Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Đánh giá quy định pháp luật về hoạt động đối thoại trong tố tụng hành chính theo Luật TTHC 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.42 KB, 11 trang )

BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ MÔN LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
Chủ đề 5: Đánh giá quy định pháp luật về hoạt động đối thoại
trong tố tụng hành chính.

A. MỞ ĐẦU
Sự ra đời của pháp luật cho đến nay là bắt nguồn từ những nhu cầu
thường ngày của con người, đó là tất cả những nhu cầu vật chất và tinh thần đơn
giản nhất, thiết yếu nhất. Từ đó, pháp luật là công cụ, phương tiện để phục vụ,
bảo vệ lợi ích cho các thành viên trong xã hội của một nhà nước nói chung và
giai cấp cầm quyền nói riêng. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà
nước ban hành hoặc thừa nhận, đựợc nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điểu
chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.
Hiện nay, trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, Việt Nam thực hiện cải
cách nền tư pháp để bắt kịp xu hướng của thế giới, đây cũng là thời điểm Luật
Tố tụng Hành chính (TTHC) 2015 được ban hành và đi vào thực tiễn. Song song
với đó là sự xuất hiện của những chế định mới phù hợp với quy định của Hiến
pháp cũng như đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp đề ra.
Theo công cuộc cải cách, Luật TTHC năm 2015 ra đời quy định nhiều nội
dung mới so với Luật TTHC năm 2010, trong đó phải kể đến điểm mới liên
quan đến thủ tục đối thoại trong quá trình giải quyết vụ án hành chính tại Toà án.
Theo đó với Luật TTHC 2010 thì đối thoại không phải là thủ tục bắt buộc,
nhưng đến Luật TTHC 2015 thì đây là nội dung bắt buộc trừ một số trường hợp
luật định. Nhận thấy đây là một quy định mới, có nhiều điểm tiến bộ, cùng với
sự phân công của bộ môn, sinh viên xin lựa chọn chủ đề “Đánh giá quy định
pháp luật về hoạt động đối thoại trong tố tụng hành chính” để nghiên cứu làm
rõ hơn về vấn đề này.
1


B. NỘI DUNG
I.



Một số vấn đề lý luận chung.
1. Cơ sở pháp lý của hoạt động đối thoại.
Nhận thức được vai trò, ý nghĩa của đối thoại trong thủ tục giải quyết vụ

án hành chính, những năm qua, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính
phủ đã từng bước xây dựng và hoàn thiện quy định về đối thoại trong vụ án hành
chính và nhằm đảm bảo tính pháp chế trong tố tụng hành chính. Trước đây, tại
Điều 12 Luật TTHC năm 2010 quy định “Trong quá trình giải quyết vụ án hành
chính, Toà án tạo điều kiện để các đương sự đối thoại về việc giải quyết vụ án”.
Như vậy nghĩa là đối thoại không phải thủ tục bắt buộc. Thẩm phán tiến hành tổ
chức đối thoại trên cơ sở yêu cầu của đương sự. Bên cạnh đó, Luật TTHC năm
2010 chưa quy định rõ về nguyên tắc, trình tự, thủ tục nên quá trình giải quyết
các vụ án hành chính còn có những hạn chế, bất cập.
Để khắc phục những khó khăn, vướng mắc, Luật TTHC năm 2015 đã sửa
đổi cơ bản về thủ tục đối thoại, trong đó thủ tục đối thoại quy định là một thủ tục
bắt buộc trong quá trình giải quyết vụ án hành chính. Vì vậy, tại Điều 20 Luật
TTHC năm 2015 quy định “Toà án có trách nhiệm tiến hành đối thoại và tạo
điều kiện thuận lợi để các đương sự đối thoại với nhau về việc giải quyết vụ án
theo quy định của Luật tố tụng hành chính”. Bên cạnh đó, so với Luật TTHC
2010, Luật TTHC 2015 đã quy định cụ thể, chi tiết về nguyên tắc đối thoại
(Điều 134); những vụ án hành chính không tiến hành đối thoại (Điều 135); trình
tự, thủ tục đối thoại (từ Điều 136 đến Điều 138); biên bản đối thoại (Điều 139)
và xử lý kết quả đối thoại (Điều 140).
2. Vai trò, ý nghĩa của đối thoại trong giải quyết vụ án hành chính.

Có thể dễ dàng nhận thấy, quan hệ hành chính là mối quan hệ không
ngang bằng, giữa 1 bên là cơ quan Hành chính Nhà nước có vai trò chỉ đạo, điều
hành và bên kia là tổ chức, cá nhân chịu sự quản lý, chấp hành, vì vậy, Luật
2



TTHC không quy định thủ tục hoà giải mà quy định về thủ tục đối thoại trong tố
tụng hành chính. Ý nghĩa của hoạt động đối thoại là khi Tòa án thông qua thủ
tục này, Tòa án tạo điều kiện, môi trường công lý, bình đẳng để các bên đương
sự gặp gỡ trao đổi trực tiếp với nhau, thông qua sự điều khiển của Thẩm phán,
như là trọng tài, đương sự sẽ hiểu biết nhau hơn, làm rõ được những nguyên
nhân của những khác biệt trong nhận thức, những sai sót, hạn chế trong công tác
quản lý Nhà nước sẽ được thể hiện rõ hơn thông qua đối thoại; mặt khác người
khởi kiện (đa số là người dân) có thể hiểu rõ hơn về những quy định pháp luật,
mà trong đó có nhiều quy định rất phức tạp, như đất đai, thuế, hải quan liên quan
đến việc khởi kiện, từ đó các bên có thể đưa những quan điểm xích lại gần nhau
hơn, làm giảm hoặc giải quyết được mâu thuẫn, xung đột. Thậm chí, từ đó họ có
thể thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án hành chính mà không phải trải
qua thủ tục mở phiên toà xét xử.
Thực tế cho thấy trong nhiều vụ án hành chính phức tạp, đương sự khiếu
kiện gay gắt, đã thực hiện quyền khiếu nại lên các cơ quan hành chính, nhưng
không thỏa mãn nên đã khiếu kiện đến Tòa án. Song Tòa án đã chú trọng đến
việc đối thoại, tạo điều kiện các bên khi tham gia đối thoại các bên đạt được sự
thống nhất về việc giải quyết những nội dung khởi kiện, người khởi kiện rút đơn
khởi kiện, không yêu cầu Tòa án giải quyết nữa do thông qua đối thoại người bị
kiện thay đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ quyết định hành chính, hành vi hành chính,
hoặc do họ đã được Tòa án phân tích, giải thích một cách khách quan tính không
có căn cứ của việc khởi kiện.
Ý nghĩa hết sức quan trọng của đối thoại là nó có thể giúp “kết thúc sớm”
vụ án hành chính, vì đương sự đã thỏa mãn, không kháng cáo, hoặc khiếu kiện
kéo dài (nếu để đưa ra xét xử sơ thẩm thì nhiều vụ bị đương sự kháng cáo lên
phúc thẩm, không ít trường hợp phải giám đốc thẩm, tái thẩm). Từ đó cũng giải
quyết được nhiều bức xúc trong nhân dân; qua đó cũng giảm đáng kể gánh nặng
cho cơ quan tiến hành tố tụng thụ lý, giải quyết loại án hành chính phức tạp này.

Thậm chí nếu không giải quyết dứt điểm vụ án, thì qua đối thoại, đặc biệt là thủ
3


tục đối đáp trực tiếp cũng làm sáng tỏ rất nhiều vấn đề, tình tiết làm cơ sở giải
quyết vụ án mà rất khó có thể thu thập chứng cứ bằng con đường khác. Tuy
nhiên, trường hợp đối với đương sự cố chấp, lợi dụng việc đối thoại để yêu cầu
quá đáng, không có căn cứ pháp luật về việc khởi kiện của mình, thì cũng kiên
quyết bác bỏ yêu cầu của họ, không nên kéo dài việc đối thoại.
II.

Đánh giá quy định pháp luật về hoạt động đối thoại
1.

Nguyên tắc đối thoại.

Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án tiến hành đối thoại để các
đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không
tiến hành đối thoại được, vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn và vụ án khiếu nại về
danh sách cử tri. 1
Tại khoản 2 Điều 134 Luật TTHC 2015 quy định việc đối thoại phải được
tiến hành theo các nguyên tắc:
Thứ nhất, bảo đảm công khai, dân chủ, tôn trọng ý kiến của đương sự.
Việc đối thoại có thể tiến hành tại Toà án hoặc tại địa điểm khác do Toà án và
các đương sự thống nhất, song phải diễn ra thực sự công khai, dân chủ, có sự
tham gia của các bên đương sự và những người có liên quan. Các chủ thể tham
gia phải thực sự bình đẳng với nhau và được tự do trong việc đưa ra các quan
điểm, đánh giá, đề nghị trong quá trình đối thoại. Những quan điểm, ý kiến của
các đương sự phải luôn được tôn trọng.
Thứ hai, không được ép buộc các đương sự thực hiện việc giải quyết vụ

án hành chính trái với ý chí của họ. Do đó, các bên cần quan tâm đến yêu cầu,
lợi ích chính đáng, hợp pháp để có quyết định phù hợp. Các bên đối thoại cần
đánh giá một cách trung thực, chính xác về tình tiết của vụ án; thực hiện nguyên
tắc này tạo điều kiện để các bên đưa ra những quan điểm, đề nghị thiện chí trong
quá trình đối thoại. Bất cứ ai cũng không có quyền ép buộc, đe dọa, uy hiếp các
1 Khoan 1, Điêu 134, Luât TTHC 2015

4


đương sự tham gia đối thoại trái với ý trí của họ. Mọi thỏa thuận khi phát hiện
có sự ép buộc trái ý chí đương sự đều không được công nhận.
Thứ ba, nội dung đối thoại, kết quả đối thoại thành giữa các đương sự
không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Các bên đối thoại cần dựa trên các quy
định của pháp luật, đạo đức xã hội để đánh giá khách quan về yêu cầu của mỗi
bên, về tính hợp pháp của đối tượng khởi kiện. Mặt khác, nguyên tắc này đòi hỏi
các bên đương sự tham gia đối thoại ngoài việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp
pháp của mình còn phải tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, lợi
ích của Nhà nước. Mọi thoả thuận thông qua đối thoại có nội dung trái pháp luật
và đạo đức xã hội đều không được thừa nhận.
2.

Thông báo về phiên họp đối thoại.

Để thủ tục đối thoại thành công cần có vai trò tổ chức của Toà án; Thẩm
phán phải thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm, nội
dung đối thoại trước khi phiên đối thoại được tiến hành. Phiên đối thoại được
tiến hành đồng thời với phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai
chứng cứ giữa các đương sự. Việc thông báo này giúp các bên đương sự có thời

gian chuẩn bị trước để có thể bảo vệ quyền lợi của mình. Điều 136 Luật TTHC
năm 2015 quy định:
“Trước khi tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và đối thoại giữ các đương sự, Thẩm phán phải thông báo cho
các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội
dung của phiên họp;
Trường hợp vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được theo quy
định tại Điều 135 của Luật này thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành việc đối thoại.”
5


Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có trách nhiệm thông báo về
phiên họp đối thoại, đồng thời là chủ thể tiến hành đối thoại. Nội dung thông
báo bao gồm thời gian, địa điểm và nội dung của phiên họp đối thoại. Người
được thông báo về phiên họp đối thoại là các đương sự, người đại diện hợp pháp
của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trên cơ sở
thông báo của Thẩm phán, người được thông báo đến tham dự phiên họp để nêu
ý kiến của mình về vụ án mà Tòa án đang thụ lý giải quyết cũng như để đề đạt ý
chí nguyện vọng và thỏa thuận giữa các bên. Ngoài ra, Luật cũng nêu rõ đối với
vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được thì chỉ tiến hành phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ.
3.

Thành phần phiên đối thoại.

Thành phần tham gia phiên đối thoại gồm có: Thẩm phán chủ trì phiên
họp; Thư ký phiên họp ghi biên bản; đương sự hoặc người đại diện hợp pháp
của đương sự; người bảo vê quyền và lợi ich hợp pháp của đương sự (nếu có),

người phiên dịch (nếu có) 2. Đối với đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của
đương sự thì chỉ cần một trong hai có mặt. Trường hợp có người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho đương sự thì họ có quyền đến tham dự phiên đối thoại.
Người phiên dịch bắt buộc phải có mặt tại phiên họp đối thoại nếu như trong vụ
án hành chính có đương sự là người nước ngoài, người dân tộc thiểu số hoặc
đương sự bị khuyết tật nghe, khuyết tật nói, khuyết tật nhìn.3
Ngoài ra, theo khoản 2, Điều 137 Luật TTHC 2015 thì trường hợp cần
thiết, Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham
gia phiên họp. Đây là những cá nhân, cơ quan và tổ chức có thể không có quyền
và nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng được Thẩm phán mời đến phiên họp để
hỗ trợ Thẩm phán, các bên đương sự trong việc thống nhất với nhau về việc giải
quyết vụ án ví dụ như người làm chứng, người giám định…
2 Khoan 1, Điêu 137, Luât TTHC 2015.
3 Điêu 21, Luât TTHC 2015.

6


Bên cạnh đó, trong vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt,
nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc tiến hành
phiên họp đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì
Thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề
nghị hoãn phiên họp để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì thẩm phán
phải hoãn phiên họp và thông báo bằng văn bản về việc hoãn phiên họp và việc
mở lại phiên họp cho các đương sự biết (khoản 2 Điều 137).
4.

Trình tự phiên họp đối thoại.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 138 Luật TTHC năm 2015: Sau khi tiến

hành xong việc kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, Thẩm phán tiếp
tục tiến hành thủ tục đối thoại theo thứ tự như sau:


Thẩm phán phổ biến cho đương sự biết các quy định của pháp luật có
liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền,
nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc đối thoại để họ



tự nguyện thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án;
Người khởi kiện trình bày bổ sung về yêu cầu khởi kiện, những căn cứ
để bảo vệ yêu cầu khởi kiện và đề xuất quan điểm của người khởi kiện



về hướng giải quyết vụ án (nếu có);
Người bị kiện trình bày bổ sung ý kiến về yêu cầu của người khởi
kiện, những căn cứ ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi



hành chính bị khởi kiện và đề xuất hướng giải quyết vụ án (nếu có);
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày bổ sung và



đề xuất ý kiến giải quyết phần liên quan đến họ (nếu có);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người




khác tham gia phiên họp đối thoại (nếu có) phát biểu ý kiến;
Tùy từng trường hợp, Thẩm phán yêu cầu đương sự nêu văn bản quy
phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để đánh giá tính hợp
pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện,
đồng thời kiểm tra hiệu lực pháp luật của văn bản đó. Thẩm phán có
thể phân tích để các đương sự nhận thức đúng về nội dung văn bản
7


quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để họ có sự lựa


chọn và quyết định việc giải quyết vụ án;
Sau khi các đương sự trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác
định những vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn đề chưa thống
nhất và yêu cầu các bên đương sự trình bày bổ sung về những nội



dung chưa rõ, chưa thống nhất;
Thẩm phán kết luận về những vấn đề các bên đương sự đã thống nhất
và những vấn đề chưa thống nhất.

Theo quy định, tại phiên họp đối thoại Thẩm phán có vai trò rất lớn với tư
cách là người tiến hành tố tụng và là chủ thể điều hành phiên đối thoại sẽ cung
cấp cho các đương sự biết về các văn bản pháp luật có liên quan đến việc đánh
giá tính hợp pháp của đối tượng khiếu kiện để họ tự xác định xem khiếu kiện
Tòa án đang giải quyết có hợp pháp hay không, đồng thời Thẩm phán có thể

phân tích cho các đương sự hiểu đúng về nội dung của quy phạm pháp luật để
họ có thể quyết định việc lựa chọn việc giải quyết tranh chấp đang phát sinh
giữa các bên. Ngoài ra, Thẩm phán đóng vai trò là người trung gian, điều khiển
cuộc đối thoại giúp cho các đương sự nhận thức đầy đủ quyền và nghĩa vụ của
mình từ đó đưa ra được những quyết định đúng đắn góp phần giải quyết nhanh
gọn vụ án. Và một lần nữa, có thể thấy những nguyên tắc đối thoại được “hiện
diện” trong điều luật này, đặc biệt là nguyên tắc bảo đảm công khai, dân chủ, tôn
trọng ý kiến của đương sự.
5.

Biên bản phiên họp đối thoại.

Theo quy định của Luật TTHC 2015 ( khoản 2, Điều 139), biên bản đối
thoại phải có những nội dung: Ngày, tháng, năm tiến hành phiên họp; địa điểm
tiến hành phiên họp; thành phần tham gia phiên họp; ý kiến của các đương sự
hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự; nội dung đã được đương sự thống nhất, không thống nhất.
Biên bản phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia
phiên họp, chữ ký của Thư ký phiên họp ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì
8


phiên họp. Những người tham gia phiên họp có quyền được xem biên bản phiên
họp ngay sau khi kết thúc phiên họp, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào
biên bản phiên họp và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận.
6.

Xử lý kết quả đối thoại.

Theo quy định tại điều 140, kết quả đối thoại được xử lý như sau:

Thứ nhất, trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện vẫn giữ yêu cầu
khởi kiện, người bị kiện giữ nguyên quyết định, hành vi bị khởi kiện, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vẫn giữ nguyên yêu cầu thì
Thẩm phán tiến hành các thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án. Đối với trường
hợp này trong quá trình đối thoại giữa các bên đương sự đã không thể thống nhất
với nhau về việc giải quyết vụ án hành chính nên Thẩm phán phải tiến hành thủ
tục để đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa.
Thứ hai, trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện tự nguyện rút đơn
khởi kiện thì Thẩm phán lập biên bản về việc người khởi kiện tự nguyện rút đơn
khởi kiện, ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người
khởi kiện. Trường hợp này người khởi kiện có quyền khởi kiện lại vụ án khi thời
hiệu khởi kiện còn. Đối với trường hợp này thì đây là hành động từ một phía của
người khởi kiện mà không cần có sự thống nhất của người bị kiện vì trong quá
trình đối thoại người khởi kiện nhận thức được các quyết định hành chính, hành
vi hành chính cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc thực hiện là đúng với quy
định của pháp luật nên họ đã tự nguyện rút đơn khởi kiện, bởi lẽ họ xác định nếu
tiếp tục theo đuổi vụ kiện cũng không đạt được kết quả như mong muốn lại mất
thêm thời gian, công sức và tiền bạc.
Thứ ba, trường hợp qua đối thoại mà người bị kiện cam kết sửa đổi, bổ
sung, thay thế, hủy bỏ quyết định bị khởi kiện hoặc chấm dứt hành vi hành chính
bị khởi kiện và người khởi kiện cam kết rút đơn khởi kiện thì Tòa án lập biên
bản về việc cam kết của đương sự. Trong thời hạn bảy ngày kể từ ngày lập biên
bản, người bị kiện phải gửi cho Tòa án quyết định hành chính mới hoặc thông
9


báo về việc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện phải
gửi cho Tòa án văn bản rút đơn khởi kiện. Hết thời này mà một trong các đương
sự không thực hiện cam kết của mình thì Thẩm phán tiến hành các thủ tục để mở
phiên tòa xét xử vụ án.

Trường hợp nhận được quyết định hành chính mới hoặc văn bản rút đơn
khởi kiện thì Tòa án phải thông báo cho các đương sự khác biết. Trong thời hạn
bảy ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, nếu các đương sự không
có ý kiến phản đối thì Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả đối thoại
thành, đình chỉ việc giải quyết vụ án và gửi ngay cho đương sự, Viện kiểm sát
cùng cấp. Quyết định này có hiệu lực thi hành ngay và không bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; trường hợp có căn cứ cho rằng nội dung các
bên đã thống nhất và cam kết là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp
luật, trái đạo đức xã hội thì quyết định của Tòa án có thể được xem xét lại theo
thủ tục giám đốc thẩm.

C. KẾT LUẬN
Tóm lại, trong bối cảnh hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay, đặc biệt
trong bối cảnh Việt Nam đang thực hiện cải cách tư pháp, Luật TTHC 2015 ra
đời đã mang đến một chế định bắt buộc hết sức tiến bộ, mang nhiều ý nghĩa
quan trọng cả về lý luận và thực tiễn đó là chế định về hoạt động đối thoại. Đối
thoại tạo điều kiện thuận lợi cho tòa án giúp quá trình giải quyết vụ án nhanh
chóng, chính xác; tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức, góp phần nâng cao hiệu
quả trong công tác giải quyết các vụ án hành chính của tòa án. Thực tế cũng đã
chứng minh những bước chuyển biến tích cực trong việc áp dụng quy định này.
Và điều đó là cơ sở để chúng ta tin vào một hệ thống pháp luật Việt Nam hoàn
thiện hơn, công bằng rộng rãi và triệt để hơn, luôn luôn sẵn sàng đưa người dân
tiếp cận công lý.
Danh mục tài liệu tham khảo
1)

Luật Tố tụng Hành chính 2015, Nxb Lao Động.
10



2)

Thủ tục đối thoại trong Tố tụng hành chính theo quy định của Luật tố
tụng hành chính năm 2015, Cổng thông tin điện tử Bộ Tư Pháp,

3)

11/05/2017.
Thái Văn Đoàn, Hiệu quả từ công tác đối thoại trong giải quyết vụ án
hành chính và những đề xuất, kiến nghị, Viện kiểm sát nhân dân TP

4)

Đà Nẵng, 24/04/2015.
Website:



Thuật ngữ viết tắt
TTHC: Tố tụng Hành chính

MỤC LỤC

11



×