Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Tìm hiểu một số mô hình tập đoàn báo chí trên thế giới và vấn đề xây dựng tập đoàn báo chí ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.82 KB, 46 trang )

Mục lục
Mở đầu.
Nội dung.
Chương I: Tập đoàn báo chí
1. Khái niệm về tập đoàn báo chí
2. Nguyên nhân và dạng thức hình thành các tập đoàn báo chí
3. Những tập đoàn báo chí nổi tiếng trên thế giới
3.1. Rupert Murdoch – huyền thoại của truyền thông thế giới
3.2. Tập đoàn báo chí lớn ở Mỹ
3.3. Tập đoàn báo chí lớn ở Pháp
Chương II: Ưu, nhược điểm của tập đoàn báo chí
1.

Ưu điểm

2.

Nhược điểm
Chương III: Chủ trương hình thành tập đoàn báo chí ở Việt

Nam
1. Những tiền đề để ra đời tập đoàn báo chí ở VN
2. Những động thái cởi mở của nhà nước đối với việc thành lập tập
đoàn báo chí ở VN
3. Các bước chuẩn bị của các tờ báo có triển vọng trở thành tập đoàn
báo chí ở VN
Kết luận
Tài liệu tham khảo.


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ở Việt Nam, các điều kiện khách quan và chủ quan gần như đã chín muồi cho việc
triển khai mô hình tập đoàn báo chí. Sau 20 năm đổi mới, báo chí Việt Nam đã lớn mạnh
về mọi mặt và đang có nhu cầu vươn cao, vươn xa hơn nữa. Trên thế giới, từ hơn 100
năm nay, đã có việc các cơ quan báo chí sáp nhập thành tập đoàn, hướng đến mục tiêu
lợi nhuận kinh tế, mở ra một huớng làm kinh tế cho ngành công nghiệp báo chí – truyền
thông, biến ngành này trở thành một ngành kinh doanh nhiều lợi nhuận. Xu hướng của
các tập đoàn truyền thông hiện nay là vươn ra ngoài lãnh thổ, bởi sự phát triển của các
tập đoàn trong nước đã đến hồi tới hạn. Trong khi đó, châu Á, trong đó có Việt Nam ta,
lại là một thị trường giàu tiềm năng và mới bước đầu được khai phá. Cùng với đợt sóng
này là đợt sóng toàn cầu hoá, khi Việt Nam chuẩn bị gia nhập vào WTO, như vậy, việc
có một tập đoàn làm đối tác của các tập đoàn truyền thông khác, nắm giữ thế chủ động
được xem như là một việc làm cần kíp. Trên cơ sở nhận định tình hình trong và ngoài
nước, nhà nước đã đưa ra chủ trương cho phép hình thành các tập đoàn báo chí, và trước
mắt, tạo một số điều kiện nền tảng để báo chí gia tăng tiềm lực kinh tế. Đề tài NCKH
SV “Tìm hiểu một số mô hình tập đoàn báo chí trên thế giới và vấn đề xây dựng tập
đoàn báo chí ở Việt Nam” muốn dự phần vào công việc mà Thứ trưởng Bộ Văn hóa –
Thông tin Đỗ Quý Doãn đã chỉ ra: “Trên thế giới có nhiều tập đoàn báo chí. Mỗi mô
hình có những ưu điểm, đặc trưng riêng của từng nước. Chúng ta nên lựa chọn, học tập
để xây dựng một mô hình cho phù hợp. Đây là một vấn đề rất mới. Chúng ta phải vừa
làm, vừa rút kinh nghiệm”.
2. Tình hình nghiên cứu:
Tập đoàn báo chí là một mô hình kinh tế báo chí đã xuất hiện từ rất lâu trên
thế giới, và chủ yếu được các nhà nghiên cứu báo chí – truyền thông trên thế giới tiếp
cận dưới hai góc độ: lịch sử báo chí và xã hội học truyền thông. Do việc hình thành các
tập đoàn báo chí ở các nước tư bản phương Tây tuân theo quy luật phát triển kinh tế, các
nghiên cứu phương Tây không nghiên cứu mô hình kinh tế, mà chủ yếu nghiên cứu về
vai trò của các tập đoàn truyền thông trong đời sống xã hộivà đặc biệt là về tác động của



chúng đối với chất lượng báo chí. Riêng đối với các quốc gia đang phát triển có đặc
điểm tương đồng với Việt Nam, công tác nghiên cứu lại chú trọng đến mô hình kinh tế,
bởi thị trường truyền thông ở các quốc gia này hoặc là chưa hình thành hoặc là đang cần
tìm một hướng phát triển. Chính do động cơ “đi tắt đón đầu”, các quốc gia này đã thực
hiện các nghiên cứu về lý thuyết và triển khai ứng dụng mô hình tập đoàn báo chí từ hơn
chục năm trước đây. Ở Trung Quốc, một quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt
Nam nhất, công tác nghiên cứu cũng đã được triển khai từ trước năm 1996 – năm mà tập
đoàn báo chí đầu tiên (tập đoàn báo chí Quảng Châu) tuyên bố thành lập. Tuy nhiên, do
đặc thù về mặt chính trị, nhu cầu nghiên cứu về mô hình tổ chức và hoạt động của các
tập đoàn báo chí mới chỉ trở nên bức thiết ở xã hội Việt Nam trong thời gian gần đây. Có
thể nói, Quyết định 219 của Chính phủ tháng 9/2005 về việc phê duyệt Chiến lược phát
triển thông tin đến năm 2010 đã chính thức khởi động cho các công trình nghiên cứu về
mảng đề tài này. Kể từ sau khi có chủ trương thành lập tập đoàn, giới làm báo đã công
khai bàn luận về vấn đề “tập đoàn báo chí”: làm thế nào? Như thế nào? Triển vọng ra
sao? Một số báo cũng bày tỏ tham vọng vươn mình thành tập đoàn, như Tiền Phong,
Viet Nam Net, Tuổi Trẻ,… Họ cũng tự mình tìm hiểu các mô hình tập đoàn báo chí trên
thế giới để áp dụng ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc làm này chủ yếu mang tính nội bộ.


NỘI DUNG
I. Tập đoàn báo chí
1. Khái niệm về tập đoàn báo chí:
Đối với báo chí thế giới, các thuật ngữ như ngành báo chí newspaper industry,
ngành truyền thông media industry và kinh tế báo chí media economics từ lâu đã trở
thành quen thuộc. Đó là vì tiến trình lịch sử của báo chí thế giới đến khoảng giữa thế kỉ
19 đã có một bước ngoặt lớn, những người làm báo bắt đầu chú ý đến mục tiêu kinh tế
trong hoạt động báo chí và biết cách tổ chức điều hành hoạt động báo chí (Mặc dù vậy, ở
thời buổi quảng cáo chưa phát triển, phương cách hữu hiệu để đạt được mục tiêu kinh tế
mới chỉ là cải tiến nội dung để tăng doanh số phát hành.)
Có thể thấy rõ bước ngoặt nêu trên khi nghiên cứu nền báo chí Mĩ – một trong

những nền báo chí mạnh nhất thế giới, đặc biệt là ở giai đoạn sau cuộc nội chiến 1865 –
1867.
Thật vậy, đứng trên quan điểm lịch sử, chúng tôi nhận thấy thực trạng báo chí
ngày nay ở một số quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, có nhiều điểm tương
đồng với thực trạng báo chí nước Mĩ hơn 100 năm về trước, nổi bật là khuynh hướng
báo chí làm kinh tế.
Bối cảnh đó cho phép chúng tôi nhận diện cái nôi hình thành các tập đoàn báo chí
– truyền thông ở Mĩ (nơi xuất phát của các tập đoàn truyền thông lớn nhất thế giới hiện
nay) thông qua ba hiện tượng: sự ra đời của nghề làm báo mới new journalism (phân
biệt với thuật ngữ new media trong thời đại Internet), sự giàu có của nghề làm báo vàng
yellow journalism, và sự hình thành các hệ thống báo dây chuyền newspapers chains.
Nghề làm báo mới ở Mĩ ra đời đưa đến sự phát triển rầm rộ của báo chí Mĩ. Vào
thời kì đó, báo chí trở thành “những công ty hùng mạnh, giàu có, tự đảm bảo được về
phương diện kinh tế và nhờ đó, phát huy tốt hoạt động làm báo”. Đến cuối thế kỉ 19,
báo chí Mĩ đã trở thành một nền kinh doanh lớn, có tính độc lập tương đối trong đời
sống xã hội. Những nhận định trên cho thấy xuất phát điểm của các tập đoàn báo chí
truyền thông phải là những công ty hùng mạnh, tự chủ được về tài chính.


Nghề làm báo vàng đánh dấu sự xuất hiện của những “Citizen Kane” trong làng
báo thế giới, những con người biết cách đem lại sự hùng mạnh cho các tờ báo trên
phương diện làm kinh tế. Báo chí Mĩ thời kì này đã “mấp mé”, “manh nha” hoạt động
theo mô hình tập đoàn. Bằng những tờ báo mạnh, W.Randolph Hearst – ông vua của
nghề làm báo vàng, đã “thật sự thành công, đem lại gia tài đồ sộ”. Hearst không “dừng
lại ở lĩnh vực làm báo, ông ta còn chuyển sang lĩnh vực xuất bản, lĩnh vực tạp chí và ở
bất kì lĩnh vực nào cũng thành công”, đặc biệt là với các tờ hướng đến nhóm đối tượng
riêng biệt như Beautiful House (Nhà Đẹp), Good House Keeping (Nội Trợ Giỏi), …
Những nhận định trên cho thấy hướng phát triển của các “công ty hùng mạnh” chính là
từ việc gia tăng số lượng các ấn phẩm làm ăn hiệu quả, đồng thời mở rộng kinh doanh
sang các lĩnh vực có liên quan đến báo chí.

Bước sang thế kỉ 20, một bước tiến gần hơn với mô hình tập đoàn báo chí, đó
chính là hiện tượng báo dây chuyền, nổi bật với tên tuổi của hai nhân vật E.W.Scripps và
Hearst. Hiện tượng báo dây chuyền ra đời nhằm “khai thác mối liên kết, mối quan hệ
giữa nhiều tờ báo để hỗ trợ nhau về phương diện nghề nghiệp”. Điều đó có thể coi là
một nhu cầu tất yếu. Sự liên kết này diễn ra trên cơ sở các tờ báo có chung một chủ sở
hữu (ông trùm), hoặc thuộc về một liên minh báo chí nào đó (vương triều báo chí).
Scripps cũng chính là người đưa ra công thức để thành lập hệ thống báo chí:
- Người điều hành những tờ báo của dây chuyền phải là những người trẻ tuổi và
đứng tên đồng sở hữu (có chân trong liên minh báo chí), ở vai trò làm chủ bút, hoặc chủ
báo.
- Phối hợp hài hoà giữa hai hành vi sáp nhập (mua lại các tờ báo) và sáng lập. Chỉ
nên sáng lập và mua báo ở những thành phố hạng trung, để tránh tình trạng cạnh tranh
thua lỗ.
- Bán báo giá rẻ, phải trả tiền cho hệ thống phát hành. (Vào thời của Scripps, báo
có giá đồng loạt 1 xu.)
- Vận động cho những mục đích, những lợi ích chung của xã hội, đặc biệt là tầng
lớp người nghèo.


Đây chính là những điều căn bản mà các tập đoàn báo chí lớn trên thế giới hiện
nay vẫn thường ứng dụng trong chiến lược kinh doanh của mình.
Giả thuyết “ba hiện tượng” được kiểm nghiệm qua lịch sử (tự soạn thảo và đăng
tải trên Internet) của một số tập đoàn báo chí lớn trên thế giới. Cho đến nay, theo quy
luật phát triển của nền kinh tế báo chí, hai hệ thống báo dây chuyền của E.W.Scripps và
Hearst đã phát triển lên thành các tập đoàn The E.W.Scripps Company và Hearst
Corporation tiếng tăm trên đất Mĩ.
Như vậy, con đường phát triển tất yếu của ngành công nghiệp báo chí – truyền
thông là từng bước chuẩn bị những yếu tố cần thiết để trở nên lớn mạnh: đầu tiên là đổi
mới tư duy theo hướng chú trọng mục tiêu kinh tế (nghề làm báo mới), mở rộng hoạt
động kinh doanh sang các lĩnh vực truyền thông khác (nghề làm báo vàng), mở rộng

năng lực quản lý, điều hành đối nội và đối ngoại ở hàng loạt tờ báo (hiện tượng báo dây
chuyền), tham gia năng động vào nên kinh tế như những doanh nghiệp thực thụ (các tập
đoàn báo chí hùng mạnh). Nền báo chí Mĩ đã tuân theo quy luật phát triển đó, được đánh
giá là một trong những nền báo chí mạnh nhất thế giới, sở hữu nhiều tập đoàn báo chí –
truyền thông hàng đầu nhất thế giới. Đối với Mĩ, ngay từ buổi đầu rẽ vào bước ngoặt
kinh tế, người ta đã coi báo chí – truyền thông là một trong những ngành công nghiệp
nặng và cho phép nó phát triển đến mức tối đa.
Hiện nay, báo chí xuất bản bằng tiếng Anh của Việt Nam dịch cụm từ “tập đoàn
báo chí” là “press group”. Tuy nhiên, thông qua một số trang web khác, đặc biệt là trang
web của Hiệp hội báo chí thế giới (World Association of Newspapers - WAN), có thể
thấy “press groups” được sử dụng để chỉ “các nhóm báo in”, không tính đến các loại
hình báo khác. Trong phần giới thiệu các thành viên của mình, WAN đã đề cập đến “nine
regional and world-wide press groups”, nghĩa là “chín nhóm báo in có quy mô toàn cầu
và quy mô khu vực”. Trang web nghiên cứu thị trường MarketResearch.com có phạm vi
nghiên cứu trải rộng trên toàn cầu, đặc biệt là ở Mĩ, Anh, châu Âu và châu Á cho thấy rõ
hơn ý nghĩa của thuật ngữ này. Trong báo cáo về “Báo chí Trung Quốc” (China
Newspaper Industry) xuất bản vào 08/04/2005, MarketResearch.com dùng thuật ngữ
“press group” để chỉ Guangzchou Daily Press Group, mà Việt Nam vẫn quen gọi là tập


đoàn báo chí Quảng Châu. Như vậy, “press group” thông thường được sử dụng để gọi
các tổ chức có hạt nhân là một cơ quan báo in nổi tiếng lâu đời, và cơ quan này có tham
gia các hoạt động kinh doanh bổ trợ khác.
Tuy nhiên, về mức độ phổ biến trong việc chỉ các tập đoàn báo chí – truyền thông,
“press group” phải nhường bước cho một số thuật ngữ khác. Trong buổi đến thăm và
làm việc ở Khoa Ngữ văn & Báo chí (ĐH KHXH & NV TP.HCM) vào ngày 22/02/2006,
Giáo sư Richard Shafer (ĐH North Dakota, Mĩ) có lời khuyên nên sử dụng các thuật ngữ
“media conglomerate”, “media convergence” để có thể tiếp cận vấn đề cần nghiên cứu.
Theo wikipedia, “media conglomerate” dùng để chỉ các tổng công ty sở hữu một
con số lớn các công ty con hoạt động trong những loại hình truyền thông khác nhau như

truyền hình, phát thanh, xuất bản, điện ảnh, và Internet. Xét trên khía cạnh thuật ngữ
kinh tế, “conglomerate” chỉ một công ty lớn (tổng công ty) bao gồm nhiều công ty con
có vẻ ngoài là các doanh nghiệp không liên quan gì đến nó. Cuốn từ điển bách khoa trên
mạng này cũng cho biết: “Một vấn đề được đặt ra, kể từ năm 2006, là liệu các công ty
truyền thông (media companies) có thật không liên quan nhau hay không.”. Và theo
wikipedia, người ta còn sử dụng thêm thuật ngữ “media group” (theo lối hiểu như press
group nhưng bao trùm trên tất cả các loại hình truyền thông, không riêng gì loại hình báo
in)
Trang web wikipedia đưa ra một số “media conglomerate” lớn trên thế giới như:
AT&T, Berlusconi Group, Bertelsmann, Canwest Global, General Electric, Hearst
Corporation, Lagardère Media, Liberty Media, News Corporation, Sony, Time Warner,
The Times Group (phân biệt với Nhóm báo Times của tập đoàn News Corporation),
Viacom, Vivendi Universal, Walt Disney Company, … Tác giả Robert W McChesney
trong bài viết “The New Global Media: It’s a Small World of Big Conglomerate” (1999)
cũng cho biết thị trường truyền thông toàn cầu nằm dưới quyền thống trị của 8 tập đoàn
xuyên quốc gia cai trị thị trường truyền thông Mĩ: General Electric (GE), AT &
T/Liberty Media, Disney, Time Warner, Sony, News Corporation, Viacom và Seagram,
cộng với Bertelsmann, một tập đoàn của Đức. Tuy lĩnh vực kinh doanh chính của GE và
AT&T không phải là lĩnh vực truyền thông nhưng GE sở hữu tập đoàn truyền thông nổi


tiếng NBC, AT & T có công ty con Liberty Media, và cả hai tập đoàn này đang có dự
định thu nạp các tài sản truyền thông nếu thấy cần thiết.
Thuật ngữ “media convergence” (hội tụ truyền thông) có những thuật ngữ tương
đồng như “media consolidation” (tập hợp truyền thông) và “concentration of media
ownership” (sự tập trung trong lĩnh vực sở hữu truyền thông). Đây là một thuật ngữ phổ
biến trong giới phê bình truyền thông cũng như các nhà làm luật khi đề cập đến phương
thức sở hữu các phương tiện truyền thông của các doanh nghiệp.
Thuật ngữ “media convergence” có sự liên hệ mật thiết với thuật ngữ “media
conglomerate” ở chỗ sự tập trung sở hữu trong lĩnh vực truyền thông thường kéo theo sự

hình thành các “media conglomerate”. Khi một doanh nghiệp sở hữu nhiều loại hình
truyền thông khác nhau, nó được xem như là một “media conglomerate”. Sáu “media
conglomerate” hiện thời là Disney, Viacom, Time Warner, News Corp, Bertelsmann, và
General Electric sở hữu hơn 90% thị trường truyền thông toàn cầu.
Như vậy, hiện tượng “media convergence” hay “concentration of media
ownership” chính là khởi điểm để hình thành các “media conglomerate” (các tập đoàn
truyền thông) ở các nước phương Tây. Một lần nữa, giả thuyết về con đường hình thành
các tập đoàn truyền thông trên thế giới được khẳng định thông qua chính bản thân các
thuật ngữ.
Ngoài ra, trên thế giới còn sử dụng một số thuật ngữ khác dùng để chỉ “tập đoàn
báo chí” như: media organization, media group, media mega-group, media empires,
media giants, media corporations … Nhưng đó là thuật ngữ dành cho các nhà nghiên
cứu. Đối với bản thân các “tập đoàn báo chí”, tên gọi của tập đoàn phụ thuộc vào hình
thức đăng ký kinh doanh. Có nơi gọi mình là company, có nơi lại gọi là group, có nơi gọi
là corporation, có nơi gọi là holdings, … Do đó, việc có hay không có để danh xưng “tập
đoàn báo chí” không quan trọng bằng nội lực thực sự của mỗi doanh nghiệp truyền
thông.
Ở nước ta vẫn sử dụng lẫn lộn hai thuật ngữ “báo chí” và “truyền thông”, đôi khi
đánh đồng chúng với nhau. Do đó, để hiểu cho đúng, phải xem “tập đoàn báo chí” là một


thuật ngữ kinh tế, thuộc về kinh tế truyền thông, có nghĩa hẹp tương đương với thuật ngữ
“press group” và nghĩa rộng tương đương với thuật ngữ “media conglomerate”.
Theo đó, “tập đoàn báo chí” là một tập đoàn kinh tế hoạt động đa dạng trong lĩnh
vực truyền thông, có thể có hạt nhân là một cơ quan báo in, báo hình, hoặc bất cứ loại
hình báo chí nào khác, và cũng có thể tham gia vào một số lĩnh vực kinh doanh ngoài
truyền thông.”
2. Nguyên nhân và dạng thức hình thành tập đoàn báo chí:
Thực chất, tập đoàn báo chí chính là tập đoàn kinh tế mà báo chí, truyền thông đại
chúng là lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính, chủ yếu hoặc là một bộ phận tạo thành có ý

nghĩa quan trọng, có vai trò độc lập tương đối. Trên thực tế, rất hiếm thấy tập đoàn
truyền thông hay báo chí nào không có hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài lĩnh vực
báo chí, truyền thông đại chúng.
Tập đoàn kinh tế có thể hiểu là tổ hợp các công ty hoạt động trong một ngành hay
những ngành khác nhau trong phạm vi một nước hay nhiều nước, trong đó có một “công
ty mẹ” nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các “công ty con” về mặt tài chính
và chiến lược phát triển. Tập đoàn là một cơ cấu có chức năng liên kết kinh tế nhằm tăng
cường tích tụ, tập trung, tăng khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận. Về mặt tổ
chức, với hình thức liên kết của nhiều công ty hoạt động trong cùng một ngành, hay
những ngành khác nhau trong một nước hay nhiều nước, thông qua sự điều hành chung.
Sự hình thành của các tập đoàn báo chí cũng xuất phát từ chính những nguyên
nhân đã hình thành các tập đoàn kinh tế:
Thứ nhất, do sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là dưới tác động của
cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ, cho phép hình thành việc tổ chức sản
xuất mới trên cơ sở vừa chuyên môn hoá vừa tăng cường liên kết giữa các nhà máy,
doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
Thứ hai, sự cạnh tranh tất yếu dẫn đến việc liên kết dưới nhiều hình thức khác
nhau để tạo ra sức mạnh to lớn hơn, các nguồn lực mạnh mẽ hơn cho các doanh nghiệp,
tạo nên khả năng cạnh tranh lớn hơn và tránh rủi ro.


Thứ ba, do sự phát triển và tính chất của nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự
đầu tư lớn vào nghiên cứu, dự báo, hoạch định chính sách phát triển để đảm bảo sản xuất
kinh doanh có hiệu quả. Công việc này đòi hỏi nguồn lực to lớn mà chỉ có những đơn vị
kinh tế có quy mô lớn mới có khả năng thực hiện.
Theo tác giả Robert W McChesney, có hai dạng thức tập đoàn báo chí truyền
thông. Có thể thấy các tập đoàn báo chí ngày nay phát triển theo hai xu hướng chủ đạo
sau:
+ Xu hướng thứ nhất là phát triển theo chiều dọc. Đó là sự phát triển nhằm đảm
bảo sự bao quát đầy đủ các công đoạn sản xuất một loại hình sản phẩm truyền thông (lập

chương trình, sản xuất, phát hành hoặc phân phối), hoặc sự bành trướng, liên kết trong
“nội bộ” các loại hình báo chí truyền thông nhằm tăng cường ưu thế, sức mạnh trong
cạnh tranh. Ví dụ như BBC chỉ tập trung vào phát triển tất cả các công đoạn của 3 loại
hình dịch vụ chính của mình là phát thanh, truyền hình và trang web trên khắp toàn cầu.
Ở Mỹ, có thể nói Gannett Co. Inc là tập đoàn báo chí truyền thông có số lượng đầu báo
lớn nhất. Tập đoàn này đang sở hữu 90 tờ nhật báo (trong đó có USA today - một trong
hai tờ có quy mô toàn quốc và Wall street Journal - tờ báo hàng đầu về tài chính, kinh tế
ở Mỹ), 36 tờ báo định kỳ khác, kiểm soát 10 đài truyền hình, 16 đài phát thanh và một
công ty quảng cáo lớn nhất nước Mỹ.
Hãng Turner Broadcasting System do Robert Edward Turner sáng lập năm 1963
lại thành công và nổi tiếng chủ yếu do sự nổi tiếng và phát đạt của kênh truyền hình
CNN. Được thành lập và đi vào hoạt động từ 1-6-1960, đến nay CNN đã phủ sóng toàn
cầu thông qua vệ tinh, cung cấp dịch vụ tin tức truyền hình cho hơn 55 triệu gia đình ở
Mỹ và hàng tỷ dân của 92 nước trên thế giới. Năm 1995, CNN đã sát nhập vào Tập đoàn
Time Warner - một đế chế truyền thông có tài sản trị giá 18 tỷ USD.
+ Xu hướng thứ hai là liên kết và bành trướng theo hàng ngang, đầu tư vào những
ngành khác nhau, tạo sự liên kết những ngành báo chí truyền thông, công nghiệp, tài
chính, dịch vụ rất xa nhau để hỗ trợ lẫn nhau, hạn chế rủi ro, tăng cường sức mạnh. Theo
xu hướng đó, năm 1986, Công ty General Electric đã mua mạng truyền hình Mỹ NBC;
Công ty Viễn thông khổng lồ Mỹ AT&T năm 1999 đã nắm quyền kiểm soát hệ thống


truyền hình “cáp” TCI, rồi đến năm 2004 thôn tính tiếp mạng MediaOne. Từ năm 1995,
Tập đoàn Viacom đã thôn tính Công ty Điện ảnh Paramount và Hãng Truyền hình CBS.
Năm 2000, Tập đoàn AOL tuyên bố hợp nhất với Time Warner. Còn Vivendi và Canal
Plus, một tập đoàn tư bản Pháp đã hợp nhất với Seagram, hay việc Rupert Murdoch đã
len chân vào ngành truyền hình phải trả tiền theo yêu cầu tại Italia, Đức và đang chuẩn
bị thực hiện hợp đồng sáp nhập với tập đoàn NewsCorp có trị giá vài tỷ USD.
Về phương diện này, hai tác giả Johannes von Dohnanyi và Christian Moller của
nghiên cứu “The Impact of Media Concentration on Professional Journalism” (Tác động

của sự tập trung truyền thông đối với nghề báo) cũng khái quát: “Sự tập trung có thể
diễn ra theo chiều dọc, tức là tập trung các thể chế kinh tế độc lập với các công đoạn
sản xuất khác nhau lại làm một tập đoàn, hoặc diễn ra theo chiều ngang, tức là sáp
nhập các công ty giống nhau về công đoạn sản xuất.”
3. Một số tập đoàn báo chí nổi tiếng trên thế giới:
Trước khi tìm hiểu về các tập đoàn báo chí nổi tiếng trên thế giới, chúng tôi tìm
hiểu về Rupert Murdoch – một trong những người có đầu óc kinh doanh tài tình và nhạy
bén với những chiến lược tuyệt vời. Tập đoàn truyền thông News Corporation của
Rupert Murdoch chính là ví dụ điển hình về con đường hình thành các tập đoàn báo chí
lớn trên thế giới.
3.1. Rupert Murdoch – huyền thoại của nền truyền thông thế giới – ông trùm
của tập đoàn báo chí lớn trên thế giới.
Cái tên Rupert Murdoch đã trở thành một huyền thoại của nền công nghiệp
truyền thông thế giới. Ông là một doanh nhân tài ba đã biến một tờ báo tỉnh lẻ thành
một hãng truyền thông phục vụ một nửa dân số trên thế giới. Hiện nay, Murdoch có tài
sản trị giá 5,1 tỷ USD, sở hữu những tên tuổi truyền thông lớn như 20th Century Fox,
The Fox Network, HarperCollins, tờ The New York Post...


Trưởng thành từ một môi trường giáo dục nghiêm khắc


Rupert Murdoch sinh ngày 11/3/1931 tại
Melbourne, Australia, trong một gia đình có bố
là doanh nhân khá thành đạt hoạt động trong
lĩnh vực báo chí. Được sống trong một môi
trường có điều kiện vật chất khá thuận lợi, từ
nhỏ, Rupert Murdoch đã được gia đình cho
sang Anh học tập.
Do đó, mặc dù được sinh ra tại Australia

nhưng tuổi thơ và học tập của Rupert Murdoch lại gắn liền với đất nước Anh. Bố của
Rupert Murdoch là một người rất nghiêm khắc trong những vấn đề giáo dục con, ông hy
vọng Rupert Murdoch được một ý thức làm việc độc lập, nghiêm túc ngay từ nhỏ.
Với hy vọng con trai sẽ đi theo nghề làm báo nên để có được một nền tảng kiến
thức vững chắc, bố của Rupert Murdoch đã không tiếc tiền và công sức mời những
người có kinh nghiệm lâu năm trong nghề báo về chỉ bảo cho con. Đặc biệt, ông còn
luôn chứng tỏ cho Rupert Murdoch thấy cậu không thể ỷ lại vào thế mạnh của gia đình.
Có lẽ chính vì cách giáo dục có phần hà khắc của bố mà từ khi còn nhỏ, Rupert
Murdoch đã có được một quyết tâm lớn trong học tập. Sau khi kết thúc chương trình học
phổ thông với kết quả khá cao tại trường Worcester College, Rupert Murdoch đã tiếp tục
thi đỗ vào khoa kinh tế của trường Đại học Oxford.
Trong thời gian học tập tại trường, ngoài việc duy trì tốt các nội dung trong
chương trình học, Rupert Murdoch đã tham gia viết cho tờ báo của trường và nhiều tờ
tạp chí dành cho sinh viên tại Oxford. Một trong những tờ tạp chí danh tiếng mà Rupert
Murdoch đã từng là cộng tác viên khi còn là sinh viên chính là tờ Daily Express.
Những công việc ban đầu này đã giúp Rupert Murdoch có thêm những khoản thu
nhập và tích luỹ được nhiều kiến thức thực tế đồng thời tạo cho Rupert Murdoch có
được tình cảm, niềm say mê đối với nghề làm báo.
Khi đang học tập tại Anh, bố của Rupert Murdoch - ông Keith Arthur Murdoch đã
là một doanh nhân có tiếng trong vùng. Là một người có học thức sâu về lĩnh vực kinh
tế, ngay trong chiến tranh thế giới thứ nhất, Rupert Murdoch đã có những bài viết sắc


sảo về chiến tranh và ông đã từng được coi là một trong những “nhà sử học của chiến
tranh thế giới thứ I” tại Australia.
Thế chiến kết thúc, Rupert Murdoch đã bắt đầu nghiệp viết báo, bằng chính tài
năng và vốn hiểu biết của mình, sau một thời gian làm việc, ông đã được bầu vào vị trí
tổng biên tập tại chi nhánh Sydney Sun và Melbourne Herald thuộc quyền quản lý của tờ
Times tại Luân Đôn.
Cũng bắt đầu từ thời điểm này, Keith Arthur Murdoch đã bắt đầu có những hoạt

động đầu tư và sở hữu một số tờ báo địa phương. Một trong những số đó là Công ty
News Limited với tờ tạp chí buổi chiều The News. Tuy nhiên, trong những năm cuối
đời, do nhiều nguyên nhân, công việc của Keith Arthur Murdoch đã gặp nhiều khó khăn,
bản thân ông đã phải chịu nhiều khoản thua lỗ và News Limited cũng phải đương đầu
với những khoản nợ trầm trọng.
Năm 1952, khi đó vẫn đang học tại Oxford, Rupert Murdoch đã phải quay về
Australia chịu tang bố và đảm nhiệm công việc phụ trách News Limited. Từ thời điểm
này, Rupert Murdoch đã phải cùng một lúc làm hai công việc, vừa tiếp tục chương trình
học tập, vừa điều hành hoạt động của News Limited.


Hồi sinh News Limited

Mặc dù đã có những hiểu biết nhất định về nghề báo, nhưng việc điều hành một
doanh nghiệp đang phải chịu những khoản nợ đã trở thành rào cản rất lớn đối với Rupert
Murdoch.
Phần lớn nhân viên đang làm việc tại tờ báo đều có chung một mối lo về sự sụp đổ
của News Limited và không khí làm việc đã bắt đầu nguội dần. Do đó, Rupert Murdoch
đã nhanh chóng bắt tay vào nghiên cứu chương trình khôi phục News Limited.
Để làm được điều này, Rupert Murdoch đã triệt để tận dụng khả năng thuyết phục
và động viên nhân viên của mình tạo nhằm ra một luồng sinh khí làm việc mới cho toàn
chi nhánh. Chỉ một thời gian không lâu sau đó, không khí làm việc hăng hái chưa từng
thấy trước đó đã được đẩy mạnh và tạo được bước chuyển biến đến kinh ngạc tại tờ báo.
Nhiều người khi nhớ lại thời điểm đó đã phải thốt lên rằng “không hiểu tại sao
Rupert Murdoch lại có thể thổi một sức sống mới cho News Limited”. Từ bước khởi đầu


đầy ấn tượng đó, Rupert Murdoch đã bước đầu ổn định được hoạt động của News
Limited, lượng phát hành và tiêu thụ các số báo của The News đã bắt đầu tăng.
Bước vào giai đoạn ngành sản xuất hàng hoá bắt đầu phát triển mạnh, các doanh

nghiệp đều có nhu cầu lớn thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để quảng bá
cho các sản phẩm của mình, chính điều này đã tạo ra những cơ hội thuận lợi cho Rupert
Murdoch.
Không bỏ qua dịp may đó, Rupert Murdoch đã tìm cách thiết lập quan hệ với các
doanh nghiệp có nhu cầu quảng cáo sau đó là tập trung vào xây dựng chuyên mục quảng
cáo đi vào chiều sâu cho tờ tạp chí The News. Quyết tâm biến chuyên mục này thành
nguồn phát triển, với nguồn vốn không phải là mạnh của mình, Rupert Murdoch vẫn
quyết định mua lại tờ Sunday Newspaper đang trước nguy cơ phải đóng cửa để khôi
phục hoạt động.
Song song với đó, Rupert Murdoch còn tiếp tục đầu tư một lượng vốn khá lớn vào
nhập dây truyền kỹ thuật in báo khổ nhỏ tiên tiến trong thời điểm đó. Sau một loạt
chương trình đầu tư đó, doanh thu từ các chuyên mục quảng cáo đã tăng lên rất nhanh,
News Limited đã có được những khoản lãi và thanh toán được những khoản nợ trước đó
đồng thời bắt đầu khuyếch trương hoạt động ra các khu vực lân cận.
Hướng tới mục tiêu chiếm lĩnh thị trường báo chí trong nước, trên cơ sở những
thành công đã đạt được, Rupert Murdoch còn tiếp tục mua lại và thiết lập thêm nhiều tờ
báo mới như TV Week, New Idea, The Australian, The Daily Telegraph... Một trong số
đó là tờ TV Week đã từng được tổ chức Southdown Press tại Melbourne bầu chọn là tờ
tạp chí truyền hình thành công nhất.
Nếu như bước khởi đầu chồng chất những khó khăn thì chỉ sau đúng 4 năm, trên
cương vị là người đứng đầu công ty, Rupert Murdoch đã đưa News Limited trở thành
một trong những doanh nghiệp báo chí truyền thông có tầm ảnh hưởng lớn nhất tại
Australia. Hầu hết các khu vực từ thành thị tới các vùng nông thôn đều có sự xuất hiện
các tờ báo của News Limited.


Hoàn tất chương trình chiếm lĩnh thị trường nội địa cùng một nguồn lực hùng
mạnh, Rupert Murdoch tiếp tục khởi động chiến lược khuyếch trương hoạt động ra thị
trường báo chí của các quốc gia trong và ngoài khu vực.



Xây dựng thành công Tập đoàn News Corporation
Chiến dịch lan toả ra thị trường ngoài nước đầu tiên được
Rupert Murdoch thực hiện chính là Anh Quốc. Đây là một thị
trường có tiềm năng khai thác rất lớn và hơn thế nữa là một

thị

trường Rupert Murdoch đã có nhiều năm gắn bó, có nhiều
hiểu biết.
Để có thể đi vào hoạt động ngay khi tiến vào thị trường mới,
Rupert Murdoch đã tìm cách mua lại tờ The News of the
World, một trong những tờ tạp chí có tầm ảnh hưởng lớn tại

Anh và nhiều khu vực trên thế giới. Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất đối với Rupert Murdoch
trong thời điểm này chính là việc đối thủ “nặng ký” Robert Maxwell đã có thâm niên
hoạt động tại Anh cũng đang tìm cách mua lại The News of the World.
Quyết dành phần thắng trong cuộc đua này, Rupert Murdoch đã phải bán đi nhiều
cổ phần đầu tư tại nhiều doanh nghiệp và thậm chí là thế chấp nhiều tài sản tại Australia
để vay thêm vốn của ngân hàng. Nhờ chiến lược tổng lực đó, Rupert Murdoch đã thành
công với bản hợp đồng dành quyền sở hữu The News of the World. Tổng số lượng phát
hành lên tới 6 triệu ấn phẩm tính riêng trong năm 1968, The News of the World đã trở
thành một công cụ hữu hiệu không thể thiếu để Rupert Murdoch khuyếch trương hoạt
động tại thị trường Anh Quốc.
Không dừng lại ở đó, nhờ biết triệt để khai thác ưu thế của The News of the World
nên chỉ sau một thời gian không lâu sau đó, cùng với mức tăng trưởng mạnh của The
News of the World, Rupert Murdoch đã không những tạo được chỗ đứng vững chắc tại
thị trường Anh mà còn trả được những khoản vay thế chấp tài sản tại Australia.
Trong những năm tiếp theo, Rupert Murdoch còn thực hiện thành công bản hợp
đồng mua lại tờ The Sun và tờ The Times danh tiếng và vươn lên trở thành một thế lực

hùng mạnh trong lĩnh vực báo chí truyền thông tại Anh.


Có được những kinh nghiệm quý báu từ thị trường Anh, năm 1973, bắt đầu tiến
vào thị trường Mỹ, ngay trong thời gian đầu tiên, Rupert Murdoch đã ngay lập tức mua
lại tờ San Antonio Express-News. Thêm vào đó, nhằm giải toả sức ép cạnh tranh rất lớn
từ các đối thủ mạnh tại thị trường Mỹ, một lần nữa, Rupert Murdoch sử dụng chiến lược
đầu tư tổng lực vào thành lập tờ Star và liên tiếp thâu tóm nhiều tờ báo danh tiếng khác
như New York Post, The Herald and Weekly Times Ltd., Fox Network, Fox News
Channel...
Chưa thị trường nào Rupert Murdoch lại thực hiện nhiều thương vụ mua đi và bán
lại như tại thị trường Mỹ. Mới đây, với sức mạnh tài chính của mình, Rupert Murdoch
còn tiếp tục đầu tư 34% cổ phần tương đương với 6 tỷ USD vào hệ thống Hughes
Electronics và mua lại Công ty Intermix Media Inc với mức giá 580 triệu USD. Qua
những thương vụ kinh doanh dày đặc và nhanh đến chóng mặt đó, Rupert Murdoch đã
chính thức đưa tên mình vào vị trí một trong những ông trùm báo chí truyền thông tại
Mỹ.
Cùng với tốc độ phát triển mạnh mẽ đó, Rupert Murdoch đã biến News Limited
thành tập đoàn báo chí truyền thông quốc tế News Corporation. Hiện nay, tính cả kênh
truyền hình qua vệ tinh STAR TV (Asia) hoạt động tại các quốc gia thuộc khu vực châu
Á bao gồm Singapore, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan và Việt Nam, News Corporation đã
thiết lập được một mạng lưới tổng cộng hơn 175 chi nhánh trên 3 châu lục của thế giới.
Sau gần cả cuộc đời gắn bó với thương trường, Rupert Murdoch đã tạo dựng được
khối tài sản cá nhân khổng lồ, trị giá 7,7 tỷ USD.
Tuy nhiên, tháng 7/2011, 1 vụ bê bối đã xảy ra với tập đoàn này khi sau khi tờ The
Guardian đăng một loạt bài cáo buộc các hành vi xâm nhập điện thoại trái phép của New
of the world. Sự việc này được coi là vụ bê bối thông tin lớn nhất kể từ sau thế chiến thứ
2 ở xứ sở sương mù. Nó gây ra thiệt hại to lớn cho tập đoàn News Corporation, cổ phiếu
của tập News Corporation bị giảm tới 3,2% khi vụ việc được báo chí đăng tải. Ngoài ra,
tập đoàn News Corporation còn phải đối mặt với việc bồi thường cho những nạn nhân

vụ nghe lén điện thoại. Hiện diễn viên điện ảnh Sienna Miller, là người đầu tiên được bồi
thường với khoản tiền 160.000 USD và hơn 200 đơn kiện khác có thể khiến News Corp


mất thêm 32 triệu USD nữa. Cái lo nhất của tỷ phú Rupert Murdoch hiện nay là News
Corporation còn có thể bị nhà chức trách Anh thu hồi giấy phép và đối mặt với cuộc
chiến pháp lý kéo dài hàng tháng xung quanh bê bối này.
Tờ báo New of the world đã phải đóng cửa sau 168 năm tồn tại.


Bí quyết thành công

Giới báo chí được coi như là một cơ quan quyền lực thứ tư của mỗi đất nước (sau
ba cơ quan hành pháp, tư pháp và lập pháp), bởi vậy các ông trùm truyền thông là những
người không mấy ai thích. Rupert Murdoch là ông trùm báo chí đầu tiên trở thành “con
quỷ” của cả thế giới. Ông là đối tượng của nhiều lời chỉ trích, về những tư tưởng chính
trị hữu khuynh của ông, hay về thái độ ''ve vãn'' của ông đối với Trung Quốc bởi vì ông
đang triển khai kế hoạch kinh doanh ở đất nước này. Tuy nhiên, trước búa rìu dư luận,
Murdoch vẫn không hề nao núng, một trong những sức mạnh của ông là ông không quan
tâm đến những lời chỉ trích này.
Trưởng thành trong thời đại toàn cầu hoá, Murdoch là người nhạy bén hơn ai hết
khi sớm nhận ra những cơ hội mà kỷ nguyên khoa học công nghệ mang lại, đó là máy
tính, vệ tinh, công nghệ truyền tín hiệu không dây. Nhờ đó, ông là người đầu tiên tạo ra
hãng truyền thông quốc tế, và thống trị các kênh truyền hình. Ông đã đầu tư những
khoản tiền khổng lồ để xây dựng hệ thống truyền hình vệ tinh BSkyB ở Anh. Sau đó
cũng chính ông phát triển hệ thống vệ tinh truyền hình trên khắp châu Á. Năm1998, dịch
vụ LineOne của Murdoch đã trở thành AOL của châu Âu.
Murdoch có một phong cách làm việc khá độc đáo. Ông không phải là người
thích nói ra những gì mình làm, tự thể hiện mình thông qua cách xử lý công việc hiệu
quả và các mối quan hệ chính trị - kinh doanh đầy quyền lực. Đầu thập niên 1990, sự

thống trị của News Corp bị lung lay do Murdoch đã đầu tư quá nhiều tiền vào kế hoạch
truyền hình vệ tinh ở Anh, thêm vào đó là sự suy thoái của News Corp. Lần đầu tiên, tập
đoàn truyền thông này rơi vào khủng hoảng. Tuy nhiên, Murdoch có điểm thuận lợi là
các ngân hàng lớn của thế giới đều rất tin tưởng vào tài năng kinh doanh của ông, vì thế
họ đã đồng ý quay vòng nợ cho News Corp. Cuối cùng tập đoàn này đã thoát khỏi khủng
hoảng và phục hồi. Kể từ đó, News Corp lại giành lại vị trí ưu thế số một của nó.


Trong số các hãng mà Murdoch sở hữu, Star Television ở châu Á - mua năm 1993
– là hãng gặp nhiều khó khăn nhất. Hãng này rất có tiềm năng phát triển: các vệ tinh
truyền hình của nó phủ sóng từ Nhật Bản cho đến Trung Đông, qua Trung Á, và phục vụ
2/3 dân số thế giới. Tuy nhiên, Murdoch sớm nhận ra rằng hãng này không có thị trường
toàn thể thống nhất mà chỉ có những thị trường theo kiểu khu vực địa phương mà thôi.
Hiện, với kế hoạch xâm nhập thị trường Trung Quốc, ông hi vọng sẽ có thể khắc phục
được khó khăn này.
Ở tuổi thập cổ lai hy, với bảng thành tích phong phú hơn ai hết, Murdoch vẫn
không ngừng cố gắng làm việc và vươn lên. Ông gọi những thành công là một loạt các
trận chiến trong cuộc đấu tranh vì sự phát triển. Cuộc đẩu tranh ấy không bao giờ kết
thúc. Điều đó làm cho News Corp. không ngừng lớn mạnh.
Tới năm 2007, bước sang tuổi 76, Rupert Murdoch đã vươn lên vị trí thứ 32 trong
danh sách những doanh nhân thành đạt nhất thế giới. Mới đây, ông chủ của News
Corporation lại vừa hoàn tất thương vụ mua lại Dow Jones với khoản tiền hơn 5 tỷ USD.
3.2. Tập đoàn báo chí của Mỹ:


Viacom:

Tiền thân của Viacom là CBS Films,
một nhánh truyền hình của CBS, đến năm
1971


mới

đổi

tên

thành

VIACOM

(Video&Audio Communication).
Năm 1985, Viacom mua hãng WarnerAmex Satellite Entertainment (hay MTV
Networks). Cùng năm Viacom cũng mua tập

Tòa nhà của tập đoàn viacom

đoàn Showtime Networks (Bao gồm có
Showtime và Kênh chiếu phim -Movie Channel)
Năm 1986, ông chủ của National Amusements (Giải trí quốc gia) mua lại Viacom
và “mua” lại cả Sumner Restone - Giám đốc Viacom bấy giờ.


Từ đó, Restone tiến hành chiến dịch bành trướng, mua lại Paramout Pictures
(1993) và Blockbuster Video (1994), tạo đà cho Viacom mua lại gã khổng lồ Spelling
Entertainment (kiểm soát hãng ABC và NBC).
Sau đó, đội quân truyền hình đông đảo này sát nhập với Paramount Pictures tạo ra
một Paramout Pictures hùng mạnh như ngày nay.
Năm 1999, Viacom mua BET(Black Entertainment Television) với giá 3 tỉ đô.
Black Entertainment Television (BET) là hệ thống truyền hình cáp đàu tiên tập trung ở

Bắc Phi được Robert L.Johnson tạo lập Vào năm 1979. Hệ thống này được khai trương
vào tháng 1 năm 1980, lúc đầu phát sóng 2 tiếng một tuần. Sau 11 năm, BET trở thành
công ty điều khiển đầu tiên được đưa vào danh sách trong thị trường chứng khoán
NewYork. Năm 2007, BET đạt được lợi nhuận 65 triệu đôla và ngày càng mở rộng hơn
thành những kênh truyền hình có liên quan đến BET và tạo thành một mạng lưới BET
như : BET, các kênh truyền hình kĩ thuật số BET HipHop và BET Gospel.
Không dừng lại ở đó, năm 1999 Viacom tiến hành chiến dịch mua lại lớn chưa
từng có: mua lại chính “phụ thân” CBS với giá khổng lồ là 34,5 tỉ USD. Từ đây Viacom
là chủ sở hữu của mạng truyền hình cáp đồ sộ: TNN, Country Music Television,
Eyemark, King World.


Lịch sử của CBS:
CBS là hệ thống truyền hình đầu tiên ra
đời vào buổi bình minh của kỷ nguyên truyền
hình. Nó thống trị lĩnh vực truyền hình trong
những năm đầu kỷ nguyên và cho ra các tác
phẩm đặc sắc như I Love Lucy, Dragnet, The
Jack Benny Show, Gunsmoke (thập niên
1950), The Ed Sullivan Show, The Andy
Griffith Show, Candid Camera (thập niên
1960) và các bộ phim truyền hình nhiều tập

nổi tiếng như All In The Family, MASH, The Mary Tyler Moore Show (thập niên 1970).


CBS cũng đem đến cho khán giả Dallas, The Beverly Hillbillies, The Waltons,
Hawaii Five O. Ngày 28/1/1983 CBS phát hành tập cuối cùng của bộ phim MASH, phá
kỷ lục về số khán giả theo dõi trong lịch sử điện ảnh: 60 triệu người. Gần đây hơn là các
bộ phim truyền hình nhiều tập Murphy Brown, Cybill, Medicine Woman, Chicago Hope

và The Nanny. Hôm nay, CBS không còn có sự ưu thế như xưa nhưng bộ phim truyền
hình nhiều tập 60 minutes của nó vẫn rất ăn khách và các chương trình tạp kỹ như
Everybody Love Raymond, Becker vẫn có nhiều người xem. CBS cũng giữ chân được
David Letterman, một tổ sư trong lãnh vực phỏng vấn đối thoại truyền hình trước sự
mua chuộc của đối thủ ABC.
CBS TV City được xây năm 1952 tại địa điểm cũ của sân vận động Gilmore. Đây
là nơi CBS ghi hình nhiều chương trình truyền hình được yêu thích nhất nước Mỹ, các
bộ phim truyền hình nhiều tập và cả các chương trình phỏng vấn như Late Late Show
(do Craig Kilborn chủ trì), Dennis Miller Live. Ngoài ra còn hai chương trình trò chơi
thi đấu: Hollywood Squares và The Price Is Right. Các nghệ sĩ Jack Benny, Bing Crosby,
Krank Sinatra, Doris Day, Steve Martin, George Burns, Elton John, Bob Hope...đều có
các chương trình đặc biệt được ghi hình tại CBS TV City.
Ngày 17/10/1951, khi CBS công bố logo mới CBS Eye có hình con mắt của hãng,
CBS cũng không ngờ logo này sẽ trở thành một biểu tượng của kỹ thuật giải trí Mỹ và
được đánh giá là một trong các logo công ty ấn tượng nhất trong lịch sử thế giới. Ngày
20/10/1951, logo mới chính thức xuất hiện trên kênh TH của CBS và nó vẫn giữ nguyên
hình dạng từ bao năm nay dù đã được thay đổi về màu sắc nhiều lần. Ngày 11/11/2001,
CBS kỷ niệm 50 năm ngày phát hành chương trình TH hài I Love Lucy (bộ phim phát
sóng ngày 15/10/1951, 5 ngày trước khi logo mới ra mắt khán giả TH). Nhân dịp này
hãng sẽ giới thiệu lại quá trình tiến hoá của logo CBS Eye.
Trước những năm 1970, Viacom là “con” của CBS, năm 2000 CBS bị Viacom
thôn tính và trở thành “con” của Viacom. Chỉ 6 năm sau, Viacom và CBS tách ra và
hoàn toàn đứng độc lập: CBS - đứng đầu là Leslie Moonves - hãng phát thanh truyền
hình; và Viacom – chủ tịch là Sumner Redstone - tập trung vào mạng lưới truyền hình
cáp.


Có thể nói quan hệ giữa Viacom và CBS là mối “nhân duyên tiền định”, là biểu
hiện cụ thể và rõ ràng nhất về chuỗi liên hoàn: nhập-tách; tách-nhập của gã khổng lồ
truyền thông nói riêng và cả thế giới truyền thông nói chung.

Vậy mối lương duyên tiền định này mang được lợi gì cho Viacom? Để hiểu được
căn nguyên của vấn đề chúng ta hãy quay trở lại cuộc chia tách lịch sử giữa Viacom và
CBS năm 2006.


Cuộc chia tách lịch sử: Viacom và CBS

Tháng 7/2000, cổ phần Viacom ở mức kỷ lục: 75,88 đô la nhưng đến 6/2005, mức
giá ở phiên giao dịch giảm hơn 1 nửa.
Chính vì thế Viacom quyết định chia tách với CBS. Mục đích để có được cú lội
ngược dòng thành công khi giá cổ phiếu Viacom đang sụt thê thảm.
Hơn nữa, cuộc chia tách này góp phần củng cố quyền lực của Sumner Restone khi
vị trí của ông đang bị các ứng viên Freston và Moonves dòm ngó.
“Sumner rất khôn ngoan khi tăng giá trị cổ phần nhờ thu hẹp phạm vi hoạt động,
vì sau một loạt cuộc sát nhập giá cổ phiếu của Viacom vẫn sụt giảm”, Richard
Greenfield, nhà phân tích truyền thông của tổ chức Fulcrum Global Partners nhận định.
Khi Viacom tuyên bố chính thức tách khỏi CBS vào 17/3/2006, cổ phiếu của
Viacom ở mức 36,72 đô la ở phiên đóng cửa. Sau đó giá cổ phiếu có xu hướng giảm.
Nhiều nhà đầu tư bắt đầu lo ngại liệu Restone có thể tạo ra kỳ tích hay không?
Đáp lại, Restone chỉ nói, “Viacom và CBS là hai công ty khác nhau, kinh doanh ở
lĩnh vực khác nhau. Khi chúng tách ra, sẽ tối đa hóa lợi nhuận vì mỗi hãng sẽ thu hút
những nhà đầu tư riêng”.
Quả đúng như thế, quý ba năm 2007, Viacom tuyên bố doanh thu tăng 24%
(doanh thu CBS cũng tăng 8%).
Năm 2007, bộ phim phiêu lưu viễn tưởng “Indiana Jones” và series phim truyền
hình “Star Trek” đã hốt bạc về cho Paramount Pictures. Doanh thu Viacom tăng lên
27%, lợi nhuận ròng tăng 80%, cố phiếu tăng thêm 65 cent/1 cổ phiếu, truyền thông
chiếm 60% doanh thu và 92% lãi doanh thu.



“Đó là do nhu cầu quảng cáo tăng vọt do truyền thông giờ đây không còn lệ thuộc
nhiều vào bất động sản và dịch vụ tài chính như trước nữa”, Frederick W. Moran, thành
viên của tập đoàn Stanford cho biết.


CBS cũng đạt được thành công tương tự sau khi tách khỏi Viacom.

Giới phân tích nhận định truyền hình cáp sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc
liệt với Internet nhưng Viacom tuyên bố sẽ tiếp tục đầu tư mạnh mẽ cho truyền hình cáp.
Giới đầu tư cũng bị kích thích vì Viacom tiếp tục mua lại cổ phần trong suốt quý 3 năm
nay: chi 1,7 tỉ đô la để mua lại cổ phần đã bán ra.
Mua lại cổ phần được coi là cái mốt đang thịnh hành trong giới truyền thông.
Viacom đã kiếm được hơn hàng nghìn triệu đô la từ việc mua bán cổ phần từ trước tới
nay. Vậy bản chất của mua lại cổ phần là gì?
“Mua lại cổ phần - chiến lược đầu tư dài hơi”
"Summer luôn biết làm gì với túi tiền và túi của ông ta luôn đầy tiền": Đó là phát
biểu hùng hồn của ngài chủ tịch quyền năng Sumner Redstone. Chỉ mới đầu năm 2006,
dưới sự lãnh đạo của ông, công ty National Amusements (Công ty Giải trí quốc gia, sở
hữu một chuỗi nhà hát, trực thuộc tập đoàn Viacom) đã bán 184 triệu đô la cổ phần
Viacom với mức giá hết sức “khuyến mại”. Tất cả được tiến hành dưới sự dàn xếp của
ông trùm Sumner.
Khi các nhà đầu tư thấy tình trạng bán ồ ạt của các cổ đông sẽ dự đoán giá cổ
phiếu ngày càng giảm. Khi giá cổ phiếu trên thị trường thấp hơn nhiều so với lúc bán ra,
Viacom lại ào ạt mua về. Lợi nhuận kiếm được từ khoản chênh lệch trong những thương
vụ này không hề nhỏ.
Phát biểu trong cuộc họp báo, Redstone nói: “Viacom là nhà đầu tư chiến lược tài
ba nhất trong ngành truyền thông”.
Tất nhiên bản thân National Amusements muốn bán cổ phần với mức giá cao nhất
nhưng phải tuân theo kế hoạch cũng như sự dàn xếp của Hội đồng quản trị Viacom.
Trước khi tách khỏi CBS, National Amusements bán được 640 triệu đô la cổ phần (năm

2004 và 9 tháng đầu năm 2005) cũng theo sự dàn xếp tương tự.


Khi tách khỏi CBS, Viacom càng thúc đẩy mạnh mẽ hơn quá trình mua lại cổ
phần. Theo đó, giá cổ phiếu liên tục giảm. Vào tháng hai, National Amsuements bán 59
triệu đô la cổ phiếu loại B đều đặn. Sau đó, National Amusements tiếp tục bán cổ phiếu
với mức giá thấp hơn và càng ngày càng giảm.
Cổ phần của ông Restone chiếm một tỉ lệ nhỏ nhưng rất quan trọng trong số cổ
phần bán ra từ trước tới nay củaViacom. Sau khi tách khỏi CBS, cổ phiếu Viacom cao
giá hơn CBS và mức cổ tức cũng cao hơn.
Nhiều hãng truyền thông lớn khác như Hãng Time Warner, Tập đoàn News và
công ty Tribune đang tiến hành chiến dịch mua lại để tăng giá cổ phần. Mua lại cổ phiếu
của chính công ty mình với mức giá thấp hơn (lần bán ra) là một cách đầu tư tốt, và tăng
số lượng cổ đông sẽ tăng giá cổ phần. Đó là nguyên tắc kinh tế cơ bản.
Với danh nghĩa chủ tịch Viacom, sau khi buộc phải bán cổ phần của một cổ đông
lớn như National Amusements với mức giá quá thấp, Redstone mới xác nhận Viacom
đang thực hiện kế hoạch mua lại cổ phần.
Tháng 2 năm 2004: Viacom thành công trong thương vụ mua lại hãng phim
DreamWorks SKG với giá 1,6 tỉ đô la Mỹ.
Tháng 4.2006, Viacom đã mua Xfire với giá 102 triệu USD. Xfire là “sàn thi đấu”
cấp thời dành cho các gamer đã ngày càng nổi tiếng hơn sau khi được Dennis Fong, biệt
danh “Thresh”, thành lập vào năm 2001. Trung bình mỗi tháng, một gamer “sống” 91
giờ đồng hồ trên địa chỉ này.


Viacom là chủ sở hữu của:

* Các hãng phim lớn: Viacom International, Paramount Pictures, DreamWorks,
Republic Pictures, MTV Films, Nickelodeon Movies, Go Fish Pictures
* Các đài truyền hình: Comedy Central, Logo, BET, Spike, TV Land, Nick at

Nite, Nickelodeon, Noggin, The N, Nick Jr., TEENick, MTV, VH1, MTV2, CMT, MHD
*Hãng sản xuất truyền hình: DreamWorks Television
*Hãng sản xuất trò chơi video: Xfire, Harmonix, GameTrailers, Neopets
* Internet Sites: Screwattack


Ngày nay, Viacom là tập đoàn truyền thông giải trí lớn thứ ba ở Mỹ, với hơn 120
mạng truyền hình khắp thế giới. Doanh thu của Viacom trong năm 2005 đã đạt hơn 25 tỉ
đô la Mỹ.
3.3. Tập đoàn báo chí lớn của Pháp:


Tổ hợp công nghiệp Lagardère: Tổ hợp công nghiệp Lagardère với người

sáng lập là Jean-Luc Lagardère, là một tổ hợp khổng lồ hoạt động trong rất nhiều lĩnh
vực như truyền thông, viễn thông, quốc phòng, hàng không....
Do đây là một tập đoàn hoạt động đa lĩnh vực rất rộng lớn, và thể theo yêu cầu
của đề bài, chúng tôi chỉ chú trọng nhấn mạnh đến sức mạnh của tập đoàn này trong lĩnh
vực truyền thông mà thôi.


Lịch sử:

Jean-Luc Lagardère (1928-2003) người sáng lập ra tập đoàn Lagardère, ban đầu là
giám đốc điều hành của Matra, siêu tổ hợp về viễn thông và hàng không. Cho đến những
năm 80, Jean-Luc Lagardère đã mở rộng lĩnh vực hoạt động của tập đoàn mình sang
quốc phòng và đặc biệt là truyền thông. Trong lĩnh vực truyền thông, Jean-Luc
Lagardère đã mua lại nhà sách- nhà xuất bản Hachette Livre, rồi kế đến là Hachette
Filipacchi Médias. Hachette Livre hàng năm thu trên 2 tỉ euros, là nhà xuất bản lớn nhất
của Pháp, lớn thứ hai tại Anh và Cannada và lớn thứ 5 trên phạm vi toàn thế giới.

Hachette Filipacchi Médias sở hữu 260 đầu báo trên 34 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong
đó phải kể đến nhật báo Paris Match và tạp chí Elle- tạp chí đầu tiên xuất bản với phạm
vi quốc tế.
Năm đầu của thập niên 90, tập đoàn Lagardère tiếp tục sở hữu Hachette Press- tổ
hợp báo chí chuyên dành cho trẻ em, là sự kết hợp đúp giữa Hachette Filipacchi Médias
và hãng Walt Disney (hãng này từ năm 1934, đã cho ra đời ấn bản báo chí đầu tiên dành
cho trẻ em mang tên: Tờ báo của Mickey). Hai nhánh cuối cùng trong tổ hợp truyền
thông này là : Lagardère Active và Hachette distribution services.


Các mốc thời gian:




Năm 1826- Louis Hachette (1800-1864) khởi nghiệp tại Paris với nhà sách

Bredif, và bắt đầu những bước cơ bản các hoạt động truyền thông của Hachette như
sách, báo, xuất bản.


Năm 1852: Louis Hachette cho thiết lập những thư viện đầu tiên dọc theo

mạng lưới đường sắt quốc gia. Cho đến năm 1900, những thư việc đầu tiên tại các bến
tàu điện ngầm của paris xuất hiện.


Năm 1855: Louis Hachette là một trong những người tiên phong tại Pháp

trong lĩnh vực xuất bản các tờ báo dành cho đại đa số bố phận công chúng, tờ báo dành

cho số đông.


Năm 1863:Louis Hachette bắt đầu công việc xuất bản từ điển với người bạn

của mình là Littré.


Năm 1864: Louis Hachette qua đời



Năm 1897: sáng lập ra tổ hợp Messageries Hachette, tổ hợp siêu cường về

phân phối sách báo tại Pháp.


Năm 1900: Bùng nổ hàng loạt các thư viện tại các bến tàu điện ngầm của



Năm 1905: Mua lại toàn bộ các hoạt động của AGLP, hãng truyền thông sở

paris.

hữu phần lớn các tạp chí danh tiếng, và các hiệu sách bán lẻ tại Nam Mỹ và các nước
Trung Âu.


Năm 1945: Hachette sáng lập ra Elle, một trong những tạp chí hàng đầu thế


giới dành cho phụ nữ, và đồng thời Hachette còn sáng lập ra các tờ nhật báo.


Năm 1953: Cùng với Henri Filipacchi , Hachette tung ra thể loại SÁCH BỎ

TÚI, nắm thế thượng phong tại thị trường này.


Năm 1963: Jean-Luc Lagardère được bổ nhiệm là giám đốc điều hành của

Matra, với 1450 nhân sự lúc bấy giờ.


Từ năm 1967-1975: hàng loạt các thành công trên thương trường của Matra.


×