Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN kiểm soát trong QLXH nâng cao vai trò của uỷ ban kiểm tra trong quản lý xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.56 KB, 21 trang )

A. MỞ ĐẦU
Từ khi thành lập cho đến nay, Đảng ta luôn nhận thức về tầm quan trọng
của công tác kiểm tra đối với việc bảo đảm cho mục tiêu, lý tưởng, cương
lĩnh, chiến lược, đường lối, chính sách, các chỉ thị, nghị quyết và việc giữ gìn
kỷ luật, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của đảng ta khẳng định: Kiểm tra là một tất yếu
khách quan, là một biểu hiện nghiêm túc của hoạt động có ý thức của mọi tổ
chức và con người trong xã hội. Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh
đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng
Đảng. Kiểm tra cần thiết đối với mọi tổ chức và con người trong xã hội, đặc
biệt là đối với chính Đảng của giai cấp vô sản và người cộng sản. Kiểm tra là
một nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của toàn Đảng: Trong các văn kiện của
Đảng, Đảng ta đã khẳng định: Công tác kiểm tra của Đảng là công tác của
toàn Đảng. Trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa (CNH), hiện
đại hóa (HĐH) đất nước, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải
coi trọng và tiến hành tốt công tác kiểm tra của Đảng. Trong thời kỳ CNH –
HĐH, công tác kiểm tra có vai trò góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về tư
tưởng, chính trị và tổ chức, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế, xã hội trong
thời kỳ đổi mới.
Vì vậy, qua từng nhiệm kỳ Đại hội, Đảng ta đều khẳng định: Kiểm tra là
một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, “ Lãnh đạo mà không có
kiểm tra thì coi như không có lãnh đạo". Trong điều kiện nền kinh tế thị
trường hiện nay, đa số đảng viên của Đảng giữ vững lập trường tư tưởng, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, phát huy tính năng động sáng tạo
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
đổi mới đất nước, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một bộ phận cán bộ, đảng viên
của Đảng có biểu hiện giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động,
mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc đổi mới, vào con
1



đường đi lên CNXH ở nước ta, do đó đã làm tăng thêm những vấn đề nhức
nhối của tệ nạn xã hội, chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, lối sống thực dụng, chạy
theo đồng tiền, chà đạp lên nhân phẩm, đạo lý làm người, tham ô, tham
nhũng, thoái hóa, biến chất, sa sút nhân phẩm, đạo đức, lối sống, vi phạm kỷ
luật Đảng, pháp luật nhà nước.
Trước tình hình đó, đòi hỏi Đảng ta phải tiếp tục tự đổi mới toàn diện,
một trong những yếu tố đảm bảo Đảng tự đổi mới là tăng cường công tác
kiểm tra, nâng cao chất lượng hoạt động của UBKT.
Từ nhận thức trên, với kiến thức đã được học tập và nghiên cứu, cùng
với kiến thức thực tế tại các địa phương, với một số kinh nghiệm tích lũy
được, em xin chọn đề tài “Nâng cao vai trò của Uỷ ban Kiểm tra trong
Quản lý xã hội” để nghiên cứu.
Ngoài Mở đầu và Kết luận, nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I. Cơ sở lý luận về Uỷ ban Kiểm tra
Chương II. Thực trạng về vai trò của Uỷ ban Kiếm tra trong Quản lý
xã hội
Chương III. Giải pháp và đề xuất, kiến nghị để nâng cao vai trò của
UBKT trong QLXH

2


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ UỶ BAN KIỂM TRA
1. Khái niệm
- Kiểm tra: Theo Từ điển Tiếng Việt, kiểm tra là “xem xét tình hình
thực tế để đánh giá, nhận xét”, để chỉ hoạt động của chủ thể tác động vào đối
tượng kiểm tra (có thể trực thuộc hoặc không trực thuộc). Theo nghĩa rộng, để
chỉ hoạt động của các tổ chức xã hội, các đoàn thể và của công dân kiểm tra
hoạt động bộ máy của nhà nước. Theo nghĩa này, tính quyền lực nhà nước

trong kiểm tra bị hạn chế vì các chủ thể thực hiện kiểm tra không có quyền áp
dụng trực tiếp những biện pháp cưỡng chế nhà nước. Theo nghĩa hẹp hơn,
kiểm tra là hoạt động của chủ thể nhằm tiến hành xem xét, xác định một việc
gì đó của đối tượng bị quản lý xem có phù hợp hay không phù hợp với trạng
thái định trước (kiểm tra mang tính nội bộ của người đứng đầu cơ quan, kiểm
tra phương tiện giao thông…). Kiểm tra gồm có kiểm tra thường xuyên và
kiểm tra định kỳ.
- Ủy ban Kiểm tra Trung ương là cơ quan kiểm tra, giám sát chuyên
trách của Ban Chấp hành Trung ương, thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
được quy định trong Điều lệ Đảng; tham mưu, giúp Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát
và thi hành kỷ luật trong Đảng.
Theo Điều 30 Điều lệ Đảng:
1. Kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng. Tổ chức
đảng phải tiến hành công tác kiểm tra. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự
kiểm tra của Đảng.
2. Các cấp ủy đảng lãnh đạo công tác kiểm tra và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính
trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng.
Theo Điều 31 Điều lệ Đảng:
3


1. Uỷ ban kiểm tra các cấp do cấp ủy cùng cấp bầu, gồm một số đồng
chí trong cấp ủy và một số đồng chí ngoài cấp ủy.
2. Các thành viên ủy ban kiểm tra và chủ nhiệm ủy ban kiểm tra cấp
dưới phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp chuẩn y, nếu điều động chủ nhiệm ủy
ban kiểm tra sang công tác khác phải được cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý.
3. Uỷ ban kiểm tra làm việc theo chế độ tập thể, dưới sự lãnh đạo của
cấp ủy cùng cấp và sự chỉ đạo, kiểm tra của ủy ban kiểm tra cấp trên

2. Nhiệm vụ và quyền hạn của UBKT
1. Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi
phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện
nhiệm vụ đảng viên.
2. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc
chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra
và thi hành kỷ luật trong Đảng.
3. Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc
đề nghị cấp ủy thi hành kỷ luật.
4. Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu
nại về kỷ luật Đảng.
5. Kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp
ủy cùng cấp.
Theo Điều 33 Điều lệ Đảng: Uỷ ban kiểm tra có quyền yêu cầu tổ chức
đảng cấp dưới và đảng viên báo cáo, cung cấp tài liệu về những vấn đề liên
quan đến nội dung kiểm tra.
3.Vai trò của Ủy ban Kiểm tra
1. Quyết định phương hướng, nhiệm vụ, chương trình công tác kiểm
tra, giám sát nhiệm kỳ, hằng năm, 6 tháng; sơ kết, tổng kết công tác kiểm tra,
giám sát; triệu tập và chỉ đạo hội nghị cán bộ kiểm tra toàn quốc.
2. Trực tiếp tổ chức thực hiện các nhiệm vụ công tác kiểm tra, giám sát
và thi hành kỷ luật trong Đảng do Điều lệ Đảng quy định.
4


3. Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát do Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao.
4. Khi tiến hành công tác kiểm tra, giám sát có quyền yêu cầu tổ chức
đảng và đảng viên báo cáo tình hình, cung cấp tài liệu về những vấn đề có liên
quan đến nội dung kiểm tra, giám sát; yêu cầu các tổ chức đảng có liên quan

phối hợp công tác kiểm tra, giám sát. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát nếu có phát hiện tổ chức đảng hoặc đảng viên có những
quyết định hoặc việc làm có dấu hiệu sai, trái với Cương lĩnh chính trị, Điều
lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng thì Uỷ ban Kiểm tra Trung
ương được quyền yêu cầu tổ chức đảng hoặc đảng viên xem xét lại quyết định
hoặc làm việc đó; nếu tổ chức đảng và đảng viên không thực hiện thì báo cáo
kịp thời với cấp có thẩm quyền xem xét.
5. Phối hợp với các ban Trung ương Đảng giúp Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư xây dựng phương hướng, nhiệm vụ, chương
trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát, tổ chức lực lượng để tiến hành kiểm tra,
giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên chấp hành Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng (theo Điều 30 Điều lệ Đảng).
6. Tham mưu, giúp Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng, về những
giải pháp nhằm giữ vững nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trước hết là
nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng,
tăng cường kỷ cương của Đảng, chủ động phòng ngừa vi phạm kỷ luật của tổ
chức đảng và đảng viên.
7. Tham mưu với Bộ Chính trị, Ban Bí thư về nội dung, quy trình,
phương thức giám sát và trực tiếp tổ chức giám sát theo quy định của Điều lệ
Đảng và điểm 2, Điều 2 của Quy chế này.
8. Ủy ban Kiểm tra Trung ương phối hợp với Văn phòng Trung ương
(là cơ quan chủ trì), Ban Tổ chức Trung ương và các cơ quan liên quan giúp
Ban Chấp hành Trung ương theo dõi, giám sát việc thực hiện Quy chế làm
việc của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
5


CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA UỶ BAN KIỂM TRA
TRONG QUẢN LÝ XÃ HỘI

1. Những thành tựu đạt được.
Công tác kiểm tra, giám sát luôn được Đảng ta coi trọng trong suốt quá
trình lãnh đạo cách mạng từ khi thành lập cho đến nay. Đảng đã xác định: kiểm
tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng
trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng; tổ chức đảng phải tiến hành công tác
kiểm tra, giám sát; tổ chức đảng và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát
của Đảng; không kiểm tra coi như không lãnh đạo. Những năm qua Đảng ta đã
có nhiều nỗ lực trong việc bổ sung, phát triển, hoàn thiện các quan điểm,
nguyên tắc và phương pháp của công tác này. Đồng thời đã tăng cường chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của uỷ ban kiểm tra các cấp để đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng hiên nay. Tính riêng trong nhiệm kỳ khoá
X, Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 34 văn bản, hình thành
một hệ thống tương đối đồng bộ các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật trong Đảng. Đặc biệt, Ban Chấp hành Trung ương khoá X đã ra
Nghị quyết về “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng” và Bộ
Chính trị ban hành Kết luận về “Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng đến năm 2020” để giải quyết những vấn đề vừa trước mắt, vừa lâu dài
trong công tác này của toàn Đảng. Mới đây, Ban Chấp hành Trung ương khoá
XI tiếp tục ra Quyết định 46-QĐ/TW, ngày 1-11-2011 về “Ban hành hướng
dẫn thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng
trong Chương VII, Chương VIII Điều lệ Đảng” và Bộ Chính trị tiếp tục ra
Quyết định số 68-QĐ/TW về “Ban hành Quy chế giám sát trong Đảng”.
Thực hiện các quan điểm, chủ trương chiến lược và chương trình kiểm
tra, giám sát đã đề ra, công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, tổ chức đảng và
uỷ ban kiểm tra các cấp đã có những chuyển biến tích cực, khá toàn diện.
Thời gian vừa qua, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và ủy ban kiểm tra các cấp
đã chủ động, tích cực thực hiện kiểm tra các lĩnh vực quan trọng như: phòng
6



chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, về Chiến lược cán bộ,
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cải cách hành chính… Quá trình
thực hiện luôn chú trọng những nơi phức tạp, nhạy cảm, những vụ việc bức
xúc, nổi cộm. Tính chất, mức độ các cuộc kiểm tra sâu sát, quyết liệt hơn so
với trước kia. Giám sát là một nhiệm vụ mới, nhưng quá trình thực hiện đã có
kết quả và tác dụng bước đầu trong việc hạn chế và phòng ngừa vi phạm, tiêu
cực của tổ chức đảng và đảng viên. Bộ máy tổ chức của uỷ ban kiểm tra các
cấp được quan tâm kiện toàn; đội ngũ cán bộ kiểm tra được tăng cường về số
lượng và nâng cao chất lượng; chế độ, chính sách đối với cán bộ kiểm tra
được xem xét, bổ sung đã tạo được động lực mới cho tính tích cực trong thi
hành công vụ.
Thực tế cho thấy, công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ và uỷ ban kiểm
tra các cấp đã góp phần giúp các tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên phát huy
ưu điểm, khắc phục những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm trong thực hiện các
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, ngăn ngừa sai
phạm. Qua kiểm tra, giám sát đã phát hiện nhiều sơ hở, bất cập trong quản
lý kinh tế - xã hội mà người thực thi công vụ lợi dụng để trục lợi, gây thiệt hại
lợi ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của người dân; phát hiện những cơ
chế, chính sách không phù hợp với thực tế cuộc sống để từ đó làm cơ sở kiến
nghị với các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung, từng bước hoàn thiện cơ
chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Nhìn chung, công tác kiểm tra giám sát của cấp uỷ, tổ chức đảng và uỷ
ban kiểm tra các cấp trong tỉnh ngày càng đi vào nề nếp, đã thực hiện đồng bộ
giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát; giám sát được mở rộng, kiểm tra
được tiến hành có trọng tâm trọng điểm. Thực tiễn cho phép khẳng
định: trong nhiệm kỳ qua, công tác kiểm tra, giám sát đã góp phần quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị,
thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển. Đặc biệt, qua kiểm tra, giám
sát đã chủ động giáo dục, phòng ngừa; giúp tổ chức đảng cấp dưới và đảng
7



viên kịp thời thấy được ưu điểm để phát huy, đồng thời nhận rõ những khuyết
điểm, hạn chế để sửa chữa, phắc phục; phát hiện được những thiếu sót, sơ hở
trong lãnh đạo, quản lý để điều chỉnh, bổ sung; xử lý nghiêm những sai phạm
của tổ chức đảng và đảng viên. Nhờ đó, kỷ luật của Đảng, kỷ cương hành
chính của Nhà nước được tăng cường; tạo sự đoàn kết thống nhất trong nội
bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng; lòng tin
của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, chính quyền tiếp tục được củng cố,
sự đồng thuận trong xã hội ngày càng tốt hơn.
2.Hạn chế
Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng vẫn còn những hạn
chế, yếu kém như:
Nhận thức của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên về vị trí, vai trò
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng chưa đầy đủ. Việc thực hiện một số
nhiệm vụ, quy định mới của Đảng còn lúng túng, hiệu quả chưa cao như việc
thực hiện chất vấn trong Đảng, thực hiện chức năng giám sát của Đảng… Số
đảng viên bị kỷ luật không giảm, xử lý kỷ luật có trường hợp chưa nghiêm,
chưa kịp thời.
Uỷ ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra một số nơi chưa đủ mạnh, chưa
ngang tầm với nhiệm vụ, chưa bám sát cơ sở, địa bàn, lĩnh vực đã dẫn đến để
vi phạm xảy ra kéo dài, làm cho tình hình trở nên phức tạp, gây hậu quả
nghiêm trọng.
3.Nguyên nhân của hạn chế
Nguyên nhân của những hạn chế được UBKT Trung ương xác định là
do việc thực hiện nhiệm vụ giám sát còn hạn chế; việc chủ động nắm tình
hình, phát hiện kịp thời những vụ việc nổi cộm liên quan đến người đứng đầu
ở các địa phương, đơn vị trực thuộc Trung ương để kiểm tra đảng viên tổ chức
đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm, trước hết là cán bộ diện Bộ Chính trị,
Ban Bí thư quản lý chưa được nhiều. Nguyên nhân về phương pháp công tác

cũng được xác định là còn hạn chế bởi trong khi công tác kiểm tra, giam sát
8


và thi hành kỷ luật của UBKT Trung ương là công tác xây dựng Đảng, tuân
thủ theo các nguyên tắc, phương pháp cơ bản của công tác đảng thì các đối
tượng kiểm tra, giám sát của UBKT Trung ương có tri thức, chức vụ và quyền
lực cao, khi vi phạm thường rất tinh vi và được che chắn bằng nhiều hình thức
(bằng chức vụ, quyền hạn, bằng các mối quan hệ...), nên việc phát hiện xử lý
bằng phương pháp công tác đảng (chủ yếu dựa vào việc phát huy tinh thần tự
giác của tổ chức đảng và đảng viên) không thích hợp, nên kết quả, hiệu quả
còn rất hạn chế.
Công tác phối hợp chưa được tăng cường, một số cấp ủy, tổ chức đảng
triển khai còn chậm, chỉ đạo thực hiện chưa chặt chẽ, đầy đủ và thường xuyên
để phát hiện dấu hiệu vi phạm; việc phối hợp xem xét, giải quyết tố cáo, xử lý
kỷ luật chưa kịp thời, có trường hợp còn để kéo dài; còn chồng chéo giữa
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, giám sát của Quốc hội với công tác
thanh tra, công tác kiểm toán của Nhà nước. Chưa có một kế hoạch phối hợp
thống nhất tổng thể trong một cơ chế vận hành chung và còn vướng mắc ở các
thủ tục hành chính, thời gian phúc đáp qua lại kéo dài, mất tính kịp thời, làm
giảm hiệu lực kiểm tra, thanh tra, giám sát, xử lý vi phạm của các cơ quan
phối hợp.
Năng lực của một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu. Công
việc của cán bộ kiểm tra là khó khăn và vất vả, xuất phát từ chính tính chất và
đặc thù của hoạt động kiểm tra, giám sát của Đảng là công tác đảng, song lại
có liên quan đến nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước khác nhau, tập trung vào
các vấn đề khó, phức tạp, bức xúc, căng thẳng; thời gian dành cho công việc
thường kéo dài với địa bàn hoạt động rộng. Yêu cầu về thời gian, chất lượng
và tính chính xác trong hoạt động kiểm tra rất cao, phải đấu tranh với sai
phạm của những người có chức vụ, quyền hạn và nhiều kinh nghiệm trong

các cơ quan Đảng và Nhà nước. Điều đó đòi hỏi cán bộ kiểm tra không những
phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng mà còn phải có kiến
thức, trình độ chuyên môn sâu, tính chiến đấu, tính kỷ luật cao và phong cách
9


ứng xử phù hợp trong công việc. Việc xây dựng một đội ngũ cán bộ mang tính
chuyên nghiệp, có chất lượng phải có thời gian. Song việc thu hút, bổ sung
cán bộ về làm công tác kiểm tra có trình độ, kinh nghiệm còn gặp nhiều khó
khăn do chế độ đãi ngộ còn nhiều bất cập. Vì vậy, cũng ảnh hưởng đến kết
quả công tác của UBKT.
4.Bài học kinh nghiệm
Thứ nhất, các cấp ủy Đảng cần tập trung lãnh đạo nâng cao nhận thức
về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Công tác kiểm tra, giám sát là một bộ phận của công tác xây dựng
Đảng, một nội dung quan trọng trong hoạt động lãnh đạo của Đảng nhằm bảo
đảm nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức đảng, giữ gìn sự trong
sạch, vững mạnh, ngăn ngừa và khắc phục những tiêu cực trong Đảng. Trong
tình hình hiện nay, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng càng có vị trí đặc
biệt quan trọng. Cấp ủy các cấp cần tiếp tục đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo
dục làm cho cán bộ, đảng viên nâng cao hơn nữa nhận thức về công tác kiểm
tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng; tiếp tục quán triệt sâu kỹ các mục
tiêu, quan điểm, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 5 (Khóa X) và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, từ đó xác định quyết
tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết. Bên cạnh đó, cần tổ chức tốt việc học tập
Điều lệ Đảng, các quyết định, quy định, quy chế và hướng dẫn về công tác
kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng để triển khai thực hiện nghiêm
túc. Phải nhận thức sâu sắc rằng công tác kiểm tra, giám sát là những công
việc thực hiện chức năng lãnh đạo của tổ chức Đảng. Cấp ủy, tổ chức đảng
các cấp phải chỉ đạo và trực tiếp tiến hành công tác kiểm tra, giám sát; mọi tổ

chức đảng và đảng viên đều chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng.
Thứ hai, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của cấp ủy các cấp; đề cao trách nhiệm của
người đứng đầu cấp ủy và người đứng đầu đơn vị.

10


Công tác kiểm tra, giám sát phải được tiến hành một cách thường
xuyên, toàn diện, công khai, dân chủ, thận trọng và chặt chẽ. Thực hiện đồng
bộ công tác kiểm tra và công tác giám sát theo đúng phương châm: “kiểm tra
phải có trọng tâm, trọng điểm” và “giám sát phải mở rộng”. Tập trung kiểm
tra, giám sát các lĩnh vực nhạy cảm, dễ vi phạm hoặc phát sinh tiêu cực như
việc chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước; việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ,
giữ gìn đoàn kết nội bộ, thực hiện quy chế làm việc, công tác cán bộ; việc
thực hành tiết kiệm, phòng chống tham nhũng, lãng phí; quản lý và sử dụng
đất đai, quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công; việc lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, giải quyết khiếu nại, tố cáo của
công dân; việc rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Đặc biệt phải thường xuyên kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết
Trung ương 4 (Khóa XI) về xây dựng Đảng, nhất là việc khắc phục các
khuyết điểm đã được chỉ ra qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình gắn với
kiểm tra, giám sát công tác lãnh đạo thực hiện việc học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh. Cấp ủy các cấp cần thường xuyên chỉ đạo Ủy
ban kiểm tra cấp mình phối hợp với các ban xây dựng Đảng và các ngành có
liên quan phát huy tốt vai trò tham mưu, chủ động xây dựng chương trình, kế
hoạch kiểm tra, giám sát của cấp ủy. Cấp ủy phải chịu trách nhiệm chủ trì, kết
luận các cuộc kiểm tra do cấp ủy tổ chức. Hết sức coi trọng công tác phúc tra
sau kiểm tra, khắc phục triệt để những yếu kém, vi phạm; đồng thời quan tâm

phát hiện những nhân tố mới, phát huy sự năng động, sáng tạo của tổ chức
đảng và đảng viên góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa
phương, đơn vị.
Thứ ba, phải thường xuyên quan tâm kiện toàn tổ chức, bộ máy, xây
dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra.
Ủy ban kiểm tra là cơ quan kiểm tra, giám sát chuyên trách của cấp ủy,
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Điều lệ Đảng; tham
11


mưu giúp cấp ủy chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Do đó, để nâng cao chất lượng công
tác kiểm tra, giám sát, cùng với việc phải dựa vào sức mạnh của Đảng, của cả
hệ thống chính trị thì phải quan tâm xây dựng hệ thống Ủy ban kiểm tra các
cấp vững mạnh. Các cấp ủy cần tiếp tục quan tãm củng cố, kiện toàn đủ số
lượng và đảm bảo chất lượng cán bộ ủy ban kiểm tra và cơ quan ủy ban kiểm
tra cấp mình; đặc biệt quan tâm củng cố ủy ban kiểm tra cấp cơ sở. Làm tốt
công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt, thực hiện
tốt việc luân chuyển đội ngũ cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát theo
Thông báo kết luận số 312 -TB/TW, ngày 09/3/2010 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng. Tăng cường công tác tập huấn nghiệp vụ cho toàn ngành với nội
dung, hình thức phù hợp. Bên cạnh đó cần quan tâm đầu tư đúng mức phương
tiện, điều kiện làm việc cho cơ quan Ủy ban kiểm tra, thực hiện tốt các chế
độ, chính sách đối với cán bộ kiểm tra.
Đội ngũ cán bộ kiểm tra phải không ngừng học tập nâng cao trình độ
chuyên môn, năng lực công tác; nỗ lực phấn đấu rèn luyện để có bản lĩnh
chính trị vững vàng, có dũng khí đấu tranh, thật sự công tâm, khách quan,
chính trực và liêm khiết; có khả năng độc lập nghiên cứu, thực hiện tốt chức
trách, nhiệm vụ được giao.
Thứ tư, thực hiện tốt mối quan hệ phối hợp trong công tác kiểm tra,

giám sát.
Xuất phát từ yêu cầu của công tác xây dựng Đảng hiện nay, nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát của Đảng ngày càng to lớn, nặng nề. Để hoàn thành nhiệm
vụ, không những phải phát huy tốt trách nhiệm của lực lượng chính là đội ngũ
cán bộ kiểm tra chuyên trách mà còn phải có sự phối hợp thường xuyên và
đồng bộ của các ngành, các cấp trong công tác kiểm tra, giám sát. Sự phối
hợp được thực hiện trên cơ sở Quy chế, xác định rõ trách nhiệm, nội dung,
phạm vi và nguyên tắc phối hợp của các cơ quan và tổ chức có liên quan
trong công tác kiểm tra, giám sát.
12


Các cấp ủy cần tăng cường chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện các
quy chế phối hợp để không ngừng nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng. Quá trình thực hiện, định kỳ hàng năm cần tổ chức sơ kết, rút
kinh nghiệm để bổ sung hoàn thiện quy chế.
Phát huy kết quả đã đạt được, ra sức khắc phục những hạn chế, khuyết
điểm trên cơ sở một số kinh nghiệm rút ra qua kết quả thực hiện nhiệm vụ
kiểm tra, giám sát nhiệm kỳ 2010-2015, cấp ủy và ủy ban kiểm tra các cấp
nhất định sẽ tạo chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện và vững chắc hơn trong
công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

13


CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ ĐỂ NÂNG CAO
VAI TRÒ CỦA UBKT TRONG QLXH
1. Đường lối chủ trương của Đảng
Để phát huy vai trò của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong khi
thực hiện Nghị quyết Trung ương lần thứ tư, làm cho chúng thực sự là công

cụ đắc lực góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, tạo ra được chuyển biến thực sự
trong công tác xây dựng Đảng, cần quan tâm một số vấn đề:
Thứ nhất, các cấp ủy Đảng và uỷ ban kiểm tra các cấp phải quán triệt
sâu sắc nội dung Nghị quyết Trung ương lần thứ tư. Từ đó chỉ đạo, tổ chức
thực hiện công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật Đảng với trách nhiệm và
quyết tâm chính trị cao, bảo đảm đúng tinh thần Nghị quyết; người đứng đầu
cấp ủy, cán bộ chủ chốt ở mỗi cấp và cấp trên phải thực sự gương mẫu thực
hiện để làm gương cho cấp dưới.
Thứ hai, tổ chức thực hiện công tác kiểm tra, giám sát phải với tinh thần
kiên quyết, kiên trì, thực sự dân chủ. Khi nhận xét, đánh giá, kết luận, xem xét
xử lý tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên vi phạm phải thận trọng, khách quan,
công minh, chính xác, thấu tình, đạt lý. Quá trình thực hiện nghiệp vụ phải
xác định rõ lộ trình, thời gian thực hiện, thời gian hoàn thành, gắn với thường
xuyên đôn đốc, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện và báo cáo kết quả
thực hiện.
Thứ ba, cần tiến hành kiểm tra, giám sát từ bước triển khai quán triệt
đến việc cụ thể hoá và tổ chức thực hiện từng nội dung của Nghị quyết để bảo
đảm Nghị quyết được thực hiện nghiêm túc, tránh được tình trạng làm lướt,
“đầu voi, đuôi chuột” hoặc thái độ cực đoan, quá khích. Đặc biệt, cần chú ý
tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình chuẩn bị, thực hiện và xử lý kết quả tự
phê bình và phê bình.
Ủy ban kiểm tra các cấp cần làm tốt vai trò chủ trì phối hợp với các ban
đảng, các tổ chức đảng và các cơ quan liên quan tham mưu, giúp cấp ủy tổ
14


chức lấy ý kiến góp ý của các tổ chức, cá nhân đã nghỉ hưu đối với tập thể và
cá nhân các cấp uỷ viên. Đặc biệt là đối với tập thể và cá nhân các Uỷ viên Bộ
Chính trị, Ban Bí thư. Cần chuẩn bị cụ thể, sát hợp nội dung gợi ý kiểm điểm,

yêu cầu và cách kiểm điểm, tự phê bình và phê bình đối với một số nơi và
những người xét thấy cần thiết.
- Cần đôn đốc, theo dõi, kiểm tra cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới và cán
bộ, đảng viên chuẩn bị thực hiện việc tự phê bình, phê bình và sửa chữa, khắc
phục hạn chế, yếu kém, vi phạm (nếu có) sau kiểm điểm, nhất là đối với
những tập thể, cá nhân được gợi ý kiểm điểm. Đôn đốc, theo dõi, kiểm tra
việc xử lý vi phạm đảm bảo công tâm, nghiêm minh.
Thứ tư, Ủy ban kiểm tra Trung ương và ủy ban kiểm tra các cấp cần có
hướng dẫn cụ thể việc thực hiện chế độ chất vấn trong Đảng, chuẩn bị tốt nội
dung chất vấn tại các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương và ban chấp hành
đảng bộ các cấp. Kiểm tra, xem xét việc giải quyết những vụ việc có thông tin
hoặc đơn thư phản ánh, khiếu nại, tố cáo, nhất là những vụ việc bức xúc mà
dư luận xã hội quan tâm. Kiểm tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng
phí. Bảo đảm xét xử kịp thời, nghiêm minh những vụ án tham nhũng, trước
hết là những vụ nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm.
Ngoài ra, cần phối hợp chặt chẽ với các ban đảng, tổ chức đảng và cơ
quan liên quan tham mưu, giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban thường vụ cấp
uỷ sửa đổi, bổ sung các quy định, chế độ về tổ chức, cán bộ để thực hiện
nghiêm túc, có kết quả các giải pháp đã được nêu rõ trong Nghị quyết.
2. Kiến nghị, đề xuất
Trước hết các tổ chức đảng, cấp uỷ, đảng viên và uỷ ban kiểm tra cần
nhận thức và thực hiện đúng những quy định của Đảng về công tác kiểm tra.
Vị thế của uỷ ban kiểm tra hiện nay không chỉ là một ban do cấp uỷ bầu mà
trong Điều lệ Đảng còn quy định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của uỷ
ban kiểm tra, đáng lẽ sẽ là thuận lợi cho uỷ ban kiểm tra phát huy vai trò của
15


mình trong việc vừa chịu sự chỉ đạo trực tiếp, thống nhất của cấp uỷ mà đại

diện thường xuyên là thường vụ, thường trực cấp uỷ; vừa thực hiện những
quy định của Điều lệ Đảng, mà ở đó có cả cấp uỷ, thường vụ, thường trực cấp
uỷ đều phải tuân thủ. Nhưng trên thực tế hầu như uỷ ban kiểm tra chỉ thực
hiện được vai trò là cơ quan trực tiếp chịu sự chỉ đạo của thường vụ, thường
trực cấp uỳ thậm chí cá biệt có nơi, nếu thành viên của uỷ ban kiểm tra làm
không dúng ý của một vài thành viên trong cấp uỷ thì sẽ gặp khó khăn, hoặc
sẽ bị thiệt thòi, dù có bản lĩnh cũng không dễ gì vượt qua trở ngại trong việc
thực hiện nhiệm vụ.
Thứ hai, uỷ ban kiểm tra các cấp phải tự đổi mới mình cả về tổ chức
công tác kiểm tra và cả về phương thức hoạt động. Đồng thời, người làm công
tác kiểm tra phải có đủ đức và tải, trong đó đức là gốc. Người làm công tác
kiểm tra phải có bản lĩnh và uy tín, khi giải quyết các vụ, việc, phải có thái độ
của người cộng sản: công tâm, trung thực, khách quan, kiên quyết.
Đặc biệt, trong điều kiện xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, người làm công tác kiểm tra phải có kiến thức tương
đối toàn diện về các lĩnh vực pháp luật, kinh tế, văn hoá, an ninh, quốc phòng
và công tác đảng. . .
Vì vậy, cùng với quá trình đổi mới đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra
thì người làm công tác kiểm tra phải luôn luôn tự học tập, đúc rút kinh
nghiệm để có trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đặt ra đối
với công tác kiểm tra. Mặt khác, cần có chính sách thu hút nhưng người có
đức và có thực tài về lỉnh vực kiểm tra vào làm công tác kiểm tra.
Thứ ba, cần phải có một cuộc "cách mạng" về nhận thức là uỷ ban kiểm
tra phải lả một cơ quan tư pháp trong Đảng. Muốn vậy chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, tổ chức bộ máy của uỷ ban kiểm tra các cấp phải được đổi mới.
Chức năng của uỷ ban kiểm tra phải là vừa giám sát vừa kiểm tra. Từ chức
năng đó mà quy định nhiệm vụ, quyền hạn của uỷ ban kiểm tra phải rộng hơn
và phải có tính độc lập tương đối. Cùng với việc xây dựng hệ thống các cơ
16



chế, quy chế, quy định bảo đảm cho hoạt động của uỷ ban kiểm tra cần thay
đổi cách thức thành lập uỷ ban kiểm tra và mối quan hệ giữa uỷ ban kiểm tra
cấp trên với uỷ ban kiểm tra cấp dưới. Trong điều kiện, Đảng và đất nước ta
đang phải đối mặt với bốn nguy cơ nhất là nguy cơ quan liêu, tham nhũng,
thoái hoá, biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, cộng với
bối cảnh quốc tế còn phức tạp và tiềm ẩn nhiều nguy cơ, nếu uỷ ban kiểm tra
các cấp không có tính độc lập tương đối và hoạt động như một cơ quan tư
pháp trong Đảng thì công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và cuộc đấu tranh
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong Đảng và Nhà nước rất khó đạt
được hiệu quả như mong muốn...

17


C. KẾT LUẬN
Như vậy vai trò, vị trí của công tác kiểm tra đã được Đảng ta xác định là
cực kỳ quan trọng và là nhiệm vụ của toàn Đảng. Tuy nhiên vị trí cực kỳ quan
trọng của công tác kiểm tra chưa được toàn thể đảng viên trong Đảng nhận
thức đầy đủ và thể hiện vào thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn, đã có nhiều
cấp uỷ đã nhận thức được đầy đủ về vai trò, vị trí của công tác kiểm tra nhưng
chưa biến thành hành động cụ thể trong việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra đối với các tổ chức đảng và đảng viên trong việc chấp hành
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng; thậm chí
còn một số cấp uỷ vẫn quan niệm công tác kiểm tra là của uỷ ban kiểm tra nên
phó mặc nhiệm vụ kiểm tra cho uỷ ban kiểm tra. Mặt khác, chúng ta chưa xây
dựng phương pháp và quy trình kiểm tra cho cấp uỷ các cấp nên nhiều cấp uỷ
quan tâm đến công tác kiểm tra nhưng khi thực hiện nhiệm vụ kiểm tra thì lại
rất lúng túng. Do vậy, trước hết phải nâng cao nhận thức của toàn Đảng về
công tác kiểm tra, làm cho đảng viên nhất là cấp uỷ phải nhận thức đầy đủ và

sâu sắc về công tác kiểm tra. Kiểm tra là công việc của toàn Đảng. Các cấp uỷ
và người đứng đầu cấp uỷ có trách nhiệm lãnh đạo và trực tiếp thực hiện
nhiệm vụ kiểm tra. Muốn vậy, cần quy định rõ trách nhiệm lãnh đạo, thực
hiện nhiệm vụ kiểm tra và tự kiểm tra của các đồng chí cán bộ chủ chốt, cán
bộ lãnh đạo các cấp uỷ từ Bộ Chính trị đến cấp uỷ các tổ chức đảng cơ sở.
Định kỳ sơ, tổng kết việc lãnh đạo và thực hiện nhiệm vụ kiểm tra của cấp uỷ


hàng

năm

đưa

vào

tiêu

chuẩn

đánh

giá

cấp

uỷ

viên...


và hiệu quả chứ không phải là đề cao những người làm công tác kiểm tra
Tóm lại, trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội như ở nước ta thì công tác kiểm tra càng
quan trọng. Các tổ chức đảng, cấp uỷ, đảng viên phải nhận thức đầy đủ và thể
hiện vào thực tiễn được vị trí cực kỳ quan trọng của công tác kiểm tra và
nhiệm vụ kiểm tra là của toàn Đảng. Đồng thời với việc nâng cao vị thế của
18


uỷ ban kiểm tra, tăng chức năng, quyền lực cho uỷ ban kiểm tra các cấp, cần
phải lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng để có một đội ngũ cán bộ làm công tác
kiểm tra kiên trung, tài năng, không ngại hy sinh gian khổ, đủ sức canh giữ
cho sự trong sạch, vững mạnh của Đảng.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kiểm soát đối với hoạt động quản lý xã hội, Khoa Nhà
nước và Pháp luật; TS Trần Quang Hiển, Học viện Báo chí và tuyên truyền.
2. Điều lệ Đảng.
3. Văn kiện Đại hội Đảng.
4. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992; 2013.
5. Quyết định 46-QĐ/TW, ngày 1-11-2011 về “Ban hành hướng dẫn
thực hiện các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng
trong Chương VII, Chương VIII Điều lệ Đảng” của Ban Chấp hành Trung
ương khoá XI.
6. Quyết định số 68-QĐ/TW về “Ban hành Quy chế giám sát trong
Đảng” của Bộ Chính trị.
7. Một số tài liệu khác.


20


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
B. NỘI DUNG...................................................................................................................3
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ UỶ BAN KIỂM TRA.............................3
1. Khái niệm......................................................................................................................3
2. Nhiệm vụ và quyền hạn của UBKT.....................................................................4
3.Vai trò của Ủy ban Kiểm tra....................................................................................4
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA UỶ BAN KIỂM TRA
TRONG QUẢN LÝ XÃ HỘI......................................................................................6
1. Những thành tựu đạt được.....................................................................................6
2.Hạn chế............................................................................................................................8
3.Nguyên nhân của hạn chế.........................................................................................8
4.Bài học kinh nghiệm.................................................................................................10
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP VÀ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ ĐỂ NÂNG CAO
VAI TRÒ CỦA UBKT TRONG QLXH................................................................14
1. Đường lối chủ trương của Đảng..........................................................................14
2. Kiến nghị, đề xuất.....................................................................................................15
C. KẾT LUẬN................................................................................................................18
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................20

21



×