Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

ĐỀ CƯƠNG THI LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC PHƯƠNG ĐÔNG NHẬP MÔN ĐÔNG PHƯƠNG HỌC ĐH KHXHNV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.91 KB, 13 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI MÔN LÝ LUẬN NHÀ NƯỚC PHƯƠNG ĐÔNG
NHẬP MÔN ĐÔNG PHƯƠNG HỌC

Câu 1: Đặc điểm nhà nước cổ đại phương Đông? Đâu là đặc điểm nổi bật nhất?
1. Về tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
Nhà nước phương Đông ra đời trên cơ sở lực lượng sản xuất phát triển chưa
cao thuộc giai đoạn đồ đồng. Sự phân hóa tài sản và mâu thuẫn giai cấp chưa đến mức
quyết liệt; kinh tế tự nhiên trong đó nông nghiệp giữ vai trò chủ yếu, kinh tế công
thương nghiệp và kinh tế hàng hóa chưa phát triển.
- Nông thôn: kinh tế thủ công nghiệp kết hợp chặt chẽ với nông nghiệp
- Thành thị: các ngành thủ ông nghiệp xuất hiện nhưng chủ yếu nhằm phục
vụ nhu cầu của giai cấp thống trị; thương nghiệp chủ yếu trao đổi với bên ngoài.
2. Thành thị ở phương Đông: Do hàng hóa kém phát triển nên thành thị ở
phương Đông cổ đại chỉ là trung tâm về chính trị, chưa phải là trung tâm về
kinh tế. Nhà nước phương Đông cổ đại tồn tại và phát triển trên cơ sở nền kinh tế
tự nhiên mang tính tự cung tự cấp, kinh tế hàng hóa chậm phát triển nên không
hình thành những trung tâm kinh tế lớn.
3. Sở hữu ruộng đất: Ruộng đất hầu hết thuộc quyền sở lữu của nhà nước.
quyền sở hữu ruộng đất của tư nhân có nơi và có lúc xuất hiện nhưng không có
vai trò đáng kể. trong điều kiện ấy, công xã nông thôn không bị phá vỡ mà được
bảo lưu, tồn tại một cách vững chắc. đó là hiện tượng có tính hất phổ biến ở
phương Đông. Công xã nông thôn được xem như là một đơn vị kinh tế, do đó, tuy
mất quyền sở hữu ruộng đất trước kia, nhưng công xã vẫn giữ chức năng phân
phối ruộng đất cho các thành viên, tổ chức xây dựng hệ thống thủy lợi. khi vua
phân phong ruộng đất cho quan lại, quý tộc có nơi công xã cũng bị dùng làm đơn
vị để ban cấp. chính sự tồn tại của công xã nông thôn đã làm cho quyền sở hữu
ruộng đất của nhà nước phương Đông càng thêm vững chắc, củng cố thêm chế độ
độc tài chuyên chế.


4. Tính liên kết, tính đại diện cao, xu hướng tập quyền mạnh và đấu tranh giai


cấp chưa thực sự gay gắt: Sở dĩ xu hướng tập quyền mạnh vì bắt nguồn từ 1
nguyên nhân đó là nhà nước phương Đông ngay từ đầu đã phải liên kết lại để giải
quyết các công việc cung trong đó có vấn đề trị thủy và chống ngoại xâm. Khác
với nhiều khu vực địa lý khác, ở phương Đông càng có các cuộc chiến tranh thì
nhu cầu hợp nhất, sáp nhập hay tập quyền càng mạnh. Tính liên kết, tính đại diện
cao, tập quyền mạnh và đấu tranh giai cấp chưa thực sự gay gắt là một đặc trưng
điển hình của nhà nước phương Đông thời kì cổ đại.
5. Về hình thức nhà nước: hình thức nhà nước là quân chủ. Vua đứng đầu nhà
nước, có quyền lực cao nhất về mọi mặt, vua được thần thánh hóa, được coi là vị
thần vĩ đại, là thiên tử hoặc tăng lữ tối cao.
Biểu hiện ở các lĩnh vực, về thế quyền (quyền đứng đầu bộ máy nhà nước),
quyền được đặt ra luật lệ và bắt buộc thần dân phải tuân thủ. Nhà vua có quyền
bổ nhiệm, điều động quan lại và quân đội để thực hiện quyền quản lí tối cao về
mọi mặt. mọ quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều tập trung trong tay nhà vua.
Về thần quyền, vua là vị tăng lữ tối cao được lựa chọn quốc giáo, hệ tư tưởng
chính thống, được tế trời, có quyền quản lí mọi sinh hoạt về tinh thần, tôn giáo và
tín ngưỡng.
Thế quyền được kết hợp chặt chẽ với thần quyền để thống trị nhân dân, dưới
vua là hệ thống quan lại từ Trung ương đến địa phương. Mọi chức quan, mọi cơ
quan nah2 nước chỉ có quyền tư vấn cho vua, thực thi mệnh lệnh của nhà vua.
Thông qua hệ thống quan lại, vua có quyền kiểm soát toàn quốc, cai quan toàn bộ
đất đai và thần dân.
Tầng lớp nhân dân là kẻ phải phục tùng vô điều kiện giai cấp thống trị. Họ
hầu như không được tham gia bất cứ sinh hoạt chính trị nào của đất nước.
Nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại bền vững cua chính thể quân chủ chuyên chế
chủ nô là do điều kiện tư nhiên và kinh tế- xã hội phát triển. cơ sở kinh tế quan
trọng đó là kinh tế nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp tồn tại và phát triển dựa trên
công tác trị thủy và thủy lợi. cơ sở xã hội: giai cấp thống trị chủ yếu và hầu hết là



quý tộc, chủ nô là những người đứng đầu thị tộc, bộ lạc, tầng lớp này nắm độc
quyền lãnh đạo nhà nước.
6. Về kiểu nhà nước: là kiểu nhà nước chiếm hữ nô lệ Châu Á (phương thức sản
xuất Châu Á). Khác với phương Tây, chế độ nô lệ phương Đông là chế độ nô lệ
không điển hình, nô lệ không phải là lực lượng đông đảo và cũng không là lao
động chính trong xã hội, chủ yếu chỉ phục dịch trong gia đình các quý tộc, nô lệ
có xuất thân từ các tù binh chiến tranh, hoặc những nông dân, thợ thủ công bị phá
sản.
7. Về điều kiện tự nhiên: phương Đông bao gồm Châu A và Bắc Phi, các nước
phương Đông đều có các con sông lớn (sông Nin ở Ai Cập, sông Tigrơ và Ơphrát
ở Lưỡng Hà, Hằng Hà ở Ấn Độ, Hoàng Hà và Trường Giang ở TQ), do vậy thuận
lợ cho kinh tế nông nghiệp phát triển.
8. Phương Đông bước vào xã hội có giai cấp tương đối sớm: ngoài phân chia
thành giai cấp, trong xã hội Ấn Độ cổ đại còn có sự phân chia đẳng cấp, nhưng về
bản chất đều bắt nguồng tự sự phân hóa xã hội thành giai cấp, củng cố địa vị và
quyền lợi của giai cấp thống trị.
9. Về văn hóa: chữ viết ở phương Đông ra đời sớm, gắn liền với nhiều thành tựu
văn học, nghệ thuật, khoa học tự nhiên (hình học của người Ai Cập, lượng giác
của người Ả Rập, số học của người Ấn Độ, Ai Cập. chính người Ấn Độ đã tìm ra
dãy số thập phân, khai căn bậc 2, bậc 3, khai căn số âm, số dương, người TQ đã
tính đc số âm, số dương chính xác)
10.Về tôn giáo, tư tưởng: phương Đông cổ đại là quê hương cua 2 tôn giáo lớn là
Bàlamôn và Phật giáo cùng hàng loạt các tư tưởng triết học, pháp lý lớn là Nho
gia, Pháp gia, Mặc gia, Đạo gia.
11. Về pháp luật: Bộ luật Hammurabi và Bộ luật Manu là 2 bộ luật thành văn đồ sộ
và cổ xưa nhất của loài người, thể hiên tư duy và kĩ thuật lập pháp ở trình độ khá
cao.. pháp lật phương Đông cổ đại có nhiều hình phạt tàn bạo, nghiêm khắc thể
hiện tính bất bình đẳng cao, đồng thời mang nhiều cách xử sự của xã hội nguyên
thủy. mức độ dân chủ ở các nhà nước phương Đông phát triển chậm và ở trình độ
rất thấp.



Pháp luật phản ánh rõ nét nhất bản chất giai cấp của nhà nước. các bộ luật lớn ra
đời vào các thời điểm nhà nước phát triển ở trình độ cao nhất của thời kì cổ đại.
về hình thức, các bộ luật hình sự hóa hầu hết các quan hệ xã hội, thể hiện sự bất
bình đẳng rõ nét. Thể hiện sự tiếp thu các tàn dư của cách thức xử sự trong xã hội
công xã nguyên thủy ,ang tính trả thù ngang bằng. cách quy định rất cụ thể, chi
tiết nên thiếu tính khái quát, không bao trùm hết các quan hệ xã hội. đều được
thần thánh hóa, thể hiện rõ nét sự kết hợp chặt chẽ giữa vương quyền và thần
quyền để dễ bề cai trị.
Nhìn chung nếu so sánh với các nước phương Tây thời cổ đại thì pháp luật dân sự
ở phương Đông cố đại kém phát triển hơn. Trong các lĩnh vực pháp luật thì pháp
luật hình sự với các quy định về tội phạm và hình phạt được phát triển mạnh hơn
pháp luật dân sự. đồng thời có thể coi sự hàm hỗn giữa hình luật và dân luật chính
là nét đặc trưng cơ bản cũa cổ pháp phương Đông cổ đại.
12.Bên cạnh những quy định do nhà nước ban hành, phong tục tập quán cũng đóng
một vai trò hết sức quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi con người và các
quan hệ xã hội tại cộng đồng.
Câu 2: Đặc điểm nhà nước phong kiến phương Đôg? Đâu là đặc điểm nổi bật
nhất?
I.
a.

Sơ lược
Nhà nước: là 1 tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên trách

để cưỡng chế và quản lý xã hội, nhằm thực hiện và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
b.
Phong kiến:
có nghĩa là phong tước và kiến địa, xuất phát từ hệ tư tưởng chính trị thời Tây

Chu, Trung Quốc.
Đây là chế độ đem đất đai phong cho bà con để kiến lập các nước chư hầu
Hình thái kinh tế - xã hội ra đời trên sự tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ hay chế
độ công xã nguyên thuỷ.
Đặc điểm chung của CĐPK là giai cấp địa chủ phong kiến nắm quyền sở hữu
phần lớn ruộng đất (gồm cả sở hữu tư nhân và sở hữu nhà nước) và tiến hành bóc lột địa tô


(dưới nhiều hình thức như tô lao dịch, tô sản phẩm, tô tiền hay những hình thức kết hợp) đối
với nông dân không có hay có ít ruộng đất (dưới những hình thức và mức độ lệ thuộc khác
nhau).
c. Nhà nước phong kiến:
-

Kiểu nhà nước tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội phong kiến.
Thông thường, NNPK được hình thành thay thế nhà nước chủ nô.
Nhà nước phong kiến là công cụ chuyên chính của giai cấp phong kiến chống lại

những người sản xuất nhỏ: nông dân và thợ thủ công; lả phương tiện để giai cấp phong kiến
duy trì địa vị kinh tế của mình và thực hiện sự thống trị đối với toàn xã hội.
Cơ sở kinh tế của nhà nước phong kiến là sở hữu của giai cấp điạ chủ phong kiến
đối với ruộng đất, cũng như một số tư liệu sản xuất khác và sở hữu cá thể của nông dân
trong sự lệ thược vào giai cấp địa chủ.
I.
Nội dung chính:
a.
những đặc điểm của nhà nước pk phương Đông

Thời gian: Hình thành sớm và tan rã muộn hơn phương Tây. Ở phương Đông,
chế độ phong kiến hình thành sớm nhất ở Trung Quốc (thế kỉ III TCN). Quá trình phát triển

chậm (Trung Quốc TK VII-XVI, Đông Nam Á TK V-XIV). Quá trình suy vong lâu dài (TK
XV-XX), bắt đầu khi chủ nghĩa thực dân xâm nhập biến các nước phương Đông thành
thuộc địa (trừ Nhật Bản, Thái Lan), nhân nhân phương Đông phải tiến hành cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ chống thực dân, lật đổ phong kiến (TQ: CM Tân Hợi 1911, VN: CM tháng
8 1945).

Cơ sở hình thành: Ở Phương Đông, chế độ phong kiến ra đời trên cơ sở chế độ
nô lệ phát triển không đầy đủ, quan hệ nô lệ mang tính chất gia trưởng. Chế độ phong kiến
ra đời sớm là do nhu cầu trị thủy, làm thủy lợi phục vụ nông nghiệp, đoàn kết chông ngoại
xâm.


Cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội của nhà nước phong kiến: Trong chế độ phong

kiến có hai giai cấp cơ bản là địa chủ (ở phương Tây gọi là Lãnh chúa hoặc chúa đất) và
nông dân (ở phương Tây là nông nô), có phương thức bóc lột đặc trưng là địa tô. Ngoài ra
còn có tầng lớp thợ thủ công, tăng lữ, thương nhân.




Ruộng đất là tư liệu sản xuất chính trong chế độ phong kiến. Trong khi ở

phương Tây, ruộng đất hoàn toàn thuộc sở hữu tư nhân (lãnh chúa) thì ở phương Đông tồn
tại song song sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân (chủ yếu là địa chủ phong kiến).
Ở phương Đông, chế độ ruộng đất không thuần nhất như ở phương Tây. Hiện tượng
phổ biến về ruộng đất của chế độ phong kiến tồn tại quyền sở hữu ruộng đất của nhà nước
(của vua), đồng thời đối với ruộng đất tư nhân, vua cũng có quyền sở hữu tối cao. Tư hữu
ruộng đất (hầu hết là của địa chủ, một phần nhỏ của nông dân) phát triển chậm.


Về định tính và định hình giai cấp: không sắc nét như ở phương Tây: Địa chủ
phong kiến là những người có nhiều ruộng đất riêng của mình và bóc lột bằng địa tô.
Ruộng đất thuộc sở hữu của nhà nước, một phần được phân phong cho quý tộc quan lại
(thường ruộng đất loại này, người được phong không có quyền mua bán), một phần được
cấp cho nông dân theo định kì cày cấy để nhà nước thu thuế, như chế độ quân điền ở Trung
Quốc, Việt Nam, chế độ ban điền ở Nhật Bản…từ đó có hai hệ quả:
1/ Địa chủ phong kiến không chỉ bóc lột bằng địa tô từ số ruộng đất tư của mình,
mà còn bóc lột bằng thuế được hưởng từ ruộng đất được phân phong.
2/ Người nông dân tuy phải lĩnh canh ruộng đất của địa chủ và nộp tô, nhưng
cũng nhận được một phần ruộng đất của nhà nước và phải nộp thuế. Một số ít nông dân còn
có ruộng đất riêng để cày cấy. Chính vì vậy, người nông dân phương Đông còn có quyền tự
do thân thể hơn người nông nô phương Tây-người hoàn toàn bị lệ thuộc vào lãnh chúa.

Về tư tưởng: cũng giống như phương Tây, nhà nước phong kiến phương
Đông lấy tôn giáo làm cơ sở lý luận cho chế độ thống trị. Tuy nhiên, tôn giáo chỉ là lực
lượng hỗ trợ cho giai cấp thống trị, chứ không trở thành lực lượng chi phối, can thiệp công
khai, chặt chẽ được chính quyền nhà nước phong kiến rõ nét như ở phương Tây.
Ở Phương Đông, chế độ quân chủ chuyên chế rất mạnh và có nhiều tôn giáo trong cùng
một nước. Các tôn giáo đều không có tổ chức giáo hội mang tính quốc tế. Mặc dù vậy, gần
như trong suốt quá trình tồn tại của chế độ phong kiến, nhà nước luôn sử dụng những giáo
lý của tôn giáo để xây dựng và cũng cố một nhà nước quân chủ chuyên chế và bành trướng
xâm lược ra bên ngoài như Nho giáo (Trung Quốc), Hồi giáo (Ấn Độ),…

Hình thức của nhà nước: phổ biến là hình thức quân chủ


nhà nước quân chủ chỉ phát triển qua 2 giai đoạn: phân quyền cát cứ và trung ương tập
quyền mang tính chuyên chế cao. Chế độ quân chủ xuất hiện sớm và sớm chuyển từ chế độ
phân quyền sang tập quyền (Trung Quốc: thời Tần Thủy Hoàng TK III TCN).
Trong chính thể đó, vua có uy quyền tuyệt đối, là đấng tối cao vô thượng và được thần

thánh hóa là thiên tử - con trời (Trung Quốc) nắm mọi quyền hành, nắm cả thần quyền,
vương quyền và pháp quyền:


Vương quyền:

+Kinh tế: chủ sở hữu toàn bộ ruộng đất trong cả nước; thu thuế; người duy nhất có
quyền ban cấp ruộng đất cho quan lại.
+Chính trị: duy nhất ngôi vị Hoàng đế được thiết lập theo cách kế vị hay thế tập của chế
độ tông pháp trước đây. Toàn bộ quan lại từ trung ương đến địa phương đều là tôi tới của
hoàng đế, đều do hoàng đế bổ nhiệm, bãi miễn, khen thưởng, trừng phạt. Dân chúng trong
nước đều là thần dân của vua. Hệ thống quan lại được tổ chứ hai cấp: trung ương và địa
phương với đẳng cấp phân minh và biên chế chặt chẽ. Nhờ đó, chế độ quân chủ chuyên chế
càng được củng cố.


Thần quyền: Quyền lực tuyệt đối trong lĩnh vực tôn giáo, là người duy nhất xưng

danh mình để tế lễ đất trời, sắc phong thần và đặt ra các chức sắc tôn giáo.


Pháp quyền: Những lời hoàng đế nói đều là pháp luật, tất cả mọi người phải tuân

theo; kiêm cả 3 vai trò: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Chính thể quân chủ chuyên chế phương Đông hình thành và phát triển do những yếu tố
sau:
+ Quyền sở hữu tối cao về ruộng đất thuộc nhà vua và sự tồn tại của các công xã nông
thôn.
+ Do đòi hỏi của cuộc xâm lược bành trướng hoặc trong công cuộc chống chinh phục.



+ Do tập quán dchính trị và tâm lý chính trị truyền thống. Nhà nước quân chủ chuyên
chế phong kiến là sự kế thừa và phát triển chính thể quân chủ chuyên chế chủ nô.
+ Do truyền thống kết hợp chặc chẽ giữa vương quyền và thần quyền.
 Đây là đặc điểm nổi bật nhất của chế độ phong kiến phương Đông.



Chức năng của nhà nước

Cũng như trong thời kì chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến ở phương Đông còn có
một chức năng đặc biệt và rất quan trọng, chức năng tổ chức công cuộc trị thủy và thủy
lợi.
_ Đối nội:
+ Bảo vệ và phát triển chế độ sở hữu phong kiến, duy trì sự bóc lột của phong kiến đối
với nông dân và các tầng lớp khác.
+ Đàn áp sự chống đối của nông dân.
+ Đàn áp tư tưởng.

_ Đối ngoại:
+ Tiến hành chiến tranh xâm lược nhằm mở rộng thế lực và làm giàu.
+ Phòng thủ đất nước trước sự xâm lược và bành trướng của các quốc gia phong kiến
khác.)

b.
đâu là đặc điểm quan trọng nhất
câu 2: đặc điểm nhà nước Tư sản phương Đông? Đâu là đặc điểm nổi bật nhất?
Giai cấp tư sản lãnh đạo quần chúng nhân dân thực hiện cuộc cách mạng tư sản.
-Nhà nước tư sản can thiệp sâu rộng vào đời sống kinh tế



-Nhà nước tư sản bị các nhóm tư bản độc quyền có thế lực chi phối.
 CNTB ở phương Đông ra đời muộn, non nớt và không đồng đều về thời gian,
không gian
 Là kiểu nhà nước bóc lột cuối cùng, hoàn thiện và phát triển nhất trong các kiểu
nhà nước bóc lột, tồn tại chủ yếu trên cơ sở của chế độ tư hữu
 Nguồn gốc: là kết quả cơ bản và trực tiếp của cuộc CMTS, là hệ quả của phương
thức sản xuất TBCN. Xét về bản chất, đó là sự thay thế của chế độ bóc lột này
bằng kiểu nhà nước boc lột khác. Nó vẫn là công cụ thống trị, bảo vệ quyền lợi và
địa vị của giai cấp tư sản; tạo cơ sở thuận lợi và góp phần to lớn đối với sự phát
triển kinh tế- xã hội, sự giàu có của loài người =>1 xã hội dân chủ TS tiến bộ hơn
cá giai đoạn trước đó đã được hình thành và phát triển.
 Bản chất: là 1 bộ phận của kiến trúc thượng tầng của xã hội TS; ; là công cụ duy
trì sự thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp vô sản chống lại giai cấp Tư sản và
các tầng lớp nhân dân lao động khác.

Câu 4: các quan niệm về nguồn gốc nhà nước và nhà nước phương Đông? Ý kiến
của anh/chị?
I.

Đặt vấn đề

Nhà nước, sản phẩm của sự phát triển xã hội, 1 hình thức tổ chức con người trong xã
hội có giai cấp. nguồn gốc của nhà nước, nguyên nhân cội nguồn làm xuất hiện nhà nước.
Có 2 nhóm lý thuyết nói về nguồn gốc nhà nước: Quan điểm phi mắc xít và quan điểm
mắc xít.
II.
1.

Các quan điểm về nguồn gốc Nhà nước:

phi Mác - xít

Trước khi học thuyết Mác – Lê - nin ra đời, một số học thuyết phi Mác - xít đã xuất hiện
như: thuyết thần quyền, thuyết gia trưởng, thuyết bạo lực, thuyết khế ước xã hội. Các học
thuyết đều có những nhìn nhận riêng biệt nhưng đều có những hạn chế nhất định.


Thuyết gia trưởng của Aristote cho rằng nhà nước là kết quả phát triển của gia đình, là
hình thức tổ chức tự nhiên của đời sống con người. Nhà nước tồn tại trong mọi xã hội.
Quyền lực nhà nước, về bản chất cũng giống như quyền gia trưởng- người đứng đầu gia
đình. Thuyết gia trưởng về nguồn gốc nhà nước thực chất nhằm bảo vệ chế độ quân chủ
chuyên chế thời phong kiến, nó gắn liền với tôn giáo, thần thánh hoá quyền lực quân chủ.
Thuyết thần quyền (hay còn đgl thuyết tuyệt đối hóa duy tâm) : nhà nước là do thương
đế sáng tạo ra để bảo vệ trật tự chung, do vậy, nhà nước là lực lượng siêu nhiên, vĩnh cửu và
sự phục tùng quyền lực nhà nước là cần thiết và tất yếu. Nhưng thực tế nhà nước không
phải là lực lượng siêu nhiên, nó luôn chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị xã hội.
Thuyết khế ước xã hội cho rằng: Nhà nước là kết quả của một thỏa thuận xã hội (khế
ước) giữa người với người. Nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên trong xã hội và
mỗi thành viên đều có quyền yêu cầu nhà nước phục vụ họ, bảo vệ lợi ích của họ. Khi nhà
nước không thực hiện được chức năng của nó, các thành viên trong xã hội sẽ hủy bỏ khế
ước cũ, lập ra 1 khế ước mới, 1 nhà nước tiến bộ hơn sẽ ra đời. Thuyết khế ước xã hội đã
tiến bộ hơn với những thuyết trước đây. Tuy nhiên, có một khuyết điểm ở chỗ: nhà nước ra
đời là do ý muốn, khát vọng chủ quan khi tham gia khế ước. Họ không thấy được bản chất
vật chất của sự ra đời và nguồn gốc nhà nước.
Thuyết bạo lực thì cho rằng: Nhà nước xuất hiện trực tiếp từ việc sử dụng bạo lực của
thị tộc này với thị tộc khác, kết quả là thị tộc chiến thắng đã lập ra bộ máy đặc biệt (nhà
nước) để nô dịch thị tộc chiến bại và do vậy, nhà nước là công cụ của kẻ mạnh thống trị kẻ
yếu. Khuyết điểm của thuyết này là sùng bái vũ lực, chỉ bảo vệ những kẻ thống trị, phân
biệt chủng tộc.
Thuyết tâm lý lại cho rằng: Nhà nước xuất hiện do nhu cầu về tâm lý của người nguyên

thuỷ luôn muốn phụ thuộc vào các thủ lĩnh, giáo sĩ... Vì vậy, nhà nước là tổ chức của những
siêu nhân có sứ mạng lãnh đạo xã hội. Khuyết điểm của thuyết này mang tính chủ quan, ỷ
lại.
 Các học thuyết trên chủ yếu đều cho rằng: Nhà nước là lực lượng ở ngoài xã hội
nhằm điều hòa mâu thuẫn xã hội, xem xét nhà nước trong sự cô lập với những điều kiện chi
phối nó, không gắn nó với điều kiện vật chất đã sản sinh ra nó. Đó là do hạn chế về mặt lịch


sử, nhận thức còn kém hoặc bị chi phối bởi lợi ích giai cấp nên đã giải thích sai lệch nguyên
nhân dẫn đến sự xuất hiện của nhà nước, nhằm che đậy bản chất của nhà nước. Chính vì
vậy, họ đều cho rằng nhà nước là vĩnh hằng, là của tất cả mọi người, không mang bản chất
giai cấp, là công cụ để duy trì trật tự xã hội trong tình trạng ổn định, phát triển và phồn
vinh.
2.
Quan điểm Mác - xít
Những nội dung cơ bản về học thuyết này được phản ánh thông qua 2 tác phẩm:
"Nguồn gốc của gia đình, sở hữu tư nhân và nhà nước" của Ph.Ăng-ghen và “Nhà nước và
cách mạng” tập 20 Lê-nin. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra rằng: nhà
nước không phải là hiện tượng xã hội vĩnh cửu và bất biến, nhà nước chỉ xuất hiện khi xã
hội loài ngừời đã phát triển đến 1 giai đoạn nhất định, khi trong xã hội xuất hiện chế độ tư
hữu và những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Nhà nước luôn vận động, phát
triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại và phát triển của nó
không còn nữa.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, trước khi nhà nước cổ đại xuất hiện,
người cổ đại sống thành từng bầy rồi sau liên kết thành tổ chức thị tộc, ở trình độ cao
hơn là tổ chức bào tộc, bộ lạc.
Sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất đã tạo tiền đề làm thay đổi phương
thức sản xuất công sản nguyên thủy. Nền kinh tế tự nhiên săn bắn, thu lượm dần chuyển
sang nền kinh tế sản xuất, con người dần biết đến chăn nuôi, trồng trọt, dần dần họ lại biết
đến thủ công, dẫn đến các cuộc phân công lao động xã hội trên quy mô lớn, một bộ phận

dân cư đông đảo chuyên làm một nghề nhất định. Khi sản xuất được chuyên môn hóa, nó
càng có điều kiện phát triển mạnh hơn. Sản phẩm làm ra ngày một nhiều hơn không những
đủ cho tiêu dùng mà còn dư thừa.
3 cuộc Cách mạng làm tan rã gần như hoàn toàn xã hội cộng sản nguyên thủy khép kín,
dẫn đến xã hội có giai cấp và có nhà nước:


-

Chăn nuôi dần dần trở thành một ngành kinh tế độc lập và tách ra khỏi ngành

trồng trọt.
- Khi công cụ lao động phát triển làm cho lực lượng lao động chuyên nghiệp
hóa dẫn đến thủ công nghiệp tách khỏi công nghiệp.
- khi nhu cầu buôn bán ngày càng phát triển dẫn đến thương nghiệp xuất hiện.
Nhà nước chỉ xuất hiện khi đã xuất hiện sự phân chia xã hội thành giai cấp. Do vậy, nhà
nước là 1 hiện tượng thuộc về bản chất của xã hội có giai cấp.
 Tóm lại, nguồn gốc hình thành nhà nước là do sự phát triển như vũ bão của
lực lượng sản xuất. Từ đó cho thấy nguồn gốc của nhà nước là từ nhân loại,
không vì bất cứ một năng lực siêu nhiên hay thần thánh nào cả. Nhà nước
xuất hiện và tồn tại vì lợi ích của giai cấp, phủ định hoàn toàn các học thuyết
đã đề ra trước Mác. Ta có thể hoàn toàn đồng ý với quan điểm Mác-xit về
nguồn gốc nhà nước vì nó đúng đắn hơn hẳn những quan điểm phi Mác-xít trước
đó..
Ngoài ra, còn có ý kiến cho rằng nhà nước phương Đông ra đời từ nhu cầu trị thủy và
chống ngoại xâm, nhưng theo tôi, điều này là không đúng. Dẫn chứng như quốc gia
Philippin, họ cũng có nhu cầu trị thủy nhưng nhà nước Philippin vẫn ra đời muộn.
Điều này cho thấy nhu cầu trị thủy, chống ngoại xâm là chức năng, không phải nguồn
gốc của nhà nước
 Quan điểm cá nhân về nguồn gốc nhà nước phương Đông

Phương Đông là vùng đất nằm ở phía Đông, là vùng đất đi theo hướng mặt trời mọc.
Mang khí hậu nhiệt đới, nhiệt đới gió mùa và các dòng sông lớn được bồi tụ phù sa màu
mỡ như Trường Giang, Hoàng Hà, Ấn, Hằng...Tuy nhiên song song đó cũng tồn tại
những khó khăn và thử thách: con người phương Đông sống phụ thuộc vào tự nhiên rất
nhiều.
Chính vì bất lợi trên nên đòi hỏi bất cứ một cộng đồng dân cư nào ở đây cũng phải tiến
hành công cuộc trị thuỷ gắn liền với thuỷ lợi nhân tạo. Công cuộc trị thuỷ đòi hỏi một cộng
đồng dân cư rất lớn đoàn kết, thống nhất lực lượng lại để thực hiện cuộc đấu tranh chống lại


thiên nhiên. Trong quá trình xây dựng các công trình thuỷ lợi, để công việc đạt hiệu quả
cao, cần phải có người lãnh đạo, có sự quản lý thống nhất trong một tập thể.
Một điều kiện khác thúc đẩy nhà nước phương Đông ra đời sớm là điều kiện tự vệ
chống xâm lược. Bởi vì để tiến hành chiến tranh, cần phải có trật tự, kỷ cương trong một tập
thể, đặc biệt cần phải có người thống lĩnh quân đội.
Như vậy, nhân tố trị thuỷ - thuỷ lợi và nhu cầu tự vệ chống ngoại xâm tuy bản thân
chúng không thể sản sinh ra nhà nước nhưng có thể thúc đẩy quá trình hình thành nhà nước
trên cơ sở phân hoá xã hội đã ở một mức độ nào đó.
Nhà nước ra đời sớm về mặt thời gian, không gian, do điều kiện môi trường tự nhiên,
kinh tế, xã hội đặc biệt của phương Đông. Vua là người nắm giữ mọi quyền lực và có thể áp
đặt ý chí của mình lên tất cả mọi người. Người được mọi người tôn thờ và tuân lệnh. Sự
xuất hiện của Vua cũng chính là sự ra đời của Nhà nước phuơng Đông.



×