa mục đích của nó không phải thiết lập những nền tảng khoa học, xây dựng một lý
thuyết vững chắc về tri thức hoặc là phương pháp tiếp cận khoa học với những cảnh quan

thiên nhiên hay với những tư liệu lịch sử về con người mà là xé toang bức màn che hữu
hình.
Moksa được ví như cặp âm dương trong lịch sử tư tưởng văn hóa Trung Quốc. Moksa là
một nguồn lực ghi dấu ấn trên mọi nét đặc trưng, mọi đặc điểm cùng khả năng tinh thần của
cuộc sống Ấn Độ và định hình toàn bộ thang giá trị của nó.
4). Triết học Ấn Độ hình thành và phát triển rất đa dạng và phong phú về nội dung và
khuynh hướng
Theo cách phân chia truyền thống triết học Ấn Độ phân chia thành 2 hệ thống chính:
- Hệ thống triết học chính thống gồm 6 học phái.
- Hệ thống không chính thống có 3 học phái.
Cơ sở của sự phân chia là căn cứ vào tư tưởng, nền tảng xuyên suốt lịch sử văn hóa Ấn
Độ. Đó là tư tưởng cho rằng Brahma là thượng đế, là linh hồn của vũ trụ, là vị thần sáng tạo,
là Đại ngã. Trong vũ trụ từ vật nhỏ nhất đến vật lớn nhất đều là hiện thân của Brahma, ngay cả
linh hồn của con người được coi là Tiểu ngã( Atman).
Họ ví Atman là sóng, Brahma là nước và sóng trở về với nước cần phải có điều kiện.
Câu 3: Nhân Sinh Quan Phật Giáo
Nghiệp và luân hồi
Trong nhân sinh quan, triết học Phật giáo tiếp nhận hai khái niệm là nghiệp và luân hồi
của Ấn Độ giáo, nhưng đã có một cách lý giải mới mẻ hơn, sâu sắc hơn, thâm trầm hơn về
phương diện tâm lý.
Page | 3


1. Nghiệp – Karma:
Nghiệp là hành động, con người sống hành động và tạo nghiệp. nghiệp gồm có túc
nghiệp tức là nghiệp(nhân) đã được tạo tác trong quá khứ, nó giữ vai trò chi phối đến quả ở
hiện tại. Còn hiện nghiệp là Nghiệp ở hiện tại nó đóng vai trò thứ yếu. Theo Phật giáo người
hiện hữu là một kiếp và sự hiện hữu này là sự kế tục của vô vàn kiếp sống trước. Vì vậy cho
nên, cuộc đời hiện hữu của mỗi người, nó giống như một cỗ máy chịu tác động của một lực vô
hình nhưng rất mạnh mẽ chi phối, lực chi phối này gọi là nghiệp.

2. Samsara- Luân hồi:
Samsara theo Phạn ngữ là cuộc sống nối tiếp, vốn là biểu tượng chung của cư dân nông
nghiệp, ta gieo trồng hạt giống, ta thu được cây, hoa, trái…và lại có hạt giống tiếp theo để gieo
trồng, cứ như vậy sự sống tiếp nối không ngừng.
Luân hồi theo Hán ngữ là bánh xe quay tròn cũng là sự truyền tải ý tưởng nói trên. Nếu
như Ấn Độ giáo thừa nhận một linh hồn bất tử (atman) và luân hồi của linh hồn bất tử nhưng
Phật giáo không thừa nhận sự tồn tại của linh hồn bất tử và luân hồi chỉ là sự nối tiếp của các
nghiệp đã tạo tác trong quá khứ. Mọi nghiệp đều do tham, sân, si hay các ác nghiệp đã tạo, hễ
còn tạo thì bể trầm luân càng sâu hơn.
Theo Phật giáo thì cái “tôi” có tính ảo tưởng là nguồn gốc của mọi xung đột và khổ đau.
Từ triết lý này, chúng ta có thể thấy trọng tâm của triết học Phật giáo là phần nhân sinh quan.
Đạo Phật gọi đó là giải thoát và toàn bộ Phật pháp đều nhằm chỉ ra con đường giải thoát, như
Phật đã nói "Như mặn là vị của nước biển, còn vị của đạo ta là giải thoát".
3. Tứ diệu đế
Cơ sở tư tưởng và cốt lõi của Phật pháp là Tứ thánh đế. Bốn chân lý giải thích bản chất
của sự khổ trong luân hồi (輪輪), nguyên nhân của sự khổ, và làm thế nào để giải trừ đau khổ.
Nếu như có một ngọn lửa tự cháy giữa hư không, vô nhân, vô duyên, vậy thì khi muốn dập tắt
ngọn lửa ấy là điều không thể nào, thế nhưng ngược lại, trong thực tế ngọn lửa nào cháy lên
cũng có nhân, có duyên của: chất đốt, không khí, v.v.. Khi chúng ta loại bỏ các điều kiện đó
thì ngọn lửa cũng tắt, tương tự như vậy, Đức Phật dạy Ở đời thực có khổ đau (Khổ đế), khổ
đau cũng có nguyên nhân (Tập đế), khổ đau có thể dập tắt (Diệt đế), và Bát chánh đạo - Trung
đạo là con đường đưa đến khổ diệt (Đạo đế). Tứ diệu đế là sự nhận thức đúng đắn các loại khổ
đau, nguyên nhân dẫn đến khổ đau, trạng thái không có khổ đau và con đường để thoát đau
khổ. Con người chỉ thoát khỏi đau khổ nhờ nhận thức đúng về đau khổ. Thoát khỏi vô minh
thì hết đau khổ. Đây là quan điểm triết học mang tính duy lý.
1. Khổ đế (輪輪), chân lý về sự Khổ: đau trên thân gồm: sinh, già, bệnh, chết; khổ tâm
gồm: sống chung với người mình không ưa, xa lìa người thân yêu, mong muốn mà không
được, chấp vào thân ngũ uẩn. Khổ đau là một hiện thực, không nên trốn chạy, không nên phớt
lờ, cũng không nên cường điệu hóa. Muốn giải quyết khổ đau trước tiên phải thừa nhận nó, cố
gắng phân tích nó để nhận thức nó một cách sâu sắc.

2. Tập đế (輪輪), chân lý về sự phát sinh của khổ: khổ đau đều có nguyên nhân thường
thấy do tham ái, sân hận, si mê, chấp thủ. Cần truy tìm đúng nguyên nhân sinh ra khổ, nguồn
gốc sâu xa sinh ra khổ trong sinh tử luân hồi là do vô minh và ái dục, những mắt xích liên
quan nằm trong 12 nhân duyên.
3. Diệt đế (輪輪), chân lý về diệt khổ: là trạng thái không có đau khổ, là một sự an vui
giải thoát chân thật, là một hạnh phúc tuyệt vời khi chấm dứt lòng ham muốn, và có sự hiểu
biết của trí tuệ chấm dứt vô minh.

Page | 4


4. Đạo đế (輪輪), chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ: Phương pháp để đi đến sự diệt
khổ là con đường diệt khổ tám nhánh, Bát chính đạo. Phương tiện hay pháp môn để thành tựu
con đường bát chánh đạo là 37 phẩm trợ đạo.
Bát chính đạo
- Nhóm trí tuệ:
 Chính kiến (輪輪): hiểu biết chân chính: hiểu biết về nhân quả, duyên khởi, hiểu biết về
sự vật hiện tượng chân thực, như chúng đang là, không kèm theo cảm xúc, cảm tính, hiểu biết
4 chân lý về khổ và cách thoát khổ, từ đó biểu hiện thái độ sống không làm khổ mình, khổ
người.
 Chính tư duy ( 輪輪 輪 ): suy nghĩ hướng đến nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh,
thắng trí và giác ngộ.
- Nhóm đạo đức:
 Chính ngữ (輪輪): lời nói chân chính: lời nói sự thật, lời nói hòa hợp, đoàn kết, mang
tính xây dựng, mang lại an vui hạnh phúc cho người khác.
 Chính nghiệp (輪輪): hành vi chân chính: không sát sanh, không trộm cắp, không ngoại
tình, không sử dụng rượu bia ma túy. Các hành vi được khuyến khích: trồng cây bảo vệ môi
trường, chia sẻ sở hữu hợp pháp với những người kém may mắn hơn, sống chung thủy một vợ
một chồng, giữ sức khỏe để chăm sóc bảo vệ người thân.
 Chính mạng (輪輪): nghề nghiệp chân chính để nuôi sống thân mạng: không làm nghề

đồ tể; không làm nghề buôn bán vũ khí; không làm nghề buôn bán các chất gây say, gây
nghiện; không làm nghề buôn bán độc dược; không làm nghề mại dâm.
 Chính tinh tấn (輪輪輪): nỗ lực kiên trì chân chính: tiếp tục làm những việc thiện đang
làm, hiện thực hóa những việc thiện có ý định làm, từ bỏ những việc bất thiện đang làm, loại
bỏ ý định về những việc bất thiện sẽ làm.
- Nhóm thiền định:
 Chính niệm (輪輪): sự làm chủ các giác quan trong các tư thế: đi, đứng, nằm, ngồi, nói,
nín, động, tịnh, thức và ngủ, làm chủ cảm xúc và thái độ sống.
 Chính định (輪輪): 4 tầng thiền: sơ thiền (ly dục ly ác pháp sinh hỷ lạc, có tầm, có tứ),
nhị thiền (diệt tầm, diệt tứ, định sinh hỷ lạc, nội tĩnh, nhất tâm), tam thiền (ly hỷ, trú xả), tứ
thiền (xả lạc, xả khổ, xả niệm thanh tịnh) cùng với những phương pháp hỗ trợ như tứ niệm xứ,
định niệm hơi thở, định sáng suốt... được đề cập trong kinh tạng Pali. Sau khi đã đạt tứ thiền,
hành giả dẫn tâm về Tam minh gồm: Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh. Chứng
tam minh xong, hành giả giải thoát hoàn toàn, thành tựu thánh quả A-la-hán, các vị A-la-hán
tuyên bố "Sinh đã tận, phạm hạnh đã thành, những việc nên đã làm, không còn tái sinh trong
cuộc đời này nữa".
Những tư tưởng cơ bản của Phật-đà đều được nhắc lại trong các kinh sách, nhưng có khi
chúng được luận giải nhiều cách khác nhau và vì vậy ngày nay có nhiều trường phái khác
nhau, hình thành một hệ thống triết lý hết sức phức tạp.
Quá trình tu học và giải thoát
Theo giáo lý nguyên thủy thì một hành giả đạt bồ-đề, giác ngộ khi người đó đạt được
một cái nhìn vạn vật như chúng đích thật là (Như thật tri kiến) tức là đạt đến chân lý, với một
tâm thức thoát khỏi phiền não và si mê. Trong các loại phiền não thì tham ái và vô minh, cũng
được gọi là si, là những loại nặng nhất. Tham, sân và si được gọi chung là ba chất độc (tam
độc), vì chúng gây ảnh hưởng lớn đến tâm thức. Vì phiền não vây phủ tâm thức nên hành giả
gắng sức tiêu diệt chúng, và để tiêu diệt được thì người đó phải gắng sức đạt được tri kiến
chân chính bằng cách thực hành bát chính đạo.
Cách thực hành trong Phật giáo cũng được phân chia theo tam học, cụ thể là tu học về
giới (tăng thượng giới học), định (tăng thượng định học) và huệ (tăng thượng huệ học). Trước
Page | 5



hết hành giả phát lòng tin (tín, sa. śraddhā) vào Tam bảo, giữ giới luật đúng theo địa vị của
mình (cư sĩ, sa-di hoặc tỉ-kheo). Qua đó mà ông ta chuẩn bị cho cấp tu học kế đến là thiền
định. Cấp này bao gồm bốn trạng thái thiền (tứ thiền). Một số cách thực hành được nhắc đến
nhằm hỗ trợ bốn cấp thiền định trên, đó là tứ niệm xứ, Tứ vô lượng tâm, tức là trau dồi bốn
tâm thức Từ, Bi, Hỉ và Xả (cũng được gọi là Tứ Phạm trú). Cách thiền định ở cấp này được
phân làm hai loại: 1. Chỉ là phương pháp lắng đọng tâm, và 2. Quán là cách thiền quán lập cơ
sở trên chỉ, tức là có đạt định an chỉ xong mới có thể thành tựu công phu Quán. Phần thứ ba
của tam học là huệ học, lập cơ sở trên thiền quán. Đối tượng quán chiếu trong thiền định ở đây
có thể là tứ diệu đế, nguyên lý duyên khởi hoặc ngũ uẩn. Ai hoàn tất Tam học này sẽ đạt được
sự hiểu biết về giải thoát, biết là mình đã đạt giải thoát. Phiền não của hành giả này đã được
tận diệt, các lậu hoặc đã chấm dứt (vô lậu) và hành giả ấy đạt tứ thánh quả A-la-hán.
Song song với cách tu hành theo Tam học trên ta cũng tìm thấy phương cách theo 37 Bồđề phần.
Câu 4: Những đặc điểm chính của triết học Trung Quốc cổ đại:
Triết học Trung Quốc trước hết là những triết gia xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức cai trị.
Đứng trước các biến cố lịch sử “Thây chất đầy thành” đã trở thành chủ đề cuốn hút các nhà tư
tưởng các học phái. Việc luận bàn các đề tài này ở mức độ thâm sâu và giá trị đạt được có
khác nhau, nhưng nó đã bổ xung cho nhau, để cuối cùng đạt đến tầm cao về lý luận xã hội
trong lịch sử tư tưởng triết học Trung Quốc cổ đại. Thời kỳ này là thời kỳ “Bách gia chi tử”.
Triết học Trung Quốc là triết lý về con người, bàn về tính người, quan hệ giữa con người
với con người, đối với xã hội… mong muốn tạo ra một xã hội hài hòa và tốt đẹp hơn.
Triết học Trung Quốc là triết lý về vũ trụ quan trên cơ sở của cặp Âm Dương, sự tác
động qua lại giữa các cặp đối nghịch xuất hiện như một nguyên lý và từ đó rút ra được sự vận
hành của vũ trụ.
Triết học Trung Quốc là triết lý về văn hóa. Trung Quốc là một trung tâm văn hóa có bề
dày và tiềm năng về văn hóa. Khi triết học hình thành thì nó phản ánh, lý luận, phương tiện
chuyển tải văn hóa ở nét tinh túy nhất.
Triết học Trung Quốc là triết lý về giáo dục, về đạo đức. Do sự quy tụ các đặc trưng nói
trên mà triết học Trung Quốc cổ đại tự phát tiết một lý luận có một không hai trong thời kỳ cổ

đại, và đề xuất được nhiều tư tưởng có giá trị- lý luận về giáo dục. Và có thể nói rằng giáo dục
là hào quang tỏa sáng và quy tụ tất cả các hoạt động xã hội, đạo đức và giáo dục văn hóa.
Câu 5: Triết học Khổng Tử
* Cuộc đời và sự nghiệp
Nho giáo (儒儒), còn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là một hệ thống đạo đức, triết học
xã hội, triết lý giáo dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được các môn đồ của
ông phát triển với mục đích xây dựng một xã hội thịnh trị.
Nho giáo nguyên thủy
Cơ sở của Nho giáo được hình thành từ thời Tây Chu, đặc biệt với sự đóng góp của Chu
Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội loạn lạc, Đức Khổng Tử (sinh
năm 551 trước Công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực
truyền bá các tư tưởng đó. Chính vì thế mà người đời sau coi Khổng Tử là người sáng lập ra
Nho giáo.
Thời Xuân Thu, Đức Khổng Tử đã san định, hiệu đính và giải thích bộ Lục kinh gồm
có: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và Kinh Nhạc. Về sau Kinh
Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường được gọi là Ngũ kinh. Sau khi Đức Khổng
Page | 6


Tử mất, học trò của ngài tập hợp các lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất
của Khổng Tử là Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra Đại Học. Sau đó,
cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra cuốn Trung Dung. Đến thời
Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò của ông chép thành sách Mạnh
Tử. Bốn sách sau được gọi là Tứ Thư và cùng Ngũ Kinh hợp lại làm 9 bộ sách chủ yếu của
Nho giáo và còn là những tác phẩm văn chương cổ điển của Trung Quốc. Từ Khổng Tử đến
Mạnh Tử hình thành nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước
đời Tần), Khổng giáo hay "tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái niệm,
Nho giáo và Nho gia. Nho gia mang tính học thuật, nội dung của nó còn được gọi là Nho học.
Mục tiêu của Nho giáo là phát huy tính thiện của con người, khiến người dân biết bỏ ác
theo thiện, giúp mọi người đạt đến trình độ đạo đức cao nhất. Để làm được điều này mỗi

người phải không ngừng rèn luyện nhân cách và đạo đức của bản thân.
Nho giáo chủ trương giáo hóa mọi tầng lớp trong xã hội từ bậc quân vương đến kẻ thứ
dân sao cho ai ai cũng thấm nhuần đạo học của thánh hiền, phát huy tính thiện sẵn có của bản
thân, tự mình sửa đổi, rèn luyện cho tốt đẹp hơn. Nho giáo khuyến khích người có học dạy
cho người ít học, người có đạo đức cảm hóa kẻ vô đạo, cải tạo xã hội, đem văn minh truyền bá
khắp nơi.
Thật ra, tính chất tôn giáo của Nho giáo rất mờ nhạt so với những tôn giáo khác, những
lời dạy của Nho giáo không phải là từ thánh kinh mà được đúc kết từ chính những sự kiện
trong lịch sử hoặc từ những tấm gương có thật trong cuộc sống. Khổng Tử nói "Ta chỉ thuật
lại mà không sáng tác. Ta tin tưởng và hâm mộ văn hóa cổ. Ta trộm ví mình như Lão Bành. [6]".
Nho giáo khuyên thế hệ sau cần biết học hỏi những thành công và tránh lặp lại những thất bại
của thế hệ trước, là một học thuyết hướng dẫn về quan hệ xã hội và tu dưỡng bản thân.
* Nội dung chính
1. Quan niệm về thế giới
Trên cơ sở của kinh dịch và triết học của Âm Dương, Khổng Tử cho rằng: “Đạo” hay
“Thiên lý” là lý huyền vi, sâu kín, màu nhiệm, mạnh mẽ lưu hành khắp vũ trụ, làm nguyên
nhân cho sự sinh hóa của vạn vật. Sự sinh hóa của chuyển động ấy có tính chất tất yếu, theo
một quy luật chung. Sự tất yếu này là Thiên mệnh nên Khổng Tử viết:
Ngũ Thập Nhi Tri Thiên-Mệnh có nghĩa là khi người ta tới 50 tuổi mới có thể thôngsuốt chân- lý của tạo-hoá, tức là hiểu được mệnh của trời.
“Tri Thiên mệnh” không phải là thái độ chịu khuất phục trước uy quyền của một đấng
Tối cao, mà chỉ là sự hòa đồng trong cái nhịp biến hóa chung của toàn thể.
2, Quan niệm về Xã hội
Khổng Tử đã có phân tích rất sâu sắc về xã hội để từ đó đưa ra kết luận rất sâu về xã hội.
Ông cho rằng xã hội là quan hệ giữa con người và con người cho nên dù lịch sử có biến đổi thì
trong đó vẫn có cái bất biến đó là quan hệ giữa con người với con người.
Khổng Tử cho rằng quan hệ con người với con người trong xã hội vừa phong phú vừa
phức tạp và nó là cái vô cùng, Ông hình dung mối quan hệ này như một tấm lưới rộng. Từ đó,
hình thành lý luận” Tam cương” là ba quan hệ rường cột: quân- thần, phụ- tử, phu- thê. “ Ngũ
thường” là 3 mối quan hệ trên thêm: huynh- đệ, bằng- hữu. Để thực hiện tốt 5 mối quan hệ
này cần có 3 đức tính: trí, dũng, nhân.

Ngoài những quy định về quyền và nghĩa vụ của con người trong xã hội thì KT cho rằng
đã là con người phải thực hành lễ, lấy lễ làm đầu. Công dụng lớn của chữ lễ là chữ hòa: “ Lễ
chi dụng, hòa vi quý.”
Phạm trù Nhân là phạm trù trung tâm trong triết học Khổng Tử. Ông đã quy tụ toàn bộ
văn hóa lễ nhạc ở một chữ Nhân: Người mà bất nhân, lễ để làm gì? Người mà bất nhân, Nhạc
Page | 7


để làm gì? Nếu gốc của lễ ở chữ “kính” thì gốc của nhân ở chữ “hiếu, đễ”. Hiếu là con ứng xử
với cha mẹ, đễ là em ứng xử với anh chị. Sách Đại Học đề cao tầm quan trọng của gia đình
đối với quốc gia xã hội: "Nếu trong một nhà mà mọi người đều nhân hậu, lần ra cả nước đều
nhân hậu. Nếu trong một nhà mà mọi người đều lễ nhượng thì lần ra cả nước đều lễ nhượng.
Trong thế giới quan Nho giáo, cả ba yếu tố Quốc gia - Gia đình - Cá nhân đều có liên hệ
chặt chẽ với nhau. Nho giáo xem cá nhân là yếu tố căn bản nhất cấu thành nên gia đình và xã
hội. Mỗi cá nhân có đức hạnh tốt thì gia đình, xã hội sẽ tốt và ngược lại.
Cái căn bản của thiên hạ là quốc gia
Cái căn bản của quốc gia là gia đình
Cái căn bản của gia đình là thân mình vậy
Sách Đại học viết "Muốn trị quốc tốt trước hết phải chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc mình.
Người trong gia đình, gia tộc mình mà không giáo dục được thì sao có thể giáo dục được
người khác... Cho nên muốn trị nước tốt, trước hết phải chỉnh đốn tốt gia đình, gia tộc
mình."[15]
Trong tất cả mọi mối quan hệ xã hội như với cha mẹ, với cấp trên, với bạn bè, Nho giáo
rất đề cao sự thành thật. Con người trước hết phải thành thật với bản thân mới có thể thành
thật với mọi người.
Chính vì vậy Nho giáo là một học thuyết chính trị đề cao Nhân trị. Dù hình thức chính
trị, tổ chức nhà nước, hệ thống luật pháp có hoàn hảo đến mức nào mà người lãnh đạo thiếu
đạo đức, không vì dân thì dân cũng chịu khổ, xã hội hỗn loạn. Dù hình thức chính trị lỗi thời,
tổ chức nhà nước không chặt chẽ, luật pháp thiếu sót mà nhà cầm quyền có phẩm hạnh tốt,
biết tôn trọng và hết lòng vì dân thì dân vẫn tin tưởng, xã hội ổn định. Sách Đại Học có câu:

"Đức là gốc, tài sản là ngọn. Nếu như bỏ gốc mà lấy ngọn, thì sẽ tranh lợi với dân, cướp
bóc dân. Nếu ở trên phản lại lòng dân, chỉ biết phát ra những mệnh lệnh trái lẽ, chỉ lo tích tụ
tài sản châu báu ngọc ngà, thì dân chúng sẽ đối xử lại bằng những điều phản nghịch, khiến
cho triều đình ngày một khánh kiệt".[82]".
Vua Khang Hi là một ví dụ tiêu biểu. Dù là người Mãn, ông rất quan tâm tới truyền
thống văn hóa cổ của người Hán, đã học qua các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh, Sử ký, Hán thư, Tư
trị thông giám... Khang Hi xem những tư tưởng cơ bản của Nho giáo như Tam cương ngũ
thường, trung hiếu tiết nghĩa là nền tảng trị quốc. Việc áp dụng mạnh tư tưởng đó giúp ông
thống nhất quốc gia, khiến mâu thuẫn dân tộc Mãn-Hán tương đối hòa dịu, nhờ thế mà thiết
lập được sự thịnh trị dài trên 130 năm của nhà Thanh, được đời sau khen ngợi là "Khang Càn
thịnh thế".
3, Lý luận về chính trị
Tư tưởng chính trị có ba nội dung cơ bản: lễ giáo; đức trị, tôn hiền và chính danh.
Lễ giáo
Khổng Tử không chủ trương dùng pháp luật để trị nước. Theo Khổng Tử bản tính con
người vốn là thiện và pháp luật không có sự liêm sỉ, do đó con người rất dễ tái phạm. Từ đó,
Khổng Tử chủ trương dùng đức để cai trị cũng ví như ngôi sao Bắc thần, ở yên vị mà các ngôi
sao khác đều chầu về.
Khổng Tử đã có những nhận thức rất sâu xa về chính trị. Khổng Tử cho rằng giữa người
cai trị và bị trị điểm xuất phát là giống nhau nên Khổng Tử là người đầu tiên hiểu được thực
chất của việc cai trị.
Nho giáo xem nhân dân là yếu tố quyết định đối với sự tồn vong của chế độ chính trị.
Nếu một nhà nước nhận được sự ủng hộ của nhân dân thì vững bền, nếu mất lòng dân thì sụp
đổ. Sách Đại học viết:
"Kinh Thi có câu: Khi nhà Ân chưa để mất lòng dân thì còn xứng đáng để thụ
mệnh thiên tử. Nên soi vào tấm gương của nhà Ân để biết rằng, giữ được thiên hạ không phải
Page | 8


là dễ. Đây là muốn nói đạo trị dân: nếu được lòng dân là được nước, mất lòng dân là mất

nước.".
Tử Cống hỏi Khổng Tử về quản lý chính sự quốc gia. Khổng Tử nói "Phải đầy đủ lương
thực, đầy đủ binh lực, được nhân dân tín phục". Nếu bỏ đi hai trong ba điều thì có thể bỏ binh
lực rồi đến lương thực nhưng nếu nhân dân không tín phục nữa thì nước không thể đứng vững
nổi.[80] Muốn có được sự tín phục của nhân dân nhà cầm quyền phải biết đặt lợi ích của dân lên
trên lợi ích bản thân. Hữu Nhược nói "Nếu dân đủ ăn thì vua làm sao lại không đủ ? Nếu dân
không đủ ăn thì vua làm sao mà đủ được ?" .
Vì vậy, để duy trì được một nền chính trị hưng thịnh thì nhà cầm quyền phải hội đủ ba
điều kiện: lương thực cho đủ, binh lực cho đủ và được lòng tin của dân
Chính danh
Danh là tên gọi thay cho người và sự vật. muôn vật đều có tên, nếu ta gọi đúng, hiểu
đúng thì làm đúng
Chính danh là con người sinh ra trong xã hội ai cũng có chỗ đứng. Vị không dùng vị để
gọi vị, mà dùng danh để gọi vị - vị càng cao thì danh càng cao. Vì vậy, tư tưởng chính danh
trong chính trị là phải ngay thẳng, chánh trực, làm tròn trách nhiệm ở danh vị mình, không
được liệt vị. “Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính”( không có danh vị ở đây thì không được bàn
mưu tính kế ở đây). Người quân tử chỉ suy tính những điều trong trách nhiệm của mình. “
Quân tử tư bất xuất kỳ vị.”( Người quân tử suy xét việc gì không đi ra ngoài chỗ đứng của
mình.)
 Thực hiện "Chính danh": nghĩa là mỗi người cần phải nhận thức và hành động theo
đúng cương vị, địa vị của mình: vua phải theo đạo vua, tôi phải theo đạo tôi, cha phải theo đạo
cha, con phải theo đạo con, chồng phải theo đạo chồng, vợ phải theo đạo vợ... Nếu như mọi
người không chính danh thì xã hội ắt trở nên hỗn loạn.
 Thực hiện "Văn trị - Lễ trị - Nhân trị": Đây là nguyên tắc có tính chất đường lối căn
bản của Nho giáo. Văn trị là đề cao cai trị bằng hiểu biết để mọi người tự giác tuân theo. Lễ trị
là dùng tổ chức, thiết chế xã hội để trị quốc, đề cao nghi lễ giao tiếp trong trị quốc. Nhân trị là
trị quốc bằng lòng nhân ái.
 Đề cao nguyên lý công bằng xã hội: Khổng Tử đã nói: "Không lo thiếu mà lo không
đều, Không lo nghèo mà lo dân không yên". Quan niệm công bằng của Nho giáo không phải là
cào bằng, mà là công bằng trên cơ sở "chính danh".

Tôn hiền
Trong lý luận về chính trị cũng có nội dung rất quan trọng đó là giáo dục. Khổng Tử cho
rằng con người dù có thiện tâm đến đâu nếu không được giáo dục thì kết cục cũng đi đến lầm
lạc, phản loạn. Vì vậy, người cai trị nước thì càng phải học. Khổng tử nói: “… quân tử học dĩ
trí kỳ đạo”. (người quân tử học để hiểu đạo đến chỗ thấu đáo.)
Người quân tử học để hội đủ ba phẩm chất: nhân, trí, dũng; nhân là đức nhân, trí là hiểu
biết, dũng là hội đủ cả nhân và dũng để có được năng lực tự chủ trong mọi tình huống. Khổng
tử nói: “ Người quân tử phải thường xuyên cẩn vấn 9 điều:
- Thị tư minh: nhìn sáng suốt.
- Thính tư thông:nghe rõ ràng.
- Sắc tư ôn: sắc mặt ôn hòa.
- Mạo tư cung: dáng mạo phải đàng hoàng.
- Ngôn tư trung: lời nói phải thẳng thắn.
- Sự tư kính: coi trọng công việc.
- Nghi tư vấn: có nghi ngờ thắc mắc chỗ nào phải hỏi.
- Phẫn tư nạn: biết rằng khi cơn giận dữ nổi lên thì hoạn nạn ngay sau đó.
- Kiến đắc tư nghĩa: có lợi phải nghĩ đến nghĩa.
Page | 9


Trong chính trị Khổng Tử đưa ra một nguyên tắc người làm quan phải là người học giỏi
và phải thi đỗ thì mới được làm quan. Vì vậy, việc đưa giáo dục thành một nội dung quan
trọng trong lĩnh vực chính trị, Khổng Tử đã cung cấp cho chính trị một hào quang văn hóa để
chính trị giữ được vai trò đọc lập. Và vì thế, chính trị của Khổng Tử được gọi là văn trị- cai trị
người có văn hóa.
4, Lý luận về giáo dục
Có thể nói tư tưởng giáo dục là mặt có giá trị lớn nhất và lâu bền nhất trong học thuyết
của Khổng Tử. “Vạn thế sư biểu” – thầy của muôn đời. Qua câu nói này, đời sau đã tôn vinh
Khổng Tử là người “ khai sáng đầu tiên của giáo dục”.
KT đã hình thành nên một hệ thống phương pháp học tập:

- Học tư kết hợp:học tập kết hợp với suy nghĩ.
- Học nhi thời tập chi: học lý luận đồng thời với việc thực hành.
- Học dĩ trí dụng: học để đem dùng.
- Trì chi dĩ hằng: kiên trì trong học tập.
- Hiếu học, lạc học: ham học và vui học tập.
Khổng Tử đã xây dựng hệ thống các phương pháp dạy học:
- Du đạo khái quát: phương pháp dạy ví von, hướng dẫn, khơi gợi mở mang.
- Nhân tài thi giáo: dạy tùy theo đối tượng, phù hợp với từng đối tượng
Phương pháp dạy học tích cực: “… Chỉ cho một góc mà không suy ra ba góc kia, ắt ta
không nói lại nữa.”
Đặc biệt, Khổng Tử đã hình thành con đường đào tạo nhân tài gồm năm giai đoạn:
- Bác học: mở rộng cửa trường đón nhận tất cả mọi người.
- Thẩm vấn: là quá trình người thầy trực tiếp tranh luận với học trò để xác định khả năng
của học trò.
- Thận tư: là quá trình nâng cao nhận thức từ cảm tính lên lý tính để đạt được sự thông
hiểu.
- Minh biện: là không chịu ảnh hưởng của dư luận mà thông qua tự mình suy nghĩ rút ra
kết luận xác đáng, nhằm bồi dưỡng năng lực phán đoán.
- Đốc hành: quán xuyến toàn bộ quá trình từ khởi đầu đến kết thúc.
Khổng Tử đã định nghĩa về người thầy: Ôn cố chi tân, khả dĩ vi sư hĩ. (Ôn điều cũ để
biết điều mới, người đó có thể làm thầy.)
Và để khái quát về việc học của cuộc đời, ông đã đúc kết như sau:
1- Ngô Thập Hữu Ngũ Nhi Chí Vu Học có nghĩa là khi tới 15 tuổi, ta mới có thể tựmình chuyên-tâm vào việc học.
2- Tam Thập Nhi Lập có nghĩa là khi người ta tới 30 tuổi thì sức tự-lập mới có thể chắcchắn và vững-vàng.
3- Tứ Thập Nhi Bất Hoặc có nghĩa là khi người ta tới 40 tuổi mới có thể hiểu thấu mọi
sự-lý trong thiên-hạ, phân biệt được việc phải hay trái cũng như hiểu được ai là người tốt hay
xấu, phân biệt được những ai là người chân-chính yêu nước thương nòi và biết được cái gì
nên làm hay không.
4- Ngũ Thập Nhi Tri Thiên-Mệnh có nghĩa là khi người ta tới 50 tuổi mới có thể thôngsuốt chân- lý của tạo-hoá, tức là hiểu được mệnh của trời.
5- Lục Thập Nhi Nhĩ-Thuận có nghĩa là khi người ta tới 60 tuổi thì mới đạt đến mức độ

hoàn-hảo về mặt tri-hành, kiến-văn, và kinh-nghiệm về cuộc sống. Nhờ đó, người ta có thể
nhận-xét và phán- đoán được ngay tức-khắc và chính-xác về các sự-kiện và nhân-vật trong
thiên-hạ. Khi nhìn hay nghe thấy điều gì, người ta không những không cảm thấy chướng-ngại
mà còn hiểu thấu ngay mọi lẽ.
Page | 10


6- Thất Thập Nhi Tùng Tâm Sở Dục Bất Du Củ có nghĩa là tới 70 tuổi, con người sẽ
đạt đến tình- trạng rất hoàn-hảo về cách xử-sự và xử-thế. Nhờ đó mà mỗi khi người ta định
nói điều gì hay làm việc gì thì tự-nhiên thể-hiện đúng với chủ tâm của lòng mình, muốn sao
được vậy, và không bao giờ vượt ra khỏi khuôn-khổ của đạo-lý hay lẽ thường.

Câu 6: Triết Học Lão Tử
Lão Tử và Đạo Đức kinh
Các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được là đã thật có một triết gia tên Lão Tử hay
không. Các Đạo gia cho rằng, chính ông là tác giả của bộ Đạo Đức kinh. Tiểu sử của ông bị
huyền thoại vây phủ và vì vậy gây nhiều tranh luận trong giới học thuật. Tương truyền ông
sống thời Chiến Quốc, thế kỉ thứ 6 trước CN, một thời kì được đánh dấu bằng chiến tranh và
loạn li. Nhưng thời này cũng được xem là thời vàng son của triết học Trung Quốc vì nhiều nhà
tư tưởng đã tìm cách giải hoá vấn đề làm sao để an dân lập quốc. Do đó mà người sau cũng
gọi thời kì này là thời của Bách gia chư tử—"hàng trăm trường phái". Đạo Đức kinh hàm
dung những tư tưởng này, hướng đến những nhà cầm quyền và cách tạo hoà bình.
Đạo Đức kinh cũng được gọi dưới tên của tác giả, là Lão Tử. Trong dạng được truyền
ngày nay thì nó bao gồm hai quyển với tổng cộng 81 chương. Phần thứ nhất nói về Đạo, phần
hai nói về Đức. Tuy nhiên, Đạo Đức kinh không là một bộ kinh có một kết cấu lôgic của một
thế giới quan, mà chỉ là một tập hợp của những ngạn ngữ huyền bí, tối nghĩa, dường như nó
muốn người đọc phải tự lý giải một cách chủ quan. Chính vì vậy mà người ta tìm thấy hàng
trăm bản chú giải, hàng trăm bản dịch của bộ Đạo Đức kinh này.
Tư tưởng triết học:
Về hình thức và tư tưởng triết học Lão tử gần như tương phản với các hệ thống triết học

khác. Nếu như các hình thức triết học khác tập trung luận về “hữu” thì triết học của Lão Tử
luận về “vô”. Tư tưởng của Ông trình bày hết sức ngắn gọn nhưng lại hàm súc rất khó hiểu. Ví
như chương 40 có 21 chữ:
“ Phản giả, đạo chi động, nhược giả đạo chi dụng, thiên địa vạn vật sinh ư hữu, hữu
sinh ư vô”.( Vạn vật biến hóa nối tiếp nhau theo một vòng tuần hoàn đều đặn, diệu dụng của
đạo ở tính khiêm nhu. Mọi vật trong thiên hạ sinh ra từ “hữu”, “hữu” sinh ra từ “vô”.
1, Học thuyết về đạo
Đạo là phạm trù trung tâm triết học đồng thời cũng là tư tưởng xuyên xuốt của Lão Tử.
Biện chứng cũng là đạo, vô vi cũng là đạo. Đạo tự nhiên vô vi.
Trong lịch sử triết học Trung Quốc, Lão Tử là người đầu tiên định nghĩa về đạo: “ Có
một vật hỗn độn hình thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, trống không, đứng một mình mà
không thay đổi, vận hành khắp vũ trụ mà không ngừng, có thể xem nó là mẹ của vạn vật. Ta
không biết nó tên gì, tạm đặt tên nó là đạo, miễn cưỡng gọi nó là lớn”.
Lão tử là nhà triết học đầu tiên đưa ra khái niệm đạo nhưng ông băn khoăn vì hễ gọi
được tên thì nó không còn là cái vĩnh hằng bất biến. Một thực thể mà Lão Tử đã sử dụng rất
nhiều những tính chất khác để mô tả về nó như: hỗn độn, hốt hoảng, mập mờ, thấp thoáng,
nửa nhìn thấy, nửa không nhìn thấy, đạo ẩn núp, đạo vô danh… Nên, đạo chỉ có thể gợi ý:
儒儒儒儒儒儒儒 儒儒儒儒儒儒儒儒 儒
儒儒儒儒儒儒儒儒儒儒儒儒儒 儒
Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh.
Vô danh thiên địa chi thỉ, hữu danh vạn vật chi mẫu.
( Đạo nói được không phải đạo thường, danh được gọi không phải là danh thường. Vô
danh là đầu trời đất, hữu danh là mẹ muôn vật.)
2, Tư tưởng biện chứng
Page | 11


Lão Tử đã sử dụng những đặc tính như vô danh, chất phác để mô tả về đạo. “ Vô danh,
chất phác” là khởi thủy của đạo, bản nguyên của muôn vật, muôn vật đều được sinh ra từ đạo.
Lão Tử đã chỉ ra sự tương đồng và khác biệt của đạo và muôn vật. Muôn vật được sinh ra từ

đạo, nó có đặc tính, có hình thể cho nên được gọi là hữu. Đạo khởi thủy không có đặc tính,
không hình thể nên gọi là vô. Nhưng đạo lại sinh ra muôn vật là hữu, cho nên, đạo tồn tại trên
hai phương diện là vô và hữu. Lão Tử còn cho rằng muôn vật đều có cái vô mà trở nên hữu
dụng. Ngay vật trước mắt cũng có hữu vô, ta chỉ không nhìn thấy mà thôi.
Đạo khởi thủy của vũ trụ là cái duy nhất, bất biến, đạo cũng thiên hình vạn trạng, đạo có
ở trong muôn vật. Lão Tử viết: “Đao tự nhiên vô vi” là bản nguyên của muôn vật, là cái mà từ
đó muôn vật sinh ra. Còn, đức là cái mà vật trở thành vật. Vì vậy, muôn vật đều tôn đạo quý
đức.
Đạo không chỉ là khởi thủy bản nguyên của vạn vật mà còn là một cơ sở vận động và
biến đổi của vạn vật. Lão Tử cho rằng: Không có một vật nào tĩnh tại, bất động mà muôn vật
đều trong quá trình vận động, biến đổi không ngừng. Sự biến đổi này diễn ra theo quy luật tự
nhiên, nghiêm ngặt, có những vật đang hình thành, có những vật đang đi đến hoai diệt. Ông
còn khẳng định không một vật nào ngoài quy luật này, kể cả trời đất, thần linh: “ Thiên võng
khôi khôi, sơ nhi bất thất”.- Lưới trời lồng lộng thưa mà khó lọt.
“Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên”. Người sống theo
phép tắc của đất, đất theo phép tắc của trời, trời theo phép tắc của đạo, đạo hợp theo lý tự
nhiên.
Nhận thức trong triết học của Lão Tử trở thành chủ đề tranh luận gay gắt nhất trong lịch
sử triết học Trung Quốc. Vì có ý kiến cho rằng: “Nhận thức trong Lão Tử là Ngu dân”. Vì:
- “Trí huệ xuất hữu đại nguy” – Trí tuệ càng cao, nguy hiểm càng lớn.
- “Tuyệt học vô ưu” bỏ học thì không còn lo gì nữa.
Thực chất trong luận thức học của Lão Tử có “tri” là hiểu biết thông thường thì phân
chia thị phi, thiện ác, là cái biết vụn vặt, cái biết này dẫn con người đến nguy nan. Vì vậy, bỏ
cái học thông thường để đạt đến đại tri “vô tri”.
- “Tri bất tri thượng” – biết mà như không biết mới cao.
- “ Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đài, khả dĩ trường cửu”. – Biết đủ thì không nhục, biết
dừng thì không nguy, mới có thể tồn tại.
3, Thuyết vô vi
Lão Tử viết: “Đạo tự nhiên vô vi” là khởi đầu của vạn vật. Cho nên, xuất phát từ đạo tự
nhiên vô vi bước vào xã hội, Lão Tử đã xây dựng học thuyết này. Qua đó, Ông trình bày tư

tưởng về các vấn đề đạo đúc nhân sinh và quan điểm chính trị - xã hội. “Vô vi” theo nghĩa
thông thường là không làm gì. Theo triết học của Lão Tử, “Vô vi” là sống hoạt động theo lẽ tự
nhiên, thuần phác, không hành động có tính giả tạo, gò ép, trái với bản tính tự nhiên của mình.
Trở về với đạo tự nhiên vô vi là trở về cái gốc của mình, bền bỉ, lâu dài, giữ gìn bản tính
tự nhiên của mình và của vạn vật. Như vậy, “Vô vi nhi bất vô vi” là không làm gì cả, nhưng
không gì không làm; làm một cách tự nhiên; mọi hành động đều diễn ra một cách tự nhiên,
không gò ép miễn cưỡng; là giữ gìn bản tính tự nhiên trong mỗi con người. Vô tâm vô tư như
nước thì lạnh, lửa thì nóng, đói thì ăn, khát thì uống. Như hoa tỏa hương thơm mà không bao
giờ ý thức là mình đang tỏa hương thơm. Như mặt trời đang tỏa ánh sáng để cho muôn loài
thụ hưởng nhưng mặt trời không bao giờ ý thức rằng mình đang tỏa sáng cho muôn loài.
Nguyễn Công Trứ có bài thơ: “Kiếp sau” mong muốn trở về với tự nhiên như “cây
thông” – một biểu tượng cho sự hiên ngang, của tự nhiên.
“Ngồi rồi mà trách ông xanh
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Page | 12


Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.
Giữa trời vách đá treo leo,
Ai tài chịu nét, lên trèo cây thông”.
Đọc thêm: Lão Tử
Lão Tử và Đạo Đức kinh
Các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được là đã thật có một triết gia tên Lão Tử hay
không. Các Đạo gia cho rằng, chính ông là tác giả của bộ Đạo Đức kinh. Tiểu sử của ông bị
huyền thoại vây phủ và vì vậy gây nhiều tranh luận trong giới học thuật. Tương truyền ông
sống thời Chiến Quốc, thế kỉ thứ 6 trước CN, một thời kì được đánh dấu bằng chiến tranh và
loạn li. Nhưng thời này cũng được xem là thời vàng son của triết học Trung Quốc vì nhiều nhà
tư tưởng đã tìm cách giải hoá vấn đề làm sao để an dân lập quốc. Do đó mà người sau cũng
gọi thời kì này là thời của Bách gia chư tử—"hàng trăm trường phái". Đạo Đức kinh hàm

dung những tư tưởng này, hướng đến những nhà cầm quyền và cách tạo hoà bình.
Đạo Đức kinh cũng được gọi dưới tên của tác giả, là Lão Tử. Trong dạng được truyền
ngày nay thì nó bao gồm hai quyển với tổng cộng 81 chương. Phần thứ nhất nói về Đạo, phần
hai nói về Đức. Tuy nhiên, Đạo Đức kinh không là một bộ kinh có một kết cấu lôgic của một
thế giới quan, mà chỉ là một tập hợp của những ngạn ngữ huyền bí, tối nghĩa, dường như nó
muốn người đọc phải tự lý giải một cách chủ quan. Chính vì vậy mà người ta tìm thấy hàng
trăm bản chú giải, hàng trăm bản dịch của bộ Đạo Đức kinh này.
Sự sinh hóa từ Đạo ra Đức, từ Đức trở về ở Lão Tử thấm nhuần sâu sắc tinh thần biện
chứng âm dương. Được chi phối bởi luật quân bình âm dương, vạn vật tồn tại theo lẽ tự nhiên
một cách rất hợp lý, công bằng, chu đáo, và do vậy mà mầu nhiệm. Hợp lý, vì theo Lão Tử, lẽ
tự nhiên giống như việc giương cung, cao thì ghìm xuống, thấp thì nâng lên. Công bằng, vì nó
luôn bớt chỗ thừa mà bù vào chỗ thiếu. Chu đáo, vì nó như cái lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà
khó lọt. Bởi vậy mà nó mầu nhiệm tới mức không cần tranh mà chiến thẳng, không cần nói
mà ứng nghiệm. Mọi sự bất cập hay thái quá đều trái với lẽ tự nhiên, và do vậy sẽ tự điều
chỉnh theo luật âm dương chuyển hóa: "vật hễ bớt thì nó thêm, thêm thì nó bớt".
Trong khi đạo của Khổng Tử hết sức thực tế vẫn không được dùng thì dễ hiểu là triết lý
của Lão Tử càng không thể được sử dụng. Lão Tử phàn nàn: "Lời nói của ta rất dễ hiểu, rất
dễ làm, thế mà thiên hạ không ai hiểu, không ai làm".
Khái niệm Đạo
Tên Đạo giáo xuất phát từ chữ Đạo, một danh từ triết học Trung Hoa đã được dùng rất
lâu trước khi bộ Đạo Đức kinh xuất hiện, nhưng chỉ đạt được tầm quan trọng đặc biệt, phổ cập
trong văn bản này. Đạo ban đầu có nghĩa là "con đường", những ngay trong tiếng Hán cổ đã
có nghĩa "phương tiện", "nguyên lý", "con đường chân chính". Nơi Lão Tử, danh từ này được
hiểu như một nguyên lý cơ sở của thế gian, xuyên suốt vạn vật. Theo kinh văn, Đạo là hiện
thật tối cao, là sự huyền bí tuyệt đỉnh (chương IV):
Đạo xung , nhi dụng chi hoặc bất doanh. Uyên hề, tự vạn vật chi tông.
Đạo trống không, nhưng đổ vào mãi mà không đầy. Đạo sâu thẳm, dường như là tổ tông
của vạn vật.
Đạo là đơn vị tối sơ, nguyên lý của vũ trụ và là cái tuyệt đối. Vạn vật xuất phát từ Đạo,
nghĩa là cả vũ trụ và như vậy, trật tự vũ trụ cũng từ Đạo mà ra, tương tự như nguyên tắc tự

nhiên, nhưng Đạo lại chẳng phải là một nhân vật toàn năng, mà là nguồn gốc và sự dung hoà
tất cả những cặp đối đãi và như thế, không thể định nghĩa được. Đạo là Vô danh, như câu đầu
của bộ kinh này cho thấy:
Page | 13


儒儒儒儒儒儒儒 儒儒儒儒儒儒儒儒 儒
儒儒儒儒儒儒儒儒儒儒儒儒儒 儒
Đạo khả đạo, phi thường Đạo. Danh khả danh, phi thường Danh.
Vô danh thiên địa chi thỉ, hữu danh vạn vật chi mẫu.
Đạo mà ta có thể nói đến được, không phải là Đạo thường còn. Danh mà ta có thể gọi
được, không phải là Danh thật sự.
Vô danh là gốc của thiên địa, hữu danh là mẹ của vạn vật.
Về mặt triết học thì Đạo có thể được xem là siêu việt mọi khái niệm vì nó là cơ sở của
tồn tại, là nguyên nhân siêu việt và như vậy, là tất cả, bao gồm tồn tại và phi tồn tại. Trên cơ
sở này thì ta không thể luận đàm, định nghĩa được Đạo vì mỗi định nghĩa đều có bản chất hạn
chế. Nhưng Đạo lại là cả hai, là sự siêu việt mọi hạn lượng mà cũng là nguyên lý bên trong vũ
trụ. Cái Dụng của Đạo tạo ra âm dương, nhị nguyên, những cặp đối đãi và từ sự biến hoá,
chuyển động của âm dương mà phát sinh thế giới thiên hình vạn trạng.
Luân lý Đạo giáo
Quan niệm về vũ trụ và vạn vật
Đối với Đức Lão Tử, nguyên thủy của vũ trụ và vạn vật là Đạo.
Đạo là thể vô hình vô tướng, không sinh không diệt, hằng hữu đời đời. Sở dĩ người ta
không thấy được Đạo là vì nó là những nguyên tố rời rạc, chưa kết thành hình tượng.
Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật. Một đó là Thái cực, Hai đó
là Âm Dương, Ba đó là Tam Thiên Vị (Ba ngôi: Thái cực, Dương và Âm). Âm và Dương thu
nhận Sinh từ ngôi Thái cực, rồi vừa xung đột vừa hòa hiệp, để tạo thành trời đất, vũ trụ và vạn
vật. Cho nên theo ông, trong vạn vật đều có Âm Dương: Vạn vật đều cõng một Âm và bồng
một Dương.
Vì vậy theo Đạo giáo, trước khi vũ trụ thành hình, trong khoảng không gian hư vô bao

la, có một chất sinh rất huyền diệu, gọi là ĐẠO. Đạo biến hóa ra Âm Dương. Âm Dương xô
đẩy và hòa hiệp tạo ra vũ trụ và vạn vật.
Vạn vật được hóa sinh ra, tác động với nhau, phồn thịnh với nhau, rồi cuối cùng tan rã để
trở về trạng thái không vật không hình, tức là trở về nguồn gốc của nó là Đạo.
Quan niệm về nhân sinh
Đức Lão Tử quan niệm rằng: Đạo Trời không thân ai, không sợ ai. Trời Đất sinh ra muôn
vật, cây cỏ, chim muông, nhân loại, không phải cốt để chúng ăn thịt nhau mà các sinh vật đều
khắc chế lẫn nhau, nuôi dưỡng nhau, bổ trợ nhau để cùng tồn tại.
Đức Lão Tử không lấy cuộc đời làm lạc thú, xem việc sống như một nghĩa vụ, không
yếm thế, không lạc quan, và xem cái chết là một việc phục tùng theo lẽ tự nhiên nhất định.
Lão Tử ghét những người ham mê danh lợi, quá coi trọng cái xác thịt của mình. Cái xác
thịt này là một cái không đáng quý, vì nó thường là mối lo cho người ta; đáng quý nhất là khi
người ta biết đem thân ra phụng sự thiên hạ.
Đức Lão Tử khuyên người đời không nên quá tôn trọng và thiên về đời sống vật chất,
phải tiết chế lòng ham muốn, nên chú trọng tinh thần, lấy cái tâm đè nén cái khí, thà bỏ cái
thân này mà giữ được Đạo và Đức.
Lão Tử không bàn đến Thượng đế, Linh hồn, Thiên đàng, Địa ngục, mà chỉ nói một cách
tổng quát về nguồn gốc của con người và vạn vật là từ Đạo mà ra, và cuối cùng thì trở về Đạo,
hòa vào Đạo.
Lý vô vi
Muốn hòa vào Đạo, Lão Tử nói về Lý Vô Vi. Vô Vi nghĩa là không làm, tức là không
can thiệp và tự nhiên, để con người sống theo tự nhiên và cùng với tự nhiên tiến hóa.
Lý Vô Vi gồm: Vô cầu, Vô tranh, Vô đoạt, Vô chấp.
 Vô cầu, giúp ta vô vọng, xa lìa vọng tưởng điên đảo.
Page | 14


Vô tranh, giúp ta vô đại, xa lìa ý tưởng hơn thua, cao thấp.
 Vô đoạt, giúp ta vô thủ, xa lìa ý tưởng có, không, còn, mất.
 Vô chấp, giúp ta vô ngại, xa lìa ý tưởng trược thanh.

Vô Vi tức Đạo. Đạo thường vô vi nhi vô bất vi (không làm tức là Đạo. Đạo thường
không làm, mà không gì không làm được).
Từ chỗ không làm mà làm được tất cả. Làm được tất cả mà như không làm gì cả. Đó là
bí quyết của Đạo.
Lý Vô Vi quá sức huyền diệu cao viễn, ít ai thấu triệt nổi, thành ra bị thất truyền hay bị
hiểu sai lạc đi.


Câu 7: Học Thuyết Pháp Gia Của Hàn Phi Tử
Thân thế và sự nghiệp
Hàn Phi Tử (280 – 233 TCN) là một vị công tử vương thất nước Hàn. Ông là người
thông minh học giỏi, có tài biện thuyết, ông theo học thầy là Tuân Tử. Hàn Phi Tử say mê
nghiên cứu cả đạo Nho, đạo Lão nhưng có chí hướng thiên về pháp gia. Ý trí của ông đã được
đúc kết trong cuốn Hàn Phi gồm 55 thiên với hơn một vạn từ.
Tư tưởng chủ yếu của Hàn Phi là thuyết Pháp trị. Không phải ông là người đầu tiên nêu
lên học thuyết này mà trước đó Quản Trọng, Thương Ưởng, Thân Bất Hại đã khởi xướng học
thuyết này. Tư tưởng của Hàn Phi Tử khác với tư tưởng của Nho giáo (vốn cho rằng để quản
lý xã hội thì dùng Nhân trị và Đức trị), ông cho rằng cách tốt nhất để quản lý xã hội là dùng
pháp luật: "Pháp luật không hùa theo người sang... Khi đã thi hành pháp luật thì kẻ khôn
cũng không từ, kẻ dũng cũng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh của kẻ đại thần,
thưởng cái đúng không bỏ sót của kẻ thất phu".
Hàn Phi theo thuyết tính ác của thầy là Tuân Tử một cách triệt để, bảo không gì thân
bằng tình cha con, vậy mà có nhiều người cha sinh con trai thì nuôi, sinh con gái thì giết đi,
coi cái lợi của mình nặng hơn tình ruột thịt như vậy là con người bẩm sinh vốn đại ác. Do đó
ông không bàn đến nhân nghĩa, cũng không trọng lễ như Tuân Tử, mà đề cao phương pháp
dùng thế, dùng thuật, dùng luật của pháp gia để trị nước.
Ông chủ trương cho dân chúng tự do cạnh tranh trong phạm vi kinh tế để nước được mau
giàu. Và ông tin rằng theo chính sách độc tài về chính trị, tự do về kinh tế, thì nhà vua chẳng
cần làm gì, cứ ngồi ở trên kiểm soát kẻ dưới, là nước sẽ trị. Chủ trương "vô vi nhi trị" đó thực
trái hẳn chủ trương của Lão Tử, Trang Tử; chính ra nó là một thứ cực hữu vi.

Học thuyết của ông không được vua Hàn tin dùng, nhưng vua Tần là Tần Thủy Hoàng
lại rất ngưỡng mộ và trọng dụng ông. Nhà Tần sau khi đã rút hết những phương pháp, nguyên
tắc trị nước của ông rồi bức hại ông, khiến ông phải uống thuốc độc tự tử trong nhà ngục của
nước Tần vào năm 233TCN.
Tư tưởng chính trị
Tư tưởng về pháp trị trong đạo trị nước của Hàn Phi đã trở thành một học thuyết hoàn
thiện. Theo ông, pháp trị là tổng hợp giữa: pháp, thế, thuật.
- Pháp theo nghĩa rộng là thể chế chính trị, hẹp là những điều luật. Yêu cầu của pháp là
rõ ràng và được công khai minh bạch đẻ mọi người đều biết và thực thi pháp luật.
- Thế là thế lực, địa vị, quyền uy của nhà cầm quyền. Cho nên, Vua phải xác lập được
thế.
- Thuật tức là nghệ thuật, mưu mẹo, thủ đoạn và phương pháp để điều khiển quần thần.

Page | 15


Pháp và Thuật đều là nội dung của Pháp trị nhưng rất khác nhau vì Pháp đòi hỏi phải
công khai, minh bạch; Thuật lại là cơ chế ngầm. Hàn Phi viết: Nhà vua dùng Pháp như Trời,
nhưng dùng Thuật như Quỷ.
Thuật cơ bản Pháp trị của Hàn Phi là:
+ Thuật trừ gian: Hàn Phi viết:” Bậc minh chủ không ỷ lại vào việc quần thần không
chống lại mình mà phải ỷ vào việc quần thần không dám chống lại mình”.
+ Thuật dùng người:
Xưa việc chọn hiền tài cho triều đình là do việc tiến cử của các quan đại thần và đây là
điều bắt buộc nên các quan đại thần phải tìm người để tiến cử cho vua.
Thính ngôn:
1. Nghe bề tôi nói Vua phải trầm mặc, lầm lì, không khen không chê, không để lộ ý nghĩ
cùng tình cảm của mình.
2. Phải bắt bề tôi nói, không được làm thinh, mà nói phải có đầu cuối, có chứng cứ.
3. Lời nói của bề tôi không được trước sau mâu thuẫn nhau.

4. Bề tôi phải đưa ra ý kiến rõ ràng, không được mập mờ, ba phải để trốn tránh trách
nhiệm.
5. Quan trọng nhất là lòi nói phải thiết thực, có công dụng,không phải là hư ngôn.
Tham nghiệm
Tham nghiệm là khảo sát nhiều mặt để biết lòng bề tôi và xem lời nói của họ có giá trị
không. Tham nghiệm tốt là phải tham khảo ý kiến của nhiều người để biết được thực tình.
Giao chức
Giai đoạn cuối cùng là cho họ bắt tay vào làm việc. Mới đầu giao chức nhỏ, không cho
kiêm nhiệm, đã giao trách nhiệm cho một người rồi thì không được dùng một người dòm ngó
kẻ đó.
Thuật trị quan lại
“ Cố minh chủ trị lại bất trị dân”. ( Vua trị quan lại, không trị dân)
Thuật thưởng phạt
Hàn Phi xem thưởng phạt như hai cánh tay của nhà cầm quyền, vua phải nắm lấy quyền
thưởng phạt.
Thuật không ưu tiên bất kỳ ai
Bậc vua chúa cần phải không bao giờ thổ lộ yêu ghét của mình cho bề tôi. Hàn Phi viết:
“ Vua bỏ yêu, bỏ ghét đi thì chân tướng của bề tôi sẽ hiện, mà vua sẽ không bị che lấp”.
Không yêu riêng bất kỳ ai phải đề phòng ngay từ bên trong. Hàn Phi cho rằng: “ Thái tử
và Hoàng hậu là người mong vua chết sớm nhất; Vương tôn công tử là người hay tranh giành
quyền lực vói vua nhất”.

Page | 16



×