Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân tích biện pháp cưỡng chế thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án theo luật THADS 2008 (sửa đổi bổ sung 2014)? Những khó khăn, vướng mắc và biện pháp khắc phục?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.81 KB, 18 trang )

Phân tích biện pháp cưỡng chế thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người
phải thi hành án? Những khó khăn, vướng mắc và biện pháp khắc phục?
A. MỞ ĐẦU
Thi hành án dân sự (sau đây gọi tắt là THADS) là hoạt động của Nhà nước
nhằm đưa bản án, quyết định dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được thực
hiện trên thực tế, hiệu quả của hoạt động THADS có tác động trực tiếp đến lòng tin
của nhân dân đối với pháp luật. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta hiện nay, không
phải bản án, quyết định có hiệu lực nào của cơ quan có thẩm quyền cũng có thể
được tổ chức thi hành một cách thuận lợi, vì vậy, cơ quan THADS phải áp dụng các
biện pháp cưỡng chế THADS để buộc các chủ thể thực hiện nghĩa vụ. Cưỡng chế
THADS là hoạt động thường xuyên được thực hiện trong công tác THADS. Thực
tiễn cho thấy, đối với những vụ việc có giá trị lớn, người phải thi hành án hầu như
không tự nguyện thi hành, buộc cơ quan THADS phải tổ chức cưỡng chế theo quy
định của pháp luật, song nếu tổ chức thực hiện các biện pháp cưỡng chế THADS
không đúng, không thành công sẽ gây ra nhiều hậu quả đối với xã hội. Chính tầm
quan trọng này mà người viết xin đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu về đề tài ‘Phân tích
biện pháp cưỡng chế thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án?
Nêu những khó khăn, vướng mắc và biện pháp khắc phục?’
B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THI HÀNH
ÁN ĐỐI VỚI TÀI SẢN LÀ TIỀN
1. Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
1.1. Khái niệm và ý nghĩa
Thi hành án dân sự là quá trình thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự của các
bên đã được bản án, quyết định của Tòa án ghi nhận. Vì vậy, Khoản 1 Điều 9 quy
định Nhà nước khuyến khích đương sự tự nguyện thi hành bản án, theo đó Nhà
nước trao cho các bên đương sự có quyền tự định đoạt, thỏa thuận với nhau nhằm


thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự theo bản án, quyết định của Tòa án.Tuy
nhiên, khi người phải thi hành án mặc dù có điều kiện thi hành án nhưng tìm mọi


cách trì hoãn, trốn tránh để không tự nguyện thi hành án, thì buộc cơ quan cơ quan
thi hành án phải tổ chức cưỡng chế thi hành.1
Từ hoàn cảnh áp dụng trên, có thể hiểu biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự là biện pháp thi hành án dân sự dùng quyền lực của nhà nước buộc người phải
thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án dân sự của họ, do chấp hành viên áp
dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự
nguyện thi hành án.
Trong thực tiễn cho thấy rằng trường hợp người phải thi hành án không tự
nguyện thi hành án thì nếu không áp dụng biện pháp cưỡng chế thi sẽ không thể thi
hành án được. Chính vì vậy mà việc áp dụng biện pháp cưỡng chế trong thi hành án
mang lại những ý nghĩa quan trọng sau
Thứ nhất, đây là giải pháp có hiệu quả nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa
vụ của người phải thi hành án, đảm bảo được hiệu lực của bản án, quyết định và thể
hiện tính nghiêm minh của pháp luật trước thái độ không chấp hành của người phải
thi hành án..
Thứ hai, đây cũng là công cụ quan trọng để bảo vệ triệt để lợi ích hợp pháp
của người thi hành án. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dù được áp dụng sau
khi Chấp hành viên đã áp dụng biện pháp bảo đảm đối với tài sản của người phải
thi hành án hay được áp dụng độc lập thì điều kiện tiên quyết tại thời điểm áp dụng
biện pháp cưỡng chế là người phải thi hành án có điều kiện thi hành án – tức có tài
sản, cho nên việc áp dụng các biện pháp này sẽ giúp ngăn chặn người phải thi hành
án hay người thứ 3 tẩu tán tài sản để trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, từ đó bảo vệ
triệt để lợi ích của người thi hành án nói chung và người được thi hành án nói riêng.
1 Khoản 2 Điều 9 Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung 2014


Thứ ba, biện pháp cưỡng chế còn có ý nghĩa trong việc răng đe, gióa dục ý
thức pháp luật cùa công dân, nâng cao công tác tuyên truyền pháp luật trong thi
hành án. Một câu hỏi luôn đặt ra đối với các bản án, quyết định dân sự khi được
đem ra thi hành là ‘liệu bản án, quyết định này có thi hành được trên thực tế hay

không nếu như người phải thi hành án không tự nguyện thi hành’. Hệ thống các
biện pháp bảo đảm thi hành án và đặc biệt là các biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự ra đời đã trả lời câu hỏi đó. việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế - đúng
như tên gọi của nó là các biện pháp sử dụng quyền lực nhà nước để buộc người
phải thi hành án có điều kiện thi hành án nhưng không tự nguyện, phải thi hành
nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định đã tuyên. Các biện pháp cưỡng chế
được chấp hành viên quyết định áp dụng không những có hiệu lực đối với người
phải thi hành án dấn sự mà còn có hiệu lực đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có
liên quan. Cùng với đó, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, người
bị áp dụng ngoài việc phải thực hiện các nghĩa vụ trong bản án, quyết định do tòa
án tuyên, họ còn phải chịu mọi chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự. Chính vì vậy,
qua sự bắt buộc, cưỡng chế đó, không chỉ tác động đến ý thức pháp luật của người
bị cưỡng chế mà còn tác động chung đến ý thức pháp luật của cá nhân, cơ quan, tổ
chức liên quan, góp phần nâng cao công tác tuyên truyền pháp luật trong thi hành
án.
1.2.

Điều kiện để áp dụng

Theo căn cứ tại khoản 1 Điều 13 Nghị định 62/2015/NĐ-CP của Chính phủ
ngày 18/7/2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi
hành án dân sự (Nghị định số 62/2015/NĐ-CP); ‘Chấp hành viên căn cứ vào nội
dung bản án, quyết định; quyết định thi hành án; tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi
hành án; điều kiện của người phải thi hành án; yêu cầu bằng văn bản của đương sự
và tình hình thực tế của địa phương để lựa chọn việc áp dụng biện pháp bảo đảm,
biện pháp cưỡng chế thi hành án thích hợp. Chấp hành viên áp dụng biện pháp bảo


đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án trong trường hợp thi hành quyết định áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại Điều 130 Luật Thi hành án dân

sự.
Việc áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế thi hành án phải tương ứng với
nghĩa vụ của người phải thi hành án và các chi phí cần thiết, trừ trường hợp quy
định tại Khoản 4 Điều 24 Nghị định này. Trường hợp người phải thi hành án chỉ có
một tài sản duy nhất lớn hơn nhiều lần so với nghĩa vụ phải thi hành án mà tài sản
đó không thể phân chia được hoặc việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài
sản thì Chấp hành viên vẫn có quyền áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế để thi
hành án.’
Có thể thấy, Chấp hành viên không chỉ có quyền áp dụng các biện pháp bảo
đảm trong tổ chức thi hành án mà còn có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, Chấp hành viên đều có thể áp dụng
các biện pháp này một cách tùy tiện, theo chủ quan của mình mà phải áp dụng dựa
vào những căn cứ cụ thể như sau; Một là, căn cứ vào nội dung bản án, quyết định ;
Hai là, quyết định thi hành án; Ba là, tính chất, mức độ, nghĩa vụ thi hành án; Bốn
là, điều kiện của người phải thi hành án; Năm là, yêu cầu bằng văn bản của đương
sự; Sáu là, tình hình thực tế của địa phương. Sáu căn cứ ấy sẽ chi phối sự phù hợp
của các biện pháp cưỡng chế trong những trường hợp cụ thể, chính vì vậy mà việc
xác định, đưa ra quyết định có nên áp dụng các biện pháp cưỡng chế hay không và
áp dụng biện pháp nào đòi hỏi rất cao về mặt chuyên môn nghiệp vụ của Chấp hành
viên, bản lĩnh nghề nghiệp và đạo đức Chấp hành viên. Vì việc tổ chức cưỡng chế
thi hành án có thuận lợi hay không, an toàn hay không và có ảnh hưởng đến tình
hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa bản xảy ra việc cưỡng chế hay
không tùy thuộc vào việc có căn cứ vào các điều kiện áp dụng này trên thực tế của
Chấp hành viên.
2. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với tài sản là tiền


Như chúng ta đã biết, đối tượng trung tâm của các bản án, quyết định dân sự
là tài sản, và loại tài sản phổ biến nhất đó chính là tiền. Chính vì vậy mà các vụ
tranh chấp về đòi trả tiền luôn là các tranh chấp dân sự phổ biến. Trường hợp chủ

nợ khởi kiện những người nợ tiền ra tòa, khi bản án (hoặc quyết định) của tòa án
tuyên buộc những người nợ tiền phải thanh toán đầy đủ cho chủ nợ các khoản nợ
có hiệu lực, mà bên vay không tự nguyện hoàn trả thì theo quy định của Luật thi
hành án, trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
hoặc kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn được ấn định trong bản án, quyết định, bạn có
quyền làm đơn gửi tới cơ quan thi hành án cấp quận, huyện nơi tòa án xét xử sơ
thẩm để yêu cầu thi hành án.
Việc cưỡng chế thi hành đối với tài sản là tiền là 1 bộ phận của quá trình áp
dụng các biện pháp cưỡng chế để đảm bảo bản án, quyết định được thi hành, cho
nên cũng phải đáp ứng các điều kiện về mặt thẩm quyền, căn cứ áp dụng của các
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung. Đúng như tên gọi của nó, các
biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với tài sản là tiền được áp dụng khi nội dung
bản án, quyết định dân sự của Tòa án, quyết định thi hành án yêu cầu người phải thi
hành án phải trà tài sản là tiền cho người được thi hành án. Dựa vào các đặc điểm
của loại tài sản đặc biệt – Tiền – mà Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung
2014 đã quy định các biện pháp cưỡng chê thi hành án đối với tài sản là tiền, đó là
khấu trừ tiền trong tài khoản [Điều 76]; trừ vào thu nhập của người phải thi hành án
[Điều 78]; thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án [Điều 79];
thu tiền của người phải thi hành án đang giữ [Điều 80] hoặc thu tiền của người phải
thi hành án đang do người thứ ba giữ [Điều 81]

II.

BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ THU TIỀN TỪ HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA NGƯỜI PHẢI THI HÀNH ÁN


Thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án là một trong
những biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với tài sản là tiền của người phải thi
hành án, được quy định cụ thể tại Điều 79 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung

năm 2014 và Điều 22 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP và trong các quy định pháp
luật có liên quan. Trên cơ sở các quy định này, có thể rút ra các vấn đề pháp lý về
biện pháp cưỡng chế này như sau
Thứ nhất, thẩm quyền áp dụng. Giống như các biện pháp cưỡng chế thi hành
án dân sự khác, thẩm quyền áp dụng biện pháp thu tiền từ hoạt động kinh doanh
của người phải thi hành án thuộc về Chấp hành viên – người được Nhà nước giao
nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định dân sự được đưa ra thi hành. Điều này có
nghĩa chỉ Chấp hành viên mới có quyền được áp dụng biện pháp pháp được quy
định tại Điều 79 Luật này. Ngoài Chấp hành viên thì các chủ thể khác trong Cơ
quan thi hành án dân sự không có quyền ra quyết định áp dụng các biện pháp này.
Mặt khác, việc áp dụng biện pháp thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải
thi hành án chỉ có hiệu lực pháp lý khi được Chấp hành viên quyết định dưới hình
thức văn bản quyết định.
Thứ hai, căn cứ áp dụng. Việc áp dụng biện pháp thu tiền từ hoạt động kinh
doanh của người phải thi hành án được xem là hợp pháp khi đáp ứng các điều kiện
chung – riêng theo quy định của pháp luật. Điều kiện chung – căn cứ để Chấp hành
viên áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự nói chung đó là người
phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành. Và dựa vào
các căn cứ áp dụng biện pháp cưỡng chế khác nhau được quy định tại Điều 13 Nghị
định 62/2015/NĐ-CP [như đã phân tích trên] cũng như điều kiện áp dụng được quy
định riêng ở mỗi biện pháp cưỡng chế mà Chấp hành viên lựa chọn biện pháp phù
hợp. Khoản 1 Điều 79 quy định điều kiện riêng để áp dụng biện pháp thu tiền từ
hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án đó là ‘người phải thi hành án có
thu nhập từ hoạt động kinh doanh’.


Hoạt động kinh doanh, nếu loại bỏ các phần khác nhau nói về phương tiện,
phương thức, kết quả cụ thể của nó thì có thể hiểu hoạt động kinh doanh là các hoạt
động kinh tế nhằm mục tiêu sinh lời của chủ thể kinh doanh trên thị trường. Vì hoạt
động kinh doanh là hoạt động sản xuất sinh lợi nhuận nên tất yếu sẽ có những thu

nhập từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án. Hoạt động kinh doanh
gắn liền với thị trường với hàng loạt các quy luật và rủi ro riêng nên thu nhập từ
hoạt động kinh doanh được tách ra khái niệm thu nhập của người phải thi hành án
quy định tại Điều 78 Luật THADS ‘’Thu nhập của người phải thi hành án gồm tiền
lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động và thu nhập hợp
pháp khác’’. Điều này có nghĩa nếu nhất thiết phải áp dụng biện pháp cưỡng chế
đối với thu nhập của người phải thi hành án thì phải xem xét lựa chọn thu nhập nào
làm đối tượng của biện pháp cưỡng chế. Nếu người phải thi hành án có thu nhập từ
hoạt động kinh doanh thì áp dụng biện pháp thu tiền từ hoạt động kinh doanh theo
Điều 79 và ngược lại, nếu không có thì áp dụng biện pháp Trừ vào thu nhập của
người phải thi hành án theo Điều 78 Luật này. Quy định này không chỉ đảm bảo tối
đa lợi ích của người được thi hành án mà còn tạo điều kiện thi hành án tốt nhất cho
người phải thi hành án, bởi vì trong đa số các trường hợp, thu nhập từ hoạt động
kinh doanh luôn là khoản thu nhập tiềm năng, kích thích chủ thể kinh doanh đẩy
mạnh sản xuất, có trách nhiệm với nghĩa vụ của mình.
Thứ ba, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp thu tiền từ hoạt động kinh doanh
của người phải thi hành án.
Theo quy định Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung 2014, khi có
đơn yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án xem xét, sau đó thụ lý đơn. Sau khi
thụ lý đơn, cơ quan thi hành án ra thông báo thi hành án, trong thời hạn 10 ngày kể
từ ngày nhận được thông báo người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án
thì cơ quan thi hành án có cưỡng chế thi hành án. Điều này có nghĩa là trước khi áp
dụng biện pháp cưỡng chế, quá trình tổ chức thi hành án đã phải trải qua các thủ tục


chung của công tác thi hành án. Luật thi hành án dân sự nói chung và các văn bản
hướng dẫn thi hành nói riêng không có quy định riêng về trình tự, thủ tục cho biện
pháp cưỡng chế thu tiền từ hoạt động kinh doanh cùa người bị thi hành án, tuy
nhiên, dựa trên các quy định chung về cưỡng chế thi hành án, có thể rút ra trình tự,
thủ tục áp dụng biện pháp này như sau;

Bước một, khi có đủ căn cứ áp dụng biện pháp cưỡng chế quy định tại Điều
79 Luật THADS, Chấp hành viên phải ra quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế
Thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án [như trên đã phân tích
là 2 căn cứ, bao gồm không tự nguyện thi hành trong thời hạn luật địnhvà có điều
kiện để thi hành là có thu nhập từ hoạt động kinh doanh].
Bước hai, Lập kế hoạch cưỡng chế. Trước khi tiến hành cưỡng chế THA dân
sự nói chung và tiến hành biện pháp Thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người
phải thi hành án nói riêng, người có thẩm quyền THA phải lập kế hoạch cưỡng chế.
Kế hoạch cưỡng chế bao gồm: Tên người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế; BPCC
cần áp dụng; Thời gian, địa điểm cưỡng chế; Phương án tiến hành cưỡng chế; Yêu
cầu về lực lượng tham gia bảo vệ cưỡng chế; Dự trù chi phí cưỡng chế.2
Kế hoạch cưỡng chế phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát nhân dân, cơ
quan Công an cùng cấp, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế và cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc cưỡng chế thi hành án.
Riêng đối với biện pháp cưỡng chế mà đề tài đang tìm hiểu, thì theo Khoản 1
Điều 22 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định ‘Chấp hành viên thu tiền từ hoạt
động kinh doanh của người phải thi hành án theo định kỳ hàng ngày, tuần, tháng,
quý hoặc năm tùy theo tính chất ngành nghề kinh doanh của người phải thi hành
án’. Như vậy, kế hoạch cưỡng chế bao gồm các nội dung giống các biện pháp
cưỡng chế còn lại như Tên người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế là tên người phải
thi hành án, dự trù chi phí cưỡng chế... kế hoạch cưỡng chế của biện pháp thu tiền
2 Khoản 2 Điều 72 Luật Thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung 2014


từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án có những nội dung đặc trưng
trong phương án tiến hành cưỡng chế. Theo đó, Chấp hành viên dựa trên ‘tính chất
ngành nghề kinh doanh của người phải thi hành án’ – đó là ngành nghề kinh doanh
có thể phát sinh lợi nhuận hàng ngày, hàng tuần hay hàng tháng để lập kế hoạch
cưỡng chế thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án theo định kỳ
hàng ngày, tuần, tháng, quý hoặc năm. Sự ấn định, lựa chọn phương án tiến hành

cưỡng chế theo hàng tháng hay hàng năm... sẽ quyết định đến thời gian, địa điểm
cưỡng chế cũng như các nội dung khác trong kế hoạch cưỡng chế.
Khoản 1 Điều 22 của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP cũng quy định ‘Khi xác
định mức tiền thu từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án, Chấp hành
viên căn cứ vào kết quả kinh doanh trên cơ sở sổ sách, giấy tờ và tình hình kinh
doanh thực tế của người phải thi hành án’ – đây cũng là một trong những quy định
quan trọng mà Chấp hành viên phải tuân thủ khi lập kế hoạch cưỡng chế đối với
biện pháp thu tiền từ hoạt động kinh doanh cùa người phải thi hành án. Quy định
này không những chỉ ra căn cứ để Chấp hành viên dựa vào, xác định mức tiền thu
hợp lý, hoàn thiện kế hoạch cưỡng chế mà còn xác định trách nhiệm của người phải
thi hành án khi bị áp dụng biện pháp cưỡng chế này phải cung cấp các loại giấy tờ,
sổ sách, chứng từ mua bán, cũng như trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức hữu
quan trong việc xác minh kết quả kinh doanh, tình hình kinh doanh thực tế của
người phải thi hành án.
Bước 3, Tiến hành cưỡng chế. Tiến hành cưỡng chế ở đây chính là tiến hành
thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án theo kế hoạch cưỡng
chế đã được Chấp hành viên lập ở Bước 2. Theo đó, kế hoạch này sẽ định hướng
cho quá trình tiến hành cưỡng chế – là cưỡng chế theo tuần hay theo tháng, theo
năm và trong những thời gian, địa điểm nào. Hay nói cách khác, căn cứ vào nội
dung quyết định cưỡng chế thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi
hành án, Chấp hành viên sẽ thực hiện quyết định cưỡng chế tại nơi quản lý tiền của


người phải thi hành án.Và sau mỗi lần tiến hành cưỡng chế thu tiền, Chấp hành
viên phải cấp biên lai thu tiền cho người thi hành án để đảm bảo đúng thủ tục, công
khai, minh bạch.3
Như vây, trước khi thực hiện việc cưỡng chế theo kế hoạch và quyết định
cưỡng chế đã ấn định, người có thẩm quyền THA chủ trì phổ biến toàn bộ kế
hoạch, phân công nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị, từng người, nêu các tình huống
có thể sảy ra và biện pháp xử lý các tình huống đó. Chuẩn bị đầy đủ các biên bản,

văn bản cần sử dụng trước khi tiến hành cưỡng chế. Chuẩn bị đầy đủ các phương
tiện, điều kiện liên quan đã dự kiến phục vụ tốt cho việc cưỡng chế. Người có thẩm
quyền THA là Chấp hành viên chủ trì điều hành toàn bộ quá trình cưỡng chế, kịp
thời xử lý mọi tình huống đã dự kiến trong kế hoạch và tình huống phát sinh diễn ra
trong quá trình cưỡng chế cho đến khi kết thúc việc cưỡng chế - tức là đến khi
người phải thi hành án đã hoàn thành nghĩa vụ của mình đối với người phải thi
hành án và các chi phí cần thiết kèm theo.
Thứ tư, về số tiền tối thiểu để lại cho người phải thi hành án. Khoản 1 Điều
79 Luật THADS quy định; ‘Khi thu tiền, Chấp hành viên phải để lại số tiền tối
thiểu cho hoạt động kinh doanh và sinh hoạt của người phải thi hành án và gia
đình’. Khoản 2 Điều 22 Nghị định 62/2015/NĐ-CP cũng đã đưa ra hướng dẫn để
thực hiện quy định này ‘Mức tiền tối thiểu để lại cho người phải thi hành án phải
đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu cho người phải thi hành án và người mà
người đó có nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng. Việc xác định mức sinh hoạt tối thiểu
của người phải thi hành án và người mà người đó có nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi
dưỡng được căn cứ vào chuẩn hộ nghèo của từng địa phương nơi người đó cư trú,
nếu địa phương chưa có quy định thì theo chuẩn hộ nghèo do Thủ tướng Chính phủ
ban hành theo từng giai đoạn cụ thể. Mức tiền tối thiểu để lại cho hoạt động sản
xuất kinh doanh do Chấp hành viên ấn định căn cứ vào tính chất ngành, nghề kinh
3 Khoản 2 Điều 79 Luật Thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014.


doanh; quy mô kinh doanh của người phải thi hành án và mức ấn định này có thể
được điều chỉnh’. Hiện nay, chuẩn hộ nghèo theo quy định của Chính phủ hiện nay
được xác định theo thu nhập bình quân đầu người/tháng từ chuẩn nghèo chính sách
trở xuống (thu nhập từ 900.000 đồng đồng/người/tháng trở xuống ở khu vực thành
thị và 700.000 đồng/người/tháng ở khu vực nông thôn) 4. Như vậy, theo quy định
này, khi áp dụng biện pháp Thu tiền từ hoạt độngn kinh doanh cùa người phải thi
hành án, Chấp hành viên phải xác định được mức tiền tối thiểu để lại cho người
phải thi hành án sao cho phù hợp với điều kiện sống tối thiểu cũng như mức tiền tối

thiểu để lại cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc xác định mức tiền này phải
được tiến hành khi lập kế hoạch cưỡng chế – nó chi phối đến việc lựa chọn phương
án tiến hành cưỡng chế cũng như các nội dung khác của kế hoạch.
Từ những phân tích trên, có thể thấy quy định về biện pháp cưỡng chế thu
tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án là một quy định tiến bộ và
phù hợp với sự phát triển của xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế thị
trường hiện nay. Áp dụng thành công biện pháp này sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời
gian, công sức của Chấp hành viên và nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự bởi
biện pháp này không chỉ mang lại những ý nghĩa to lớn của một biện pháp cưỡng
chế thi hành án nói chung mà bản thân nó cũng có những ý nghĩa riêng, được lựa
chọn đối với trường hợp người phải thi hành án có thu nhập từ hoạt động kinh
doanh.
III.

NHỮNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
Luật Thi hành án dân sự năm 2008, được sửa đổi, bổ sung năm 2014, có hiệu

lực thi hành kể từ ngày 01/7/2015, Luật đã mở rộng và ngày càng hoàn thiện không
chỉ các quy định về các quyền của đương sự mà còn hoàn thiện hệ thống các biện
pháp đảm bảo cho bản án, quyết định dân sự được chấp hành nghiêm minh, đúng
4 Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg về việc ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 2020


pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu, phân tích biện pháp thu tiền từ hoạt
động kinh doanh của người phải thi hành án, có thể thấy biện pháp này được quy
định tại Điều 79 Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 và tại Điều 22
Nghị định 62/2015/NĐ-CP về cơ bản không thay đổi nhiều so với những quy định
cũ. 6 năm để ban hành Luật sửa đổi, bổ sung nhưng quy định về biện pháp Thu tiền
từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án không có sự thay đổi, chính vì
vậy mà những khó khăn, bất cập lâu nay khi áp dụng biện pháp này vẫn còn đó và

vẫn chưa được khắc phục. Cụ thể
Thứ nhất, Khó khăn đến từ việc xác định thu nhập từ hoạt động kinh doanh
của người phải THA. Đây có lẽ là khó khăn và bất cập lớn nhất trong quy định
cũng như thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế Điều 79 Luật THADS bởi khó
khăn này đến từ một loạt các khó khăn khác. Theo quy định của pháp luật, trường
hợp người phải THA có thu nhập từ hoạt động kinh doanh thì người có thẩm quyền
THA ra quyết định thu tiền từ hoạt động kinh doanh. Việc xác định một người có
hoạt động kinh doanh là điều không khó, tuy nhiên, để xác định được mức thu nhập
từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án thì lại vô cùng khó khăn. Điều
này xuất phát từ việc nền kinh tế nước ta vẫn chủ yếu tiêu dùng bằng tiền mặt, do
đó việc quản lý thu nhập từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án là rất
khó khăn, đặc biệt là đối với các đối tượng kinh doanh cá thể, doanh nghiệp tư
nhân….
Cùng với đó, pháp luật cũng quy định người có thẩm quyền THA ra quyết
định cưỡng chế có trách nhiệm xác minh thông tin về tài sản của đối tượng bị
cưỡng chế, điều kiện thi hành quyết định cưỡng chế kê biên tài sản có giá trị tương
ứng với số tiền phạt hoặc người được THA tự xác minh. Mà thu nhập từ hoạt động
kinh doanh của người phải THA rất khó xác minh vì tài sản, thu nhập của người
khác thuộc bí mật thông tin và được pháp luật bảo vệ. Người có thẩm quyền THA
muốn xác minh phải nhờ cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp người được THA


trực tiếp yêu cầu cơ quan có thẩm quyền cung cấp thông tin thì càng khó khăn hơn.
Chưa kể, người phải THA từ chối cung cấp thông tin cho người được THA, người
có thẩm quyền THA hoặc cố tình cung cấp sai, thì chưa có cơ chế xử lý. Pháp luật
THADS xác định trách nhiệm của người phải thi hành án cũng như của các cá
nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong việc phối với cơ quan thi hành án khi áp
dụng biện pháp này, tuy nhiên lại không quy định về chế tài pháp lý để xử lý đối
với các trường hợp người phải thi hành án không cung cấp, cung cấp không đầy đủ
hoặc cung cấp không chính xác các loại sổ sách, giấy tờ của người phải thi hành án.

Trên thực tế, đa phần đương sự cố tình che giấu nên việc thi hành biện pháp thu
tiền từ hoạt động kinh doanh là rất khó khăn. Có thể thấy, những khó khăn này suy
cho cùng là do ý thức pháp luật của người phải THA và sự phối hợp của nhiều cơ
quan chức năng còn kém hiệu quả.
Thứ hai, pháp luật THADS nhìn chung chưa quy định hoàn thiện, rõ ràng về
biện pháp cưỡng chế này. Cụ thể đối với quy định “căn cứ vào tình hình kinh doanh
thực tế” để xác định mức tiền thu từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành
án thì hiện chưa một văn bản pháp lý nào hướng dẫn, do đó chấp hành viên và cơ
quan thi hành án dân sự không có đủ các căn cứ pháp lý và thực tế để xác định,
định lượng được mức tiền thu từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án.
Chính vì vậy mà việc “căn cứ vào tình hình kinh doanh thực tế” hoàn toàn mang
tính chất chủ quan, cảm tính.
Tiếp đó, cũng trong Điều 22 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP khi hướng dẫn về
xác định mức tiền để lại cho người phải thi hành án – tưởng như đầy đủ nhưng thực
chất còn vài điểm chưa rõ ràng và rất khó xác định, đặc biệt là để xác định được
mức tiền tối thiểu để lại cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người phải thi hành
án. Việc căn cứ vào “tính chất ngành, nghề kinh doanh; quy mô kinh doanh của
người phải thi hành án” cũng hoàn toàn phụ thuộc vào cảm tính của chấp hành
viên. Bên cạnh đó, việc tính toán, xác định điều kiện sinh hoạt tối thiểu cho người


phải thi hành án và người mà người đó có nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng rõ ràng
không đơn giản chỉ là việc dựa vào chuẩn hộ nghèo của từng địa phương nơi người
đó cư trú là có thể xác định được – đây là vấn đề nhạy cảm và việc tính toán sai,
đưa ra một mức tiền thu từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án hay
mức tiền tối thiểu để lại đều rất dễ dẫn đến các khiếu nại của đương sự gây khó
khăn cho chấp hành viên khi thi hành nhiệm vụ.
Thứ ba, khó khăn đến từ tinh thần trách nhiệm chưa cao của Chấp hành viên
trong quá trình áp dụng biện pháp cưỡng chế này. Biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự nói chung và biện pháp Thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người thi hành

án nói riêng chỉ đạt được hiệu quả của nó khi được áp dụng một cách nhanh chóng,
công khai, minh bạch theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục, bảo đảm tốt nhất
quyền lợi cho đương sự. Chính vì vậy mà tinh thần trách nhiệm của đội ngũ Chấp
hành viên đóng vai trò quan trọng làm nên hiệu quả đó. Thế nhưng, trên thực tế
không ít trường hợp Chấp hành viên chậm trễ trong việc áp dụng biện pháp cưỡng
chế hay lựa chọn biễn pháp cưỡng chế không đúng để áp dụng, quá trình tiến hành
cưỡng chế có sự bao che, thiên vị, không khách quan – những hành động đó không
những giảm hiệu quả của biện pháp cưỡng chế thi hành án mà còn làm giảm niềm
tin của đương sự, người dân vào hoạt động của cơ quan công quyền.
Chính những khó khăn trên, mà trên thực tế, biện pháp này gần như rất ít khi
được các Cơ quan Thi hành án dân sự và chấp hành viên lựa chọn áp dụng. Để khắc
phục những khó khăn, vướng mắc trên, bài viết xin đưa ra một số biện pháp khắc
phục như sau;
Một là, đổi mới cơ chế quản lý công tác thi hành án, tăng cường sự phối hợp
giữa các cơ quan hữu quan trong công tác thi hành án, đặc biệt là trong quá trình áp
dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án nói chung và biện pháp thu tiền từ hoạt
động kinh doanh của người phải thi hành án nói riêng. Nghiên cứu và triển khai sâu
rộng việc tin học hoá hoạt động quản lý, điều hành thi hành án dân sự, ví dụ như


triển khai hộp thư điện tử, đào tạo sử dụng, khai thác các cơ sở dữ liệu THADS nói
riêng và khai thác dữ liệu trên Internet nói chung cho THADS địa phương, triển
khai việc gửi báo cáo, văn bản bằng thư điện tử xây dựng phần mềm thống kê kết
quả thi hành án dân sự... Các cơ chế quản lý công tác thi hành án ngày càng tự
động hóa sẽ giúp cho công tác phối hợp thi hành án ngày càng dễ dàng và thuận lợi.
Hai là, không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật về thi hành án nói chung
và các quy định của pháp luật về biện pháp thu tiền từ hoạt động kinh doanh của
người phải thi hành án nói riêng. Ví dụ như có những quy định rõ ràng về “căn cứ
vào tình hình kinh doanh thực tế” hay xác định mức tiền để lại cho người phải thi
hành án... Ngoài ra, cần có những quy định chế tài quy kết trách nhiệm đối với

những trường hợp người phải thi hành án hay cơ quan, tổ chức hữu quan có nghĩa
vụ cung cấp nhưng không cung cấp, cung cấp không đầy đủ hoặc cung cấp không
chính xác các loại sổ sách, giấy tờ của người phải thi hành án để đảm bảo cơ chế
thực hiện biện pháp này trên thực tế. Khi Nhà nước xây dựng Luật thi hành án và
các văn bản pháp luật có liên quan về biện pháp cưỡng chế này cần có sự đối chiếu
giữa các văn bản để khắc phục những quy định chưa đồng bộ, bổ sung những
khoảng trống chưa được pháp luật điều chỉnh. Đảm bảo sự thống nhất các quy định
trong từng văn bản cũng như giữa các văn bản pháp luật. Hoàn thiện về mặt pháp
luật cộng với sự đổi mới về tổ chức hoạt động một cách hợp lý sẽ là cơ sở cho sự
hoàn thiện về thi hành án nói chung, cưỡng chế thi hành án nói riêng.
Ba là, tăng cường tinh thần trách nhiệm cũng như chuyên môn, nghiệp vụ
của đội ngũ Chấp hành viên trong tổ chức thi hành án nói chung và trong áp dụng
biện pháp cưỡng chế tại Điều 79 Luật THADS nói riêng. Cụ thể, cần phải xây dựng
và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về chuyên môn nghiệp vụ
cho đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án, đảm bảo các chấp hành viên trước khi
bổ nhiệm phải qua đào tạo nghề. Sớm ban hành chế độ chính sách đãi ngộ với chấp


hành viên và cán bộ thi hành án, trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật đầy đủ để Chấp
hành viên có thể hoàn thành nhiệm vụ với tinh thần trách nhiệm cao nhất.
Bốn là, đẩy mạnh công tác giải thích pháp luật, thường xuyên tổ chức việc
tuyên truyền, giáo dục thuyết phục đương sự tự nguyện chấp hành bản án, quyết
định dân sự đã có hiệu lực thi hành. Việc tích cực tuyên truyền phổ biến pháp luật
về thi hành án để các đương sự tự nguyện thỏa thuận thi hành và cơ quan thi hành
án có thể tranh thủ được sự giúp đỡ, phối hợp của cá nhân, tổ chức hữu quan trong
suốt quá trình thi hành án. Chỉ như vậy mới tạo được điều kiện thuận lợi cho kê
biên tài sản và thi hành án sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Vì biện pháp cưỡng chế thi
hành án là các biện pháp pháp lý nên chỉ tiến hành cưỡng chế trong trường hợp luật
định, không được áp dụng tùy tiện. Việc áp dụng các biện pháp này phải công khai,
minh bạch và tăng cường sự giám sát của nhân dân...

C. KẾT LUẬN
Tóm lại, qua việc phân tích biện pháp cưỡng chế thu tiền từ hoạt động kinh
doanh của người phải thi hành án, có thể thấy biện pháp cưỡng chế THA dân sự nói
chung và biện pháp cưỡng chế quy định tại Điều 79 Luật THADS nói riêng được
áp dụng trong trường hợp người phải THA chây ì chống đối, trốn tránh nghĩa vụ thi
hành bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên do ảnh hưởng lớn
đến quan hệ xã hội người phải THA nên việc áp dụng biện pháp cưỡng chế này dân
phải thực hiện theo một trình tự thủ tục chặt chẽ. Chính vì vậy mà pháp luật
THADS đã có những quy định đầy đủ về thẩm quyền, căn cứ áp dụng, trình tự thủ
tục... khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người
phải thi hành án. Tuy vẫn còn những bất cập, vướng mắc, nhưng với sự nổ lực của
của các cơ quan nhà nước, của người dân trong việc bảo đảm cho quá trình thi hành
án diễn ra hiệu quả, nhanh chóng thì chúng ta luôn có niềm tin vào một nền pháp
chế xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Quốc hội (2008), Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội;
2. Quốc hội (2014), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án
dân sự, Hà Nội;
3. Chỉnh phủ (2008), Nghị định số 58/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội;
4. Chỉnh phủ (2015), Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội;
5. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt
Nam, , Nxb. Công an nhân dân;


MỤC LỤC




×