Tải bản đầy đủ (.doc) (287 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ học THUYẾT HÌNH THÁI KINH tế xã hội với vấn đề ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (912.97 KB, 287 trang )

NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
NXHC

Chủ nghĩa xã hội

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

CNH, HĐH

công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CSHT

Cơ sở hạ tầng

ĐHXHCN

Định hướng xã hội chủ nghĩa

HTKT-XH

hình thái kinh tế - xã hội

KTTT

Kiến trúc thượng tầng

LLSX


Lực lượng sản xuất

PTSX

Phương thức sản xuất

QHSX

Quan hệ sản xuất

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đường lối đổi mới toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang đi vào cuộc
sống. Trong đường lối đó, vấn đề phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, ĐHXHCN là vấn đề được đặc biệt


quan tâm xây dựng và hoàn thiện. Chủ trương trên, được triển khai trong thực tiễn, đã thu
được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, đây là một hướng đi rất mới của con đường
CNXH. Con đường đó chưa có tiền lệ trong lịch sử. Do tính mới mẻ mà có những người
hoài nghi vào sự thắng lợi của con đường đó, thậm chí còn cho rằng con đường đó là
không thể thực hiện được, rằng thực hiện CNXH trong kinh tế thị trường là "con đường

hầm" không có lối ra v.v... Do tính mới mẻ của nó, hướng đi này sẽ có những khó khăn,
thách thức và cũng chứa đựng những nguy cơ, trong đó nguy cơ chệch hướng XHCN nổi
lên hàng đầu. Rõ ràng vấn đề ĐHXHCN cần được xem xét và khẳng định rõ hơn trong
điều kiện mới. Vì vậy, ĐHXHCN trở thành vấn đề vừa có tính lý luận, vừa có tính thực
tiễn cấp bách cần được nghiên cứu, làm sáng tỏ.
ĐHXHCN ở Việt Nam được khẳng định dựa trên những cơ sở khoa học trong đó cơ sở
lý luận có tầm quan trọng đặc biệt là học thuyết Mác-Lênin về HTKT-XH. Tuy vậy từ
sau khi CNXH hiện thực ở một số nước tan rã, sụp đổ thì học thuyết Mác-Lênin nói
chung, HTKT-XH nói riêng đang bị xuyên tạc và công kích từ nhiều phía. Kẻ thù của
CNXH đang lớn tiếng cho rằng lý luận HTKT-XH đã lạc hậu lỗi thời, cần được thay thế.
Các phần tử cơ hội dưới mọi màu sắc, tìm mọi cách phủ nhận học thuyết. Có những
người trong cán bộ, Đảng viên cũng tỏ ra nghi ngờ, kém tin tưởng ở sức sống của học
thuyết, do dự trong việc vận dụng học thuyết vào thực tiễn... Vì vậy việc khẳng định
những giá trị khoa học đích thực của học thuyết, từ đó mà có phương hướng vận dụng
đúng đắn sáng tạo vào trong thực tiễn xây dựng CNXH là vấn đề đang được đặt ra.
Trong thực xây dựng CNXH ở Việt Nam những năm trước đây, việc vận dụng học
thuyết HTKT-XH cũng còn những sai lầm, hạn chế. Những sai lầm, hạn chế đó là do
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về nhận thức. Do trình độ nhận thức về học


thuyết còn hạn chế, thậm chí còn lệch lạc ở một số vấn đề cụ thể, mặt khác do sự vận
dụng còn mang tính giáo điều, thiếu sáng tạo, chưa phản ánh đầy đủ hoàn cảnh lịch sử cụ
thể của đất nước mà đã dẫn đến những sai lầm trong thực tiễn xây dựng CNXH, ảnh
hưởng tiêu cực tới tiến trình phát triển của đất nước. Muốn đưa đất nước tiến lên CNXH
phải đổi mới nhận thức, phải vận dụng sáng tạo học thuyết vào điều kiện cụ thể của Việt
Nam và đặc điểm mới của thời đại.
Xuất phát từ nhận thức trên, chúng tôi chọn đề tài "Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
với vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" làm đề tài luận án của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- Vấn đề nghiên cứu và vận dụng lý luận HTKT-XH vào công cuộc xây dựng CNXH từ

lâu đã được nhiều nhà khoa học và chính trị ở Liên Xô (cũ) và các nước XHCN khác
quan tâm nghiên cứu. Đặc biệt từ sau khi CNXH hiện thực ở Đông Âu khủng hoảng sụp
đổ thì vấn đề trên được nhiều nhà nghiên cứu ở Trung Quốc đề cập tới. Chẳng hạn tác giả
Du Thúy "Mùa đông và mùa xuân Matxcơva - Sự chấm dứt một thời đại" (Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội 1995) đã đề cập đến một số nguyên nhân sụp đổ của CNXH hiện thực ở
Liên Xô. Một tập thể tác giả do Mã Hồng Chủ biên "Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa"
(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995) đã đưa ra một số quan điểm về xây dựng CNXH
trong điều kiện kinh tế thị trường. Ngoài ra còn có một số bài nghiên cứu của các tác giả
nước ngoài đăng trên các tạp chí...
Vấn đề trên được đặc biệt chú ý ở Việt Nam. Trước đây các công trình nghiên cứu ở
nước ta tập trung giải quyết vấn đề quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Tuy vậy thời
gian đó, hệ thống CNXH vẫn chưa có khủng hoảng trầm trọng, chưa tan rã, nhận thức về
CNXH vẫn chưa có những biến đổi bước ngoặt, cho nên vấn đề trên được đặt ra và giải


quyết có những điểm khác so với hiện nay. Không thể nói những công trình nghiên cứu
trước đây không còn giá trị đối với ngày nay, song, đúng là thực tiễn đang đặt những vấn
đề mới, cần được bổ sung làm sáng tỏ.
Gần đây, ở trong nước đã xuất hiện các công trình:
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX10 "Dự thảo một số vấn đề về chủ nghĩa MácLênin trong thời đại hiện nay" (Hà Nội 1994) có một phần quan trọng đề cập đến giá trị
của học thuyết HTKT-XH với tính cách là cơ sở khoa học của con đường tiến lên CNXH
ở Việt Nam,
- Đề tài KX 05 -04 "Đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn
quá độ lên chủ nghĩa xã hội" (1992-1994) của Khoa Triết học Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh do giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Ngọc Long làm chủ nhiệm - đã nêu những
quan điểm có tính phương pháp luận trong xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta trong
giai độ quá độ lên CNXH.
Vấn đề nêu trên đã được đề cập tới một số khía cạnh trong các sách và bài viết của tác
giả.
- Đào Duy Tùng: "Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam"

(Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1994) đã khái quát các giai đoạn tiến hành cách mạng
XHCN ở nước ta.
- Giáo sư Trần Xuân Trường: "Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam một số vấn đề
lý luận cấp bách" (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1996) có đề cập đến một vấn đề của lý
luận hình thành và sự vận dụng nó trong tình hình mới.


- Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Đức Bách, tiến sĩ Lê Văn Yên, Nhị Lê: "Một số vấn đề về
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam" (Nxb Lao động, Hà Nội 1998) đã xem xét
những đặc thù của con đường XHCN ở Việt Nam và một số nội dung của con đường đó.
- Giáo sư, tiến sĩ khoa học Nguyễn Duy Quý (chủ biên) "Những vấn đề về chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam" (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998) đã nêu trên cơ sở khái quát quan
điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen. V.I Lênin và Hồ Chí Minh về CNXH làm sáng tỏ quan
điểm đổi mới sự nghiệp xậy dựng CNXH ở Việt Nam của Đảng ta.
- Giáo sư Hồ Văn Thông: "Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác-Lênin
trong thời đại ngày nay" (Tạp chí Cộng sản số 4-1994) đã nêu lên sực ần thiết phải bổ
sung, phát triển nhận thức về một số vấn đề của lý luận đó.
- Phó giáo sư, tiến sĩ Tô Huy Rứa "Con đường và điều kiện đảm bảo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta" (Tạp chí Cộng sản số 6-1996) đã nêu lên một số điều kiện nhằm
đảm bảo ĐHXHCN.
- Giáo sư Nguyễn Ngọc Long "Triết học Mác-Lênin với việc nhận thức xã hội chủ
nghĩa trong thế giới ngày nay" (Tạp chí Cộng sản số23-1998) đã đưa ra quan điểm khẳng
định giá trị của chủ nghĩa Mác nói chung, lý luận hình thái nói riêng và vận dụng nó vào
nhận thức xu thế xã hội hiện nay.
Giáo sư, tiến sĩ Lê Hữu nghĩa "Về nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" (Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 11999) đã đưa ra những quan điểm trong nhận thức về định hướng và giữ vững ĐHXHCN
của Đảng ta.


- Giáo sư, tiến sĩ Phạm Ngọc Quang "Định hướng và giữ vững định hướng xã hội chủ

nghĩa - một số vấn đề lý luận (Tạp chí Sinh hoạt lý luận số 1-1999) đã đưa ra quan điểm
trong nhận thức về định hướng và giữ vững ĐHXHCN ở nước ta.
- Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Tĩnh Gia: "Cách tiếp cận lịch sử bằng các nền văn minh"
(Tạp chí Cộng sản số 1-2000) đã trên cơ sở chỉ rõ các hạn chế của cách tiếp cận bằng các
nền văn minh để khẳng định giá trị của học thuyết HTKT-XH.
- Phó giáo sư, tiến sĩ Vũ Văn Viên: "Sự chuyển đổi mô hình kinh tế ở nước ta hiện nay
và quan niệm của Mác về con đường CNXH".
- Tiến sĩ Nguyễn Thế Nghĩa: "Học thuyết Mác về Hình thái kinh tế - xã hội - cơ sở lý
luận của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa".
v.v..
Ngoài các sách và bài viết, trong thời gian gần đây cũng có một số luận án tiến sĩ tập
trung nghiên cứu các đề tài gần gũi với vấn đề như:
- Nguyễn Văn Oánh: "Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: nội dung cơ bản và
những điều kiện chủ yếu để thực hiện" (Luận án Phó tiến sĩ Triết học chuyên ngành
CNCSKH, mã số 5.01.03, Hà Nội 1994). Tác giả đã phân tích nội dung và các điều kiện
chủ yếu để thực hiện ĐHXHCN ở nước ta.
- Trương Hữu Hoàn: "Quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
và vấn đề nhận thức, vận dụng quy luật này ở một số nước xã hội chủ nghĩa" (Luận án
phó tiến sĩ triết học chuyên ngành CNDVBC và CNDVLS mã số 5.01.02, Hà Nội 1995).
Tác giả đã có khía cạnh đề cập đến sự vận dụng quy luật nói trên trong thời kỳ quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam.


- Đoàn Quang Thọ: "Lý luận hình thái kinh tế - xã hội với công cuộc đổi mới kinh tếxã hội ở Việt Nam" (Luận án phó tiến sĩ triết học chuyên ngành CNDVBC và CNDVLS
mã số 5.01.02, Hà Nội 1995). Tác giả đã trên cơ sở khẳng định giá trị của học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội để luận giải tính tất yếu và một số nội dung công cuộc đổi mới ở Việt
Nam.
Nhìn chung các công trình trên, đặc biệt là các công trình trong nước đều tập trung vào
việc bảo vệ lý luận HTKT-XH và vận dụng nó vào việc xác định mục tiêu, thực hiện mục
tiêu XHCN ở Việt Nam trong điều kiện mới. Tuy nhiên thực tiễn luôn vận động,

ĐHXHCN ở nước ta đang đặt ra những vấn đề mới cần được tiếp tục lý giải và khẳng
định.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
3.1 Mục đích: Dưới góc độ lý luận HTKT-XH, luận án góp phần làm sáng tỏ thực chất
vấn đề ĐHXHCN và giữ vững định hướng đó trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều
thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường ở Việt Nam.
3.2 Nhiệm vụ:
1) Trên cơ sở khẳng định giá trị vền vững của lý luận HTKT-XH để luận giải tính đúng
đắn của sự lựa chọn mục tiêu tiến lên CNXH của Việt Nam.
2) Xem xét làm sáng tỏ thuật ngữ "định hướng xã hội chủ nghĩa" và chỉ ra một số vấn
đề từ thực tiễn vận dụng học thuyết HTKT-XH đặt ra đối với quá trình thực hiện
ĐHXHCN ở Việt Nam.


3) Nêu lên những nguyên tắc và giải pháp cơ bản quán triệt học thuyết HTKT-XH để
thực hiện ĐHXHCN trong điều kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị
trường ở Việt Nam
4. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Luận án không đi vào xem xét một cách toàn diện các vấn đề của học thuyết HTKTXH, cũng không xem xét toàn diện các mặt của công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta.
Luận án trên hướng tiếp cận của học thuyết HTKT-XH để đi vào luận giải một số khía
cạnh của vấn đề ĐHXHCN và giữ vững ĐHXHCN hiện nay ở Việt Nam.
- Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
HTKT-XH, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng CNXH để
giải quyết những vấn đề trong đề tài.
- Cơ sở thực tiễn: Dự vào thực tiễn xây dựng CNXH đã và đang diễn ra ở Việt Nam,
tham khảo bài học kinh nghiệm để đảm bảo mục tiêu CNXH ở một số nước khác trước
đây và hiện nay để luận chứng những vấn đề trong đề tài. Đồng thời đó cũng là những cơ
sở thực tiễn quan trọng để luận án đưa ra những giải pháp nhằm giữ vững ĐHXHCN
trong điều kiện mới hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận án

Luận án vận dụng tổng hợp các nguyên tắc phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử để luận giải các nội dung đặt ra, trong đó chú trọng sử dụng phương pháp lôgíc lịch sử, phân tích - tổng hợp, phương pháp khảo sát thực tế vv...
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án


- Luận án góp phần làm rõ hơn vấn đề ĐHXHCN và tính đúng đắn của sự lựa chọn
ĐHXHCN ở nước ta hiện nay.
- Luận án góp phần vào việc tìm ra các nguyên tắc và giải pháp lớn nhằm giữ vững
mục tiêu XHCN trong điều kiện mới của Việt Nam.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Với những đóng góp trên, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc giảng
dạy, nghiên cứu về học thuyết HTKT-XH và sự vận dụng học thuyết đó trong xây dựng
CNXH ở các trường Đại học, trường Chính trị và những người quan tâm.
8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án gồm 3 chương 6 tiết và phần danh mục tài liệu
tham khảo
Chương I
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI - CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA SỰ
LỰA CHỌN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1.1 HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG NHẬN THỨC
XÃ HỘI VÀ XU THẾ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI CỦA THỜI ĐẠI
1.1.1. Giá trị và ý nghĩa thời đại của hình thái kinh tế - xã hội
Trong hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, học thuyết HTKT-XH giữ một vị trí
đặc biệt quan trọng. Học thuyết không những là cốt lõi, nền tảng cho một thế giới quan
mới - chủ nghĩa duy vật lịch sử, mà còn là cơ sở khoa học vững chắc cho toàn bộ các
khoa học về xã hội nói chung.


Học thuyết HTKT-XH là một hệ thống các quan điểm lý luận có liên hệ chặt chẽ hữu
cơ với nhau của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhằm vạch ra cơ cấu và các quy luật phát triển cơ

bản và phổ biến của xã hội loài người. Sự xuất hiện học thuyết không phải là ngẫu nhiên
hay là sản phẩm thuần túy chủ quan của C.Mác, như một số người nào đó nhận định, mà
là kết quả hợp quy luật của một quá trình nhận thức dựa trên sự khái quát thực tiễn hoạt
động cách mạng, sự kế thừa mang tính phê phán các nguồn tri thức nhân loại và một khả
năng tư duy thiên tài của C.Mác và Ph.Ăngghen.
Xuất phát từ quan điểm có ý nghĩa phương pháp luận cho rằng xã hội không phải là tổ
hợp ngẫu nhiên của các mặt, các yếu tố riêng biệt, không phải là tổng số máy móc của
các nhân riêng rẽ mà là một chỉnh thể của các quan hệ xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
khám phá ra các quy luật của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, từ quan điểm xuất phát đến
chỗ vạch ra được các quy luật phát triển xã hội không đơn giản. Nói một cách khác là để
làm được điều đó phải chọn lựa được con đường nghiên cứu đúng đắn, khác về chất với
tất cả các quan điểm trước đó. Trước C.Mác và Ph.Ăngghen, Hê ghen cũng có quan
điểm xuất phát tương tự nhưng ông lại luận giải sự thống nhất, tính chỉnh thể của xã hội
dựa trên một bản nguyên tinh thần. Do vậy, tuy có những đóng góp vào việc mở ra con
đường nghiên cứu lịch sử nhưng Hêghen không thể đi đến những quy luật lịch sử đích
thực. C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi theo con đường khác hẳn, đó là con đường dựa trên
một nền tảng thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện chứng trong nghiên cứu xã
hội.
Xuất phát từ tiền đề đầu tiên của lịch sử là những con người cụ thể, "đó là những cá
nhân hiện thực, là hoạt động của họ, và những điều kiện sinh hoạt vật chất của họ, những
điều kiện mà họ thấy có sẵn cũng như những điều kiện do hoạt động của chính họ tạo ra"


[39, tr. 28-29], C.Mác đã khám phá ra một chân lý hiển nhiên là con người có nhiều hoạt
động nhưng hoạt động đầu tiên phải là hoạt động để duy trì sự sống của con người. Nghĩa
là con người trước hết phải lao động sản xuất để tạo ra thức ăn, nhà ở, nước uống, quần
áo v.v... trước khi có những hoạt động khác. Do đó có thể khẳng định: hành động lịch sử
đầu tiên của con người là hành động sản xuất của cải vật chất. Chính trong quá trình sản
xuất vật chất buộc những con người, dù có nguyện vọng khác nhau, phải tham gia vào
các mối quan hệ với nhau mà trước hết là quan hệ với nhau trong sản xuất vật chất. Và

đến lượt nó, sự vận động của nền sản xuất vật chất lại quy định diện mạo và sự vận động
của các quan hệ xã hội. Với quan điểm đó, học thuyết HTKT-XH đã đi đến kết luận sản
xuất vật chất là nền tảng của đời sống xã hội, là cơ sở của tính thống nhất, tính chỉnh thể
của xã hội. Nghiên cứu lịch sử trước hết phải xuất phát từ cơ sở thực tại đó.
Cơ sở thực tại đó là do con người tham gia vào và tạo ra. Tuy nhiên, con người tham
gia vào quá trình sản xuất vật chất và đồng thời là vào các quan hệ xã hội, không phải với
tư cách là những cá nhân trừu tượng mà với tư cách là những cá nhân hiện thực đã đạt
đến một trình độ nhất định của LLSX. Các mối quan hệ xã hội, trước hết là QHSX, cũng
do con người tạo ra, nhưng không phải tạo ra một cách tùy tiện mà là trên một trình độ
nhất định của LLSX. Đến lượt mình, các quan hệ xã hội lại quy định nhu cầu của con
người và sự vận động của nền sản xuất. Với lập luận đó, lý luận HTKT-XH đã chỉ rõ
nhân tố cốt lõi, quyết định trong nền sản xuất vật chất của xã hội là PTSX với hai mặt gắn
bó hữu cơ là LLSX và QHSX luôn luôn tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau.
Trong đó LLSX bao giờ cũng giữ vai trò quyết định sự hình thành, phát triển của QHSX
và QHSX có sự tác động trở lại LLSX. Do sự vận động của LLSX, một khi đạt đến trình
độ mới, nó sẽ mâu thuẫn với những QHSX hiện đang tồn tại và, dù sớm hay muộn, mâu


thuẫn đó sẽ được giải quyết bằng cách thay thế QHSX cũ bằng một QHSX mới cao hơn
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Khi đó cũng có nghĩa là PTSX cũ đã bị thay
thế bởi một PTSX cao hơn. Cứ như vậy, PTSX mới tới một chừng mực nào đó, lại bị thay
thế bới một PTSX cao hơn nữa... đó chính là quy luật phát triển phổ biến của lịch sử xã
hội. C.Mác khẳng định:
Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có được
những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình và do
thay đổi phương thức sản xuất của mình, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi
tất cả những quan hệ xã hội của mình [40, tr.187].
Không dừng lại ở đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm sâu sắc hơn về quy luật bằng các
tiếp tục xem xét sự tác động của nó trong các xã hội có giai cấp đối kháng. Các ông đã
chỉ rõ rằng trong các xã hội có đối kháng giai cấp thì việc giải quyết mâu thuẫn giữa

LLSX với QHSX vẫn là nguyên nhân sâu xa quyết định sự thay thế PTSX và sự phát
triển xã hội. Tuy nhiên, trong các xã hội đó, việc giải quyết mâu thuẫn giữa LLSX và
QHSX bao giờ cũng được giải quyết thông qua mâu thuẫn giai cấp, qua đấu tranh giai
cấp mà đỉnh cao là các cuộc cách mạng xã hội. Các ông viết:
Như chúng ta đã thấy, mâu thuẫn ấy giữa lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp đã
xảy ra nhiều lần trong lịch sử từ trước đến nay, song vẫn không làm biến đổi cơ sở cơ bản
của nó, thì lần nào cũng đều phải nổ ra thành một cuộc cách mạng, đồng thời lại mang
những hình thức phụ khác như: sự tổng hợp của những xung đột, những sự va chạm giữa
các giai cấp khác nhau, sự mâu thuẫn về ý thức, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị
v.v... [39, tr.107].


Từ nghiên cứu về PTSX, C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp tục xem xét tới các mặt khác của
xã hội. Các ông chỉ rõ bất kỳ xã hội cụ thể nào cũng có những QHSX hợp thành cơ sở
kinh tế của xã hội đó và tương ứng với nó là một KTTT xã hội phù hợp. KTTT là một
khái niệm có nội dung rộng lớn bao quát các tư tưởng xã hội, các thể chế xã hội các mối
quan hệ qua lại giữa chúng. KTTT bao giờ cũng được hình thành trên một cơ sở hiện
thực, đó là CSHT của xã hội. Xem xét quan hệ giữa CSHT và KTTT, học thuyết HTKTXH đã chỉ ra rằng: "Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã
hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng nên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và
chính trị, và tương ứng với cơ sở thực tại đó thì có những hình thái ý thức xã hội nhất
định" [42, tr.15].
Như vậy theo quan niệm HTKT-XH thì giữa CSHT và KTTT có mối quan hệ biện
chứng với nhau, trong CSHT bao giờ cũng giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên cần phải nói
thêm rằng luận điểm về vai trò quyết định của cơ sở kinh tế, mà sau này C.Mác và
Ph.Ăngghen đã lưu ý, phải được hiểu là "xét cho đến cùng" chứ không phải là tuyệt đối
hóa vai trò của kinh tế mà không thấy vai trò to lớn của các nhân tố trong KTTT. Các
nhân tố trong KTTT có tính độc lập tương đối và luôn luôn có sự tác động trở lại tới sự
vận động của cơ sở kinh tế.
Việc xem xét xã hội như một chỉnh thể đã cho phép C.Mác và Ph.Ăngghen xây dựng
nên một học thuyết HTKT-XH hoàn chỉnh. Vấn đề HTKT-XH lần đầu tiên được các ông

đặt ra và xem xét trong "Hệ tư tưởng Đức". Các ông quan niệm HTKT-XH là xã hội "ở
vào một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, một xã hội có tính độc đáo riêng biệt" [41,
tr.553]. Và ở trong "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản" C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển
rõ hơn tư tưởng đó. Trong lời tựa viết cho bản tiếng Đức xuất bản năm 1883,


Ph.Ăngghen chỉ rõ: "tư tưởng cơ bản và chủ đạo của "Tuyên ngôn" là: Trong mọi thời đại
lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà
ra - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy"
[46, tr.11]. Chúng ta có thể diễn đạt quan điểm trên:
Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội
đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc
thượng tầng tương ứng được xây trên những quan hệ sản xuất ấy [27, tr. 59.].
HTKT-XH là khái niệm bao quát các xã hội cụ thể ở những mặt cơ bản nhất là LLSX,
QHSX và KTTT, ở những quy luật cơ bản nhất là quy luật về sự phù hợp của QHSX với
trình độ LLSX và quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT với KTTT.
Việc phát hiện các quy luật chi phối sự vận động của HTKT-XH đã bao hàm quan
điểm về "quá trình vận động lịch sử - tự nhiên" của nó. Mỗi một HTKT-XH đều là một
chỉnh thể toàn vẹn luôn luôn vận động và phát triển. Sự vận động phát triển của các
HTKT-XH, xét đến cùng là do sự phát triển lực lượng quy định và luôn luôn tuân theo
những quy luật khách quan. Do sự tác động của các quy luật khách quan, trong đó quyết
định nhất là quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX, mà
các HTKT-XH vận động như một quá trình lịch sử tự nhiên. Tức là xuất phát từ sự vận
động của LLSX, khi đạt tới một trình độ mới, sẽ làm thay thế QHSX hiện tồn tại đã trở
thành lạc hậu bằng một QHSX mới cao hơn và khi có QHSX mới, nó sẽ tác động làm cho
KTTT xã hội mới ra đời phù hợp. Khi đó cũng có nghĩa một HTKT-XH cao hơn đã bắt
đầu xuất hiện. Con đường phát triển đó vừa là kết quả hoạt động con người, vừa tuân theo
những quy luật khách quan. Chính con đường phát triển lịch sử - tự nhiên của HTKT-XH



đã tạo ra xu thế phát triển liên tục của xã hội từ hình thái thấp lên hình thái cao hơn theo
cả hai khuynh hướng, trình tự hoặc rút ngắn, tùy từng điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia.
Như vậy có thể thấy học thuyết HTKT-XH là một học thuyết hoàn chỉnh, đưa lại một
cách tiếp cận về xã hội hoàn toàn mới. Sự ra đời của học thuyết đã đưa lại một thế giới
quan và phương pháp luận mới, mang bản chất khoa học và cách mạng trong nhận thức
và cải tạo xã hội.
Với nội dung như vậy, học thuyết "hình thái' có một giá trị khoa học và cách mạng sâu
sắc. Giá trị khoa học và cách mạng của học thuyết gắn liền với nhau, không thể tách
bạch. Trong tính khoa học đã bao hàm tính cách mạng và ngược lại. Giá trị khoa học và
cách mạng của học thuyết bao hàm nhiều vấn đề, song có thể nhận thức giá trị của nó ở
những điểm chính.
Một là: Học thuyết đã đưa lại một cách tiếp cận khoa học và cách mạng trong nhận
thức về xã hội.
Trước khi học thuyết HTKT-XH xuất hiện, tất cả các quan điểm giải thích về lịch sử
đều lúng túng trước tính phức tạp của đời sống xã hội là vì vậy đã đi vào cắt nghĩa lịch sử
hoặc từ những nguyên nhân tinh thần ý thức, hoặc từ một vài yếu tố riêng lẻ nào đó. Do
đó tất cả các quan điểm nghiên cứu về xã hội trước đó, hoặc rơi vào lập trường duy tâm
chủ nghĩa, hoặc rơi vào quan điểm duy vật siêu hình, trong đó lập trường duy tâm chủ
nghĩa thống trị. Với sự xuất hiện của học thuyết "hình thái", lần đầu tiên đã đưa lại một
cách giải thích lịch sử duy vật khoa học, đã đẩy chủ nghĩa duy tâm ra khỏi "cái hầm trú
ẩn" cuối cùng của nó, đã đem lại một cuộc cách mạng trong nhận thức về lĩnh vực xã hội.
Học thuyết đã đưa ra một cách nhìn khoa học về nguyên nhân, động lực của sự phát triển
lịch sử, về sự phân loại các chế độ xã hội và sự phân kỳ lịch sử nói chung.


Phương pháp duy vật khoa học của học thuyết được biểu hiện ngay ở việc xác định căn
cứ xuất phát đầu tiên để nghiên cứu lịch sử. Nếu như các quan điểm trước đó xuất phát từ
những tiền đề tinh thần, từ những cá nhân trừu tượng phi hiện thức thì C.Mác và
Ph.Ăngghen đã khẳng định tư tưởng về xã hội của mình dựa trên một tiền đề vững chắc:

"Nó xuất phát từ những tiền đề hiện thực và không phút nào xa rời những tiền đề ấy" [39,
tr.38]. Đó là con người hiện thực, đang sống, đang hoạt động trong thực tiễn.
Xuất phát từ tiền đề hiện thực đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xem xét vai trò của nền sản
xuất xã hội, chỉ ra cơ cấu cơ bản và phổ biến của nó, chỉ ra những quan hệ tất yếu, những
quy luật chi phối sự vận động của nó. Ở đây các ông đã rút ra những kết luận khoa học về
vai trò của các yếu tố LLSX và QHSX, về quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình
độ của LLSX.
Từ quan niệm về vai trò nền tảng của nền sản xuất vật chất, C.Mác và Ph.Ăngghen tiếp
tục xem xét quan hệ của nó tới các mặt khác của xã hội, chỉ ra vai trò của các nhân tố
trong KTTT xã hội và quan hệ biện chứng giữa các nhân tố đó với cơ sở kinh tế.
Như vậy, nhất quán với cách tiếp cận duy biện biện chứng C.Mác và Ph.Ăngghen đã
phát hiện ra những mặt cơ bản của HTKT-XH và các quy luật cơ bản chi phối sự vận
động phát triển của nó. Những phát hiện đó cho phép C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng
nên một hệ thống quan điểm hoàn chỉnh, phản ánh quan hệ nội tại giữa LLSX, QHSX và
đời sống chính trị, tư tưởng, từ đó chỉ ra kết cấu và các quy luật chung của sự vận động
xã hội [74]. Hệ thống quan điểm hoàn chỉnh đó đã đem lại một quan niệm mới trong
nghiên cứu xã hội. Quan điểm đó xem xét xã hội như một chỉnh thể, một hệ thống toàn
vẹn của các lĩnh vực và các quan hệ xã hội. Trong các lĩnh vực và các quan hệ xã hội đó
thì lĩnh vực kinh tế và các quan hệ vật chất bao giờ cũng giữ vai trò quyết định các lĩnh


vực và các quan hệ xã hội khác. Trong lĩnh vực kinh tế và các quan hệ vật của xã hội thì
LLSX và QHSX là những nhân tố cốt lõi tạo thành nền tảng của xã hội. V.I.Lênin đã cho
rằng bằng cách "đem quy những quan hệ xã hội và những quan hệ sản xuất, vào trình độ
của những lực lượng sản xuất" [33, tr. 163], C.Mác đã tạo ra một cơ sở khoa học vững
chắc trong nghiên cứu về xã hội. Cách nhìn mới đó đòi hỏi xem xét xã hội phải đánh giá
đúng vị trí, vai trò của các nhân tố hợp thành nó nhưng lại không được tuyệt đối hóa một
nhân tố riêng lẻ nào. Việc tách LLSX, QHSX ra là để thấy cái chi phối nhưng phải hiểu
chúng trong sự tương tác biện chứng với các nhân tố, các mặt xã hội khác. Trong đời
sống xã hội, chỉ xét đến cùng nhân tố kinh tế mới có vai trò quyết định. Cách nhìn mới đó

đòi hỏi phải nhận thức được các quan hệ cơ bản của xã hội, đánh giá đúng đắn vai trò của
các chiều tác động trong từng quan hệ, không được tuyệt đối hóa một quan hệ nào đó,
hoặc tuyệt đối hóa một chiều riêng biệt của một quan hệ nào đó. Mọi sự tuyệt đối hóa
một nhân tố riêng lẻ, một mối quan hệ đến mức không thấy hết vai trò của các nhân tố,
quan hệ khác đều có thể dẫn đến những nhận thức sai lầm về xã hội.
Với những phát hiện này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát triển chủ nghĩa duy vật và
phép biện chứng, vốn là tinh hoa của tư tưởng nhân loại, lên một trình độ mới, khác về
chất trong nhận thức xã hội. Có thể nói rằng chính C.Mác và Ph.Ăngghen đã là người đầu
tiên đưa ra một phương pháp tiếp cận hoàn toàn mới, có tính cách mạng về xã hội, vượt
lên mọi tư tưởng đương thời. Phương pháp mới đó đòi hỏi phải nhận thức xã hội trên lập
trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng - Tức là xem xét xã hội phải xuất phát những cơ
sở vật chất hiện thực của nó. Trên cơ sở đó mà đánh giá đúng vị trí, vai trò của các nhân
tố, liên hệ đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Ngày nay có những quan điểm phản
đối C.Mác, phủ nhận lý luận HTKT-XH, nhưng thực ra vẫn không vượt ra ngoài khuôn


khổ tiếp cận mà C.Mác đã vạch ra. Chẳng hạn tác giả của phương pháp tiếp cận bằng các
nền văn minh phê phán học thuyết HTKT-XH là phương pháp tiếp cận hạn hẹp, phiến
diện vì nó " dựa trên định đề cơ bản coi sản xuất vật chất là nền tảng của đời sống xã
hội", nó không còn phù hợp với nhận thức thời đại hiện nay; rằng đó là thứ lý luận theo
chủ thuyết "trọng vật chất" "thô thiển", "ngạo mạn và tự đắc" [78, tr.121]; rằng lý luận
đó đã không nhìn thấy mối liên hệ nhiều vẻ, đặc biệt là "mối liên hệ ngược" của các nhân
tố xã hội v.v... [78, tr. 147]. Chúng ta thừa nhận, do sự vận động của thực tiễn, có một số
vấn đề cụ thể của học thuyết cần được phát triển, chẳng hạn về vị trí và vai trò của khoa
học - công nghệ đối với sự phát triển của sản xuất nói riêng, xã hội nói chung; chẳng hạn
hiểu về LLSX hiện nay cần thấy vị trí ngày càng chủ yếu của lao động trí tuệ là do vậy
phải nhấn mạnh chiều sâu trong sự phát triển của nó; chẳng hạn hiểu về chế độ sở hữu
cần thấy vị trí của sở hữu trí tuệ v.v... Tuy nhiên với tính cách là phương pháp tiếp cận,
học thuyết vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cách tiếp cận khoa học nhất trong thời đại hiện
nay. Thực ra chính những quan điểm phê phán học thuyết lại chỉ xuất phát từ một nhân tố

đơn lẻ mà bỏ qua những mặt cơ bản khác, chẳng hạn chỉ thấy vai trò của khoa học công
nghệ mà bỏ qua QHSX, quan hệ giai cấp. Quan điểm đó chỉ nhấn mạnh một chiểu quan
hệ mà bỏ qua sự tác động biện chứng của các nhân tố của xã hội, chẳng hạn tuyệt đối hóa
một chiều quan hệ từ khoa học công nghệ tới kinh tế, xã hội mà không thấy đầy đủ chiều
ngược lại. Thực chất, quan điểm đó vẫn ở trong quỹ đạo tiếp cận "hình thái" nhưng phiến
diện hơn, thiếu tính khoa học hơn.
Hai là: Học thuyết HTKT-XH đã chỉ rõ những động lực cơ bản của sự phát triển lịch
sử'.


Dựa trên cơ sở thực tiễn lịch sử, bằng sự phân tích khoa học, học thuyết "hình thái" đã
chỉ rõ những động lực cơ bản và phổ biến của sự phát triển lịch sử xã hội. Học thuyết đã
khẳng định rằng lịch sử xã hội là lịch sử vận động trải qua các giai đoạn từ thấp đến cao
và tương ứng với từng giai đoạn ấy là một HTKT-XH nhất định. Xu hướng vận động của
các HTKT-XH là xu hướng ngày càng văn minh, tiến bộ hơn. Nguồn gốc để tạo nên xu
hướng phát triển ấy là sự phát triển của các nhân tố cơ bản trong HTKT-XH và mối quan
hệ nội tại của chúng.
Học thuyết HTKT-XH, trước hết coi động lực chung nhất, phổ biến nhất của sự phát
triển xã hội là hoạt động thực tiễn của con người. C.Mác viết: "Chính con người, khi phát
triển sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình đã làm biến đổi, cùng với sự tồn
tại hiện thực của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình" [39, tr. 38]. Mác nhấn
mạnh rằng trong những nhân tố tham dự vào sự phát triển lịch sử, thì trước hết đó là con
người vì họ phải lao động để tạo ra các tư liệu sinh hoạt cho mình, phải tái tạo ra đời sống
của mình và thế hệ kế tiếp mình. Tư tưởng đó được C.Mác khẳng định rất rõ trong "Hệ tư
tưởng Đức":
Lịch sử chẳng qua chỉ là sự nối tiếp của các thế hệ riêng rẽ, trong đó mỗi thế hệ đều
khai thác những vật liệu, những tư bản, những lực lượng sản xuất do tất cả các thế hệ
trước để lại, do đó mỗi thế hệ, một mặt tiếp tục phương thức hoạt động được truyền lại,
nhưng trong những hoàn cảnh đã hoàn toàn thay đổi, và mặt khác lại biến đổi những hoàn
cảnh cũ bằng một hoạt động đã hoàn toàn thay đổi [39, tr. 65].

Rõ ràng nếu không có con người và hoạt động thực tiễn của con thì không có xã hội,
không có lịch sử. Con người là một nhân tố năng động, sáng tạo. Hoạt động thực tiễn của
con người là hoạt động có mục đích, có ý thức. Chính con người là nhân tố hàng đầu


trong LLSX, là chủ thể trong toàn bộ quá trình sản xuất và mọi hoạt động xã hội. Hoạt
động thực tiễn của con người trên tất cả các lĩnh vực, trải qua các thế hệ, các thời đại đã
tạo ra dòng chảy liên tục của lịch sử xã hội, tạo ra sự phát triển của lịch sử. Với những
khẳng định đó, học thuyết "Hình thái" đã chỉ rõ động lực vĩnh hằng của sự phát triển lịch
sử xã hội là hoạt động thực tiễn của con người. Điều đó cho thấy tính chất vô lý của các
luận điểm phê phán học thuyết cho rằng học thuyết chỉ thấy vai trò của yếu tố kinh tế mà
bỏ qua con người, không thấy vai trò của con người trong sự phát triển xã hội. Trái lại,
thông qua cách đánh giá đúng về hoạt động của nhân tố đó, học thuyết đã nhấn mạnh vai
trò to lớn của nhân tố con người, đề cao vị trí của con người đối với sự vận động của lịch
sử. Học thuyết đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao cả và một giá trị khoa học không thể
phủ nhận được.
Đồng thời và gắn bó khăng khít với hoạt động thực tiễn. Học thuyết "Hình thái" đã chỉ
ra vai trò chi phối có tính quyết định của các quy luật lịch sử khách quan. Sự phát triển
của xã hội không phải hiện tượng ngẫu nhiên, không phải do thượng đế quyết định,
không tuân theo ý chí chủ quan của một lực lượng xã hội nào đó mà luôn tuân theo các
quy luật khách quan. Trong đó, những quy luật có vai trò quan trọng nhất là quy luật về
sự phù hợp của QHSX với tính chất, trình độ của LLSX và quy luật về quan hệ giữa
CSHT với KTTT xã hội. Học thuyết đã chỉ rõ LLSX và QHSX vốn được hình thành
trong quá trình sản xuất của con người. Giữa chúng có mối quan hệ biện chứng khách
quan và quan hệ đó đã tạo thành quy luật khách quan chi phối mọi quá trình sản xuất.
Chính quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX là một quy
luật khách quan cơ bản của mọi PTSX, mọi thời kỳ lịch sử. Quy luật đó là một động lực
quan trọng nhất chi phối sự phát triển của lịch sử xã hội. C.Mác chỉ rõ rằng, do sự vận



động có tính cách mạng hơn, nên đến một chừng mực nào đó LLSX của xã hội sẽ mâu
thuẫn với QHSX hiện đang tồn tại, và theo tính tất yếu, những QHSX đó sẽ bị thay thế
bởi một QHSX cao hơn, phù hợp với LLSX đã phát triển. Tuy quá trình giải quyết mẫu
thuẫn đó là không đơn giản mà phải thông qua nhiều nhân tố xã hội khác, song đó chính
là nguồn gốc sâu xa của sự phát triển lịch sử. C.Mác đã viết:
Như vậy là theo quan điểm chúng tôi, tất cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn
từ mẫu thuẫn giữa những lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp. Ngoài ra, hoàn toàn
không cần thiết là mâu thuẫn đã phải đẩy đến cực độ trong một nước, mới gây ra những
cuộc xung đột trong nước ấy. Sự cạnh tranh với những nước phát triển hơn về công
nghiệp... cũng đủ gây ra những mâu thuẫn loại đó, ngay cả nước kém phát triển hơn về
mặt công nghiệp. [39, tr. 107].
Quá trình giải quyết mẫu thuẫn giữa LLSX và QHSX làm thay đổi cơ sở kinh tế của xã
hội và khi đó sẽ làm cho chính trị, pháp quyền và các mặt xã hội khác biến đổi theo. Tức
là xã hội đã quá độ sang một giai đoạn mới, cao hơn. Rõ ràng các quan hệ giữa LLSX với
QHSX, giữa CSHT với KTTT là những quy luật khách quan của sự vận động xã hội và là
những động lực khách quan của sự phát triển lịch sử. Không có một xã hội cụ thể nào,
không có một giai đoạn lịch sử nào không chịu chi phối của các quy luật đó.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh vai trò của các quy luật trên đối với sự vận động của
một xã hội cụ thể, cũng như của từng giai đoạn lịch sử. Việc nhận thức các động lực nói
trên cùng với các động lực xã hội khác có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động
xã hội. Đó là một giá trị khoa học còn mãi soi đường cho hoạt động cải tạo có tính cách
mạng xã hội. Giá trị đó không thể phủ nhận được.


Ba là: học thuyết HTKT-XH đã chỉ ra tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ
xã hội và sự phân kỳ lịch sử.
Xã hội là một chơ thể hết sức phức tạp bao gồm các hiện tượng xã hội và các quan hệ
xã hội đan xen, chồng chéo lên nhau. Đó chính là lý do để hầu hết các quan điểm về xã
hội trước Mác không thể phát hiện ra tiêu chuẩn khách quan của sự phân kỳ lịch sử và
phân loại các chế độ xã hội. Sự ra đời của học thuyết HTKT-XH đã đem lại một cách

nhìn hoàn toàn mới. Từ vô số các quan hệ xã hội, học thuyết đã phân thành hai loại quan
hệ cơ bản là quan hệ vật chất và các quan hệ tinh thần tư tưởng. Trong các quan hệ vật
chất - những quan hệ hình thành một cách khách quan đối với ý thức con người - Học
thuyết đã làm nổi bật quan hệ vật chất đầu tiên, tất yếu đó là QHSX. QHSX tồn tại một
cách khách quan, không tùy thuộc vào ý chí chủ quan của bất kỳ một giai cấp, cá nhân
nào:
Như vậy là ngay từ đầu đã có một hệ thống những mối liên hệ vật chất giữa người với
người, một hệ thống bị quy định bởi những nhu cầu và phương thức sản xuất và cũng lâu
đời như bản thân loài người - một hệ thống những mối liên hệ không ngừng mang những
hình thức mới... Ngay cả khi chưa có bất cứ một điều nhảm nhí nào về chính trị hoặc về
tôn giáo gắn bó thêm con người với nhau [39, tr.43].
QHSX tồn tại trong sự thống nhất của cả hai chức năng: chức năng kinh tế và chức
năng xã hội. Ở chức năng kinh tế, QHSX bao giời cũng tồn tại gắn liền với những LLSX
nhất định, là môi trường, điều kiện và là một trong những động lực cho LLSX phát triển.
Ở chức năng xã hội, QHSX là quan hệ nền tảng quy định các quan hệ chính trị và tinh
thần của xã hội, là cơ sở của các mối quan hệ xã hội. Ở những xã hội có giai cấp, QHSX
mà xét cho tới cùng là chế độ chiếm hữu tư liệu sản xuất quyết định chiếm hữu và chi


phối quyền lực chính trị, và sau đó là các lĩnh vực tinh thần, tư tưởng của xã hội. QHSX
chính là cái "tạo thành cơ sở nền tảng cho tính chỉnh thể", "cho sự cố kết, thống nhất các
bộ phận, yếu tố cấu thành và các mối liên hệ xã hội" [69, tr.33]. Với ý nghĩa đó,
V.I.Lênin cho rằng Mác phát hiện ra QHSX là đã tìm ra một quan hệ cơ bản nhất của cơ
thể xã hội. Với chức năng và vị trí như vậy, QHSX, thống nhất với một trình độ LLSX
nhất định, trở thành tiêu chuẩn khách quan để xem xét sự tiến bộ của lịch sử, để phân biệt
tính chất xã hội của các thời kỳ lịch sử khác nhau, các chế độ xã hội khác nhau. Căn cứ
vào tiêu chuẩn khách quan đó mà xem xét tính lặp lại, tính quy luật lịch sử. Từ tiêu chuẩn
khách quan đó mà học thuyết "Hình thái" đã đưa ra sự phân kỳ lịch sử một cách khoa
học: lịch sử bao gồm các thời kỳ là xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong
kiến, TBCN và cộng sản chủ nghĩa. Mỗi thời kỳ đó được biểu hiện tập trung trong một

HTKT-XH. Mỗi thời kỳ đó có QHSX đặc trưng riêng phù hợp với một trình độ phát triển
của LLSX, có chế độ, tính chất chính trị và các tư tưởng xã hội riêng. Rõ ràng phương
pháp tiếp cận "Hình thái" không chỉ giúp ta thấy sự khác nhau giữa các HTKT-XH mà
còn thấy sự khác nhau giữa các xã hội trong một hình thái. Phương pháp tiếp cận theo
nền văn minh và một số quan điểm đối lập khác có lẽ cũng nhận ra tính chất quan trọng
của phát hiện này, nhất là nó lại không phù hợp với mục đích chính trị của họ, cho nên đã
cố tình lờ đi vấn đề QHSX trong luận giải của mình hoặc, bằng mọi cách phủ nhận quan
niệm về QHSX của học thuyết.
Bốn là: Học thuyết đã chỉ ra xu thế phát triển tất yếu của lịch sử xã hội.
Trên cơ sở phát hiện các quy luật khách quan chi phối sự vận động của các HTKT-XH,
học thuyết đã chỉ ra xu thế phát triển tất yếu của toàn bộ lịch sử. Xu thế đó chính là xu
thế tiến lên không ngừng từ trình độ thấp đến cao hơn. Xu thế ấy được quyết định từ sự


tác động biện chứng của các nhân tố khách quan trong chính ngay HTKT-XH. C.Mác
viết:
Trong quan niệm tích cực về cái hiện đang tồn tại, phép biện chứng đồng thời cũng bao
hàm cả quan niệm về sự phủ định cái hiện đang tồn tại đó, về sự diệt vong tất yếu của nó;
vì mỗi hình thái đã hình thành đều được phép biện chứng xét ở trong sự vận động, tức là
xét cả mặt nhất thời của hình thái đó, vì phép biện chứng... về thực chất thì có tính chất
phê phán và cách mạng... [47, tr.35-36].
Xu thế đó là bắt nguồn từ sự vận động của các mâu thuẫn nội tại trong HTKT-XH,
trong đó mâu thuẫn giữa LLSX và QHSX là quyết định nhất. Xuất phát từ sự giải quyết
mâu thuẫn đó mà các mặt của xã hội không ngừng phát triển, mà tạo ra xu thế cho sự ra
đời của hình thái mới cao hơn. Xu thế đó là khách quan, tất yếu, không một lực lượng xã
hội nào kìm hãm nổi.
Như vậy, khi nghiên cứu một HTKT-XH nhất định, học thuyết không chỉ có giá trị
trong xem xét cái hiện tồn mà còn chỉ ra xu thế chuyển hóa của nó lên một hình thái mới,
trật tự xã hội mới cao hơn. Hình thái cao hơn ra đời bao giờ cũng có tiền đề từ hình thái
đang tồn tại, là sự phủ định có kế thừa và phát triển những nhân tố hợp lý, tích cực của

cái đang tồn tại, tóm lại là kết quả vận động của những tiền đề hiện đang tồn tại.
Như vậy cũng có thể nói rằng, khi chứng minh tính tất yếu của một trật tự xã hội hiện
đang tồn tại, học thuyết "Hình thái" cũng chứng minh luôn tính tất yếu của sự diệt vong
của nó, chứng minh luôn tính tất yếu của một trật tự khác mà trật tự hiện tồn tại nhất định
phải đi tới. Học thuyết HTKT-XH nghiên cứu trật tự TBCN và chỉ ra rằng CNTB là một
chế độ xã hội tiến bộ của lịch sử. Sự xuất hiện của nó không phải từ hư không mà từ
những tiền đề do xã hội phong kiến tạo ra, đồng thời trật tự tư sản cũng không thể tồn tại


vĩnh hằng mà do những quy luật của chính nó, những mâu thuẫn nội tại của nó, những
tiền đề do xã hội phong kiến tạo ra, đồng thời trật tự tư sản cũng không thể tồn tại vĩnh
hằng mà do những quy luật của chính nó, những mâu thuẫn nội tại của nó, những tiền đề
mà nó bắt buộc phải tạo ra, nó sẽ bị thay thế bằng một trật tự xã hội cao hơn là chủ nghĩa
cộng sản. Những dự đoán của C.Mác về điều đó đang được lịch sử hiện đại chứng minh.
CNTB càng tìm cách phát triển LLSX thì lại càng thúc đẩy tính xã hội hóa về sở hữu,
quản lý, phân phối, càng thúc đẩy xu thế toàn cầu hóa đời sống nhân loại. Đó chính là
những đặc trưng của một xã hội khác cao hơn hình thái TBCN. CNTB đang tiến dần đến
giới hạn cuối cùng của nó, đến sự diệt vong tất yếu của nó.
Rõ ràng hình học thuyết HTKT-XH đã thể hiện tính khoa học và cách mạng sâu sắc.
Giá trị khoa học và cách mạng thống nhất chặt chẽ với nhau ở chỗ "nó giải thích rõ
những quy luật đặc thù chi phối sự phát sinh, tồn tại, phát triển và diệt vong của một trật
tự xã hội nhất định và sự thay thế nó bằng một cơ thể khác cao hơn" [26, tr.12 ].Mặt khác, giá trị khoa học và cách mạng của học thuyết còn được thể hiện ở chính chức
năng phương pháp luận của nó. Học thuyết không chỉ giải thích sự tiến lên của lịch sử mà
còn là phương pháp chỉ đạo hoạt động thực tiễn trong xây dựng một xã hội cụ thể một
cách tự giác hơn. Học thuyết đòi hởi sự vận dụng nó không phải như một bản thiết kế có
sẵn mà phải với tinh thần linh hoạt, sáng tạo, gắn với những điều kiện lịch sử cụ thể. Mọi
sự áp dụng giáo điều, rập khuôn, máy móc đều xa lạ với tính phương pháp, tính cách
mạng của học thuyết.
Do tính cách mạng và khoa học của nó, học thuyết HTKT-XH từ khi ra đời đến nay đã
nhiều lần phải đương đầu với sự chống đối, công kích của các trào lưu tư tưởng đối lập.

Giai cấp tư sản không thể chấp nhận được học thuyết vì nó đã luận chứng một cách khoa


×