Tải bản đầy đủ (.docx) (95 trang)

Những bài nghị luận văn học lớp 12 cơ bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (408.04 KB, 95 trang )

Những bài nghị luận văn học lớp 12

Đề bài: Anh chị hãy phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn
trích Đất nước (trong trường ca Mặt đường khát vọng) của Nguyễn Khoa
Điềm và bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi.
Bài Làm
Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi là hai nhà thơ xuất sắc trong nền thi xa
Việt Nam. Nhắc đến hai cái tên này chúng ta không thể không nhớ tới hai bài thơ
cùng mang cái tựa “Đất nước”. Cùng ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, con người, văn
hóa, lịch sử nhưng hai bài thơ mang màu sắc rất riêng và để lại ấn tượng về hình
ảnh đất nước cũng rất riêng.
Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm nằm trong phần đầu của chương V
trường ca “Mặt đường khát vọng”. Tác phẩm được tác giả viết ở chiến khu Trị
Thiên năm 1971, đó là những năm tháng nhân dân miền Nam kiên cường chống
Mỹ và tay sai. Tác phẩm viết về những thức tỉnh của tuổi trẻ , nhận rõ bộ mặt của
đế quốc Mỹ, một lòng hướng về đất nước, ý thức được sứ mệnh của mình đứng
dậy đấu tranh cùng với cuộc chiến chung của dân tộc. Trường ca có nhiều chương
và đoạn trích “Đất nước” là một trong những đoạn thơ hay nhà thơ viết về tư
tưởng: Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.
Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi được hình thành trong một quãng thời
gian khá dài, từ 1948 đến 1955. Đây là một trong những bài thơ nổi tiếng của tác
giả, mang rõ phong cách thơ Nguyễn Đình Thi. Chủ đề bài thơ bao trùm là lòng
yêu nước tha thiết, nồng nàn, ý thức độc lập dân tộc và hình ảnh những người dân
từ trong đau thương nô lệ, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đứng lên giành chiến
thắng huy hoàng.
Bài thơ của Nguyễn Đình Thi mở đầu bài thơ bằng hình ảnh mùa thu có lẽ bởi dân
tộc đã trải qua bao mùa thu đau thương, sầu thảm còn giờ đây mùa thu từ năm
1945 sẽ là mùa thu của Cách mạng, của niềm vui, của tự do độc lập.
Còn Nguyễn Khoa Điềm lại khắc họa hình ảnh đất nước bằng cách đặt nó trong
mối liên hệ với không gian và thời gian. Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm



được nhìn theo chiều dài lịch sử và được xác định bằng những không gian nhỏ bé,
cụ thể và cũng có thể là không gian trừu tượng trong lòng người.
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã khắc họa hình tượng đất nước với hai đặc điểm vừa
trái ngược vừa hài hòa. Trong thơ hiện lên là hình ảnh đất nước đầy những đau
thương với “những cánh đồng quê chảy máu” “dậy thép gai đâm nát trời chiều”
“bát cơm chan đầy… còn giằng khỏi miệng ta”. Nhưng đất nước chúng ta cũng là
một đất nước anh hùng quật khởi khiến cho kẻ thù cũng phải khuất phục
“Xiềng xích chúng bay …
… Lòng dân ta yêu nước thương nhà”
Còn trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm lại bộc lộ niềm tin sâu sắc về niềm văn
hóa lâu đời. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rất nhiều
những chất liệu văn hóa dân gian, sử dụng rất nhiều ca dao tục ngữ để làm nên
những câu thơ của mình. Ông còn đưa vào thơ mình rất nhiều những truyền thuyết,
những phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc. Ông nhận thức được sâu sắc
những đóng góp lớn lao của nhân dân cho đất nước. Trong đó có cả những đóng
góp nhỏ bé, những đóng góp được ghi lại sử sách cũng có những đóng góp âm
thầm lặng lẽ không ai nhớ mặt đặt tên nhưng “họ đã làm nên đất nước”.
Đây là 2 bài thơ được ra đời ở hai thời điểm khác nhau khiến cho hình ảnh đất
nước cũng có sự khác biệt. Nguyễn Đình Thi thì khắc họa hình tượng đất nước đau
thương nhưng đầy kiên cường bất khuất. Trong khi đó Nguyễn Khoa Điềm lại làm
rõ một tư tưởng: Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại. Điều đó
cũng cho thấy rằng bản thân tư tưởng đó đã là trừu tượng vì vậy để làm sáng tỏ nó
chỉ có thể dùng các hình ảnh cụ thể, những phong tục cụ thể, những đóng góp cụ
thể. Nó quy định cho bút pháp cũng như hướng đi của tác phẩm từ cụ thể đến khái
quát từ đó làm sáng tỏ hình ảnh đất nước.
Sở dĩ có sự khác biệt giữa hai bài thơ là do sự chi phối của hoàn cảnh xã hội, văn
hóa cũng như điều kiện cụ thể của từng tác phẩm. Một nhân tố quan trọng làm nên
sự khác biệt chính là phong cách mỗi nhà văn có sự khác nhau. Thơ Nguyễn Đình
Thi thường giàu nhạc tính, có chất hội họa và có cả sự sâu sắc của một tư duy triết

học. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lại đề cao phẩm chất cách mạng, nhân vật trong tác
phẩm của ông thường là những bà mẹ anh hùng, những chiến sĩ giải phóng kiên
cường,…
Cả hai bài thơ đều đều ca ngợi tình yêu quê hương đất nước. Tuy có sự khác nhau
về bút pháp, bối cảnh ra đời,… và quan niệm khác nhau về hình ảnh đất nước


nhưng tựu chung lại ta đều thấy một tấm lòng yêu nước sâu sắc, lòng tự hào dân
tộc từ đó ý thức được trách nhiệm to lớn của mình với Tổ quốc, với nhân dân.

Phân tích một đoạn trong bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm
Hướng dẫn
Nguyễn Khoa Điềm đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có
giá trị. Những vần thơ của ông mang đến cho người đọc cảm xúc được dồn nén và
có nhiều liên tưởng phong phú. Qua bài thơ đất nước, tác giả đã khắc họa lên hình
ảnh đất nước thật thiêng liêng và gần gũi, trong đó chín dòng thơ đầu là những cảm
nhận hết sức chân thực của nhà thơ về đất nước, đó chính là cảm xúc, tình cảm
đáng trân trọng của nhà thơ về đất nước.
Khổ thơ mở đầu bằng một lời khẳng định:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Chỉ với hai câu thơ ngắn, nhà thơ đã cho người đọc cảm nhận sự hiện hình của đất
nước mà lâu nay chúng ta vẫn trừu tượng hóa chúng. Với nhà thơ trẻ đang đối mặt
với cuộc chiến tranh khốc liệt một mất một còn, đất nước gần gũi, thân thiết. Nhà
thơ đã cho chúng ta kiểu rằng quê hương là tất cả những gì gắn bó ruột rà với con
người. Đó là nơi ta yêu tha thiết, là tất cả những gì hiện hữu trước mắt ta.
Nhà thơ đã chỉ cho chúng ta rằng Đất Nước không phải cái gì xa xôi, khó hiểu mà
trong anh và em… Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm… Đất Nước là
máu xương của mình. Đó là một nhận thức mới về đất nước. Từ một nhận thức đơn
giản về đất nước nhà thơ đã khéo léo nhắc nhở chúng ta về trách nhiệm phải làm

cho đất nước.
Bốn dòng thơ kế tiếp mở rộng ý ban đầu:
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người


Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Trong mỗi chúng ta, nếu có sự đồng lòng, có sự chung sức, đất nước sẽ vẹn tròn to
lớn hơn. Hai câu thơ (bốn dòng) được cấu trúc giống nhau theo kiểu cấu trúc của
câu có điều kiện trong văn xuôi hay lời nói thông thường: Khi… Đất Nước. Hai
câu thơ cũng là những lời khẳng định (kết quả của sự nhận thức) về một chân lý.
Cả bốn dòng chỉ có một hình ảnh, lại là hình ảnh mang tính tượng trưng: cầm tay
diễn tả sự thân thiết, tin cậy, yêu thương lẫn nhau. Hình ảnh ấy đi liền với những
tính từ chỉ mức độ (hài hoà, nồng thắm, vẹn tròn, to lớn). Bởi vậy, dù ý tứ tuy
không phải là quá mới mẻ, song, những câu thơ ấy lại có sức nặng của tình cảm
chân thành.
Qua từng lời thơ, tác giả đã cho người đọc cảm nhận được Đất nước là một thực
thể sống và sự sống ấy ra sao ở về phía tất cả những con người trong đất nước đó.
Nói rõ ràng ra, đó là mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa mỗi một con
người với đất nước. Và đất nước là sự nối tiếp từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng…
Những điều thế hệ chúng ta chưa làm được cho đất nước thì thế hệ con cháu chúng
ta sẽ xây dựng đất nước to đẹp hơn, giàu mạnh hơn. Đất nước không chỉ có ngày
hôm qua và hôm nay. Đất nước của ngày mai. Từng thế hệ kế tiếp sẽ làm cho đất
nước trường tồn mãi mãi nhờ bàn tay, khối óc và sức mạnh của sự đoàn kết toàn
dân. Trong hoàn cảnh đất nước đang chìm trong chiến tranh ác liệt, niềm hi vọng
ấy chính là động lực to lớn giúp nhân dân vượt qua những khó khăn để vươn lên

chống lại kẻ thù.
Đoạn thơ là lời nhắn nhủ của nhà thơ với thế hệ chúng ta, cùng cố gắng đứng lên
đấu tranh, xây dựng đất nước. Với nhà tho đất nước là máu thịt là cơ thể mình, phải
làm sao để bảo vệ đất nước như bảo vệ máu thịt mình. Đất nước là máu xương có
nghĩa là đất nước tồn tại như một sự sống và để có sự sống ấy hẳn phải có rất nhiều
hi sinh. Quả đúng như vậy, biết bao con người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự
sống còn của đất nước. Vì thế, mỗi một con người phải biết gắn bó và san sẻ. Gắn
bó là yêu thương, quan hệ mật thiết với nhau. Từ sự gắn bó ấy mới có thể san sẻ.
San sẻ trách nhiệm, san sẻ niềm vui, niềm hạnh phúc cho nhau. Đất nước vĩ đại
nhưng đất nước là một thực thể sống. Thực thể ấy không phải là sự tập hợp của


những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng. Hoá thân cũng có nghĩa là dâng hiến.
Thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho tổ quốc. Thời chiến, người ta
dâng hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm của nhà thơ, là
cuộc hoá thân. Bóng dáng mỗi người đã làm nên bóng dáng quê hương xứ sở, đất
nước. Không có sự hoá thân kia làm sao đất nước trường tồn, làm sao có được đất
nước muôn đời.
Đoạn thơ là những cảm nhận hết sức gần gũi nhưng vô cùng thiêng liêng của tác
giả về đất nước. Với giọng thơ trữ tình ngọt ngào, đoạn thở trở thành một món ăn
tinh thần vô giá có sức lay động tình yêu đối với quê hương đất nước, nó góp phần
không nhỏ làm nên thắng lợ của dân tộc. Ngày nay đất nước đã sạch bóng quân
thù, nhưng trách nhiệm xây dựng và bảo vệ đất nước là của tất cả mọi người chúng
ta, chúng ta cần phải có hành động cụ thể để xây dựng đất nước than yêu của mình.

Bình giảng đoạn thơ trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên
Hướng dẫn
Bình Giảng đoạn thơ sau trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên:
“Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu đương

Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”
Chế Lan Viên là nhà thơ lãng mạn nổi tiếng của phong trào Thơ mới. Bài thơ Tiếng
hát con tàu là tiếng lòng của tác giả, đó là tiềng lòng hòa cùng vào mạch sống của
dân tộc trong thời sự nghiệp xây dựng đất nước. Bài thơ là khúc hát say mê, rạo
rực của một hồn thơ được thoát ra một chân trời rộng lớn, giống như một con tàu
đang lao đi vùn vụt để đến một vùng đất mới xây dựng cuộc sống mới. Đoạn thơ là
nỗi lòng của tác giả khi phải chia tay với mảnh đất tươi đẹp của Tổ quốc:
“Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ


Nơi nao qua lòng lại chẳng yêu đương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”
Đọan thơ đoạn trên thể hiện nỗi nhớ của nhà thơ về Tây Bắc – quê hương thứ hai.
Ở nơi ấy có những con người đã gắn bó, chia sẻ gian nan, đã từng vào sống ra chết
với mình. Đó là những con người có cùng chung ý tưởng đấu tranh, cùng quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh, đó là tình đồng đội, tình đồng bào.
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương?
Trong cuộc chiến tranh, các chiến sĩ và đồng bào ta đã phải trải qua rất nhiều khó
khăn gian khổ, nơi rừng thiêng nước độc là nơi đe dọa mạng sống của đồng bào và
chiến sĩ nhưng cũng là nơi che chở bảo vệ họ thoát khỏi bom đạn của kẻ thù. Vì
vậy khi chia tay tác giả luôn nhớ đến vùng rừng núi ấy. Tác giả đã đưa ra cho
chúng ta một triết lí sâu sắc, và cùng là nỗi lòng của tác giả. Nó đã tác động mạnh
mẽ đến nơi sâu kín nhất của lòng người, gợi chúng ta nhớ tới hình ảnh thân thiết
của quê hương, làng xóm và những nẻo đường đất nước đã có dịp đi qua. Khổ thơ
có nội dung như một sự phát hiện về quy luật của tình cảm và đời sống tâm hồn
con người.
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở

Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn.”
Khi ta sống tại nơi ta đang sống, ta thấy mọi thứ xung quanh ta trở nên bình
thường, nhưng khi không còn được sống trên mảnh đất ấy, ta mới thấy chúng có ý
nghĩa với ta biết nhường nào. Đến lúc đó chúng ta mới cảm nhận thấy nơi chốn đó
thật thiêng liêng, thật gần gũi, và mảnh đất ấy trở nên thơ mộng và có tâm hồn như
con người.
Tiếp theo mạch cảm xúc ấy tác giả đưa đến người đọc một cảm xúc mới về tình
yêu:
Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét


Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.
Tác giả so sánh nỗi nhớ của đôi lứa yêu nhau như: đông về nhớ rét, đó là lối so
sánh rất mới lạ. Còn tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng, như sắc biếc lông chim
lúc xuân sang. Tác giả đã cụ thể hóa tình yêu – một khái niệm trừu tượng thành
những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, nhất là với người dân miền núi. Thật không
có gì có thể miêu tả hết được màu sắc, hương vị của tình yêu nên tác giả đã khái
quát lại bàng một câu hết sức ý nghĩa: Tình yêu mãnh liệt của con người đã khiến
cho đất lạ hóa quê hương. Tình yêu với những gì có trên mảnh đất ấy khiến cho
mảnh đất không phải quê hương mình cũng trở nên thân thương, như quê hương
yêu dấu. Quan điểm tình yêu làm đất lạ hóa quê hương như một mệnh đề ngắn gọn
mà cô đúc, làm lay động lòng người. Câu thơ có sự khái quát từ tình yêu nam nữ
mà còn mở rộng ra đến tình yêu con người ở đâu có tình yêu thương thật sự giữa
người với người, ở đó là quê hương.
Đoạn thơ đưa ra một triết lí sâu sắc về tình yêu với đất nước quê hương vừa có sự
lãng mạn của tình yêu đôi lứa. Chính sự kết hợp hòa quyện thành công đó đã làm
cho bài thơ luôn ở trong lòng độc giả, nó làm cho con người thêm yêu đất nước, có
tinh thần hơn để chiến đấu bảo vệ quê hương mình.


TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP - HỒ CHÍ MINH

Câu 1: Những nét chính về sự nghiệp văn học của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh
Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ Cách mạng đồng thời là một nhà văn, nhà thơ
lớn. Người đã để lại cho nhân dân ta một sự nghiệp văn chương lớn lao về tầm vóc,
phong phú và đa dạng về thể loại và đặc sắc trong phong cách sáng tạo.
Sự nghiệp văn học của Hồ Chí Minh thể hiện ở những lĩnh vực sau:
1. Văn chính luận


- Là những tác phẩm được viết với mục đích đấu tranh chính trị nhằm tiến công
trực diện kẻ thù hoặc thể hiện nhiệm vụ cách mạng của dân tộc, có những tác phẩm
được coi là áng văn chính luận mẫu mực.
- Những tác phẩm tiêu biểu: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925); Tuyên ngôn độc
lập (1945); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946) ; Di Chúc (1969).
2. Truyện và kí
- Cô đọng, sáng tạo giàu chất trí tuệ và tính hiện đại. Các truyện ngắn thường dựa
vào sự kiện có thật, người viết hư cấu để thực hiện ý đồ của mình.
- Tác phẩm tiêu biểu: Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Vi hành (1923),
Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu (1925)
3. Thơ trữ tình
- Nhật kí trong tù: gồm 133 bài thơ chữ Hán viết trong nhà tù Tưởng Giới Thạch.
Tập thơ phản ánh sâu sắc, sinh động và tài hoa tâm hồn, nhân cách cao đẹp của Hồ
Chí Minh.
- Những bài thơ sáng tác trong thời kì Người ở chiến khu Việt Bắc trước năm 1945
và trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp có sự kết hợp chất trữ tình
đằm thắm với cảm hứng anh hùng ca. Các bài thơ tiêu biểu: Pác pó hùng vĩ, Tức
cảnh Pác pó, Rằm tháng giêng, Tin thắng trận

- Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh (1990) tập hợp 36 bài viết ở nhiều thời điểm khác
nhau, thể hiện nhiều đề tài khác nhau.
Hồ Chí Minh để lại một di sản văn chương phong phú, độc đáo, có giá trị về nhiều
mặt. Văn thơ Hồ Chí Minh thể hiện sâu sắc tâm hồn và khí phách cao đẹp của
người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới. Hồ Chí Minh là
người đặt nền móng mở đường cho nền văn học cách mạng hiện đại.
Câu 2: Quan điểm sáng tác văn học của Hồ Chí Minh
1. Hồ Chí Minh xem văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có
hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng. Nhà văn phải có sự gắn bó sâu sắc với đời để
từ đó khám phá và sáng tạo góp phần vào nhiệm vụ đấu tranh và phát triển xã hội.
Người khẳng định “văn học nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị em là chiến sĩ
trên mặt trận ấy”


2. Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức văn nghệ. Văn chương
trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ. Tác
phẩm văn chương phải thể hiện tinh thần dân tộc của nhân dân và được nhân dân
yêu thích. Người nêu kinh nghiệm chung cho hoạt động báo chí, văn chương. Viết
cho ai? Viết cái gì? Viết như thế nào? bên cạnh đó người chú ý đến mối quan hệ
giữa phổ cập và nâng cao trong văn nghệ.
3. Hồ Chí Minh luôn luôn quan niệm tác phẩm văn chương phải có tính chân thật.
người yêu cầu các nhà văn phải miêu tả cho hay, cho chân thật, cho hùng hồn sự
phong phú của đời sống cách mạng, phải ca ngợi, khẳng định cái cao đẹp, phê phán
và phủ nhận cái xấu trong cuộc đời
Mặt khác nhà văn phải chú ý đến hình thức biểu hiện sao cho hấp dẫn, tránh lối
viết cầu kì, xa lạ, nặng nề. Tác phẩm văn chương phải thể hiện được tinh thần dân
tộc của nhân dân.
Câu 3: Phong cách nghệ thuật
Hồ Chí Minh là người bước đầu đặt nền móng và mở đường cho nền văn học cách
mạng. Những tác phẩm của NAQ – HCM có phong cách đa dạng mà thống nhất,

kết hợp sâu sắc mà nhuần nhị mối quan hệ giữa chính trị và văn chương, giữa tư
tưởng và nghệ thuật, giữa truyền thống và hiện đại, mỗi thể loại đều có phong cách
riêng độc đáo, hấp dẫn và có giá trị bền vững
1. Văn chính luận
Tư duy sắc sảo, giàu tri thức văn hóa, gắn lí luận với thực tiễn, giàu tính luận
chiến, vận dụng những phương thức biểu hiện có hiệu quả. Viết thành công những
mẫu truyện nhỏ là một nét độc đáo của tài năng tác giả trong văn xuôi.
2. Truyện và kí
Truyện và kí của NAQ là những tác phẩm mở đầu và góp phần đặt nền móng
đầu tiên cho nền văn xuôi cách mạng. Ngòi bút chủ động, sáng tạo, khi là lối kể
chân thực, gần gũi, khi là giọng điệu thâm thuý, sắc sảo, tinh tế. Chất trí tuệ và tình
hiện đại là những nét đặc sắc trong truyện ngắn của NAQ.
3. Thơ ca


Phong cách đa dạng: Hàm súc uyên thâm, đạt chuẩn mực cao về nghệ thuật,
những bài thơ hiện đại được vận dụng qua nhiều thể thơ phục vụ có hiệu quả cho
sự nghiệp cách mạng. Thơ ca của Người gợi cảm, chứa chan nhiệt tình cách mạng.
Câu 4: Hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác của Tuyên ngôn độc lập
Hoàn cảnh ra đời:
- Ngày 19/8/1945 chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26 tháng 8 năm
1945, chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc về tới Hà Nội. Trong không khí
tưng bừng phấn khởi của nhân dân cả nước vừa giành độc lập, tại căn nhà số 48,
phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 2-9-1945, tại
quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt chính phủ lâm thời nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa, đọc bản Tuyên ngôn độc lập.
Mục đích sáng tác:
- Khẳng định quyền tự do, độc lập của dân tộc
- Bác bỏ luân điệu sai trái của Thực dân Pháp trước dư luận quốc tế.Từ đó tranh
thủ sự đồng tình của nhân dân thế giới đối với sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc

Việt Nam.
Câu 5: Trình bày giá trị lịch sử và giá trị văn học của bản Tuyên ngôn?
- Giá trị lịch sử:
+ Ngày 2-9-1945, Chủ tịch HCM đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục
vạn đồng bào tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội. Tuyên ngôn độc lập là một văn
kiện lịch sử đúc kết nguyện vọng sâu xa của dân tộc Việt Nam về quyền độc lập, tự
do, cũng là kết quả tất yếu của quá trình đtr gần một trăm năm của dân tộc để có
quyền thiêng liêng đó.
+ Bản tuyên ngôn đã tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở Việt Nam và
mở ra một kỉ nguyên mới độc lập, tự do, kỉ nguyên nhân dân ta làm chủ đất nước.
- Giá trị văn học:
+ Tuyên ngôn độc lập là áng văn yêu nước lớn của thời đại. Tác phẩm khẳng định
mạnh mẽ quyền độc lập của dân tộc, gắn độc lập dân tộc với quyền sống của con
người, nêu cao truyền thống yêu nước, truyền thống nhân đạo của người Việt Nam.


+ Tuyên ngôn độc lập là một áng văn chính luận mẫu mực. Dung lượng tác phẩm
gắn gọn, cô đọng, gây ấn tượng sâu sắc. Kết cấu tác phẩm mạch lạc chặt chẽ,
chứng cứ cụ thể, xác thực; lập luận sắc bén, giàu sức thuyết phục. Ngôn ngữ tác
phẩm chính xác, gợi cảm, tác động mạnh mẽ vào tình cảm, nhận thức của người
nghe, người đọc.
Câu 6: Nhận xét về cách mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập”?
Tác giả nêu tiền đề có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở pháp lý chính nghĩa vững chắc
cho bản Tuyên ngôn độc lập bằng cách trích dẫn 2 bản tuyên ngôn của nước Pháp
và nước Mỹ.
- Cả hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ đều khẳng định quyền con người, đặc biệt
nhấn mạnh quyền tự do và quyền bình đẳng của con người. Từ đó Bác suy rộng ra
quyền dân tộc “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Tư tưởng của Hồ Chí
Minh về quyền dân tộc là một đóng góp mới mẻ cho lịch sử tư tưởng nhân loại và

đặc biệt có ý nghĩa to lớn đối với phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới.
- Việc trích dẫn trên có hiệu quả
+ Tạo được một cơ sở pháp lý vững chắc cho bản tuyên ngôn: quyền dân tộc là
một lẽ phải không ai có thể chối cãi được.
+ Dựng chiến thuật “Gậy ông đập lưng ông”
+ Thể hiện thái độ trân trọng kế thừa tinh hoa văn hóa nhân loại, đề cao truyền
thống bình đẳng, nhân đạo tư tưởng dân chủ tiến bộ của nhân dân hai nước Pháp và
Mỹ, tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới.
+ Đặt 3 bản tuyên ngôn ngang nhau, Hồ Chí Minh bộc lộ niềm tự hào dân tộc sâu
sắc.
Câu7: Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh qua bản “Tuyên ngôn độc
lập”?
- Lối văn ngắn gọn, giản dị, súc tích, trong sáng: dùng từ, đặt câu theo các chuẩn
mực của tiếng Việt.


- Tuyên ngôn độc lập được viết bằng giọng văn đanh thép, hùng hồn, lối lập luận
chặt chẽ, có tính chiến đấu cao, thể hiện một thái độ dứt khoát, một bản lĩnh vững
vàng, một trí tuệ sắc sảo.
TÂY TIẾN - QUANG DŨNG
Câu 1: Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền Tây Bắc Bộ và những
người bộ đội trong đoạn thơ sau:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
I. Mở bài
- Quang Dũng thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong phong trào kháng chiến
chống Pháp.
- Thơ Quang Dũng mang vẻ đẹp phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Điều
đó đựơc thể hiện ở bài thơ Tây Tiến.
- Đoạn thơ đầu làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến qua nỗi nhớ da diết về
đồng chí, đồng đội của Quang Dũng, về những cuộc hành quân gian khổ và vẻ đẹp
hùng vĩ, dữ dội, hoang sơ nhưng cũng rất thơ mộng của thiên nhiên miền Tây.
II. Thân bài
1. Những vấn đề tổng quát
- Hoàn cảnh sáng tác: Tây Tiến là tên một đơn vị được thành lập năm 1947 có
nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới và đánh tiêu hao lực lượng
giặc Pháp ở Thượng Lào và Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn hoạt động của đơn vị rất
rộng, từ Mai Châu, Châu Mộc, sang Sầm nứa, vòng về miền Tây Thanh Hoá nơi
đây thiên nhiên hùng vĩ, hiểm trở, khắc nghiệt nhưng cũng rất đỗi mĩ lệ, thơ mộng.
Đoàn quân phần lớn là thanh niên Hà Nội trẻ trung, hào hoa, thanh lịch đã xếp bút
nghiên lên đường chiến đấu. Họ thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có học
sinh, sinh viên (Quang Dũng thuộc số này). Bởi vậy lính Tây Tiến bên cạnh sự


dũng cảm kiên cường còn ngời lên nét hào hoa, lãng mạn. Là đại đội trưởng, sau
một thời gian gắn bó, cuối năm 1948 Quang Dũng chuyển đơn vị khác. Tại Phù
Lưu Chanh, nhớ về đồng đội, ông viết bài thơ.
- Đây là những dòng mở đầu thi phẩm. Qua những dòng thơ này, Quang Dũng đã

đưa người đọc đến với miền Tây để cùng đắm say ngắm nhìn vẻ đẹp dữ dội, hiểm
trở mà hùng vĩ nhưng cũng rất thơ mộng, thi vị của thiên nhiên một vùng đất và vẻ
đẹp hào hùng, hào hoa của người lính Tây Tiến.
2. Phân tích
a) Nỗi nhớ của tác giả gắn với thiên nhiên, cuộc sống miền Tây
- Hai câu đầu: chứa chan nỗi nhớ
+ Lời thơ như câu nói chợt thốt lên đầy nhớ nhung, tiếc nuối
+ Từ láy chơi vơi hiệp vần với tiếng ơi cuối dòng thơ đầu mở ra không gian vời vợi
của nỗi nhớ đồng thời diễn tả tinh tế một trạng thái cảm xúc mơ hồ, khó định hình
nhưng rất thực, rất ám ảnh hồn người. (Liên hệ: ca dao, thơ Xuân Diệu)
+ Điệp từ nhớ tô đậm cảm xúc chủ đạo của toàn bài (Liên hệ nhan đề ban đầu của
bài thơ), tạo giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nhờ nỗi nhớ này, người đọc
mới cảm nhận sâu sắc, xúc động tình cảm gắn bó thiết tha, niềm nhớ thương da
diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình khi xa cách.
- Nỗi nhớ dắt nẻo nhà thơ trở về với những kỉ niệm khó quên gắn với thiên nhiên
miền Tây, làm hiện lên một không gian, cảnh vật miền Tây dữ dội, hiểm trở mà
hùng vĩ song cũng thật nên thơ, thi vị:
+ Các từ chỉ địa danh Sông Mã, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch,
Mai Châu gợi chân thực, sống động một vùng không gian miền Tây xa xôi, lạ lẫm,
hoang sơ, bí ẩn (Liên hệ cách dùng từ chỉ địa danh trong thơ Hoàng Cầm, Tố Hữu,
Nguyễn Khoa Điềm).
+ Các chi tiết, hình ảnh thơ giàu chất tả thực được khắc hoạ bằng hệ thống ngôn
ngữ giàu chất tạo hình, cách kết hợp thanh đắc địa, thủ pháp đối lập, cách ngắt nhịp
sương lấp, dốc… khúc khuỷu… thăm thẳm, heo hút cồn mây, thác gầm thét, cọp
trêu người đã giúp người đọc hình dung cụ thể mà ấn tượng về địa hình hiểm trở từ
cảnh núi, đèo, thác… miền Tây.
+ Những hình ảnh hoa về trong đêm hơi, mưa xa khơi, cơm lên khói, mùa em thơm
nếp xôi thấm đẫm cảm xúc lãng mạn, bay bổng là sản phẩm cách cảm nhận tinh tế,
cách dựng cảnh tài hoa của Quang Dũng lại như mở ra trước người đọc một khung
cảnh thiên nhiên, cuộc sống huyền ảo, thơ mộng, có sức quyến rũ lạ kì.

à Quả thực, nỗi nhớ đằm sâu đã khiến Quang Dũng vẽ nên một bức tranh thiên
nhiên, cuộc sống miền Tây mang vẻ đẹp của một bức tranh lụa cổ điển, được miêu
tả theo lối thi trung hữu hoạ.
b) Nỗi nhớ của tác giả gắn với đồng đội cũ là những người lính Tây Tiến
- Kỉ niệm về những cuộc hành quân đầy gian khổ: Sài khao sương lấp đoàn quân
mỏi, có cả nỗi đau mất mát Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ


quên đời được tác giả biểu đạt bằng giọng thơ pha chút ngang tàng. Nhớ về những
kỉ niệm ấy, phải chăng Quang Dũng muốn khắc hoạ nổi bật vẻ đẹp ý chí, nghị lực
phi thường của những người lính Tây Tiến, bày tỏ niềm tự hào về những đồng đội
cũ?
- Lưu giữ trong kí ức đầy nỗi nhớ của Quang Dũng cũng có cả những kỉ niệm chứa
đựng nét đẹp tâm hồn bay bổng, lãng mạn của người lính trong đoàn quân Tây
Tiến qua cái nhìn đầy rung cảm trước thiên nhiên, cuộc sống: súng ngửi trời, hoa
về trong đêm hơi, mưa xa khơi, mùa em thơm nếp xôi. Chính lúc này, người lính
mới hiện ra như người nghệ sĩ đang thả hồn, mở lòng đón nhận đến đắm say vẻ đẹp
của thế giới quanh mình sau mỗi chặng trường chinh Tây Tiến đầy hiểm nguy, thử
thách.
3. Đánh giá chung
- Đoạn thơ chỉ là khúc nhạc dạo đầu của nỗi nhớ chảy dọc mạch thơ Tây Tiến song
cũng đã kịp ghi lại những vẻ đẹp riêng của thiên nhiên, cuộc sống, nhất là vẻ đẹp
của người lính Tây Tiến.
- Nỗi nhớ mà Quang Dũng gửi trong đoạn thơ, bài thơ cũng là nỗi nhớ chung của
những ai từng đi qua vùng đất miền Tây, từng trải qua những năm tháng chiến đấu
đầy gian lao của cuộc kháng chiến chống Pháp. Sự gắn bó của nhà thơ với thiên
nhiên, con người nơi ấy là biểu hiện của tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước.
Đó chính là tình cảm yêu nước cao đẹp trong thơ ca cách mạng Việt Nam.
III. Kết bài
Với bút pháp vừa hiện thực vừa lãng mạn, Quang Dũng vừa diễn đạt tài tình nỗi

gian khổ trên những con đường hành quân của binh đoàn Tây Tiến vừa làm nổi bật
những vẻ đẹp đặc trưng của núi rừng miền Tây. Thiên nhiên trở thành phông nền
cho hình ảnh người lính Tây Tiến trở nên nổi bật – những con người kiên định, lạc
quan, yêu đời, vượt lên trên tất cả “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
Câu 2: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài thơ Tây tiến của Quang Dũng:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
I. Mở bài
- Tác giả:
- Tác phẩm:


- Đoạn thơ: làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến hào hoa, lãng mạn với
những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan văn nghệ và cảnh sông
nước miền Tây thơ mộng qua kí ức của nhà thơ.
II. Thân bài
1. Những vấn đề tổng quát
- Hoàn cảnh sáng tác
- Vị trí đoạn thơ: Đoạn thơ thuộc phần thứ 2 của bài thơ. Khác với đoạn thơ trước,
thiên nhiên và con người miền Tây ở đoạn thơ này là một thế giới khác. Đó là nét
vẽ mềm mại, uyển chuyển, tài hoa, tinh tế, thấm đẫm chất thơ, chất nhạc, chất hào
hoa, lãng mạn của Quang Dũng.
- Đoạn thơ có hai nội dung cơ bản:
+ Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan văn nghệ.

+ Cảnh thiên nhiên, con người miền Tây thật trữ tình, thơ mộng.
2. Phân tích
a) Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan văn nghệ
“ Doanh trại……. hồn thơ”
- Bốn câu thơ đã làm sống lại đêm lửa trại đầy náo nức tươi đẹp mê say. Với nét vẽ
khoẻ khoắn, mê say, Quang Dũng dẫn ta vào một đêm liên hoan văn nghệ, đây là kỉ
niệm đẹp, hấp dẫn nơi xứ lạ. Đêm giao lưu văn nghệ hiếm có giữa Tây Tiến với
nhân dân địa phương thực mà mơ, tươi vui và sống động.
+ Cả doanh trại bừng sáng dưới ánh lửa đuốc bập bùng, tưng bừng hân hoan như
một ngày hội, ngày cưới. Từ “bừng lên” không chỉ thể hiện được sự toả sáng từ
đống lửa trại và ánh đuốc bập bùng, hơn thế còn diễn tả được sự sôi nổi của tiếng
cười, tiếng nói. Hoà theo những âm thanh trầm bổng của tiếng khèn là những cô
gái Tây Bắc lộng lẫy xiêm y vừa e thẹn vừa tình tứ trong vũ điệu mang đậm màu
sắc xứ lạ. Vây quanh và hoà theo những “man điệu” ấy là những chàng trai TT
đang ngất ngây, dạt dào thi hứng.
+ Tâm trạng của những chàng trai TT được hé mở qua tiếng reo “kìa em”. Đó là
tiếng reo vui, sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của những con người Tây Bắc. Rõ ràng
chỉ qua một tiếng reo này thôi đã lộ rõ cốt cách của họ.
à Như vậy chỉ với 4 câu thơ mà hiện rõ cả một thế giới lung linh rộn rã với đuốc
hoa, với xiêm áo dịu dàng của các cô gái vùng cao đang cùng với những chàng lính
nồng nàn thi hứng. Cảnh vật, con người như ngả nghiêng, ngây ngất, bốc men say
rạo rực vì vui sướng được sống trong những giây phút bình yên. Dư âm của chiến
tranh tàn khốc bị đẩy lùi xa để chỉ còn những tâm hồn lãng mạn trong tiếng nhạc,
hồn thơ. Đây là khoảnh khắc thật hiếm hoi trong thời chiến để rồi ngày mai các anh
lại bước vào máu lửa.
b) Cảnh thiên nhiên, con người miền Tây thật trữ tình, thơ mộng
Sau những ngày được nghỉ ngơi, được giao lưu với nhân dân địa phương, Tây
Tiến lại ra đi:



Người đi Châu Mộc… hoa đong đưa.
- Giọng điệu của những câu thơ như trùng lắng xuống, trĩu nặng nỗi niềm, nhịp thơ
cùng với điệp từ “có thấy” hướng về thiên nhiên, “có nhớ” hướng về con người.
Tất cả đều thể hiện nỗi nhớ thương tha thiết, dường như mỗi lúc một tăng thêm.
+ Buổi chia tay ấy diễn ra trong thời khắc “chiều sương” gợi lên thời gian quá
khứ, gợi ra một không gian huyền ảo: một buổi chiều giăng mắc đầy sương.
+ Trong cái không gian sương khói ấy, “nẻo bến bờ” lặng lờ hoang dại như một nỗi
niềm cổ tích và trên cái nẻo bến bờ ấy, những bông hoa lau lay động trong gió
dường như cũng chứa chất hồn thiêng của cây cỏ, sông núi.
+ Cảnh đẹp như mộng lại như tranh, chỉ vài nét chấm phá mà tinh tế, tài hoa:
Quang Dũng không chỉ tả mà chỉ gợi, cảnh thiên nhiên hoang sơ không phải là vô
tri vô giác, mà phảng phất trong gió trong cây như có hồn người: Có thấy hồn lau
nẻo bến bờ. Với nghệ thuật nhân hoá đặc sắc, “hồn lau” không chỉ gợi được cỏ cây
mà còn gợi được cái hồn của nó, thiên nhiên nơi núi rừng Tây Bắc cũng mang tâm
hồn.
+ Nơi sông nước, chiều sương ấy còn ẩn hiện dáng hình của những chàng trai, cô
gái trên chiếc thuyền độc mộc đang lao đi trên mặt nước. Và như hoà hợp với con
người, ngay những bông hoa rừng cũng đầy tình tứ “đong đưa” làm duyên trên
dòng nước lũ. Hình ảnh “hoa đong đưa”, “hoa về”, “hội đuốc hoa” tạo nên màu
sắc mĩ lệ, thơ mộng cho bức tranh thiên nhiên Tây Bắc. Dù rằng không tả mà chỉ
gợi thôi, Quang Dũng đã làm hiện lên một bức tranh thuỷ mặc của thiên nhiên TB.
Đằng sau bức tranh thiên nhiên ấy còn là hình ảnh của những người lính TT đầy
nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên.
à Chất nhạc trong đoạn thơ ngân nga như tiếng hát. Nhạc điệu ấy dường như cất
lên từ tâm hồn ngất ngây, mê say, lãng mạn của cái tôi trữ tình giàu cảm xúc –
Quang Dũng. Đến với đoạn thơ này, ta như đang lạc vào thế giới của cái đẹp, của
cõi mộng, của cõi nhạc. Bức tranh thiên nhiên nhờ vậy mà càng trở nên thơ mộng,
đắm say lòng người.
3. Đánh giá chung
- Đoạn thơ thể hiện vẻ đẹp hoàn chỉnh của người lính Tây Tiến – vừa hào hùng vừa

hào hoa, của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc – vừa hùng vĩ, hoang sơ vừa thơ mộng
trữ tình.
- Bút pháp nghệ thuật: lãng mạn.
- Đoạn thơ đưa người đọc về một miền đất hào hùng và nhớ về một thời oanh liệt
của dân tộc ta trong những năm tháng chiến tranh gian khổ.
III. Kết bài
Với cảm hứng lãng mạn, Quang Dũng đã đưa người đọc trở về với hoài niệm năm
xưa, để được sống lại với những giây phút bình yên hiếm có của thời chiến tranh.
Quang Dũng quả không hổ danh là một hồn thơ tài hoa và lãng mạn, đã dâng hiến
cho người đọc những câu thơ ngây ngất mê say.


Câu 3: Cảm nhận của em về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ
sau
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
I. Mở bài
- Tác giả
- Tác phẩm:
- Nếu ở các đoạn trước, hình ảnh người lính còn ẩn hiện trong bức tranh thiên
nhiên thì ở đoạn này, chân dung Tây Tiến được hiện diện một cách rõ nét nhất với
vẻ đẹp hào hoa, hào hùng, bi tráng.
II. Thân bài
1. Những vấn đề tổng quát

- Hoàn cảnh sáng tác:
- Vị trí đoạn thơ: Đoạn ba. Chân dung người lính Tây Tiến ẩn hiện trong suốt bài
thơ. Nhưng ở đoạn này, nó là đối tượng chính và được miêu tả trực diện trên bức
tranh thơ. Vẻn vẹn chỉ có tám câu thơ mà làm hiện lên từ diện mạo đến tâm hồn,
khí phách, thái độ trước sự sống và cái chết. ở thái cực nào thì chân dung người
lính vẫn toát lên vẻ đẹp hào hoa, bi tráng. Đoạn thơ này, Quang Dũng đã tinh lọc
những nét tiêu biểu nhất của người lính Tây Tiến để tạo nên bức tượng đài tập thể,
khái quát được gương mặt chung của cả đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất
liệu chủ yếu tạo nên vẻ đẹp bi tráng của bức tượng đài.
- Đoạn thơ có 4 nội dung cơ bản:
+ Ngoại hình
+ Đời sống nội tâm
+ Lí tưởng sống
+ Sự hi sinh
2. Phân tích
a) Ngoại hình
Tây Tiến … dữ oai hùm
- Hình tượng những người lính TT đã hiện ra trực tiếp với hai chữ Tây Tiến được
đảo lên đầu nhấn mạnh niềm tự hào kiêu hãnh của đoàn binh. Tiếp đó, hai chữ
“đoàn binh” nhắc chúng ta rằng: đây là chân dung của cả một đoàn quân chứ
không phải chân dung của riêng một người.


- Sau đó, những nét vẽ cụ thể về người lính Tây Tiến hiện ra rõ nét “không mọc
tóc”. Cụm từ này khắc hoạ hình hài kì dị của người lính Tây Tiến với những khó
khăn, gian khổ. Các anh có thể phải cạo trọc đầu để đánh giáp lá cà với giặc, nhưng
phần lớn là do căn bệnh sốt rét – sự khốc liệt của chiến tranh. Căn bệnh hiểm
nghèo đã làm rụng tóc các anh và còn cướp đi bao tính mạng. Quang Dũng đã
không che giấu, né tránh hiện thực nghiệt ngã này. Có điều, nhà thơ miêu tả căn
bệnh quái ác này dưới cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn: có cái gì đó ngang tàng, dữ

dội, cứng cỏi mang khẩu khí người lính Tây Tiến ở cách nói rất chủ động – “không
mọc tóc” chứ không phải “tóc không thể mọc” vì sốt rét.
- Những khó khăn gian khổ của cuộc đời chiến đấu gian khổ, thiếu thốn còn khiến
người lính TT da xanh bủng “Quân xanh màu lá”. Song tất cả những gian khổ, khó
khăn ấy được thể hiện bằng một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn. Nhà thơ đã thể
hiện một cái nhìn, một sự đối lập giữa ngoại hình và nội tâm: “dữ oai hùm”. Như
thế, họ ốm nhưng không yếu, người lính vẫn mang trong mình sức mạnh của ý chí,
khí phách, tinh thần của đoàn quân trong chiến đấu.
à Với hai câu thơ này, Quang Dũng thể hiện cái nhìn vừa mang màu sắc hiện thực
vừa mang màu sắc lãng mạn khi miêu tả bức chân dung ngoại hình của người lính
Tây Tiến để làm nên vẻ đẹp vừa hào hùng vừa hào hoa của họ.
b) Đời sống nội tâm
Mắt trừng gửi mộng… dáng kiều thơm
- Đây là hai câu thơ được đánh giá là đẹp nhất, hay nhất, vẽ thành công nhất chân
dung Tây Tiến hào hùng, hào hoa, lãng mạn:
+ Hình ảnh “Mắt trừng” vừa bộc lộ lòng căm thù và khát vọng giải phóng –
“mộng”, vừa thể hiện sự oai phong, lẫm liệt của trang nam nhi thời loạn.
+ ý chí mạnh mẽ nhưng tâm hồn cũng thật thơ mộng “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều
thơm”. Lòng người lính TT cũng chất chứa biết bao yêu thương luyến nhớ. Trong
tâm tưởng họ hậu phương luôn luôn là cõi đi về. Tuy nhiên ở đây không phải là nồi
nhớ về những giếng nước gốc đa, nhớ về những người vợ trẻ mà là mơ về bóng
dáng những cô gái đất Hà Thành. Những câu thơ này một thời đã bị xem là uỷ mị,
thiếu tinh thần chiến đấu. Nhưng không. Những giấc mơ chấp chới dáng kiều thơm
trở thành động lực để giúp người lính vượt qua mọi khó khăn gian khổ, là lời thúc
giục họ tiến lên phía trước, lại cũng là sợi dây thiêng liêng của niềm tin mang họ
vượt qua bom đạn trở về.
à Quang Dũng diễn tả rất tinh tế tâm hồn người lính trong chiến tranh. Bởi trong
các anh, ai cũng có một trái tim biết yêu thương và biết căm thù.
c) Lí tưởng, khát vọng
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”


- Trong bài thơ, hơn một lần Quang Dũng nói về cái chết, sự hi sinh của người lính
nhưng mỗi khi cảm hứng ấy xuất hiện thì ngay lập tức lại được nâng đỡ bằng đôi
cánh lí tưởng đầy chất bay bổng.
+ Hình ảnh những nấm mộ rải rác nơi biên cương xa xôi, lạnh lẽo, cô quạnh, gợi
cho người lính nỗi bi thương, sợ hãi, chán chường. Nhưng những từ biên cương,
viễn xứ, áo bào lại mang màu sắc cổ kính, trang trọng đã làm giảm đi phần nào nỗi
bi thương. Tinh thần ấy lại được nâng đỡ bằng đôi cánh lí tưởng cao đẹp của người
lính.
+ Đời xanh tuổi trẻ, bao ước mơ khát vọng còn đang ở phía trước, nhưng có gì quý
hơn TQ thân yêu, có tình yêu nào cao hơn TY TQ. Câu thơ vút lên bằng cảm hứng
lãng mạn: “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Những người lính ý thức rất rõ
về sự hi sinh nhưng họ vẫn khát vọng được ra đi, được dâng hiến, xả thân. Hai
tiếng “chẳng tiếc” thốt lên thật nhẹ nhàng. Họ coi cái chết “nhẹ tựa hồng mao”. Đó
là tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
à Quang Dũng không ngần ngại nói đến hi sinh mất mát song không nhấn chìm
người đọc vào cái bi thương bi luỵ. Đó là bởi cảm hứng của ông mỗi khi nói đến
cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lý tưởng và tinh thần lạc quan.
Bởi vậy bài thơ mang đậm chất bi tráng.
d) Sự hi sinh
“áo bào… khúc độc hành”
- Chất bi tráng càng thể hiện rõ hơn ở câu thơ trực tiếp diễn tả cái chết của người
lính:
+ Hình ảnh “áo bào thay chiếu anh về đất” đã diễn tả sự bi thương của những
người lính khi bị hi sinh. Sự thật về Tây Tiến thật bi thảm, lính Tây Tiến ngã gục
trên đường đi do đói rét, bệnh tật, bom đạn không ít. Đồng đội vùi xác các anh
thậm chí không có cả manh chiếu để khâm liệm. Nhưng trong cái nhìn lãng mạn
của Quang Dũng, những liệt sĩ ấy lại như được bọc trong những chiếc áo bào sang

trọng của tướng lĩnh xưa. Hai tiếng “áo bào” két hợp với cụm từ “về đất” thật nhẹ
êm… khiến cho hình tượng người lính mãi mãi bất tử trong lòng đất mẹ.
+ Hình tượng sông Mã trở lại ở đoạn thơ này thật bi tráng “Sông Mã gầm lên khúc
độc hành”. Dòng sông được diễn tả ở thể động, nó “gầm lên” giống như một con
chiến mã trung thành, đau thương khi chứng kiến cái chết của người lính… Dòng
sông lại như khúc tráng ca đưa người lính về với đất, về với cõi vĩnh hằng. Trong
âm hưởng vừa dữ dội, vừa hào hùng của thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh của
người lính Tây Tiến có bi mà không luỵ, ngược lại thấm đẫm chất anh hùng ca của
thời đại Hồ Chí Minh.
3. Đánh giá chung
- Nội dung: Đoạn thơ như bức tượng đài thi ca về người lính bất tử. Hình ảnh
người lính trong cõi sống và cả trong cõi hi sinh đều bi tráng, lãng mạn, hào hùng.


- Nghệ thuật: Giọng thơ trang trọng thể hiện tình cảm đau thương vô hạn và sự trân
trọng, kính cẩn của nhà thơ trước sự hi sinh của đồng đội. Nhà thơ kết hợp cảm
hứng hiện thực và lãng mạn để làm nổi bật vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây
Tiến.
- ý nghĩa: Bài thơ đã ghi lại chặng đường anh hùng của một đơn vị anh hùng và
cũng là tinh thần chung của quân và dân ta trong thời kì kháng chiến chống Pháp
xâm lược.
III. Kết bài
Qua đoạn thơ, Quang Dũng đã tái hiện được bức tranh hoành tráng về cuộc kháng
chiến chống Pháp gian khổ mà vĩ đại của dân tộc ta. Tây Tiến đã trở thành dấu ấn
không thể nào quên trong lòng người chinh chiến và trong lòng thế hệ những bạn
đọc yêu thơ.
Câu 4: Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của
Quang Dũng
I. Mở bài
II. Thân bài

1. Tổng quát
a) Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ ra đời từ niềm nhớ da diết mãnh liệt của nhà thơ một cựu chiến binh Tây Tiến sau một thời gian xa cách những đồng đội cũ cuối
năm 1948.
b) Nhan đề:
- Tây Tiến là tên một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối
hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở
thượng Lào cũng như ở miền Tây Bắc Bộ Việt Nam; Chiến sĩ Tây Tiến phần đông
là thanh niên Hà Nội trong đó có nhiều học sinh, sinh viên; họ thường xuyên phải
hành quân trong địa hình hiểm trở, sinh hoạt và chiến đấu trong điều kiện vô cùng
thiếu thốn về vật chất, lại bị bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Song họ vẫn rất lạc
quan và chiến đấu dũng cảm.
c) Nội dung cơ bản về hình tượng người lính:
- Từng sống và chiến đấu trong đoàn quân ấy, QD có cơ hội thấu hiểu những gì mà
bản thân và đồng đội đã trải qua. Từ đó, những trang thơ Tây Tiến tuôn trào và làm
sống dậy hình tượng người lính tỏng sự hài hoà kì diệu của hai vẻ đẹp vừa thật hào
hùng vừa rất đỗi hào hoa.
2. Phân tích
a) Vẻ đẹp hào hùng
- Vẻ đẹp hào hùng của những người lính Tây Tiến được khắc hoạ tập trung trong
tương quan với khung cảnh thiên nhiên miền Tây hiểm trở, dữ dội, hùng vĩ.
- Biểu hiện cụ thể:


+ Trên nền thiên nhiên ấy, nhà thơ khắc hoạ sống động vẻ đẹp lí tưởng yêu nước
cao cả của người lính. Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” chỉ có bảy
tiếng nhưng đã kết tinh được vẻ đẹp lí tưởng yêu nước của những chàng trai thanh
niên Hà Nội. Câu thơ đó vang lên như một lời thề. Giọng thơ pha chút ngang tàng,
ngạo nghễ. Đúng là cái giọng của trượng phu coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Họ –
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng (Chính Hữu) – mang cái chí của nam
nhi thời loạn tự nguyện xếp bút nghiên ra sa trường, coi Gian nan là nợ anh hùng

phải vay nên sẵn sàng dấn thân, thậm chí xả thân cho Tổ Quốc Tuổi xanh chẳng
tiếng xá chi bạc đầu ( Tố Hữu). Lời thơ nhắc ta nhớ đến câu thơ Gian nhà không
mặc kệ gió lung lay (Đồng chí – Chính Hữu). Đối với người nông dân, còn gì quý
giá hơn ngôi nhà, mảnh ruộng, vậy mà vì đất nước, họ sẵn sàng từ bỏ. Đối với
người thanh niên trí thức, còn gì đáng trân trọng hơn quãng đời tuổi trẻ, vậy mà vì
Tổ quốc, họ tự nguyện hiến dâng. Những người lính ấy, tuy xuất thân khác nhau
những vẫn chung cách nói ngang tàng, chung một thái độ đầy dứt khoát, quyết tâm
dấn thân, xả thân vì cuộc kháng chiến. Sâu xa, là cùng chung lí tưởng cứu nước
Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.
+ Có lí tưởng cao đẹp như ngọn lửa soi đường, người lính Tây Tiến được tiếp thêm
sức mạnh để có ý chí, quyết tâm và nghị lực đối mặt, vượt lên mọi thử thách. Cuộc
hành quân vạn lí trường chinh về miền Tây quả là một thách thức với người lính,
nhất là những người lính xuất thân từ lớp thanh niên, trí thức Hà Nội. Biết bao khó
khăn chồng chất: sự hiểm trở của địa hình (…), sự rình mò của thú dữ (…), sự oai
linh của chốn rừng thiêng nước độc (…), sự dài dầu thân xác trong một thời gian
dài dặc (Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi), sự hoành hành của bệnh tật nơi lam
sơn chướng khí (…) … vậy mà những người lính ấy không hề nản chí, chùn bước.
+ Nhờ có nghị lực, ý chí phi thường, vẻ đẹp hào hùng của người lính mới càng toả
sáng, ngời lên khi đối mặt với cái chết – thử thách nghiệt ngã nhất. Trong bài thơ,
tác giả không ít lần nhắc đến cái chết – sự thật tàn khốc của chiến tranh:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa / Gục lên súng mũ bỏ quên đời;
Rải rác biên cương mồ viễn xứ / Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ áo bào thay
chiếu anh về đất
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.
Song qua cái nhìn đầy chất men say lãng mạn, cách thể hiện giàu chất sử thi của
người viết, ấn tượng hãi hùng, nặng nề về cái chết đã được thay thế bằng ấn tượng
thật tự hào, nhẹ nhõm, thư thái, thanh thản. Với QD, với những người lính TT, khi
ngã xuống là lúc được trở về với vòng tay bao bọc, chở che ấm áp, bao dung của
đất Mẹ. Bởi thế chăng mà nhà thơ đã tiễn đưa những đồng đội hi sinh bằng câu thơ
thấm đẫm tinh thần bi tráng Sông Mã gầm lên khúc động hành? Dòng sông Mã

thành con chiến mã, gầm lên khúc độc hành bi phẫn làm kinh động cả chốn rừng
thiêng. Lời thơ như làm sống lại cái không khí chiến trận trong những bản anh


hùng ca thời cổ. Có lẽ vì vậy mà hôm nay đọc lại những câu thơ này, ta thấy tiếc
thương, tự hào, kiêu hãnh chứ không chìm trong buồn đau, chán nản, bi quan.
Người lính TT qua hồi tưởng của nhà thơ hiện ra kì vĩ, oai phong, kiêu dũng, thật
hào hùng, bi tráng.
b) Vẻ đẹp hào hoa
- Vẻ đẹp hào hoa được khắc hoạ tập trung trong tương quan với khung cảnh Tây
Bắc: Những người lính Tây Tiến, qua ngòi bút QD, còn được khám phá với những
vẻ đẹp hiếm có. Cái nhìn đa chiều về con người đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua
cái vẻ oai hùng, tưởng dữ dằn bề ngoài của họ là những tâm hồn vô cùng nhạy
cảm, tinh tế; những trái tim khát khao rạo rực nỗi nhớ tiếc thương. Để khám phá và
thể hiện chân thực vẻ đẹp hào hoa của người lính, nhà thơ đã đặt hình tượng nghệ
thuật nay trong tương quan với khung cảnh nên thơ, thi vị, huyền ảo, duyên dáng
của thiên nhiên miền Tây.
- Biểu hiện:
+ Trước hết, vẻ đẹp ấy được khắc hoạ qua cách cảm nhận tài hoa, tinh tế những vẻ
đẹp của thiên nhiên miền Tây.
·
Dường như cứ mỗi lần vượt qua được một thử thách, những người lính
không bỏ qua một cơ hội nào để thưởng thức những vẻ đẹp cảnh vật nơi xứ
lạ phương xa. Họ ngỡ ngàng nhận ra hoa về trong đêm hơi nơi Mường Lát.
Họ sảng khoái biết bao lúc ngắm Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi. Họ thực
sự thấy ấm áp khi cảm nhận hương vị cơm lên khói, thơm nếp xôi vùng đất
Mai Châu. Cũng chỉ những chiến sĩ Tây Tiến mới nhìn những bó đuốc cháy
sáng trong đêm hội liên hoan ở một vùng đất như đã bị lãng quên, hoang vu,
âm u thành đuốc hoa, mới thấy hoa đong đưa như làm duyên cùng dòng
nước lũ.

·
Đặc biệt, chất hào hoa gửi vào cái nhìn cảnh vật đã tạo nên câu thơ ám
ảnh
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Câu thơ mở ra không gian vùng sông nước miền Tây trong một buổi chiều sương,
gắn với một sự kiện đã thành kỉ niệm, đó là cuộc chia tay. Bản thân sự kiện này đã
chứa đựng một nỗi buồn. Chia tay vào buổi chiều càng buồn. Chia tay trong buổi
chiều sương càng buồn hơn. Bởi những làn sương giăng mắc có thể làm cho không
gian chiều miền sông nước trở nên huyền ảo nhưng cũng chính nó lại phủ mờ tầm
nhìn, tạo nên một khoảng cách xa trong tâm trí người ở kẻ đi. Lời thơ chiều sương
ấy còn gợi một không gian hoài niệm gắn với hồn lau nẻo bến bờ khiến ý thơ gợi
về một cái gì đó thăm thẳm. Hai chữ hồn lau thực chất gợi tả hoa lau với màu trắng
bạc đầy gợi cảm hiện hữu nơi không gian nẻo bến bờ xa vắng và quên lãng, qua
cách cảm nhận của những chiến sĩ Tây Tiến như có điệu hồn. Trong thơ QD, ta
từng gặp một sắc hoa lau thật gợi cảm Hoa lau trắng bạc trời Yên Thế. Phải chăng


đó là hình ảnh lưu giữ tình cảm thiết tha mà người dân miền Tây dành cho những
chiến sĩ Tây Tiến khi xa, cũng là mảnh hồn người chiến sĩ Tây Tiến gửi lại Mộc
Châu lúc từ giã? Lời thơ còn hướng ta đến một cảm nhận thật thú vị, nếu không có
bước chân những chiến sĩ Tây Tiến, hoa lau sẽ như chưa từng được biết, dù vậy nó
vẫn nở trong thầm lặng. Điệu thơ có gì đó xa xót trước một vẻ đẹp bị lãng quên.
Đó là chất đi sĩ sâu thẳm trong tâm hồn người lính Tây Tiến được đánh thức trong
khoảnh khắc giao cảm bất ngờ với hồn tạo vật.
+ Những câu thơ viết về nỗi nhớ mới thật làm cho vẻ đẹp hào hoa nơi tâm hồn
người lính được thăng hoa. Thơ ca kháng chiến viết nhiều về nỗi nhớ của người
lính. Nỗi nhớ đầy cảm thương dành cho ít nhiều người vợ trẻ/ Mòn chân bên cối
gạo canh khuya (Nhớ – Hồng Nguyên) của người lính áo vải, ra đi từ những miền
quê nghèo khó, lam lũ. Nỗi nhớ da diết, bồn chồn mắt người yêu trong Những đêm

dài hành quân nung nấu (Đất nước – Nguyễn Đình Thi) của những chàng trai thủ
đô. Quang Dũng chọn cho mình một cách nói riêng, một thứ ngôn ngữ biểu đạt
riêng Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm vô cùng lãng mạn, bay bổng. Ba chữ dáng
kiều thơm gợi tả thật tinh tế hình ảnh những thiếu nữ Hà Nội thanh lịch, duyên
dáng, yêu kiều. Họ là tâm điểm nỗi nhớ, niềm khát khao cháy bỏng nơi sâu thẳm
trái tim, tâm hồn những người con Hà Nội xa quê. Có một thời, câu thơ bị coi là
chứa cái “mộng rớt” tiểu tư sản, uỷ mị, yếu đuối, nó sẽ làm nhụt chí con người.
Song, cùng với thời gian, người ta nhận ra trong lời thơ, ý thơ tiềm tàng một nguồn
sức mạnh tinh thần. Chính nỗi nhớ, ước mơ hướng về một góc phố, một ngõ nhỏ,
về những dáng kiều thơm ấy đã tiếp sức, nâng bước cho những người lính trẻ Hà
Nội vững vàng, quyết tâm dấn thân, xả thân. Bởi họ hiểu hơn ai hết mình đang đổ
máu, hi sinh là để giữ gìn, bảo vệ những gì đẹp nhất của quê hương đất nước.
3. Đánh giá chung
- Giá trị nội dung: Bài thơ khắc hoạ thành công hình tượng tập thể những chiến sĩ
TT trong sự hoà hợp tự nhiên vẻ đẹp hào hùng: đầy ý chí, nghị lực, quyết tâm bởi
mang trong mình lí tưởng cứu nước cao cả và vẻ đẹp rất đỗi hào hoa: nhạy cảm,
tinh tế trong cái nhìn, cách cảm nhận về vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc sống, con người.
Đó là hình tượng nghệ thuật đã kết tinh được vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách
mạng Việt Nam những năm kháng chiến chống Pháp.
- Đặc sắc nghệ thuật: Vẻ đẹp hình tượng nghệ thuật này là kết quả cái nhìn đa
chiều, chân thực, giàu chất nhân văn về con người của Quang Dũng. Đó còn là sản
phẩm của bút pháp nghệ thuật sử thi được nâng đỡ bởi cảm xúc lãng mạn của một
nghệ sĩ cũng rất lãng mạn, tài hoa. Thế nên, chỉ ở Tây Tiến mới có được tượng đài
nghệ thuật vừa bay bổng vừa bi tráng về những chiến sĩ vệ quốc thời kì đầu chống
Pháp.
- ý nghĩa của hình tượng:
+ Có ai đó nói rằng: Lịch sử dân tộc không bao giờ lặp lại cái thời thơ mộng, lãng
mạn, hào hùng như thế trong một hoàn cảnh khó khăn gian khổ, khốc liệt như vậy.



Vì thế, sự tồn tại của bài thơ là cần thiết, sức sống của hình tượng người lính TT là
không thể phủ nhận
+ Vẻ đẹp hình tượng người lính TT trong bài thơ giúp mỗi chúng ta hôm nay thêm
hiểu và càng tự hào về dân tộc trong quá khứ. Điều đó có ý nghĩa hơn là giúp mỗi
chúng ta nhận rõ hơn trách nhiệm của bản thân trước hiện tại và tương lai đất nước.
III. Kết bài
Đã qua đi hơn nửa thế kỉ nhưng bài thơ Tây Tiến vẫn mãi mãi ghi sâu trong tâm trí
người đọc bức tượng đài thi ca về người lính bất tử. Hình ảnh người lính trong cả
cõi sống và chết đều bi tráng, lãng mạn, hào hùng, hào hoa. Vẻ đẹp ấy không chỉ là
vẻ đẹp riêng của người lính Tây Tiến mà còn là tinh thần, vẻ đẹp chung của hình
tượng người lính Tây Tiến mà còn là tinh thần, vẻ đẹp chung của hình tượng người
lính trong suốt các cuộc trường chinh vệ quốc vĩ đại của dân tộc.
VIỆT BẮC - TỐ HỮU

Câu 1: Trình bày đặc điểm phong cách nghệ thuật của nhà thơ Tố Hữu
1/ Quan điểm sáng tác
- Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản, ông làm thơ để tuyên truyền lí tưởng ấy
trong quần chúng nhân dân. Thơ Tố Hữu vì thế là thơ chính trị. Nhưng nói như
Xuân Diệu, “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ tình”.
Nội dung thơ của ông là những tình cảm trong quan hệ đối với cộng đồng: Tình
đồng chí, đồng bào, tình cảm đối với quê hương cách mạng, với công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, với miền Nam thành đồng tổ quốc, với lãnh tụ,
với anh bộ đội, anh giải phóng quân, với những nhân vật anh hùng…. hầu như
không có tình cảm cá nhân trong thơ Tố Hữu.
2/ Phong cách nghệ thuật
- Có hai nhân tố tác động tới sự hình thành phong cách thơ Tố Hữu: một là yêu cầu
tuyên truyền lí tưởng cách mạng đối với quần chúng, hai là môi trường sống của
nhà thơ thời thơ ấu, môi trường gia đình, môi trường văn hoá nghệ thuật của Huế
* Phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu thể hiện những nét sau đây:
- Thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình chính trị sâu sắc. Trong thơ ông ta thấy

những vấn đề lí tưởng cách mạng, đời sống cách mạng và các sự kiện chính trị


quan trọng của đất nước, của dân tộc đều trở thành nguồn cảm xúc, tình cảm to lớn
khơi gợi nguồn cảm hứng thực sự.
- Thơ Tố Hữu là thơ của lí tưởng cộng sản, nhân vật trong thơ ông là những chiến
sĩ mang lí tưởng cách mạng, các sự kiện trong thơ ông đều là những sự kiện của
lịch sử cách mạng, tình cảm trong thơ ông cũng là những tình cảm cách mạng, tuy
nhiều khi thể hiện dưới hình thức tình yêu, tình mẹ con, tình bạn… Vì thế thơ Tố
Hữu cũng tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
- Thơ Tố Hữu có giọng điệu tâm tình ngọt ngào, thường thể hiện ân tình thuỷ
chung với cách mạng. Người ta nói đó là giọng của người Huế, của dân Huế và của
bà mẹ dịu hiền của nhà thơ.
- Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc, nhưng nghiêng về tính dân tộc truyền thống
quen thuộc với đại chúng, vì nhà thơ có nhu cầu đưa lí tưởng cách mạng vào đại
chúng.
Câu 2: Cảm nhận của em về đoạn thơ sau:
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay
- Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai



×