Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

QLXH vai trò của nhà nước đối với quản lý xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.08 KB, 34 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Quản lý xã hội là hoạt động có vai trò mang tính sống còn đối với mỗi
quốc gia, dân tộc. Bởi vì trong xã hội bao gồm rất nhiều những đối tượng
cùng với những mối quan hệ đa dạng, phức tạp chằng chịt vào nhau; khi
không có sự quản lý tốt, không có trật tự nghiêm minh được vạch ra thì xã
hội rất dễ rơi vào tình trạng hôn loạn. Thực tế cho thấy quá trình chuyển
giao quyền lực chính trị đều diễn ra khi mà xã hội bước vào thời kỳ khủng
hoảng, mà giai cấp cầm quyền thống trị lúc này không còn khả năng để giữ
trật tự xã hội trong vòng ổn định. Và kết quả là một chế độ xã hội khác ra
đời, tiến bộ hơn thay thế chế độ xã hội cũ. Đây cũng là quy luật vận động
và phát triển của lịch sử loài người. Vậy chủ thể nào đóng vai trò quyết
định đến hoạt động quản lý xã hội? chủ thể ấy dựa vào uy quyền nào để
đứng trên xã hội và tổ chức trên xã hội như thế. Trong bộ máy nhà nước,
đảng cầm quyền đứng ra lập nên nhà nước cho mình, tuy nhiên đảng cầm
quyền lại không trực tiếp quản lý xã hội, mà chỉ quản lý gián tiếp thông qua
nhà nước. Đảng trực tiếp quản lý đội ngũ đảng viên của mình trong các cơ
quan của bộ máy nhà nước. Như vậy, ai là chủ thể quản lý khi có quyền
lực. Nhà nước là chủ thể đóng vai trò là lớn nhất, quyết định nhất trong
việc quản lý xã hội và là nhân tố cơ bản nhất giúp cho xã hội tồn tại, hoạt
động phát triển hoặc có thể là suy thoái. Chính vì vai trò quan trọng của
chủ thể nhà nước như vậy, tôi xin lấy đề tài “ Vai trò của Nhà nước đối
với quản lý xã hội ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu kết thúc
môn học.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục tiêu nghiên cứu: làm rõ vai trò của Nhà nước đối với quản lý xã hội.
Để đạt được mục tiêu ấy, tác giả xác định cần hoàn thành những
nhiệm vụ dưới đây:
- Phân tích làm rõ cơ sở lý luận về nhà nước với quản lý xã hội.
1



- Làm rõ thực trạng việc quản lý xã hội của nhà nước hiện nay.
- Nêu những định hướng để quản lý xã hội của nhà nước Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay có hiệu quả.
3. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp luận: đề tài sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Ngoài ra khi nghiên cứu thì đề tài còn sử dụng nhiều những phương
pháp cụ thể như nghiên cứu tài liệu, phân tích – tổng hợp...
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: vai trò của Nhà nước Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: trong quản lý xã hội hiện nay.
5. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo thì đề tài
gồm 3 chương, 9 tiết:
Chương 1: Cơ sở lý luận về vai trò Nhà nước Việt Nam đối với quản
lý xã hội.
1.1. Một số khái niệm cơ bản.
1.2. Một số vấn đề chung về nhà nước với quản lý xã hội.
Chương 2: Thực trạng quản lý xã hội của Nhà nước Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay.
2.1. Trên lĩnh vực kinh tế.
2.2. Trên lĩnh vực văn hóa.
2.3. Trên lĩnh vực quốc phòng – an ninh.
2.4. Một số hạn chế còn tồn tại.
Chương 3: Định hướng nâng cao vai trò của Nhà nước trong quản lý
xã hội ở Việt Nam hiện nay.
3.1. Về hệ thống chính sách.
3.2. Xác định ranh giới giữa phạm vi điều tiết của Nhà nước và sự tự
điều chỉnh của xã hội.

2


3.3. Xử lý tốt các mối quan hệ.

3


NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
ĐỐI VỚI QUẢN LÝ XÃ HỘI.
1.1. Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1. Quản lý.
Cho đến nay, xuất phát từ nhiều cách tiếp cận nên có nhiều cách hiểu
khác nhau về quản lý. Theo Từ điển Tiếng việt thì quản lý là trông coi và
gìn giữ; là tổ chức và điều khiển các hoạt động của con người theo yêu cầu
nhất định; là các hoạt động được thực hiện nhằm đảm bảo sự hoàn thành
công việc qua những nỗ lực của người khác; là sự phối hợp có hiệu quả các
hoạt động của những người cộng sự trong một tổ chức; là một hoạt động
thiết yếu đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục
đích của nhóm; là hành động đưa các cá nhân trong tổ chức làm việc cùng
nhau để thực hiện, hoàn thành mục tiêu chung; là “ nghệ thuật ” khiến công
việc được làm bởi người khác…
Nói tóm lại, quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của
chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm sử dụng có hiệu
quả nhất các tiềm năng, cơ hội để đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện
biến động của môi trường.
Quản lý là những tác động có mục tiêu, có kế hoạch đòi hỏi phải
tuân thủ những nguyên tắc nhất định trong mối quan hệ giữa chủ thể và đối

tượng quản lý. Cùng với quản lý thì có khái niệm “ lãnh đạo ”, là chỉ huy,
hướng dẫn, sự vận động quyền lực, dẫn dắt và kiểm tra người khác trong
hoạt động quản lý. Nói gọn lại, lãnh đạo là đề ra chủ trương và tổ chức
động viên thực hiện.
Quản lý rất cần sự sâu sát, tỷ mỉ, chuyên môn hóa. Đôi khi phải chi
tiết hóa từng khâu, từng việc; phải tìm chọn giải pháp và phương án tối ưu
nhất để thực hiện nhiệm vụ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm
4


vụ đó. Lãnh đạo là quản lý nhưng mục tiêu rộng, xa hơn; quản lý là lãnh
đạo trong trường hợp mục tiêu cụ thể.
1.1.2. Xã hội.
Xã hội được hiểu theo hai nghĩa là hẹp và rộng. Theo nghĩa hẹp, xã
hội là một lĩnh vực của đời sống xã hội, xét trong tương quan với các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa. Lĩnh vực xã hội có nhiều nội dung như cơ
cấu xã hội (dân cư, tộc người, lứa tuổi…), thiết chế xã hội (gia đình, làng
xã,…), nhu cầu của đời sống con người trong xã hội và các quan hệ xã hội.
Theo nghĩa rộng, xã hội là “ một tập thể có tổ chức gồm những
người cùng sống với nhau trên một lãnh thổ chung, hợp tác với nhau thành
các nhóm để thỏa mãn những nhu cầu xã hội căn bản, cùng chia sẻ một nền
văn hóa chung và hoạt động như một đơn vị làng xã riêng biệt ”.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, xã hội là toàn bộ các hình thức
hoạt động chung của con người đã hình thành trong lịch sử. Xã hội còn
được hiểu là một tập thể hay một nhóm những người được phân biệt với
các nhóm người khác bằng các lợi ích, mối quan hệ đặc trưng…Theo
C.Mác, xã hội là một tổng hợp các mối quan hệ giữa các thành viên của
một cộng đồng người nhất định.
Như vậy có thể hiểu, xã hội là hệ thống các hoạt động và các quan
hệ của cộng đồng người trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã

hội, cùng cư trú trên một lãnh thổ ở một giai đoạn phát triển nhất định
của lịch sử.
1.1.3. Quản lý xã hội.
Trong xã hội, từng cá nhân gia nhập vào khuôn khổ các tổ chức và
chỉ khi tham gia vào hoạt động thực tiễn mới có khả năng đóng góp, sáng
tạo cho cộng đồng và bản thân nhận được sức mạnh ở trình độ của xã hội.
Hai quá trình ấy diễn ra song trùng, quy định nên bản chất, đặc trưng của
con người và xã hội loài người – quy luật xã hội hóa cá thể trong cộng
đồng và cá thể hóa sức mạnh của cả cộng đồng ở từng con người. Để xã hội
vận hành và phát triển ổn định, đòi hỏi phải quản lý.
5


Quản lý xã hội là sự tác động liên tục, có tổ chức của các chủ thể lên
các lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội) và các
đối tượng có liên quan, nhằm duy trì và phát triển xã hội theo quy luật
khách quan và các đặc trưng của xã hội.
Quản lý xã hội là cách thức tổ chức đời sống xã hội vì mục tiêu
chung, tất cả các nhóm xã hội đều bị chi phối bởi một phương thức quản lý
nhất định. Đó là sự tác động có ý thức, có hệ thống đến xã hội nhằm chấn
chỉnh và hoàn thiện cơ cấu hoạt động xã hội trong quá trình phát triển, đạt
mục tiêu đề ra.
1.2. Một số vấn đề chung về nhà nước với quản lý xã hội.
1.2.1. Đặc điểm quản lý xã hội của nhà nước.
Quản lý là nhằm tác động một cách có tổ chức của một chủ thể vào
đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và các hành vi của
con người, tập thể và các tổ chức xã hội nhằm duy trì tính ổn định và sự
phát triển của đối tượng theo những mục tiêu đã định. Quản lý nhà nước
đối với xã hội là quản lý của bộ máy nhà nước với đặc trưng là quyền lực
công. Nó là sự biểu hiện khả năng mà xã hội có thể sử dụng để tổ chức và

điều chỉnh cuộc sống của mình. Nhà nước là một hình thức tổ chức xã hội
và là một biểu hiện đặc biệt của xã hội. Do vậy, nhà nước và xã hội gắn bó
chặt chẽ với nhau.
Quản lý nhà nước đối với xã hội là hoạt động có tổ chức và bằng
pháp quyền của bộ máy nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội,
hành vi của công dân và mọi tổ chức xã hội, giữ gìn trật tự xã hội và
phát triển xã hội theo mục tiêu đã định. Quản lý nhà nước đối với xã
hội có một số đặc điểm cơ bản sau:
- Quản lý nhà nước với xã hội mang tính chính trị (của giai cấp cầm
quyền).
- Quản lý nhà nước đối với xã hội mang tính cưỡng chế (bằng pháp
luật và các công cụ chuyên chính).
6


- Quản lý nhà nước mang tính quyền lực đặc biệt, tính tổ chức cao.
Mệnh lệnh của nhà nước mang tính đơn phương, khách thể quản lý phải
phục tùng chủ thể quản lý, nếu không thì phải truy cứu trách nhiệm và xử
lý theo pháp luật.
- Quản lý nhà nước có mục tiêu chiến lược, chương trình và kế hoạch
để thực hiện mục tiêu.
- Quản lý nhà nước có tính chủ động (vạch ra các mục đích nhỏ hơn),
sáng tạo và linh hoạt trong việc điều hành, phối hợp, huy động mọi lực
lượng, phát huy sức mạnh tổng hợp để tổ chức lại nền sản xuất và cuộc
sống của con người trên địa bàn, lãnh thổ theo sự phân công, phân cấp,
đúng thẩm quyền, theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Quản lý nhà nước phải đảm bảo tính liên tục và ổn định trong tổ
chức và hoạt động quản lý nhà nước. Các quyết định nhà nước phải tương
đối ổn định và phải được lưu trữ.
1.2.2. Vai trò, nhiệm vụ của nhà nước trong quản lý xã hội.

Nhà nước đóng vai trò là chủ thể lớn nhất, quyết định nhất trong việc
quản lý xã hội và là nhân tố cơ bản nhất giúp cho xã hội tồn tại, hoạt động,
phát triển hoặc suy thoái. Vai trò của nhà nước trong sự phát triển của xã
hội biểu hiện mối quan hệ tổng quát giữa nhà nước với xã hội, với các
thành viên của xã hội. Nó xác định vị trí, tính chất đặc trưng mối quan hệ
đó trong từng giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể của xã hội, xác định vị trí
của nhà nước với tư cách là một thiết chế luôn đứng ở vị trí trung tâm của
hệ thống chính trị và xác định tính chất tác động của nhà nước vào từng
lĩnh vực cụ thể.
Vai trò của nhà nước trong mối quan hệ với xã hội thể hiện ở nhiều
mặt. Sự phong phú đó tạo nên bức tranh toàn diện về nhà nước. Một thời
gian dài trong lịch sử phát triển xã hội, kể từ khi xuất hiện, nhà nước trở
thành một tổ chức đứng trên xã hội, dường như tách khỏi xã hội và quản lý
xã hội chủ yếu bằng sự cai trị, sự áp đặt, ra lệnh bắt buộc mọi thành viên
7


phải chấp hành theo ý chí của mình. Dần dần xã hội phát triển và kéo theo
vai trò của nhà nước cũng thay đổi cả về tính chất lẫn nội dung. Không phải
ngẫu nhiên khi xã hội tư sản hình thành và phát triển, các học giả tư sản
nhận xét rằng nhà nước cũng thay đổi, trở thành trọng tài trong việc điều
hòa các lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Sau Chiến tranh thế giới
thứ hai, một số nước phương Tây xuất hiện mô hình “nhà nước phúc lợi”,
“nhà nước kinh tế thị trường xã hội” với vai trò can thiệp mạnh mẽ vào
hoạt động kinh tế, điều tiết sự phân phối sản phẩm xã hội, chủ động giải
quyết các vấn đề xã hội…Xu thế hiện nay ở các nước phát triển, các nước
đang phát triển và ngay cả các nước xã hội chủ nghĩa đang diễn ra quá trình
chuyển biến vai trò của nhà nước cùng với chức năng của nhà nước sao cho
phù hợp, và đáp ứng được yêu cầu phát triển hiện nay của xã hội.
Với vai trò quản lý xã hội, trong giai đoạn hiện nay nhà nước có

nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, bảo vệ sự an toàn, yên ổn của mọi công dân trong xã hội;
giữ vững được độc lập chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
Nếu các thị tộc, bộ lạc được hình thành theo quan hệ thuyết thống, thì nhà
nước là bộ máy quyền lực tập trung trên một cơ cấu lãnh thổ quốc gia
thống nhất. Đây là đặc điểm quan trọng bậc nhất mà thế giới ngày nay vẫn
đang thực hiện và là mầm mống của các cuộc xung đột, các cuộc chiến
tranh biên giới. Nhà nước thông qua việc thiết lập bộ máy quyền lực xã hội,
bộ máy quyền lực công này dường như “tách ra” ngoài xã hội, “đứng trên
xã hội” để trực tiếp cai trị xã hội. Ngày nay, nó thường là bộ máy đò sộ
gồm một hệ thống các cơ quan quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội
như: cưỡng chế đàn áp, các cơ quan quản lý khoa học và tài chính…Chính
dấu hiệu này đã đem lại lợi ích cho những người có quyền thực thi quyền
lực nhà nước, và mong muốn có quyền lực là mong muốn to lớn của mọi
giai cấp, tập đoàn, cá nhân. Cũng chính điều này mà tệ quan liêu, tham
nhũng của các quan chức nhà nước đang là một nguy cơ của nhiều nhà
8


nước ngày nay. Để quản lý xã hội, bộ máy nhà nước phải ban hành pháp
luật có tính chất bắt buộc chung với mọi tổ chức, mọi thành viên trong xã
hội. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và bằng các biện pháp khác
nhằm đạt được các mục đích đặt ra.
Thứ hai, bảo đảm cho xã hội phát triển, các công dân đạt được
nguyện vọng chính đáng của mình. Nhà nước phải tạo đủ việc làm cho xã
hội, phải cung cấp hành loạt các dịch vụ và hàng hóa công cho xã hội, tạo
môi trường và hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của cá
nhân và cộng đồng phát triển; thực hiện dân chủ và công bằng xã hội…
Trên thực tế, chỉ có nhà nước xã hội chủ nghĩa mới quan tâm đáp ứng, giải
quyết những nguyện vọng chính đáng của công dân. Các nhà nước tư bản

trước hết phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, chỉ khi đạt đến một trình
độ phát triển kinh tế - xã hội cao, họ mới thực hiện một phần nhiệm vụ này.
Thứ ba, thay mặt xã hội tiến hành hoạt động đối ngoại, thông qua đó
tạo điều kiện thực hiện tốt các nhiệm vụ đối nội. Chức năng đối ngoại của
nhà nước gồm: bảo vệ lợi ích của nhà nước trên quan hệ quốc tế, bảo đảm
sự phòng thủ của đất nước, phát triển quan hệ bình thường với các nước…
như vậy nhà nước vừa là một thiết chế xã hội, vừa là một tổ chức xã hội. Là
một thiết chế xã hội, nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị; là một tổ
chức xã hội, nhà nước đồng thời là bộ máy công quyền của xã hội, được sử
dụng để duy trì trật tự xã hội vì lợi ích của giai cấp thống trị và của toàn xã
hội. Với tư cách là chủ thể lớn nhất của xã hội, nhà nước luôn có sự tác
động mạnh mẽ, trực tiếp tới sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội như:
cơ sở kinh tế, những điều kiện và quá trình phát triển của sản xuất xã hội
cũng như đến các hiện tượng xã hội khác. Tuy nhiên, nhà nước không thể
tùy ý tạo ra cho khả năng hoạt động của mình, nó không thể vượt qua cơ sở
kinh tế - xã hội đã quy định mà trên đó nó được nảy sinh. Cuộc sống xã hội
bao gồm rất nhiều lĩnh vực vận động. Các lĩnh vực ấy đều cần có sự tác
động của nhà nước dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Mỗi lĩnh
9


vực ấy có quy luật vận động đặc thù, phù hợp với đặc điểm của từng lĩnh
vực, hoạt động nhất định của nhà nước. Xã hội càng phát triển thì vai trò,
chức năng quản lý của nhà nước càng tăng. Hoạt động chức năng chứa
đựng nội dung cụ thể, nó được coi là sự thống nhất giữa nội dung, hình
thức và biện pháp thực hiện quyền lực nhà nước ở một lĩnh vực hoạt động
nhất định của nhà nước. Với tư cách là chủ thể quản lý xã hội lớn nhất, có
vai trò quyết định đối với sự phát triển và tiến bộ xã hội, nhà nước đồng
thời phải thực hiện rất nhiều chức năng khác nhau để hoàn thành tốt vai trò
và sứ mệnh của mình. Nhà nước bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp nắm

quyền kinh tế dưới hình thức bảo vệ quan hệ sở hữu chủ chốt trong hệ
thống kinh tế và tạo cho các giai cấp này những điều kiện để tồn tại và phát
triển. Nhà nước phối hợp thực hiện lợi ích của mọi giai cấp và tầng lớp
trong xã hội dựa trên cơ sở nhận thức thực tế về lợi ích cơ bản là lâu dài về
lợi ích chính trị và lợi ích kinh tế.
Một nhà nước sẽ không thể tồn tại nếu chỉ phục vụ lợi ích của giai
cấp thống trị mà không tính đến lợi ích, nguyện vọng và ý chí của các giai
cấp khác trong xã hội. Vì vậy, ngoài tư cách là bộ máy nhằm duy trì sự
thống trị của giai cấp này với giai cấp khác, nhà nước còn là một tổ chức
quyền lực công, là phương thức tổ chức đảm bảo lợi ích chung của xã hội.
Thực tế, nhà nước nào cũng đóng vai trò quan trọng trong giải quyết mọi
vấn đề nảy sinh trong xã hội. Nó bảo vệ, lưu giữ các giá trị xã hội, duy trì
trật tự xã hội, bảo đảm xã hội ổn định và phát triển. Nhà nước thực hiện
chức năng này hay chức năng khác phù hợp với yêu cầu của xã hội, đảm
bảo lợi ích nhất định của các giai cấp, tầng lớp khác nhau trong chừng mực,
lợi ích đó không đối lập gay gắt với lợi ích giai cấp thống trị.
Tóm lại, nhà nước tồn tại nhằm thực hiện quyền lực chính trị của
mình thông qua quản lý xã hội. Quản lý nhà nước đối với xã hội là sự tác
động có tổ chức và bằng pháp quyền của bộ máy nhà nước để điều chỉnh
các quá trình xã hội, các hành vi hoạt động của công dân và mọi tổ chức để
10


duy trì trật tự và phát triển xã hội; nhằm bảo toàn, củng cố và phát triển
quyền lực nhà nước trước các nhà nước khác. Để quản lý xã hội, nhà nước
phải sử dụng quyền lực của mình, đồng thời phải sử dụng sức mạnh của
văn hóa truyền thống, các giá trị tinh thần khác, nhằm hiện thực hóa những
chính sách, pháp luật. Nhà nước phải tuyên truyền, giải thích để thu hút sự
ủng hộ của nhân dân, làm cho dân tin và ủng hộ những biện pháp quản lý
của mình; những chính sách ấy phải phù hợp với nguyện vọng, lợi ích của

nhân dân – đối tượng quản lý. Để xã hội phát triển ổn định, nhà nước cần tổ
chức, xây dựng xã hội một cách hợp lý, có cơ chế sử dụng nhân lực và tài
nguyên hiệu quả và thi hành những phương pháp, nghệ thuật quản lý thích
hợp, đồng thời cần tạo ra và vận dụng các nguồn lực bên ngoài.
1.2.3. Thiết chế nhà nước quản lý xã hội.
Thiết chế nhà nước là hệ thống bộ máy các cơ quan, tổ chức có cơ sở
vật chất, định chế pháp luật và con người…được thiết lập theo một thể chế
nhà nước nhất định nhằm đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chung về an
ninh, trật tự, an toàn xã hội hay nhiệm vụ quản lý mọi hoạt động của xã hội
theo mục tiêu, yêu cầu của giai cấp thống trị đã đề ra.
Là một bộ phận của thiết chế xã hội, thiết chế nhà nước đảm bảo cho
nhà nước thực hiện đầy đủ, có hiệu lực các chức năng, nhiệm vụ mà giai
cấp thống trị và nhu cầu khách quan của xã hội đặt ra. Nôi dung của thiết
chế nhà nước bao gồm:
Thứ nhất, về nguyên tắc tổ chức nhà nước: là các nguyên tắc quy
định chế độ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng – an ninh, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các
cơ quan nhà nước. Trong lịch sử phổ biến có 2 nguyên tắc: 1) Nguyên tắc
phân quyền – quyền lực nhà nước được chia thành 3 quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp, các quyền này độc lập và chế ước lẫn nhau. Trong đó, quyền
lập pháp thuộc về nghị viện, thuộc về cơ quan đại diện của nhân dân lập ra
qua phổ thông đầu phiếu, quyền hành pháp thuộc về chính phủ và tư pháp
11


thuộc về tòa án; 2) Nguyên tắc tập quyền – gắn với tư tưởng cho rằng
quyền lực nhà nước gắn với một chủ thể thống nhất, không bị phân chia
thành các quyền tách rời đối lập nhau. Cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân là nghị viện.
Thứ hai, hệ thống bộ máy nhà nước: là hệ thống các cơ quan nhà

nước từ trung ương đến địa phương được tổ chức theo những nguyên tắc
chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các nhiệm vụ
và chức năng của nhà nước. Cơ quan nhà nước là bộ phận cơ bản tạo thành
bộ máy nhà nước. Đó là một tổ chức chính trị có tính độc lập tương đối về
tổ chức – cơ cấu, bao gồm những cán bộ, viên chức được giao một thẩm
quyền nhất định để thực hiện nhiệm vụ và chức năng nhà nước trong phạm
vi do luật định.
Toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước nhằm thực hiện chức năng
của nhà nước, phục vụ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị. Các loại hình
bộ máy nhà nước khác nhau có nguyên tắc tổ chức khác nhau. Nhìn chung,
bộ máy nhà nước tư sản tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập; còn
bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền.
Nhà nước là một hình thức tổ chức xã hội, một biểu hiện đặc biệt của
xã hội. Là bộ phận của thượng tầng kiến trúc – chính trị dựa trên cơ sở kinh
tế của xã hội có giai cấp, do đó nhà nước gắn bó chặt chẽ với xã hội. Xã hội
tạo nên các quan hệ trên các lĩnh vực trong đời sống con người, nhằm thực
hiện những lợi ích nhất định. Mặt khác, sự phát triển của cơ sở hạ tầng
quyết định sự phát triển của đất nước. Ngược lại, sự biến đổi của nhà nước
không chỉ phụ thuộc vào cơ sở kinh tế, mà còn do tác động giai cấp, những
quan điểm pháp lý…ảnh hưởng đến sự hình thành phát triển của nhà nước.
Thích ứng với hệ thống cơ quan của bộ máy nhà nước, là sự hình
thành khác nhau các hình thức công quyền và sự phân lập hoặc thống nhất
các quyền: cơ quan lập pháp đặt ra các quy tắc pháp lý cơ bản của Hiến
pháp, các đạo luật quy định các hoạt động chức năng của nhà nước theo
12


một thể chế chính trị nhất định. Cơ quan hành pháp thực hiện các quy phạm
pháp lý, ban hành các quy chế, quy định các văn bản dưới luật để thực hiện
hiến pháp và các đạo luật; do đó, nhất thiết các văn bản pháp quy phải phù

hợp với hiến pháp và đạo luật, tổ chức công tác quản lý công, phục vụ và
đáp ứng các nhu cầu, quyền lợi của nhân dân. Cơ quan tư pháp áp dụng các
luật và văn bản dưới luật để giải quyết tranh chấp giữa các cá nhân, các tổ
chức kinh tế - xã hội. Cơ quan lập pháp và hành pháp đều không có quyền,
hoặc dùng phương tiện gây áp lực với cơ quan tư pháp; mặt khác cơ quan
tư pháp cũng không được cản trở hoạt động của cơ quan hành pháp.
Thứ ba, nguyên tắc hoạt động của nhà nước: nhà nước hoạt động
theo 3 nguyên tắc cơ bản.
1) Nguyên tắc tập trung dân chủ: nhà nước là một thể thống nhất của
một dân tộc thống nhất, có chế độ chính trị - kinh tế - xã hội thống nhất, thị
trường quốc gia thống nhất, cơ chế quản lý của nhà nước thống nhất. Sự
thống nhất trong hoạt động của nhà nước không hạn chế, mà phát huy cao
độ tính đa dạng của các ngành, các địa phương, đơn vị cơ sở. Dưới sự quản
lý thống nhất và tập trung của trung ương, nhà nước phân thành những đơn
vị hành chính – lãnh thổ, từ đó phân định chức năng, quyền hạn của các cơ
quan nhà nước và chính quyền các địa phương.
2) Nguyên tắc phân biệt rõ chức năng quản lý của nhà nước về kinh tế
với quản lý sản xuất kinh doanh: quản lý kinh tế do bộ máy nhà nước tiến
hành với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, gồm nhiều thành phần kinh tế.
Quản lý sản xuất kinh doanh do các tổ chức, đơn vị kinh tế tiến hành. Nhà
nước không trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh.
3) Nguyên tắc quản lý kết hợp theo ngành và theo lãnh thổ: căn cứ vào
chủ trương của đảng cầm quyền và pháp luật mà đề ra chính sách, chiến
lược phát triển toàn ngành; đồng thời nhà nước xây dựng quy hoạch và kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và quản lý kết cấu hạ tầng cho
sản xuất và đời sống dân cư theo lãnh thổ, bảo vệ tài nguyên quốc gia và
13


môi trường trên lãnh thổ…Sự kết hợp quản lý theo ngành của các cơ quan

quản lý trung ương và quản lý trên đơn vị hành chính lãnh thổ của chính
quyền địa phương được pháp luật quy định chung và cho từng ngành.
1.2.4. Các hoạt động quản lý xã hội của nhà nước.
Để quản lý xã hội, nhà nước tiến hành thực hiện các bước sau:
Một là, ban hành hiến pháp và các văn bản pháp luật. Hiến pháp là tất
cả các quy tắc pháp lý quan trọng của quốc gia, quy định chế độ chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng – an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân; cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà
nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với các thực thể
khác trong xã hội. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, đạo luật gốc của mỗi quốc
gia ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử. Pháp luật là tổng thể các quy tắc
xử sự được nhà nước ban hành, bắt buộc mọi người dân thực hiện, tuân thủ.
Pháp luật có tính quy phạm phổ biến, tính chính xác chặt chẽ về mặt hình
thức và được đảm bảo bằng nhà nước.
Hai là, hình thành thể chế hành chính. Hệ thống các văn bản pháp luật
do nhà nước đặt ra để quản lý sự phát triển kinh tế - xã hội trên mọi phương
diện, bảo đảm cho xã hội phát triển ổn định, an toàn, bền vững; quy định
nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của các cơ quan thuộc bộ máy hành
chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở; quy định chế độ công vụ và các
quy chế công chức. Nhà nước thiết lập hệ thống các chế định về tài sản
hành chính nhằm giải quyết những mâu thuẫn phát sinh, khiếu tố, khiếu nại
và sự vi phạm pháp luật của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước đối
với công dân và các tổ chức xã hội.
Ba là, hoàn thiện chính sách, xây dựng và thực hiện chiến lược, kế
hoạch phát triển đất nước. Đường lối của một đảng cầm quyền (thông qua
nhà nước) là chương trình hành động lâu dài nhằm thực thi ý tưởng của
đảng mình, nó không thể được hoàn thiện trong một lúc mà là cả một quá
trình vừa thực hiện vừa điều chỉnh cho phù hợp với thực tế, tương quan lực
14



lượng bên ngoài. Đường lối, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là khởi
đầu của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội. Đó là đích quy tụ
mọi tiềm năng, cơ hội của đất nước.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là hệ thống các quan điểm cơ
bản, các mục tiêu và các giải pháp chủ yếu được lựa chọn có căn cứ khoa
học dựa trên cơ sở huy động và sử dụng tối ưu các nguồn lực, các lợi thế
phát triển của đất nước; các mối quan hệ phức tạp trong khu vực và thế giới
nhằm đạt mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Chiến lược là đường lối ngắn
hạn, cụ thể hóa đường lối trong thời kỳ chiến lược. Nó biến đường lối
thành hiện thực; nó là thời hạn cho các chương trình liên kết với nước
ngoài; tạo tiền đề thực tiễn để hình dung rõ thêm đường lối. Từ chiến lược
phát triển đất nước, nhà nước lại cụ thể hóa thành các kế hoạch phát triển
cho từng chặng đường ngắn hơn.
Bốn là, ban hành và thực thi các chính sách quản lý đất nước. Chính
sách quản lý nói chung, chính sách kinh tế - xã hội nói riêng là tổng thể các
quan điểm, các chuẩn mực xã hội, các biện pháp, thủ thuật mà chủ thể quản
lý sử dụng nhằm tác động lên đối tượng và khách thể quản lý để đạt đến
những mục tiêu chiến lược của đất nước một cách tốt nhất. Các quan điểm
là căn cứ lý giải, là sự nhận biết các nhà nước được sử dụng để nghiên cứu,
giải quyết các vấn đề quản lý; là các nguyên tắc thể hiện bản chất một chế
độ xã hội. Các quan điểm còn lại là kim chỉ nam chỉ đạo tất cả các hoạt
động của các phân hệ (địa phương, ngành, các thiết chế xã hội khác).
Khi tiến hành quản lý xã hội, nhà nước phải triển khai thực hiện nhiều
mục tiêu nhằm giải quyết các vấn đề xã hội theo trình tự khác nhau, như
vừa lo phát triển kinh tế, vừa chăm lo đến an ninh quốc phòng, vừa chăm lo
sự nghiệp giáo dục và nâng cao trí tuệ cho các thành viên trong xã hội. Để
thực hiện các mục tiêu khác nhau đó, nhà nước phải có quan điểm nhất
quán trong phát triển và thực hiện các mục tiêu; các biện pháp quản lý là
các phương pháp nhà nước lựa chọn, sử dụng để tiến hành thực hiện mục

15


tiêu quản lý cụ thể, các thủ thuật quản lý là các biện pháp quản lý đặc thù
được lựa chọn để thực hiện một nhiệm vụ, mục tiêu riêng biệt. Nó chỉ có
giá trị nhất thời và trong những điều kiện cụ thể.
Năm là, sử dụng các công cụ quản lý xã hội. Để tiến hành các hoạt
động quản lý kinh tế - xã hội, nhà nước phải sử dụng các công cụ của mình
với tư cách là môi trường, vật dẫn truyền các tác động quản lý của chủ thể
lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý. Nếu công cụ làm việc được gọi
là các đồ dùng để làm việc của con người, thì các công cụ quản lý xã hội là
các phương tiện mà nhà nước dùng để tác động, điều hành lên con người
trong xã hội nhằm đạt tới ý đồ, mục tiêu mong muốn của mình. Chính nhờ
các công cụ quản lý mà nhà nước chuyển tải được các ý định và ý chí tác
động của mình lên mỗi con người trên toàn bộ lãnh thồ đất nước và khu
vực, phạm vi ảnh hưởng bên ngoài.
Các công cụ quản lý của nhà nước gồm: các chính sách, pháp luật,
công sở, công vụ, ngân sách, đất đai, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Sáu là, duy trì, cải biến, đổi mới, phát triển các thiết chế xã hội. Đó là
các thiết chế kinh tế, văn hóa, gia đình, xã hội, tôn giáo, quốc phòng – an
ninh, quyền và nghĩa vụ công dân. Các thiết chế này sẽ đảm nhiệm nhiều
chức năng quản lý xã hội bổ sung, hoàn thiện cho chức năng của nhà nước
như: hoạt động tự quản, bảo vệ an ninh trật tự, xây dựng nếp sống văn hóa,
phòng chống các tệ nạn xã hội…

16


Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ XÃ HỘI CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
2.1. Trên lĩnh vực kinh tế.
Quản lý nền kinh tế là một phần quan trọng trong hoạt động của Nhà
nước nói chung. Bất kỳ một nền kinh tế nào cũng đều cần có sự quản lý của
Nhà nước. Càng là kinh tế thị trường càng phải tăng cường hiệu lực quản lý
Nhà nước đối với nền kinh tế, Nhà nước tác động đến các chủ thể kinh tế
với tính cách là chủ thể quyền lực công cộng. Nhà nước quản lý toàn bộ đời
sống kinh tế – xã hội.
Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nền kinh tế được
đặt dưới sự chỉ huy bởi kế hoạch hóa tập trung cao độ với những nguyên
tắc kế hoạch hóa thống nhất, tập trung dân chủ, kết hợp quản lý theo ngành
với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ… Về cơ bản, đây là những
nguyên tắc phù hợp với cơ chế kinh tế thời kỳ đó. Với cơ chế mới, hoạt
động kinh tế diễn ra hết sức phức tạp với sự đa dạng các quan hệ kinh tế
các chủ thể, lợi ích, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Nhà nước có
nhiệm vụ bảo đảm cho nền kinh tế ổn định, phát triển, có tính tổ chức cao
và theo định hướng đã chọn. Không thể quản lý theo lối cũ bằng các biện
pháp hành chính, mệnh lệnh mà phải đổi mới cơ chế quản lý. Điều 26 Hiến
pháp 1992 quy định “Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân
bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách, phân công trách nhiệm và phân cấp
quản lý Nhà nước giữa các ngành các cấp”.
Quản lý kinh tế bằng pháp luật là nguyên tắc quan trọng trong bối
cảnh kinh tế thị trường. Với những thuộc tính vốn có, pháp luật bảo đảm
xác lập các mối quan hệ kinh tế phức tạp nẩy sinh trong nền kinh tế thị
trường để ngăn chặn và xử lý những trường hợp vi phạm trong sản xuất
kinh doanh.
17


Phát triển kinh tế có kế hoạch là đặc điểm nổi bật của nền kinh tế - xã

hội chủ nghĩa. Trong điều kiện kinh tế thị trường cần kết hợp kế hoạch với
thị trường bảo đảm sự thống nhất của lợi ích kinh tế toàn dân với lợi ích
của các tổ chức sản xuất kinh doanh. Các đơn vị kinh tế địa phương
được quyền chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chịu trách
nhiệm về kết quả hoạt động của mình, bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối
với Nhà nước.
Để quản lý kinh tế có hiệu quả, Nhà nước cần xây dựng và không
ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế cũng như hệ thống cơ quan
quản lý kinh tế. Những năm gần đây chúng ta đã tiến hành sắp xếp lại bộ
máy quản lý kinh tế và quản lý Nhà nước, quản lý sản xuất kinh doanh. Bộ
máy quản lý kinh tế đã chuyển trọng tâm từ quản lý trực tiếp các cơ sở kinh
tế sang quản lý hành chính – kinh tế ở tầm vĩ mô với những nội dung mới:
- Định hướng và tạo môi trường thuận lợi để nền kinh tế phát triển.
- Xây dựng một hệ thống pháp luật kinh tế đầy đủ để tạo ra sự tự do và
bình đẳng trong hoạt động kinh tế của mọi thành phần kinh tế.
- Tổ chức cung cấp thông tin, dịch vụ cho các chủ thể tham gia hoạt
động kinh tế.
- Điều tiết nền kinh tế thị trường, hạn chế những khuyết tật của nền
kinh tế thị trường.
- Chăm lo phúc lợi cho mọi thành viên trong xã hội, chú ý quan tâm
đến các đối tượng xã hội. Tuy nhiên, về bản chất, vai trò của Nhà nước có
khá nhiều điều phải bàn. Thứ nhất, phải tạo môi trường kinh doanh minh
bạch, cạnh tranh tốt, mà chủ yếu là dùng những công cụ chính sách. Thứ
hai, kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi, Nhà nước còn có vai
trò quan trọng là góp phần tạo dựng thị trường.
Ví dụ, phát triển khu vực kinh tế tư nhân, Nhà nước phải tạo dựng
khung pháp lý liên quan đến đảm bảo quyền sở hữu, quyền kinh doanh,
cạnh tranh, phá sản..., không chỉ thị trường hàng hóa, dịch vụ, mà còn thị
18



trường lao động, thị trường vốn, thị trường đất đai... Thứ ba và rất quan
trọng, thị trường hiệu quả là phải hoàn hảo. Nhưng thị trường trên thực tế
không bao giờ hoàn hảo, cho nên can thiệp của Nhà nước là phải làm cho
nó thị trường hơn. Ví dụ, phải hạn chế được những ngoại ứng tiêu cực,
giảm độc quyền, tăng quyền sở hữu để những giao dịch đó thị trường hơn.
Thứ tư, khiếm khuyết của thị trường. Ngay cả khi thị trường hiệu quả vẫn
không đảm bảo được rằng phân bổ ấy công bằng về mặt xã hội. Do đó, Nhà
nước phải tạo điều kiện, cơ hội để có sự công bằng. Ví dụ: thông tin minh
bạch, dùng thuế để phân bổ lại thu nhập. Việt Nam có một vấn đề, nó vừa
là vấn đề của một nền kinh tế kế hoạch hóa chuyển sang kinh tế thị trường,
vừa là vấn đề của một nền kinh tế đang phát triển. Nền kinh tế kế hoạch
hóa đã có một khối đồ sộ gọi là doanh nghiệp nhà nước. Khi chuyển sang
kinh tế thị trường thì phải xử lý nó, bởi doanh nghiệp nhà nước chiếm vị trí
thống lĩnh quá nhiều lĩnh vực nên hạn chế cạnh tranh và có thể lạm dụng,
mà như vậy thì phân bổ nguồn lực không hiệu quả.
Trong một nền kinh tế chuyển đổi, việc xảy ra những khiếm khuyết là
không tránh khỏi. Để hạn chế những khiếm khuyết này, cần có sự quản lý
của Nhà nước. Nhưng thực tế cho thấy, ở một số vấn đề, một số thời điểm,
Nhà nước thực hiện quá lỏng lẻo chức năng quản lý của mình và ở một số
lĩnh vực, một số thời điểm khác lại can thiệp quá sâu vào công việc kinh
doanh của doanh nghiệp. Sự chồng chéo này làm cho cả hoạt động quản lý
về kinh tế của Nhà nước và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trở nên
kém hiệu quả, gây ách tắc và lãng phí.
Thực tế này cũng làm nảy sinh hai quan điểm: Thứ nhất, không nên
tách bạch công tác quản lý nhà nước ra khỏi sản xuất, kinh doanh, vì tách
ra, nhà nước xã hội chủ nghĩa không khác gì nhà nước tư bản và các doanh
nghiệp sẽ trở thành các nhà tư bản. Thứ hai, cần tách bạch hai chức năng
này. Nhà nước chỉ nên đóng vai trò tạo dựng thị trường, kiểm soát công
việc kinh doanh nếu sai pháp luật. Đặc biệt, liên quan đến đầu tư công hay

19


DNNN có hai vấn đề muôn thủa, không bao giờ giải quyết được triệt để.
Một là, xung đột lợi ích giữa những người cầm cân nảy mực, cầm tiền đầu
tư với lợi ích chung. Ở đây, dù cơ chế đại diện quyền chủ sở hữu hoàn
thiện, nó vẫn chỉ là đại diện.
Không thể giải quyết được triệt để mà chỉ hạn chế nó bằng sáp nhập,
cổ phần hóa, thông tin minh bạch, giải trình, giám sát... Hiện nay, một số
công ty cổ phần của tư nhân cũng bắt đầu vướng vào xung đột lợi ích giữa
chủ và đại diện, giữa giám đốc điều hành và hội đồng quản trị.
Vì vậy, liên quan đến hoạt động kinh tế, Nhà nước phải làm đúng chức
năng của mình, ví dụ: ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường hiệu quả, tạo môi
trường kinh doanh để thị trường phát triển hơn nữa. Nhà nước khi tham gia
vào đầu tư công, vào sản xuất, kinh doanh, phải hiểu hiệu quả của dự án ấy
nhỏ hơn hiệu quả tổng thể đối với nền kinh tế. Nhà nước phải tính đến chi
phí lợi ích, không chỉ là chi phí tài chính, mà còn là chi phí lợi ích xã hội,
chi phí lợi ích môi trường. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng phải hiểu hiệu quả
theo nghĩa nó có lan tỏa hay không.
Ví dụ, Nhà nước hỗ trợ người nghèo đào giếng, dự án không mang lại
tiền bạc, nhưng hiệu quả xã hội lớn hơn hiệu quả dự án, người dân có sức
khỏe tốt hơn, dành thời gian đi lấy nước sạch để làm việc khác.
2.2. Trên lĩnh vực văn hóa
Quản lý nhà nước về văn hoá là hoạt động của bộ máy nhà nước
trong lĩnh vực hành pháp nhằm giữ gìn, xây dựng và phát triển nền văn hoá
Việt Nam. Hay nói cách khác, quản lý nhà nước về văn hoá là quản lý các
hoạt động văn hoá bằng chính sách và pháp luật. Hoạt động quản lý nhà
nước về văn hoá bao gồm các mảng cơ bản sau: - Quản lý nhà nước đối với
văn hoá nghệ thuật; - Quản lý nhà nước đối với văn hoá - xã hội; - Quản lý
nhà nước đối với di sản văn hoá. Hoạt động quản lý nhà nước về văn hoá

bao gồm những nội dung sau: 1. Hoạt động xây dựng, ban hành các chính
sách và văn bản pháp luật về văn hoá Chính sách văn hoá được hiểu là tổng
20


thể những nguyên tắc thể hiện tư tưởng chủ đạo của Nhà nước về đường
lối, phương hướng xây dựng và phát triển nền văn hoá. Chính sách văn hoá
đặt ra các nguyên tắc chung của sự nghiệp phát triển văn hoá phù hợp với
mục tiêu phát triển văn hoá chung của đất nước. Các chính sách về quản lý
và phát triển văn hoá hiện nay có thể kể đến: sáng tạo các giá trị văn hoá;
bảo tồn, phát huy tài sản văn hoá; phát triển văn hoá cơ sở; giao lưu văn
hoá quốc tế; hiện đại hoá kỹ thuật và phương thức sản xuất, phân phối sản
phẩm văn hoá; đào tạo, phát triển đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ; đảm bảo
ngân sách, điều kiện pháp lý cho phát triển văn hoá; nâng cao tính tự quản
và phân cấp quản lý văn hoá...Chính sách văn hoá có ý nghĩa quan trọng
trong công tác quản lý nhà nước về văn hoá song chính sách văn hoá không
thể thay thế pháp luật. Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật về văn
hoá nhằm phát huy tác dụng của văn hoá tới sự hình thành nhân cách, nâng
cao chất lượng cuộc sống tinh thần của con người. Chẳng hạn:
- Trong quản lý nhà nước về văn hoá nghệ thuật, nhà nước ban hành
các chính sách phát triển văn hoá sâu rộng trong quần chúng nhân dân, phát
huy khả năng sáng tạo. Hay, nhà nước còn thực hiện chính sách bảo trợ vật
chất ở mức độ khác nhau cho những loại hình văn hoá nghệ thuật không tự
tồn tại và phát triển trong quan hệ kinh tế thị trường như sân khấu tuồng cổ,
nghệ thuật chèo… Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho mọi công dân có quyền
bình đẳng trong nghiên cứu khoa học kỹ thuật và sáng tạo nghệ thuật thì phải
được quy định rõ trong luật. Cụ thể, Điều 60 Hiến pháp 1992 quy định:
“Công dân có quyền nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế,
sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, sáng tác, phê bình văn học,
nghệ thuật… Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp”…

- Trong quản lý nhà nước về văn hoá – xã hội, nhà nước ban hành các
chính sách nhằm ổn định trật tự xã hội, giữ gìn những nét đẹp của văn hoá
truyền thống, xây dựng nếp sống văn hoá mới… Bên cạnh đó cũng ban
hành nhiều văn bản pháp luật quy định những khuôn mẫu ứng xử trong xã
21


hội như Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực hôn nhân gia đình; hay Quy chế thực hiện nếp
sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội do Thủ tướng Chính phủ
ban hành ngày 25/11/2005…
- Trong quản lý nhà nước về di sản văn hoá: nhà nước ban hành các
chính sách và pháp luật để phát triển sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di
sản văn hoá. Luật Di sản văn hoá năm 2001 là một văn bản pháp lý quan
trọng. 2. Hoạt động tổ chức thực hiện của bộ máy các cơ quan quản lý nhà
nước về văn hoá cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về văn hoá là
Chính phủ; Bộ văn hoá, thể thao và du lịch (cấp trung ương); UBND là cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về văn hoá trong địa phương mình theo quy định của pháp luật. Hoạt
động này bao gồm các công việc như đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; xây dựng
và chỉ đạo quy hoạch, kế hoạch; ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản
pháp quy; hướng dẫn, tuyên truyền; thẩm định; cấp giấy phép, giấy chứng
nhận… Đây là những hoạt động trên thực tế để thực hiện các chức năng
quản lý nhà nước về văn hoá theo mục đích và nhiệm vụ đã đặt ra. Ngoài
ra, hoạt động đầu tư tài chính cho văn hoá cũng đóng vai trò đặc biệt quan
trọng. Trong đầu tư tài chính cho văn hoá, xuất phát từ vấn đề quan tâm đến
phát triển nguồn nhân lực nên nhà nước chú trọng đầu tư ngân sách cho
giáo dục. Đầu tư cho hoạt động văn hoá với tư cách là đầu tư cho hoạt động
sản xuất cần được tính toán đến hiệu quả, cần xem văn hoá cũng làm ra lợi
nhuận cho nhà nước, cho nhân dân, đồng thời cũng cần tận dụng cơ chế thị

trường cho sự phát triển văn hoá đúng hướng. Hoạt động thanh tra, kiểm tra
và xử lý vi phạm trong lĩnh vực văn hoá. Đây là một hoạt động có vai trò
quan trọng của công tác quản lý nhà nước về văn hoá, sự tác động trực tiếp
của cơ quan kiểm duyệt và thanh tra có vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì
văn hoá có mối quan hệ trực tiếp với chính trị, nó có tác động trực tiếp đến
sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Trong xu hướng xã hội
22


hoá văn hoá hiện nay, các tác động tiêu cực nảy sinh ngày càng nhiều, vì
vậy, hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý cần phải được quan tâm thực hiện
một cách nghiêm túc, có kế hoạch phối hợp tổ chức hoạt động một cách chặt
chẽ với các bộ, ngành khác. Như vậy mới có khả năng thực hiện tốt chức
năng và nhiệm vụ mà công tác quản lý nhà nước về văn hoá đã đề ra.
2.3. Trên lĩnh vực quốc phòng – an ninh
Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện việc quản
lý quốc phòng theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nội dung cơ bản
của công tác quản lý nhà nước về quốc phòng gồm ban hành hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về quốc phòng; ký kết các điều ước quốc tế về hợp
tác quốc phòng, xây dựng quy hoạch, kế hoạch động viên quốc phòng; tổ
chức, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng và các biện pháp cần
thiết để bảo vệ Tổ quốc.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng
hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy nhất có quyền ban hành các
đạo luật liên quan đến chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, quyết định vấn đề chiến
tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt
khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; tổ chức, xây dựng lực
lượng vũ trang... Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ
hoạt động quốc phòng của Nhà nước.

Chủ tịch nước là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh, thống
lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân. Chủ tịch nước công bố quyết định
tuyên bố tình trạng chiến tranh, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục
bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; công
bố và ban hành các đạo luật, pháp lệnh về quốc phòng khác; quyết định
phong hàm cấp thượng tướng, đại tướng cho sĩ quan trong lực lượng vũ
trang nhân dân.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng
hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành các nghị định, nghị quyết để cụ
23


thể hoá việc thực hiện các luật, pháp lệnh về quốc phòng. Chính phủ cũng
ban hành các chính sách về củng cố quốc phòng và xây dựng quân đội, lập
quy hoạch, kế hoạch động viên quốc phòng; tổ chức, chỉ đạo thực hiện các
nhiệm vụ quốc phòng và các biện pháp cần thiết để bảo vệ Tổ quốc. Theo
phân cấp, các bộ ngành tiến hành giáo dục quốc phòng, hợp tác quốc tế
trong một số lĩnh vực liên quan đến quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất
cho lực lượng vũ trang và thực hiện các chính sách hậu phương quân đội,
kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng... Từ năm 2004 đến nay,
Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản liên quan
đến quốc phòng. Chính phủ đã thể chế hóa trách nhiệm của các ngành các
cấp và các tầng lớp nhân dân trong công tác xây dựng các tỉnh (thành phố)
thành các khu vực phòng thủ vững về chính trị, giàu về kinh tế, mạnh về
quốc phòng - an ninh làm cơ sở vững chắc cho nền quốc phòng toàn dân.
Thủ tướng Chính phủ quyết định phong hàm cấp thiếu tướng, trung tướng
cho sĩ quan trong lực lượng vũ trang nhân dân.
Bộ Quốc phòng là cơ quan tham mưu cho Đảng và Nhà nước về
đường lối, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng bảo vệ Tổ quốc; quản lý nhà
nước về lĩnh vực quốc phòng trong phạm vi cả nước; tổ chức thực hiện việc

xây dựng, quản lý và chỉ huy Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ; quản lý
các dịch vụ công theo quy định của pháp luật. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
vừa là người chỉ đạo thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về quân sự,
quốc phòng theo quy định của pháp luật, vừa chịu trách nhiệm tổ chức, xây
dựng, quản lý và là người chỉ huy cao nhất của Quân đội nhân dân và Dân
quân tự vệ. Bộ Quốc phòng có Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục Chính trị, các
tổng cục và các đơn vị trực thuộc khác. Bộ Quốc phòng quyết định phong
hàm cấp tá, cấp úy cho sĩ quan trong Quân đội nhân dân Việt Nam.
Quản lý nhà nước về quốc phòng – an ninh nhằm đảm bảo cho đất
nước hóa bình, ổn định trên mọi lĩnh vực, không bị bất ngờ trong mọi tình
huống, sắn sàng đánh bại mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch, đánh bại mọi
24


cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực phản động đối với Việt Nam…
Quản lý nhà nước về quốc phòng – an minh phải được dựa trên cơ sở luật
pháp, kế hoạch, chính sách thống nhất; có sự phâm công, phân nhiệm rõ
ràng ở các cấp, các ngành và từng địa phương. Nhiệm vụ quốc phòng – an
ninh luôn rất nặng nề, phức tạp; các lực lượng tham gia vào công cuộc xây
dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, đấu tranh quốc
phòng, đấu tranh an ninh rất đa dạng, các hoạt động xã hội của lĩnh vực này
rất phong phú. Điều đó đòi hỏi quản lý nhà nước về quốc phòng – an ninh
phải có tính đồng bộ, tính khoa học, tính pháp lệnh rất cao.
Tính đồng bộ, tính khoa học, tính pháp lệnh rất cao của quản lý nhà
nước trước hết thể hiện ở kế hoạch tổng thể về quốc phòng – an ninh phải
được xác định trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của
từng ngành, từng địa phương trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật thống nhất của nhà nước. Đồng thời, phải có sự phân
công, phân cấp quản lý đúng đắn, phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của
từng cấp, từng ngành, từng vùng. Do tính đặc thù nghiêm ngặt của nhiệm

vụ quốc phòng – an ninh, cần phải xác định rõ ràng, cụ thể thẩm quyền,
trách nhiệm lãnh đạo, quản lý của từng cấp, từng ngành, từng vùng.
Nhiệm vụ quốc phòng – an ninh hoàn thành tốt phụ thuộc vào nhiều
nhân tố chủ quan, khách quan. Để góp phần vào thắng lợi của nhiệm vụ
quản lý nhà nước về quốc phòng – an ninh, cần nắm vững những nội dung
cơ bản của công tác quản lý sau đây:
Thứ nhất, các cơ quan chức năng kịp thời ban hành, hướng dẫn thi
hành các văn bản pháp luật liên quan đến quản lý nhà nước về quốc phòng
– an ninh trên phạm vi cả nước cũng như đối với từng ngành, từng cấp,
đảm bảo tính nhất quán và thống nhất.
Thứ hai, xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch về quản lý nhà
nước về quốc phòng – an ninh đối với từng bộ, ngành, vùng.
Thứ ba, xác định trách nhiệm quản lý nhà nước về quốc phòng – an
ninh đối với các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan chuyên trách quản
25


×