Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Báo chí và dư luận xã hội NHẬN ĐỊNH mối QUAN hệ GIỮA báo CHÍ, dư LUẬN xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.46 KB, 18 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: BÁO CHÍ VÀ DƯ LUẬN XÃ HỘI

Đề tài:
NHẬN ĐỊNH MỐI QUAN HỆ GIỮA BÁO CHÍ, DƯ LUẬN XÃ HỘI
VÀ QUYỀN LỰC THỨ TƯ

1


MỞ BÀI
Công cuộc đổi mới và quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang diễn ra
trong từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Quá trình phát triển nhanh và mạnh tạo nên


sự thành công và diện mạo mới của đất nước trên trường quốc tế và cả trong nhận
thức của người dân Việt Nam. Tuy nhiên, mọi sự phát triển đều có những hệ quả đi
cùng. Và quá trình phát triển, đổi mới ở Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó,
những vấn đề bức xúc mang tính toàn xã hội xuất hiện theo cấp số nhân, được báo chí
phản ánh hàng ngày, hàng giờ. Bên cạnh các chương trình phản ánh tấm gương tốt,
mặt phải của xã hội, báo chí cũng hướng mạnh tới các vấn đề nhức nhối của xã hội và
đã được dư luận ủng hộ. Thông qua các chương trình có tính phản biện xã hội, báo chí
đã phần nào góp sức xây dựng một xã hội trong sạch, văn minh. Có thể nói, chính sự
ủng hộ của dư luận đã tạo nên sức mạnh mềm cho báo chí, vô hình tạo nên một sức
mạnh, quyền lực cho báo chí. Báo chí ngày này được ví là quyền lực thứ 4, bên cạnh
quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp của một xã hội.
Trong khuôn khổ nghiên cứu của bài tiểu luận, tôi sẽ tìm hiểu mối quan hệ và

tác động lẫn nhau giữa báo chí, dư luận xã hội với quyền lực thứ tư. Dựa trên các
phân tích và tìm hiểu, bài nghiên cứu mong muốn làm rõ mối quan hệ hữu cơ, những
tác động và ảnh hưởng giữa báo chí, dư luận xã hội và quyền lực thứ tư trong xã hội
ngày nay.
Bài tiểu luận gồm 2 chương:
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ BÁO CHÍ, DƯ LUẬN XÃ HỘI VÀ QUYỀN
LỰC THỨ TƯ
CHƯƠNG II : NHẬN ĐỊNH MỐI QUAN HỆ BÁO CHÍ, DƯ LUẬN XÃ HỘI VÀ
QUYỀN LỰC THỨ TƯ
Do thời gian có hạn cùng với kiến thức và sự hiểu biết về vấn đề này còn
nhiều phức tạp, do vậy, đề tài không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tôi rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của thầy để đề tài được hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

2


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BÁO CHÍ, DƯ LUẬN XÃ HỘI
VÀ QUYỀN LỰC THỨ TƯ

1.

Khái niệm
Cho đến nay, trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng vẫn đang


tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ “báo chí”, “dư luận xã hội” và
“quyền lực thứ tư”. Để có lý luận cho việc tìm hiểu mối quan hệ giữa báo chí,
dư luận xã hội và quyền lực thứ tư, bài nghiên cứu có hệ thống lại định nghĩa
của các thuật ngữ trên.
Về “Dư luận xã hội”, trước tiên cần hiểu thế nào là dư luận. Theo rất
nhiều tài liệu nghiên cứu đều thống nhất quan điểm, dư luận là hiện tượng tâm
lý bắt nguồn từ một nhóm người, biểu hiện bằng những phán đoán, bình
luận, quan điểm về một vấn đề nào đó kèm theo thái độ cảm xúc và sự đánh giá
nhất định, được truyền từ người này tới người kia, nhóm này sang nhóm khác.
Nó có thể được truyền đi một cách tự phát hoặc được tạo ra một cách cố ý. Nếu
được lan truyền rộng rãi và lặp lại thì trở thành dư luận xã hội. Dư luận cũng có

thể hình thành từ những định kiến xã hội hay là từ những tác động truyền thông,
phong trào,... Theo đó, có thể nhìn nhận thuật ngữ “dư luận xã hội” là tập hợp
các ý kiến, thái độ có tính chất phán xét, đánh giá của các nhóm xã hội nói
chung trước những vấn đề mang tính thời sự, có liên quan tới lợi ích chung, thu
hút sự quan tâm của nhiều người và được thể hiện trong nhận định hoặc hành
động thực tiễn của họ.
Về báo chí, báo chí là một hình thái ý thức xã hội, lấy hiện thực khách
quan làm đối tượng phản ánh. Nghĩa là đối tượng phản ánh đó phải xác thực cụ
thể. Báo chí là một hoạt động thông tin đại chúng nhất, năng động nhất trong
các loại hình hoạt động truyền thông đại chúng hiện nay. Ngay từ khi xuất hiện,
báo chí luôn hoạt động trong khuôn khổ xã hội và giai cấp. Do đó, báo chí
không chỉ liên quan mà còn mang tính giai cấp. Nói cách khác, báo chí nào thì

3


giai cấp đó. Trên phương diện chính trị, báo chí thực hiện 2 nhiệm vụ cơ bản,
đó là góp phần xây dựng và bảo vệ thành quả, sự nghiệp của đảng, giai cấp cầm
quyền. Trước hết, báo chí truyền bá những tư tưởng, quan điểm cơ bản của hệ
tư tưởng chính thống của chế độ xã hội tới quần chúng, làm cho hệ tư tưởng này
trở thành hệ tư tưởng toàn dân. Việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và thế giới quan khoa học của chủ nghĩa xã hội cho quần chúng
luôn được báo chí Cách mạng Việt Nam duy trì, đẩy mạnh. Báo chí cũng tuyên
truyền, giải thích cho quần chúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
về các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những kỳ họp Quốc hội, những văn bản

pháp luật mới... đều được báo chí thông tin, đăng tải, phổ biến cho nhân dân,
đồng thời tuyên truyền, phân tích để quần chúng tin tưởng và tự giác chấp hành
những đường lối, chủ trương đó. Mặt khác, báo chí còn trang bị cho quần chúng
nhân sinh quan, thế giới quan tiến bộ, tích cực giúp quần chúng nhận thức đúng
đắn các hiện tượng, bản chất, sự kiện đang diễn ra xung quanh và định hướng
một cách hợp lý.
Báo chí, dựa trên những điều tra, tìm hiểu để làm sáng tỏ đời sống xã hội,
văn hóa. Đây chính là một bộ máy của chính quyền (điều này đặc biệt đúng ở
Việt Nam) để tìm hiểu thông tin, phổ biến và phân tích tin tức. Đây là những cơ
quan ngôn luận, cung cấp thông tin và ý kiến về mọi vấn đề. Chính vì thế, báo
chí thường được gọi là quyền lực thứ tư. Quyền lực này, nếu được nhân dân sử
dụng đúng, thì sẽ góp phần nói lên sự thật, góp phần nói lên nguyện vọng của

người dân, qua đó, cải tiến bộ máy xã hội. Báo chí hiện giờ đã phát triển rất đa
dạng: bản in, bản điện tử, kênh truyền hình...
2.

Nhận định quyền lực thứ 4
2.1. Quyền lực thứ 4
Quyền lực là quyền định đoạt mọi công việc quan trọng và có sức mạnh

để đảm bảo quyền đó được thực hiện. Nói Quốc hội là cơ quan quyền lực cao
nhất, điều đó có nghĩa Quốc hội có quyền định đoạt mọi công việc quan trọng
4



của đất nước và có sức mạnh để đảm bảo quyền đó được thực hiện, thông qua
hệ thống hành pháp và tư pháp. Theo đó, nhận định báo chí - dư luận xã hội là
quyền lực thứ tư, đây là một cách so sánh mềm. Ở Việt Nam, Quốc hội có
quyền lập pháp tức là đề ra Hiến pháp (luật pháp); Chính phủ là Hành pháp, tức
là thực thi luật pháo do Quốc hội đề ra; Toà án có quyền Tư pháp tức là bảo vệ
luật pháp đc thực thi nghiêm chỉnh. Ở các quốc gia phương tây, 3 quyền này
độc lập để giám sát lẫn nhau hay còn gọi là tam quyền phân lập, còn ở VN thì
theo quy định Quốc hội giữ cả 3 quyền, Quốc hội ủy quyền cho chính phủ và
tòa án quyền Hành pháp và tư pháp, nhưng quốc hội vẫn giữ quyền quyết định
cao nhất.
2.2 Đặc điểm của quyền lực thứ tư

Với tư cách là “quyền lực thứ tư”, báo chí phương Tây được hình
thành từ sớm và phát triển mạnh mẽ trong ba thế kỷ gần đây, có thể được xem
như một thiết chế chính trị bên ngoài, có vị trí độc lập tương đối với nhà nước
(do tính chất tư nhân và hoạt động tìm kiếm lợi nhuận). Do không có được nền
tảng nhà nước, nên “quyền lực thứ tư” không có sức mạnh cưỡng chế (không
có tính bắt buộc) như các nhánh quyền lực khác. Thực chất của “quyền lực thứ
tư” chỉ là sự quy ước với tư cách là một thiết chế dân chủ trực tiếp (quyền lực
trực tiếp) mang tính thuyết phục, tư vấn, gợi mở.
Trong tư duy chính trị học về quyền lực và cấu trúc của nó, “quyền lực
thứ tư” là quyền lực không chính thống, quyền lực phi thiết chế. Tuy nhiên,
thực tiễn chính trị khẳng định, báo chí có thể đạt tới đỉnh cao và trở thành quyền
lực thứ tư khi nó tác động mạnh mẽ, tích cực tới các nhánh quyền lực trong xã

hội, thúc đẩy quá trình hoạch định và thực thi chính sách nhà nước có hiệu quả.
Sự tác động của hệ thống báo chí trong đời sống chính trị được thể hiện rất đa
dạng và phong phú, ở cả sức ảnh hưởng tới các quan điểm chính trị với vị trí là
phương tiện được tổ chức và chỉ đạo bởi một hệ thống chính trị nhất định. Phạm
vi tác động của báo chí cũng không chỉ giới hạn ở bên ngoài đối với thể chế
5


chính trị mà còn gắn bó mật thiết với các yếu tố cấu thành của nó. Điều đó cho
thấy, sự xuất hiện của “quyền lực thứ tư” và tác động của nó đến quá trình thực
thi quyền lực chính thức đã làm đảo lộn quan niệm về quyền lực của
Montesquieu.

Xuất phát từ mục đích của cuộc đấu tranh nên thực chất quyền lực của
báo chí chính là quyền lực của công luận (quyền tự do ngôn luận), là “uy tín tri
thức” (sức mạnh của lời nói, của sự ảnh hưởng); quyền được nói lên những vấn
đề bức xúc, gai góc trong cuộc sống hay những nhu cầu, nguyện vọng của các
tầng lớp xã hội để đem lại công bằng, dân chủ cho họ. Nhìn chung, những
thẩm quyền của báo chí nằm trong lĩnh vực tư tưởng, tinh thần. Song, với
những đặc tính như: khả năng xâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội và tạo áp lực mạnh mẽ, nên thẩm quyền của báo chí có lúc còn vượt trội
hơn so với sức mạnh của quyền lực chính trị, quyền lực kinh tế. Đồng thời,
“quyền lực của báo chí không chỉ nằm trong quyền công bố sự thật … mà còn
nằm trong quyền cung cấp những hình thức xuất hiện công bố”.
Kiềm chế và đối trọng là nguyên tắc nền tảng, phổ quát chi phối sự vận

hành mọi thể chế chính trị phương Tây và bao chí cũng không nằm ngoài sự tác
động của quy luật đó. Mặc dù không có sự quản lý chính thức nào đối với báo
chí; song, trên thực tế vẫn có cơ chế “kiềm chế và đối trọng” chống lại sự thái
quá của giới truyền thông ở cả trong và ngoài ngành. Cụ thể: kiềm chế từ bên
ngoài gồm các đạo luật về chống bôi nhọ danh tiếng và sự giám sát của các tổ
chức do báo giới thành lập. Kiềm chế từ bên trong được thực hiện bởi các
“thanh tra viên” được các tờ báo chỉ định để điều tra dư luận xã hội về các
hoạt động và uy tín của tổ chức truyền thông.
C. Mác đã khẳng định: sản phẩm của báo chí chính là dư luận xã hội. Với
khả năng cung cấp, điều khiển quá trình thông tin, báo chí có vai trò, sức mạnh
đặc biệt trong việc phản ánh, khơi nguồn, điều hoà tâm trạng và chỉ đạo dư luận
xã hội; qua đó tác động mạnh đến việc hình thành chủ trương, chính sách,

6


những đối sách của các thế lực cầm quyền. “Báo chí có khả năng tác động
thường xuyên có hệ thống và tính đến những thay đổi trong cuộc sống… Chính
báo chí có khả năng bắt kịp được tình hình thay đổi trong từng ngày và chính vì
vậy, trong trường hợp cần thiết có khả năng thay đổi định hướng công chúng”.
Ở đâu có quyền lực thì ở đó có sự quản lý. Những nhận định, đánh giá
chính là quyền lực vạn năng của báo chí. Là thiết chế đối trọng với ba nhánh
quyền lực truyền thống, báo chí có vai trò kiểm tra, giám sát các hoạt động của
các cơ quan công quyền. Vai kiểm soát của báo chí chủ yếu dựa trên sức mạnh
của dư luận xã hội mà báo chí là người đại diện. Xã hội phát triển, cùng với quá

trình dân chủ hóa đã tạo thuận lợi cho báo chí khẳng định vai trò và khả năng
tác động trực tiếp đến ý thức của công chúng trong việc phản ánh những thiếu
sót, sai lầm hay biểu dương những nhân tố tích cực của cơ quan, tổ chức nhà
nước. “Quyền năng vô hạn của hệ thống báo chí là cơ chế kết nối người dân với
các nhà hoạch định chính sách”. Sức lan toả mạnh mẽ của thông tin là một sức
mạnh vô hình đặt giới hạn đối với những gì chính phủ có thể làm. Vì vậy, “việc
đưa tin của phương tiện báo chí vừa tạo ra yêu cầu, vừa là sản phẩm của việc
chính phủ hành động”. Thực tế cho thấy những hoạt động điều tra nghiêm túc
của báo chí làm cho những thông tin cần thiết, có ý nghĩa quốc gia hoặc có tầm
quan trọng đặc biệt đối với người dân bị giấu giếm, che đậy trở nên công khai,
minh bạch; giúp cho các cơ quan chính phủ và các tổ chức được điều tra thực
hiện đúng những mục tiêu và cam kết đã đề ra và phải chịu trách nhiệm về

những hành động của mình.
3.

Bản chất quyền lực thứ 4
Không phải ngẫu nhiên mà trên thế giới người ta coi báo chí như là một

thứ quyền lực. Sánh cùng với các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư
pháp, báo chí hình thành nên một “nhánh quyền lực mới”, tuy không chính
thức- quyền lực thứ tư! Báo chí được so sánh ngầm là quyền lực thứ 4, bởi chức
năng giám sát và phản biện xã hội của báo chí.
7



Nói đến quyền lực, thường mọi người nghĩ ngay tới khả năng áp đặt ý
chí của chủ thể nắm giữ quyền lực, tức là khả năng có thể làm thay đổi quan
điểm, thái độ hoặc hành vi của người khác. Với sự bùng nổ thông tin như hiện
nay, báo chí càng khẳng định rõ “vị thế” quyền lực của mình. Nhu cầu tìm kiếm
thông tin là không thể thiếu của con người xã hội. Và báo chí, với các loại hình
khác nhau sẽ làm thỏa mãn nhu cầu ấy, qua đó tác động mạnh mẽ đến dư luận
xã hội và hình thành dư luận. “Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn
đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân” cũng chính là một trong
những nhiệm vụ cao cả của báo chí được xác định trong Luật báo chí hiện hành.
Bản thân dư luận xã hội là tập hợp các quan điểm, nhận xét, đánh giá mang tính
chủ quan của nhiều người về một sự việc, sự kiện nhưng nó lại là một hiện

tượng xã hội tồn tại một cách khách quan. Bởi vậy, phát huy vai trò của báo chí
trong định hướng dư luận xã hội không nên hiểu theo nghĩa can thiệp, áp đặt
nhằm điều chỉnh dư luận xã hội theo ý muốn của mình mà nên hiểu rằng, tác
phẩm báo chí cung cấp những thông tin, phản ánh trung thực khách quan, đồng
thời dành phần phù hợp đăng tải các ý kiến phản hồi của công chúng, tạo điều
kiện thuận lợi cho sự hình thành và thể hiện dư luận xã hội. Cũng cần nhấn
mạnh, báo chí không chỉ tạo nên dư luận xã hội mà đến lượt nó, dư luận xã hội
cũng sẽ tác động ngược trở lại tới hoạt động của báo chí. Sự tác động ngược
này đang được nhiều người xem như là dạng “quyền lực thứ năm”. Phản hồi là
yếu tố quan trọng nhất của quy trình truyền thông. Phản hồi là dòng chảy của
thông tin từ nguồn tin đến nơi nhận và ngược lại. Dòng phản hồi chỉ hình thành
khi người nhận giải mã được thông tin và người cung cấp thông tin đáp ứng nhu

cầu thông tin của người nhận.
Bởi vậy, theo Luật báo chí thì nhiệm vụ đầu tiên của báo chí là “Thông tin
trung thực”. Chính sự trung thực của thông tin sẽ làm nên sức mạnh quyền lực
cuả báo chí. Khi không được thỏa mãn về thông tin, người ta sẽ tìm kiếm sự
thật ở một kênh thông tin khác mà không mấy khó khăn. Quyền lực của báo chí
8


còn được thể hiện ở chỗ quá trình truyền thông đại chúng không chỉ đơn giản là
quá trình truyền tin mà thông qua các hoạt động của nó, hệ thống giá trị, chuẩn
mực xã hội được xây dựng và duy trì. Mặc dù sự phát triển của dư luận xã hội
được xác định bởi các quy luật khách quan, song trong một xã hội phát triển có

định hướng thì quá trình hình thành dư luận xã hội theo con đường tự phát tất
yếu cần tới sự điều khiển của hoạt động quản lý và tổ chức xã hội. Việc khắc
phục những khác biệt, trước hết là những khác biệt về lợi ích kinh tế, nhằm
hướng tới mục tiêu chung, vì sự tiến bộ chung của xã hội sẽ làm cho hoạt động
định hướng dư luận xã hội có kết quả.
Khi báo chí vào cuộc với tư cách là một “võ sĩ đeo găng” trong quá trình
xét xử các vụ án, sợ rằng kẻ dính đòn đầu tiên chính là công lý. Báo chí tác
động lên công luận; công luận tác động lên quan toà. Sự khách quan của các
quan toà là rất khó đạt tới trong một bầu không khí ngột ngạt và căng thẳng như
vậy. Thực ra, sự căm giận tội phạm ra rất đáng hoan nghênh, thế nhưng sự
trung thực, khách quan mới là cái cần hơn cho một nền công lý tốt đẹp và
một xã hội văn minh.

Thông tin được so sánh như quyền lực thứ tư. Quyền lực này nằm trong
tay các nhà báo (báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử). Quyền lực phải gắn
liền với trách nhiệm. Nạn nhân của sự lạm quyền về tư pháp có thể là một nhóm
người nào đó, nhưng nạn nhân của sự lạm quyền về thông tin sẽ là tất cả chúng
ta. Tạo môi trường thông tin minh bạch và phát huy vai trò của báo chí không
chỉ nhằm nâng cao sức mạnh quyền lực của báo chí mà còn được xem như là
một trong những giải pháp quản lý quan trọng trong bối cảnh xã hội còn nhiều
khó khăn, thách thức như hiện nay.

9



CHƯƠNG II: NHẬN ĐỊNH MỐI QUAN HỆ BÁO CHÍ, DƯ LUẬN
XÃ HỘI VÀ QUYỀN LỰC THỨ TƯ
1.

Báo chí – Quyền lực thứ tư
Điều đó cho thấy, dư luận xã hội là công cụ hỗ trợ chế độ pháp quyền rất

hiệu quả để tạo lập sự ổn định xã hội và giúp xã hội vận động theo hướng tích
cực. “Một tờ báo độc lập đóng vai trò không thể thiếu trong việc duy trì nền dân
chủ đại diện. Nếu không có thông tin có thể tin cậy được về hoạt động của các
đại diện, công dân sẽ cảm thấy họ khó có thể kiểm soát những viên chức được
bầu. Nếu không có phương tiện truyền thông, các chính trị gia sẽ khó có thể

giao tiếp với cử tri và giám sát lẫn nhau”. Vì vậy, theo quan niệm phương Tây,
“báo chí có chức năng như người cận vệ trung thành, canh giữ nền dân chủ và
giám sát sự công bằng xã hội”. Tuy nhiên, trong nền chính trị tư sản, ngoài dư
luận xã hội, còn có nhiều thiết chế khác cùng tham gia kiểm tra, giám sát hoạt
động của nhà nước (như phe đối lập, viện công tố, toà án, các tổ chức, các
nhóm lợi ích…). Khác với kiểm soát của các cơ quan nhà nước chủ yếu sử dụng
biện pháp hành chính và kinh tế đối với các vi phạm, hoạt động kiểm soát của
dư luận xã hội tỏ ra rất hiệu quả, thậm chí còn nghiêm khắc và mạnh mẽ hơn vì
nó cung cấp không chỉ cơ sở pháp lý mà cả cơ sở, chuẩn mực đạo đức về các sự
kiện và nhân vật. Vai trò kiểm tra, giám sát của các phương tiện dư luận xã hội
càng đặc biệt quan trọng khi hoạt động của phe đối lập yếu và hệ thống kiểm
tra, giám sát của nhà nước chưa hoàn thiện. Đồng thời, so với các thiết chế tư

pháp (viện công tố, toà án…) thì phạm vi phê phán, phản biện của dư luận xã
hội rộng hơn nhiều, bao gồm cả các cơ quan, tổ chức nhà nước (cả tổng thống,
chính phủ, hoàng gia), các chính sách của nhà nước và với ngay cả dư luận xã
hội (dường như không hạn chế đối tượng).
“Nhân dân sống trong một xã hội cởi mở không đòi hỏi các thiết chế của
họ hoàn toàn không thể mắc sai lầm, song thật khó nếu họ chấp nhận một điều
mà họ không được phép kiểm soát”. Vì vậy, quyền được biết của công chúng
10


trở thành hạt nhân của triết lý báo chí tự do và nó định hướng con đường đi cho
báo chí trong quan hệ với hệ thống chính trị. Được bảo vệ bởi sự can thiệp của

chính phủ bằng một điều luật đã tồn tại 200 năm trong Hiến pháp Hoa Kỳ, báo
chí đã tự mình trở thành “người giám sát chính phủ”, người ghi lại các sự kiện
công cộng và là người phân xử không chính thức các hành động của công
chúng. Người ta cho rằng, đây cũng chính là yếu tố đã truyền cảm hứng cho
Thomas Jefferson (một trong những người sáng lập ra nền dân chủ Mỹ) kiên
quyết ủng hộ việc giám sát chặt chẽ của báo chí, bởi ông thấy rằng, nếu không
có tinh thần trách nhiệm và tự do tuyên truyền tư tưởng thì sức phát triển và
sáng tạo của quốc gia sẽ bị kìm hãm và người dân sẽ không được hưởng tự do.
Vì vậy, T. Jefferson đã mạnh mẽ tuyên bố rằng: Nếu phải chọn giữa một bên là
một chính phủ không có báo chí và một bên là báo chí không có chính phủ, ông
sẽ “không do dự một giây nào để chọn điều thứ hai”.
Ở Việt Nam, báo chí có vai trò vô cùng quan trọng. Chẳng thế mà, bên

cạnh bộ ba quyền lực được công nhận chính thức (lập pháp, hành pháp và tư
pháp), xã hội còn thừa nhận thêm (không chính thức) một thứ quyền lực nữa và
thường được gọi là quyền lực thứ tư - quyền lực của báo chí.
Với trọng trách xã hội là thông tin sự kiện, phát hiện vấn đề, phản biện xã
hội, tạo dư luận xã hội, báo chí luôn có những tác động mạnh mẽ tới đời sống.
Báo chí có thể làm đổi thay nhiều việc, thậm chí góp phần làm xã hội biến
chuyển theo chiều hướng tích cực hơn… Ví dụ điển hình là việc báo chí phát
hiện và đưa tin về những vấn đề chống tham nhũng, những vấn đề sử dụng tài
sản công như ông Trần Văn Truyền - nguyên Tổng thanh tra chính phủ, ông
Hoàng Văn Nghiên - nguyên Chủ tịch UBND TP Hà Nội.
Gần đây, có nhiều tờ báo đang chạy theo đáp ứng nhu cầu thị hiếu không
lành mạnh của một bộ phận bạn đọc. Lăng kính xã hội trở nên méo mó, sai lệch,

hoài nghi khi các vụ “cướp, giết, hiếp” được phản ánh tràn lan trong khi những
nhân tố mới, những điển hình tiên tiến, những tấm gương người tốt, việc tốt,
11


các sự kiện văn hóa chính trị, lịch sử… lại chưa được quảng bá, tuyên truyền
một cách sâu sắc và thuyết phục. Nhiều vụ việc tiêu cực xã hội được thổi phồng
quá mức vô tình đã tác động xấu đến suy nghĩ, hành động của người dân.
Có nhiều quyền lực mà lại thiếu những chế tài cụ thể, cho nên không ít tờ
báo đã có những biểu hiện nghiêm trọng về việc lạm quyền là viết sai sự thật,
xâm phạm đời tư... Không ít doanh nghiệp đã từng lao đao, thậm chí khuynh gia
bại sản vì một vài bài báo đăng không đúng về đơn vị mình. Rồi không ít bài

báo được viết bịa đặt, xuyên tạc sự thật đã gây hại cho cả một vùng quê, một
ngành nghề. VD: Vụ việc phóng viên VTV tự ý mang mẫu thẩm định sữa dê
không tuân thủ quy trình của Bộ Y Tế, sau đó đưa tin về chất lượng sản phẩm
khi chưa đủ bằng chứng đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp Mạnh Cầm (Phân phối sữa dê Danlait của Pháp).
Hiện nay, tại nhiều vụ án, phiên toà, không biết vô tình hay cố ý, một số
tờ báo đã vào cuộc giống hệt như bên buộc tội trong quá trình tranh tụng. Sự kết
hợp quyền lực thông tin với quyền lực tư pháp này có vẻ đáng lo, hơn là đáng
mừng bởi khi báo chí vào cuộc với tư cách là một “võ sĩ đeo găng” thì sợ rằng
kẻ dính đòn đầu tiên chính là công lý. Nạn nhân của sự lạm quyền về tư pháp có
thể là một nhóm người nào đó, nhưng nạn nhân của sự lạm quyền về thông tin
sẽ là tất cả chúng ta.

2.

Dư luận xã hội – Quyền lực thứ tư
C. Mác đã khẳng định: Sản phẩm của Truyền thông đại chúng (TTĐC)

chính là dư luận xã hội. Với khả năng cung cấp, điều khiển quá trình thông tin,
TTĐC có vai trò, sức mạnh đặc biệt trong việc phản ánh, khơi nguồn, điều hoà
tâm trạng và chỉ đạo dư luận xã hội; qua đó tác động mạnh đến việc hình thành
chủ trương, chính sách, những đối sách của các thế lực cầm quyền. “TTĐC có
khả năng tác động thường xuyên có hệ thống và tính đến những thay đổi trong
cuộc sống… Chính báo chí có khả năng bắt kịp được tình hình thay đổi trong


12


từng ngày và chính vì vậy, trong trường hợp cần thiết có khả năng thay đổi định
hướng công chúng”.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, truyền thông đại chúng (TTĐC) đang phát
triển vô cùng mạnh mẽ. Một số tập đoàn truyền thông khổng lồ đang nắm giữ vị
trí độc quyền, chiếm lĩnh không gian thông tin toàn cầu, thao túng dư luận và
tác động mạnh mẽ đến ý thức xã hội toàn cầu. Thông tin là một nhu cầu thiết
yếu, vì vậy, TTĐC ngày càng thâm nhập sâu vào các lĩnh vực, trước hết là trong
lĩnh vực chính trị (do đặc thù của hoạt động chính trị mang tính tổ chức cao nên
nhu cầu về thông tin càng lớn.

Ở nhiều nước trên thế giới, thể chế chính trị được xây dựng trên cơ sở
học thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu. Quyền lực nhà nước được
phân bổ cho hệ thống các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp theo nguyên tắc
độc lập – ngang bằng – chế ước lẫn nhau, nhằm mục đích phòng ngừa lạm dụng
quyền lực. Theo Montesquieu, thực hiện những nguyên tắc này là cơ sở để đảm
bảo tự do chính trị. Ngày nay, sự vượt trội về kinh tế, tiềm lực quân sự – được
trợ lực bởi một hệ thống truyền thông bùng nổ dựa trên nền tảng công nghệ cao
– đã góp phần củng cố uy thế của một số quốc gia phương Tây, đứng đầu là Mỹ.
Bên trong các quốc gia này, cuộc đấu tranh giữa các thế lực chính trị, các đảng
phái cũng diễn ra quyết liệt. Chân dung một nền chính trị, từ thể chế, con người
đến những xung đột lợi ích… cũng được thể hiện rõ rệt qua hệ thống dư luận xã
hội. Dư luận xã hội đã thực sự trở thành một thứ quyền lực xã hội. Lý luận và

thực tiễn đều cho thấy, dư luận xã hội có mối quan hệ khăng khít với chính trị
và các nhánh quyền lực khác.
Trong ý tưởng đề cao vai trò của nó, từ những năm 1798, người ta còn
gọi báo chí là quyền lực thứ tư (Fourth Power). Đó là khái niệm có ý nghĩa biểu
trưng cho sức mạnh chi phối, tác động của báo chí đối với đời sống xã hội. Đây
là những cách nói đề cao vai trò của dư luận xã hội, coi dư luận xã hội là những
sản phẩm do các thế lực chính trị nuôi dưỡng và sử dụng, mọi hoạt động của nó
13


không nằm ngoài mục đích phục vụ chế độ chính trị đó. Cũng cần nói thêm
rằng, do đặc điểm của chế độ chính trị và phương thức tổ chức quyền lực nhà

nước, nên “quyền lực thứ tư” mới được công nhận và đóng vai trò thực sự quan
trọng, rõ nét ở mỗi thể chế chính trị. Có thể nhận diện mối quan hệ của "quyền
lực thứ tư" với dư luận xã hội - báo chí bằng những đặc điểm cơ bản sau đây:
* Với tư cách là “quyền lực thứ tư”, dư luận xã hội phương Tây được
hình thành từ sớm và phát triển mạnh mẽ trong ba thế kỷ gần đây, có thể được
xem như một thiết chế chính trị bên ngoài, có vị trí độc lập tương đối với nhà
nước (do tính chất tư nhân và hoạt động tìm kiếm lợi nhuận). Do không có được
nền tảng nhà nước, nên “quyền lực thứ tư” không có sức mạnh cưỡng chế
(không có tính bắt buộc) như các nhánh quyền lực khác. Thực chất của “quyền
lực thứ tư” chỉ là sự quy ước với tư cách là một thiết chế dân chủ trực tiếp
(quyền lực trực tiếp) mang tính thuyết phục, tư vấn, gợi mở.
* Trong tư duy chính trị học về quyền lực và cấu trúc của nó, “quyền lực

thứ tư” là quyền lực không chính thống, quyền lực phi thiết chế. Tuy nhiên,
thực tiễn chính trị khẳng định, dư luận xã hội có thể đạt tới đỉnh cao và trở
thành quyền lực thứ tư khi nó tác động mạnh mẽ, tích cực tới các nhánh quyền
lực trong xã hội, thúc đẩy quá trình hoạch định và thực thi chính sách nhà nước
có hiệu quả. Sự tác động của dư luận xã hội trong đời sống chính trị được thể
hiện rất đa dạng và phong phú, ở cả sức ảnh hưởng tới các quan điểm chính trị
với vị trí là phương tiện được tổ chức và chỉ đạo bởi một hệ thống chính trị nhất
định. Phạm vi tác động của dư luận xã hội cũng không chỉ giới hạn ở bên ngoài
đối với thể chế chính trị mà còn gắn bó mật thiết với các yếu tố cấu thành của
nó. Điều đó cho thấy, sự xuất hiện của “quyền lực thứ tư” và tác động của nó
đến quá trình thực thi quyền lực chính thức đã làm đảo lộn quan niệm về quyền
lực của Montesquieu.

* Về bản chất, xuất phát từ mục đích của cuộc đấu tranh nên thực chất
quyền lực của dư luận xã hội chính là quyền lực của công luận (quyền tự do
14


ngôn luận), là “uy tín tri thức” (sức mạnh của lời nói, của sự ảnh hưởng); quyền
được nói lên những vấn đề bức xúc, gai góc trong cuộc sống hay những nhu
cầu, nguyện vọng của các tầng lớp xã hội để đem lại công bằng, dân chủ cho
họ. Nhìn chung, những thẩm quyền của dư luận xã hội nằm trong lĩnh vực tư
tưởng, tinh thần. Song, với những đặc tính như: khả năng xâm nhập vào mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội và tạo áp lực mạnh mẽ, nên thẩm quyền của dư
luận xã hội có lúc còn vượt trội hơn so với sức mạnh của quyền lực chính trị,

quyền lực kinh tế. Đồng thời, “quyền lực của báo chí không chỉ nằm trong
quyền công bố sự thật… mà còn nằm trong quyền cung cấp những hình thức
xuất hiện công bố”.
* Kiềm chế và đối trọng là nguyên tắc nền tảng, phổ quát chi phối sự vận
hành mọi thể chế chính trị phương Tây và dư luận xã hội cũng không nằm ngoài
sự tác động của quy luật đó. Mặc dù không có sự quản lý chính thức nào đối với
dư luận xã hội; song, trên thực tế vẫn có cơ chế “kiềm chế và đối trọng” chống
lại sự thái quá của giới truyền thông ở cả trong và ngoài ngành. Cụ thể: kiềm
chế từ bên ngoài gồm các đạo luật về chống bôi nhọ danh tiếng và sự giám sát
của các tổ chức do báo giới thành lập. Kiềm chế từ bên trong được thực hiện
bởi các “thanh tra viên” được các tờ báo chỉ định để điều tra dư luận xã hội về
các hoạt động và uy tín của tổ chức truyền thông.

Ở đâu có quyền lực thì ở đó có sự quản lý. Những nhận định, đánh giá
chính là quyền lực vạn năng của báo chí. Là thiết chế đối trọng với ba nhánh
quyền lực truyền thống, dư luận xã hội có vai trò kiểm tra, giám sát các hoạt
động của các cơ quan công quyền. Xã hội phát triển, cùng với quá trình dân chủ
hóa đã tạo thuận lợi cho dư luận xã hội khẳng định vai trò và khả năng tác động
trực tiếp đến ý thức của công chúng trong việc phản ánh những thiếu sót, sai
lầm hay biểu dương những nhân tố tích cực của cơ quan, tổ chức nhà nước.
“Quyền năng vô hạn của hệ thống dư luận xã hội là cơ chế kết nối người dân
với các nhà hoạch định chính sách”. Sức lan toả mạnh mẽ của thông tin là một
15



sức mạnh vô hình đặt giới hạn đối với những gì chính phủ có thể làm. Vì vậy,
“việc đưa tin của phương tiện dư luận xã hội vừa tạo ra yêu cầu, vừa là sản
phẩm của việc chính phủ hành động”. Thực tế cho thấy những hoạt động điều
tra nghiêm túc của dư luận xã hội làm cho những thông tin cần thiết, có ý nghĩa
quốc gia hoặc có tầm quan trọng đặc biệt đối với người dân bị giấu giếm, che
đậy trở nên công khai, minh bạch; giúp cho các cơ quan chính phủ và các tổ
chức được điều tra thực hiện đúng những mục tiêu và cam kết đã đề ra và phải
chịu trách nhiệm về những hành động của mình.

16



KẾT LUẬN
Trong giới hạn nghiên cứu của tiểu luận, bài viết đã nêu lên được lý luận
về báo chí, dư luận xã hội và quyền lực thứ tư. Nghiên cứu bước đầu góp phần
khơi gợi vấn đề và đã có những phân tích về mối quan hệ hữu cơ báo chí, dư
luận xã hội và quyền lực thứ tư. Kết quả của nghiên cứu hi vọng sẽ đóng góp
được phần nào lý luận chung về vấn đề đang gây nhiều luồng tư tưởng trong xã
hội hiện nay. Trong bối cảnh năng động của sự phát triển, báo chí được trao
nhiều trọng trách mới, bên cạnh đó, do trình độ nhận thức còn nhiều thiếu sót
nên có thể bài viết còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Trên đây là những tìm hiểu của cá nhân về vấn đề báo chí, dư luận xã hội
và quyền lực thứ tư. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy để đề tài
được hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cơ sở lý luận báo chí – PGS. TS Nguyễn Văn Dững – Học viện Báo
chí và Tuyên truyền
2. />3. Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội – PGS.TS Mai Quỳnh Nam
– Học viện khoa học xã hội.
4. Chức năng phản biện xã hội của báo chí ở Việt Nam hiện nay – Luận
án tiến sĩ Nguyễn Văn Minh – Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
5. Vai trò báo chí trong định hướng dư luận xã hội – Luận án tiến sĩ Đỗ
Chí Nghĩa – Học viện báo chí và tuyên truyền.

17



MỤC LỤC
Trang
MỞ BÀI............................................................................................................................. 2
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ BÁO CHÍ, DƯ LUẬN XÃ HỘI VÀ
QUYỀN LỰC THỨ TƯ...................................................................................................3
1. Khái niệm ...................................................................................................................... 3
2. Nhận định quyền lực thứ tư............................................................................................4
2.1 Quyền lực thứ tư...........................................................................................................4
2.2 Đặc điểm của quyền lực thứ tư.....................................................................................5
3. Bản chất của quyền lực thứ tư........................................................................................7

CHƯƠNG II : NHẬN ĐỊNH MỐI QUAN HỆ BÁO CHÍ, DƯ LUẬN XÃ HỘI
VÀ QUYỀN LỰC THỨ TƯ..........................................................................................10
1. Báo chí – Quyền lực thứ tư ..........................................................................................10
2. Dư luận xã hội – Quyền lực thứ tư................................................................................12
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................17

18




×