Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

SỨ MỆNH LỊCH sử của giai cấp công nhân việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.84 KB, 36 trang )

Mục lục

A. Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Tình hình nghiên cứu
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
6. Kết cấu của liên luận
B. Nội dung
Chương 1: Khái quát sứ mệnh lịch sử của giai câp công nhân
1.1 Khái niệm giai cấp công nhân
1.2 Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Chương 2: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam
2.1 Nguồn gốc ra đời và những điều kiện quy định sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân Việt Nam
2.2 Vai trò và vị trí của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc
2.3 Vai trò và vị trí của giai cấp công nhân Việt Nam trong công cuộc
xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay
C. Kết luận
D. Danh mục tài liệu tham khảo


A phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài.
Lịch sử đã chứng minh giai cấp công nhân là giai cấp có sứ mệnh
lịch sử rất quan trọng trong việc lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động bị
áp bức, bóc lột trong cuộc đấu tranh từng bước xoá bỏ CNTB và xây dựng
thành công CNXH, đó là giai cấp tiên tiến nhất, có tư tưởng cách mạng,
chính trị triệt để nhất trong xã hội. Tuy rằng để thực hiện sư mệnh lịch sử


của mình, giai cấp công nhân phải trải qua những khó khăn, khổ cực,
những bước thăng trầm, nhưng họ vẫn hàng ngày, hàng giờ gắng sức hoàn
thành nhiệm vụ của lịch sử giao phó, trong chiến tranh vì đấu tranh giải
phóng dân tộc, trong hoà bình thì xây dựng đất nước.
Hiện nay, trước sự khủng hoảng và sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và
Đông Âu, nhiều ngưòi đã tỏ ra giao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân. Bọn cơ hội, xét lại và các thế lực chống cộng có cơ
hội mới để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Vì vậy để làm
sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nhất là trong bối cảnh lịch
sử mới đang được đặt ra một cách bức thiêt trên cả lý luận và thực tiễn mà
em đã chọn vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân làm liên luận.
2. Tình hình nghiên cứu.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân luôn là vấn đề được rất
nhiều ngành khoa học và các nhà nghiên cứu quan tâm như triết học, lịch
sử, CNXHKH… Cụ thể như: “Những nét sơ lược về lịch sử phong trào
công nhân và công đoàn Việt Nam” của Hoàng Quốc Việt, nhà xuất bản lao
động 1959; “giai cấp công nhân Việt Nam” của Trần Văn Giàu, nhà xuất
bản sử học, 1963; “vị trí sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời
kỳ xây dựng CNXH” của Lê Huy Phan, nhà xuất bản 1973; “đấu tranh giai

2


cấp và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân” nhà xuất bản sự thật 1974;
“Một số vấn đề về lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam” của Nguyễn Công
Bình, nhà xuất bản lao động 1974; “lịch sử phong trào cộng sản và giai
cấp công nhân Quốc Tế” chương trình sơ cấp nhà xuất bản giáo khoa MácLênin 1976; “Bác Hồ với giai cấp công nhân và công đoàn Việt Nam” của
Đỗ Quang Hưng nhà xuất bản 1990… Ngoài ra, vấn đề sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân cũng được đè cấp trong các giáo trình như “CNXHKH”
nhà xuất bản chính trị quôc gia, lịch sử Việt Nam của nhà xuất bản giáo

dục, “Giáo trình triết học” nhà xuất bản chính trị quốc gia… và vấn đề này
cũng được nghiên cứu và đăng trên tạp trí triết học như bài “Quan điểm
của V.I.Lênin về đạo đức và văn hoá đạo đức của giai cấp công nhân” của
Lê Trọng Ân số 6 tháng 6 năm 2004; bài “Một số vấn đề xây dựng giai cấp
công nhân ở nước ta hiện nay” của Cao Văn Lượng- nghiên cứu lịch sử số
3-1998: “ giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình
theo đường lối của đảng tiên phong” của Nguyễn Cônh Bình – nghiên cứu
lịch sử, sô 160-1975; “Giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp
hoá hiện đại hoá ở Việt Nam-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Bùi
Đình Thanh-Nghiên cứu lịch sử số 1-1999… Tất cả các sách, giáo trình, tạp
chí đó đều đề cập đến sứ mệnh lịch sử của giai câp công nhân Việt Nam.
Đây là một vấn đề rất quan trọng, phổ biến nên được nhiều ngành khoa học
quan tâm nghiên cứu, trên đây em mới chỉ ra một phần rất nhỏ của các
công trình nghiên cứu vấn đề này.
Như vậy, từ quá khứ cho đến hiện tại sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân luôn là đề tài được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu để
chứng minh vai trò quan trọng của giai cấp công nhân trong sự nghiệp giải
phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước, xây dựng xã

3


hội mới-xã hội XHCN bởi ở mỗi giai đoạn lịch sử giai cấp công nhân lại có
nhiệm vụ mới.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của niên luận: niên luận được thực hiện nhằm

mục đích làm rõ”sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam”.
Nhiệm vụ nghiên cứu của niên luận: Để thực hiện mục đích trên ta
cần triển khai một số nhiệm vụ cụ thể sau:
Trình bày khái quát sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Trình bày sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, bao
gồm: Nguồn gốc, địa vị kinh tế xã hội, đặc điểm và sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt Nam.
4. Đối tuợng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là giai cấp công nhân.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là giai cấp công nhân ở Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận.
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sử dụng phương pháp phân
tích, tổng hợp,logíc,lịch sử và các phương pháp liên ngành khác.
6. Kết cấu của niên luận.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Niên
luận còn gồm hai chương, năm tiết.

5


B. Nội dung.
Chương 1: Khái quát về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
1.1 Giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp đó luôn là đối
tượng nghiên cứu trong mọi thời đại, từ xưa các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác như: C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin là những người đã quan tâm,
nghiên cứu và đưa ra những học thuyết về giai cấp công nhân. Học thuyết
về giai cấp công nhân đã được họ trình bày trong các tác phẩm như “Nội
chiến ở Pháp” (1871) “Phê phán cương lĩnh Gôta” (1875), “Tuyên ngôn

của Đảng Cộng Sản” (1847), “Sáng kiến vĩ đại”… Ở đây, khi các ông nhận
ra rằng những mâu thuẫn và bất công trong xã hội là do chế độ tư bản gây
ra và người bị áp bức bóc lột thậm tệ nhất trong xã hội là giai cấp công
nhân. Nghiên cứu về giai cấp này các ông không chỉ thấy được những nỗi
khổ nhục, bất công mà người công nhân phải chịu các ông còn nhận thấy
được khả năng cũng như sức mạnh của giai cấp công nhân trong sự nghiệp
giải phóng mình và giải phóng nhân loại để tiến tới một xã hội công bằng,
tốt đẹp hơn. Trong “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” Ăngghen đã viết:
“Giai cấp vô sản không chỉ là giai cấp chịu đau khổ mà còn là giai cấp có
sứ mạng lịch sử và tiền đồ rất vẻ vang”, khác với nhà các nhà không tưởng
Xanhximông, Phuriê, Ôoen vào thời kỳ đó cũng đã có tư tưởng thấy được
sự bất công của xã hội tư bản và nghĩ rằng phải có một xã hội công bằng
hơn, ở đó không có áp bức bóc lột ở đó mọi người được sống trong hoà
bình, ấm no, hạnh phúc nhưng những tư tưởng của các ông đã không trở
thành hiện thực vì các ông không hiểu được vai trò lịch sử của giai cấp
công nhân đến thế kỷ XIX, Mác-Ăngghen bước vào trường đấu tranh chính
trị. Tuy Mác-Ăngghen không phải là giai cấp công nhân, nhưng hai ông đã
nghiên cứu phong trào công nhân ở Châu Âu và phát hiện ra được một điều

6


mà các nhà không tưởng đó không thấy được là giai cấp công nhân là
những người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và là lực lượng chủ yếu xây
dựng xã hội mới. Và kế thừa tư tưởng của các nhà Macxít, Chủ tich Hồ
Chí Minh – Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã nhận thấy được vai trò
sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân. Khi ra đi tìm đường cứu nước, đến
được luận cương của Lênin “Về vấn đề giải phóng dân tộc và thuộc địa”
Người đã tìm thấy và khẳng định con đường giải phóng dân tộc Việt Nam
là con đường “Cách mạng vô sản” Hồ Chí Minh luôn đặt niềm tin lớn lao

vào giai cấp công nhân, khẳng định sứ mệnh lịch sử và vai trò lãnh đạo của
giai cấp công nhân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây
dựng chế độ mới. Người khẳng định: “để dành lấy thắng lợi, cách mạng
phải nhất định phải do giai cấp công nhân lãnh đạo vì nó là giai cấp tiên
tiến nhất, có kỷ luật nhất và có tổ chúc chặt chẽ nhất”(1)
Giai cấp công nhân thế giới ra đời trong Cuộc cách mạng công
nghiệp và trưởng thành trong quá trình phát triển của CNTB. Cuộc cách
mạnh công nghiệp được thực hiện đầu tiên ở nước Anh trong nhưĩng năm
60 của thế kỉ XVIII và sau đó lần lượt được thực hện ở các nước Tây Âu.
Cuộc cách mạng đó đã làm thay đổi mọi cách sản xuất từ trước đến lúc bấy
giờ, chuyển từ lao động bằng tay sang lao động bằng máy móc, đưa năng
xuất lao động tăng lên một cách nhanh chóng và rộng lớn một cách chưa
từng thấy. Song cách mạng công nghiệp diễn ra ở đâu thì ở đó toàn bộ công
nghiệp chuyển vào tay các nhà tư bản lớn, còn những người sản xuất nhỏ
thì bị phá sản, buộc phải đi làm thuê cho các nhà tư bản, “những nhà tiểu
công nghiệp, tiểu thương nghiệp và thực lợi nhỏ, thợ thủ công và nông dân
tất cả các tầng lớp dưới của tầng lớp xưa kia, đều rơi xuống hàng ngũ vô
sản”. Vì lẽ đó Ăngghen kết luận”giai cấp vô sản là do cuộc cách mạng công
Đỗ Quang Hưng. Bác Hồ với giai cấp công nhân và công đoàn Việt
Nam, Nxb Lao động 1990, tr 56.
(1)

7


nghiệp sản sinh ra”. Những người bán sức lao động của mình để kiếm
sống. Và chính tiêu chí này đã làm cho giai cấp công nhân trở thành giai
cấp đối kháng với giai cấp tư sản.
Ngày nay với sự phát triển của CNTB trong nửa sau của thế kỉ XX,
bộ măt của giai cấp công nhân có nhiều thay đổi khác trước. Sự phát triển

của lực lượng sản xuất xã hội hiện nay đã vượt ra trình độ văn minh công
nghiệp trước đây. Sự xã hội hoá và phân công lao động xã hội mới, cơ cấu
của giai cấp công nhân hiện đại, các hình thức bóc lột giá trị thặng dư…Đã
làm cho diện mạo của giai cấp công nhân hiện đại không còn giống với
diện mạo của Mác mô tả trong thế kỉ XIX. Song những thuộc tính cơ bản
của Mác đã phát hiện ra vẫn còn nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp
luận để cho chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là để
làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay.
Và căn cứ vào hai chỉ tiêu cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa giai
cấp công nhân: “Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình
thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp,
với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hoá ngày
càng cao; Là lực lượng sản xuất cơ bản và tiên tiến trực tiếp tham gia vào
quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã
hội; Là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ CNTB lên
CNXH. Ơ các nước tư bản, giai cấp công nhân là những người không có
hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, phải đi làm thuê cho giai cấp tư
sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ
nghĩa, họ là những người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu
sản xuất chủ yếu của xã hội và cùng nhau lao động vì lợi ích chung của
toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ.”

8


1.2 Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
Giai cấp vô sản các nước, dù màu da, tiếng nói, phong tục tập quán
khác nhau, nhưng có những quyền lợi cơ bản giống nhau, họ có một
nguyện vọng chung là giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột, và phải chống
với một kẻ thù chung là giai cấp tư sản ở nước mình, cùng sự cấu kết của

giai cấp ấy trên phạm vi thế giới. Gắn liền với kinh tế tư bản chủ nghĩa, giai
cấp vô sản không sống phân tán và biệt lập như những người lao động khác
trong nền kinh tế tự cung, tự cấp trước kia. Giai cấp vô sản thế giới ra đời
khi thị trường thế giới đang hình thành, những mối quan hệ về kinh tế,
chính trị, về văn hoá giữa các nước đang phát triển mạnh mẽ. Đường sắt,
tàu thuỷ, điện báo…Mọi phương tiện giao thông đều do nền công nghiệp
lớn sản xuất ra làm dễ dàng cho việc thiết lập quan hệ giữa vô sản nước này
với vô sản nước khác. vì vậy giai cấp vô sản sớm trở thành một lực lượng
quốc tế ngày càng đông đảo, ngày càng chống lại nền thống trị của CNTB.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định giai cấp
công nhân hiện đại là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để, có khả năng
tổ chức và lãnh đạo toàn thể nhân dân lao động tiến hành cải biến cách
mạng, từ hình thái kinh tế xã hội tư bản sang hình thái kinh tế xã hội cộng
sản chủ nghĩa, giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức, bất công và mọi hình
thức bóc lột. Nói một cách khái quát là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là: Xoá bỏ chế độ TBCN xoá bỏ chế độ người bóc lột người, giải
phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi
ách áp bức bóc lột, nghèo làn lạc hậu, xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa
văn minh. Ph.Ăngghen viết: “thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấyđó là sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản hiện đại”(1). VI.Lênin cũng chỉ rõ
“điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò
(1)

Mác-Ăng-ghen sđd, 1994, t.20, tr 393.

9


lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa”(1).
Học thuyết Mác-Ăngghen về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

là luận chứng khoa học về địa vị kinh tế-xã hội và vai trò lịch sử của giai
cấp công nhân, về những mục tiêu, con đường để giai cấp đó hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình. Học thuyết ấy đã chứng minh rằng, sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân được quy định bởi những điều kiện khách quan: Đó
là “cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp, chính cái nền tảng trên
đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu sản phẩm của nó, đã bị phá
sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết giai cấp tư sản sản sinh ra những
người đào huyệt chân chính. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi
của giai cấp vô sảnđều là tất yếu như nhau”(2).
Và lý thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đã được Mác
và Ăngghen trình bày một cách cụ thể sau:
Trước hết, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là việc
thực hiện sự chuyển biến từ chế độ tư hữu này sang chế độ tư hữu khác,
không phải là từ hình thức bóc lột này sang hình thức bóc lột khác mà
ngược lại mục tiêu cuối cùng của giai cấp công nhân là xoá bỏ giai cấp, xoá
bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất để xoá bỏ mọi hình
thức bóc lột người, tức là giải phóng được giai cấp, giải phóng được xã hội,
giảiphóng con người . Đây chính là nội dung cốt lõi nhất của sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân.
Tuy nhiên, đây là một quá trình hết sức lâu dài, vì vậy mọi cực đoan,
nóng vội, muốn đốt cháy giai đoạn dùng biện pháp hành chính để thủ tiêu
mọi hình thức tư hữu nhằm tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội thì chỉ mang lại
(1)
(2)

V.I. Lênin toàn tập, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva, 1980, T23, tr1.
Mác và Ăng-ghen, Sđd, 1995, T4, tr 613.

10



những kết quả tiêu cực mà thôi.Nên giai cấp công nhân phải có những bước
đi thận trọng, chắc chắn, có đường lối rõ ràng… Có như vậy giai cấp công
nhân mới thực hiện được sứ mệnh của mình.
Giai cấp công nhân bị giai cấp tư sản áp bức,bóc lột nặng nề,họ là
giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư sản,và xét về bản chất họ là giai
cấp cách mạng triệt để nhất chống lại chế độ áp bức, bóc lột tư bản chủ
nghĩa.Từ đó,quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân khác về tính
chất và mục đích với sứ mệnh lìch sử của giai cấp thống trị trước đó ở chỗ:
tất cả phong trào lịch sử từ trước đến nay của giai cấp thống trị đều do thiểu
số thực hiện hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số.Còn phong trào giai cấp vô
sản là do đa số thực hiện và mưu lợi cho đa số vì giai cấp công nhân không
giải phóng được mình nếu không giải phóng được mình nếu không giải
phóng được toàn dân tộc.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự kết hợp chặt chẽ và
thống nhất biện chứng của hai sự nghiệp cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã
hội mới,trong đó mặt xây dựng là quan trọng nhất, có tính quyết định nhất.
Sự kết hợp hai mặt này được thực hiện trong cả hai giai đoạn: giai đoạn đấu
tranh giành chính quyền và giai đoạn xây dựng xã hội mới.
Sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân là sự nghiệp vừa mang tính dân
tộc vừa mang tính quốc tế cho nên phải kết hợp chặt chẽ giữa nghĩa vụ dân
tộc và nghĩa vụ quốc tế vì sứ mệnh của giai cấp công nhân là sứ mệnh quốc
tế, giai cấp công nhân có điều kiện giống nhau,và đặc điểm giống nhau và
có kẻ thù chung là chủ nghĩa tư bản quốc tế. Vì vậy, lợi ích giai cấp, dân
tộc, quốc tế gắn liền với nhau và nó có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành khi xây dựng
hoàn thành xã hội mới – xã hội cộng sản chủ nghĩa ở từng nước cũng như
trên toàn thế giới.

11



Như vậy sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không do ý muốn
chủ quan của giai cấp công nhân hoặc do sự áp đặt của nhà tư tưởng nào đó
mà do điều kiện khách quan quy định, đó chính là điều kiện kinh tế xã hội
của giai cấp công nhân quy định xứ mệnh lịch sử đó.
Lịch sử thế giới đã chứng minh những kết luận của C.MácPh.Ăngghen và V.I.Lênin về sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân là đúng
đắn. Tuy nhiên, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm hoàn thành sứ
mệnh lịch sử của mình không phải diễn ra một cách bằng phẳng mà họ phải
trả giá bằng máu và nước mắt của mình, giai cấp công nhân đã trai qua
những cuộc đấu tranh cam go, quyết liệt với giai cấp tư sản, chủ nghĩa tư
bản.
Trong chế độ tư bản giai cấp tư sản đã tập trung hàng vạn công nhân
sản xuất tập thể, với trình độ hợp lý hoá cao, nhưng đời sống của công nhân
ngày càng cực khổ, nạn thất nghiệp ngày càng tăng ăn không đủ no, mặc
không đủ ấm ở thì phải chui rúc trong những căn nhà tồi tàn. Trái lại, bọn
tư bản thì ngày lại càng giàu có sung sướng, đời sống sinh hoạt cao. Cho
nên những người công nhân thấy rõ hơn ai hết sự cần thiết phải đánh đổ
chế độ xã hội bất công ấy, thủ tiêu chế độ người bóc lột người để xây dựng
một chế dộ xã hội mới công bằng hơn, trong đó không có tình trạng người
bóc lột người, ai cũng có công ăn việc làm đầy đủ, ai cũng được sống tự do
sung sướng. Đó là mong muốn chủ quan và cũng là mục đích của giai cấp
công nhân trong quá trình chống lại áp bức bóc lột của giai cấp tư sản.
Ngay từ khi mới ra đơì giai cấp công nhân đã có nhiều cuộc đấu tranh
chống lại giai cấp tư sản.
Lúc đầu cuộc đấu tranh còn lẻ tẻ, rời rạc, tự phát, sau đó, phát triển
thành những cuộc đấu tranh của công nhân trong cùng một công xưởng rồi
đền cùng một ngành công nghiệp, cùng một địa phương. Tuy nhiên thời kỳ

12



này phương thức đấu tranh và mục đích đấu tranh của công nhân còn rất
đờn giản, hình thức đấu tranh thì cũng chỉ là bãi công bỏ xưởng nhằm vào
mục đích kinh tế. đòi giảm giờ làm chưa thấy rõ được nguồn gốc đau khổ
thực sự của mình là cả chế độ tư bản. Đế cuối thế kỷ XVIII-đầu thế kỷ
XIX, thì những cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân mới có những hành
động đập phá nhà máy, phá vỡ máy móc. Càng đấu tranh, công nhân càng
nhận thấy một điều muốn thắng được kẻ thù lớn đấy thì không còn cách
nào khác giai cấp công nhân các nước phải liên kết lại mới có sức mạnh để
chống lại kẻ thù giải phóng mình, giải phong giai cấp, giải phóng dân tộc.
Nhận thấy điều đấy, từ chỗ không có tổ chức giai cấp công nhân đã tiến đến
tổ chức ra công đoàn để lãnh đạo đấu tranh, và những công đoàn đầu tiên
đã xuất hiện ở nước Anh trong những năm 20, 30 của thế kỷ XIX.
Đến những năm 30, 40 của thế kỷ XIX, phong trào công nhân có
những bước phát triển mới: Các cuộc đấu tranh chẳng những đã liên kết
được công nhân trong cùng một ngành sản xuất, một địa phương mà còn
liên kết được công nhân trong pham vi cả nước, không phải chỉ chống lại
từng nhà tư bản riêng lẻ mà còn chống lại toàn bộ giai cấp tư sản. Tiêu biểu
cho phong trào đấu tranh phong trào của công nhân thời kỳ này là cuộc
khởi nghĩa của công nhân Ly-Ông ở pháp 1831-1834, phong trào Hiến
Chương ở Anh năm 1835-1848 và cuộc khởi nghĩa của công nhân Dệt ở
Đức 1844. Các cuộc khời nghĩa này của giai cấp công nhân đã đánh dấu
một bước tiên mới của phong trào đấu tranh của công nhân.
Sự phát triển mạnh mẽ của đại công nghiệp tư bản chư nghĩa đã làm
cho đội ngũ công nhân lớn lên nhanh chóng và tập trung tời mức độ khá
cao tại các trung tâm công nghiệp, đồng thời làm tăng thêm mức độ áp bức
bóc lột đối với giai cấp công nhân, do đó, những cuộc đấu tranh mới của
công nhân mới lại diễn ra, đến cuối những năm 50- đầu những năm 60 của


13


thế kỷ XIX phong trào công nhân phát triển cao hơn nữa ở Pháp, Anh, Đức.
Song lúc này, phong trào công nhân các nước vẫn còn tình trạng phân tán,
sự tồn tại của nhiều phe nhóm khuynh hướng phi vô sản đang cản trở rất
lớn cho sự thống nhất phong trào.
Đặc biệt vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác ra đời
với học thuyết về cách mạng và khoa học như một ngọn đèn pha soi sáng
con đường tiến lên của phong trào công nhân và công nhân quốc tế.Sự ra
đời của chủ nghĩa Mác là sự kiện vĩ đại của loài người,đã giai đáp kịp thời
và chính xác vấn đề của thời đại.Nó là”khoa học về những quy luật phát
triển của tự nhiên và của xã hội,khoa học về cách mạng của quần chúng
bị áp bức,bóc lột, khoa học về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trong tất
cả các nước,khoa học về kiến thiết xã hội cộng sản chủ nghĩa”(1).
Và đỉnh cao của cách mạng của giai cấp vô sản là cách mạng tháng
Mười Nga năm 1917 thành công.Khác với tất cả các cuộc cách mạng trước
trong lịch sử,cách mạng tháng Mười Nga đã xoá bỏ chế độ người bóc lột
người, đưa giai cấp công nhân và nhân dân lao đông lên làm chủ đất
nước,làm chủ vận mệnh của mình,đã làm cho chủ nghĩa xã hội thành hiện
thực ở Nga.
Cách mạng tháng Mười Nga như tiếng sét dội khắp năm châu, thức
tỉnh hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất, nhất là đã thức tỉnh các
dân tộc bị áp bức , mở đường giải phóng cho nhân dan các nước thuộc địa
và phụ thuộc, trong đó có Việt Nam. Cách mạng tháng Mười Nga đánh dấu
một bước ngoặt lịch sử của phong trào cộng sản và phong trào công nhân
quốc tế. Từ đó, phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trên thế giới đã

Xta-lin: Chủ nghĩa Mác và những vấn đề về ngôn ngữ học, Nxb Sự
thật, Hà Nội , 1958, tr.63.

(1)

14


nổ ra khắp nơi, ở rất nhiều nước giai cấp công nhân đã dành thắng lợi giải
phóng được mình và giải phóng được dân tộc.
Song sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không chỉ là giải phóng
dân tộc mà còn là xây dựng đất nước. Thời đại nào mâu thuẫn giữa giai cấp
công nhân và giai cấp tư sản đều không thể điều hoà được, trong thời đại
ngày nay, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản được biểu
hiện và quy định bởi hai nguyên nhân chính vừa có phần riêng rẽ biệt lập,
vừa có phần gắn kết với nhau. Đó là: thứ nhất, cuộc đảo lộn bất ngờ và sâu
sắc trong cục diện thế giới từ sau sự tan vỡ của chủ nghĩa xã hội hiện thực
ở Liên Xô(cũ) và Đông Âu; thứ hai, cuộc cách mạng khoa hoc-công nghệ
bùng nổ từ những năm 70 đến đầu những năm 80 và vẫn đang tiếp diễn đã
thúc đẩy nền kinh tế, sản xuất thế giới phát triển vượt bậc.
Trước hết, do sự tan vỡ của hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới đã
từng một thời rất hùng mạnh và chế độ chủ nghĩa xã hội chỉ còn tồn tại ở
một só it quốc gia đều trong giai đoạn đang hoặc mới phát triển nên hiện
nay mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với rư sản nhìn chung biến động
theo hướng tương quan về số lượng và một phần về chất lượng, trở nên bất
lợi hơn trước đối với cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân. Trong khi đó,
hệ thống tư bản chủ nghĩa và giai cấp rư sản thế giới không còn phải lo
ngài vệ một hệ thống xã hội chủ nghĩa vốn từng là đối trọng tranh chấp
quyết liệt và thách thức nghiêm trọng sự tồn tại của chúng trong gần suốt
nửa sau thế kỷ XX.
Trước đây, trong bối cảnh cùng tồn tại bên cạnh hệ thống xã hôị chủ
nghĩa – một hình thái xã hội mới, bộc lộ tính ưu việt rõ rệt và được thừa
nhận khá rộng rãi trên nhiều lĩnh vực; chủ nghĩa tư bản đã không thể không

tự thích nghi, tự cải biến và đôi khi còn buộc phải nhượng bộ phần nào
trước quần chúng lao động và giai cấp công nhân. Hiện nay áp lực này

15


không còn đối với giai cấp tư sản, trong điều kiện mới sẽ không loại trừ
việc tái xuất hiện và được áp dụng trở lại ở mức độ, phương thức nào đó
một số thể chế chính trị tư sản phản động cực đoan nhất đã từng được biết
đến như các chế độ chuyên chế, độc tài hay thậm chí cả chủ nghiã phát xít.
Và nếu như sự đảo lộn cục diện tình hình thế giới làm thay đổi vị thế
của giai cấp công nhân và tương quan giữa nó với giai cấp tư sản trên
trường quốc tế chủ yếu về mặt chính trị-xã hội thì những thành tựu to lớn
của cách mạng khoa học-công nghệ hiện nay cũng tác động mạnh mẽ tới
mâu thuẫn giữa giai cấp cấp công nhân và giai cấp tư sản. Từ khoảng cuối
những năm 70-đầu những năm 80 đến nay, cách mạng khoa học và kĩ thuật
trên thế giới đã có bước phát triển mới. Đó là cuộc cách mạng khoa học
công nghệ với đặc trưng nổi bật là bước tiến quan trọng của nghành công
nghệ mũi nhọn về điện tử-tin học và ảnh hưởng lan rộng của nó đối với hầu
hết các linh vực nghiên cứu khoa học cũng như nghành nghề lao động sản
xuất. Nếu trong những cuộc cách mạng về khoa học và kỹ thuật trước đây,
lao động chân tay từng bước được thay thế bằng cơ giới hoá, tự động hoá
thì cuộc “cách mạng điện tử-thông tin” đang diễn ra hiện nay còn tiến tới
thay thế cả lao động trí óc của con người trong một số khâu của dây truyền
sản xuất, trao đổi. Cuộc cách mạng khoa học-công nghệ đang diễn ra hiện
nay đã đưa đến những hệ quả phức tạp, đa dạng và nhiều chiều. Một mặt nó
cung cấp cho giai cấp tư sản những phương cách quản lý, thống trị chặt chẽ
hơn, làm phân tầng, phân loại đội ngũ công nhân ở phạm vi một nước cũng
như trong bộ nền kinhtế thế giới tư bản chủ nghĩa thành những nhóm khác
nhau về lao động nghề nghiệp, cách biệt nhau về mức thu nhập và lối sống.

Điều này vừa có nguyên nhân khách quan là tiến bộ khoa học-công nghệ tự
nó không thể xuất hiện đồng thời ở tất cả mọi nơi, vừa có nguyên nhân chủ
quan là những thành quả của tiến trình đó lại bị giới tư bản quốc tế triển

16


khai một cách không đồng đều trong trật tự “trung tâm-ngoại vi” do chúng
dựng lên và duy trì bằng mọi giá. Đồng thời, cuộc cách mạng này lại tạo ra
cơ sở vật chất-kỹ thuật này cũng làm phát sinh những xung lực mới tương
ứng, kích thích mạnh mẽ sự chín muồi của mâu thuẫn giữa công nhân với
tư sản, đua mâu thuẫn này lên một mức độ sâu sắc hơn trong tiến trình đi
đến việc giải quyết triệt để. Có thể dự đoán rằng đến một giới hạn phát triển
nhất định nào đó trong tương lai, các tiến bộ khoa học và kỹ thuật chẳng
những sẽ không còn là liều thuốc cải tử vạn năng đối với chủ nghĩa tư bản
nữa, mà thậm chí có thể trở thành một trong những tác nhân trực tiếp quan
trọng góp phần thủ tiêu chế độ xã hội tư lâu đã trở nên lỗi thời này. Như
vậy mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản ngày nay vẫn
diễn ra rất gay gắt, chỉ có điều nó tồn tại dưới những hình thức khác nhau
mà thôi. Không phải đấu tranh bằng súng nữa nhưng giai cấp công nhân
vẫn luôn phải đấu tranh với giai cấp tư sản dưới mọi hình thức khác nhan
để bảo vệ quyền lợi cho mình và giai cấp mình.
Như vậy, mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi thời đại sẽ quy địnhk sứ mệnh
lịch sử khác nhau của giai cấp công nhân. Trong thời bình cũng như trong
thời chiến giai cấp công nhân luôn phát huy được sức mạnh của mình, đây
là giai cấp tiến bộ nhất của xã hội. Và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân đã được.

17



Chương 2: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam.
2.1 Nguồn gốc ra đời và những điều kiện quy định sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân Việt Nam
Sự ra đời của giai cấp vô sản đã được Ănghen giâi thích rõ trong tác
phẩm”những nguyên lý của chủ nghĩa cộng sản”, Ănghen đã giải
thích”giai cấp vô sản là do cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra, của
cách mạng này xảy ra ở Anh vào nửa sau của thế kỷ trước và sau đó tái
diễn ở tất cả các nước văn minh trên thế giới…Bằng cách đó, những máy
móc đó đã trao toàn bộ công nghiệp toàn bộ vào tay các nhà tư bản lớn và
hoàn toàn làm giảm giá trị số tài sản nhỏ bé không đáng kể thuộc về công
nhân (công cụ, khung cửi…) Thành thử chẳng bao lâu các nhà tư bản đã
nắm hết thảy mọi thứ vào tay mình, còn công nhân thì không còn gì nữa (1).
Và từ đây khái niệm “công nhân” đã ra đời.
Còn ở Việt Nam mặc dù không phải là môi trường thuận lợi cho sự
phát triển
của thương nghiệp và kinh tế hàng hoá, nhưng ở các thế kỷ XV-XVI cũng
đã xuất hiện đội ngũ “người lao động làm thuê”. Đầu thế kỷ XIX nhà
Nguyễn cũng khai mỏ và dĩ nhiên có thợ mỏ,nhưng đó chưa phải là công
nhân hiện đại theo CácMác-ĂngGhen, tuyển tập gồm 6 tập, tập1, nhà xuất
bản sự thật, Hà Nội,năm 1980, trang 441-442, dây truyền công nghiệp. Đội
ngũ “công nhân” chỉ xuất hiện thực sự khi có cuộc khai thác thuộc địa lần I
(1897-1919) và phát triển mạnh vào cuộc khai thác thuộc địa lần I. Thực
dân Pháp với chính sách đẩy mạnh khai thác thuộc địa ở Việt Nam từ đầu
thế kỷ XX đã làm cho cơ cấu kinh tế Việt Nam có những biến chuyển quan
trọng, đặc biệt là xã hội Việt Nam đã thay đổi nhanh chóng, trong đó giai
Mác và Ăng-ghen, tuyển tập gồm 6 tập, T1, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1980, tr.442.
(1)


18


cấp công nhân đã thực sự xuất hiện và phát triển . Với sự đầu tư của thực
dân Pháp vào các ngành công-thương nghiệp, đặc biệt là ngành khai thác
mỏ đã làm cho số lượng giai cấp công nhân ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Cụ thể là vào năm 1909 tổng số công nhân toàn quốc đã lên tới 55 nghìn
người. Số lượng này càng đông đảo thêm theo đà phát triển đầu tư vào các
ngành kinh tế của thực dân Pháp. Đến năm 1929, riêng số công nhân trong
các ngành doanh nghiệp của người Pháp ở Đông Dương là 221.050 người.
Tuy giai cấp công nhân chỉ chiếm một số lượng nhỏ trong dân số toần quốc
nhưng công nhân Việt Nam vẫn là nột tập đoàn người có vị trí riêng trong
sản xuất của xã hội thuộc địa. Họ không có tư liệu sản xuất, sinh sống bằng
việc bán sức lao động cho nhà tư bản. Cuộc sống của họ bị rằng buộc bởi
những thể lệ lao động của nhà nước thực dân bởi chế độ tiền công, của chế
độ lao động của các chủ tư bản. Họ là một đạo quân làm việc thường xuyên
tại các xí nghiệp tư bản và rất tập trung: hầm mỏ, đồn điền cao su, các
đường giao thông vận tải và thương nghiệp ở thành thị…Tuy đa số chưa
phải là công nhân kỹ thuật, nhưng lao động của họ là lao động xã hội hoá,
thuộc những hệ thống dây truyền của xã hội tư bản. Sự hình thành giai cấp
công nhân Việt Nam đã được xác định rõ “nó sinh ra và lớn lên không phải
từ khi có thành phần kinh tế tư bảnchủ nghĩa của giai cấp tư sản dân tộc,
mà ngay từ khi có sự khai thác đầu tiên của tư bản nước ngoài trên đất
nước ta”(1).
Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, dưới sự
thống trị của đế quốc Pháp, một thứ tư bản chủ nghĩa thực lợi không quan
tâm đến mấy đến phát triển công nghiệp ở nước thuộc địa, nên giai cấp
công nhân đã phát triển chậm. Mặc dù số lượng ít, trình độ nghề nghiệp
thấp, còn mang nhiều tàn dư của tâm lý và tập quán nông dân, song giai cấp
Lê Duẩn: Vai trò giai cấp công nhân Việt Nam và nhiệm vụ của giai

cấp công đoàn trong giai đoạn trước mắt. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1968.
(1)

19


công nhân việt nam đã nhanh chóng vươn lên đảm đương vai trò cách
mạng ở nước ta do những điều kiện sau:
Giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra trong lòng một dân tộc có
truyền thống đấu tranh bất khuất chông ngoại xâm. Ơ giai cấp công nhân,
nỗi nhục mất nước cộng với nỗi khổ vì ách áp bức, bóc lột của giai cấp tư
sản đế quốc làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp là một, khiến
động cơ cách mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để cách mạng được
nhân được nhân lên gấp bội.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và từng bước trưởng thành trong
không khi sôi sục của một loạt phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa
chống thực dân pháp đặt chân lên đất nước ta: phong trào Cần Vương và
cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, của Hoàng Hoa Thám, các cuộc vận
động yêu nước của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học…
đã có tác dụng to lớn đối với việc cổ vũ tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất
và quyết tâm đập tan xiềng xích nô lệ của toàn thể nhân dân ta. Nhưng tất
cả các phong trào ấy đều thất bại và sự nghiệp giải phóng dân tộc đều lâm
vào tình trạng bế tắc về đường lối.
Vào lúc đó, phong trào cộng sản và công nhân thế giới phát triển.
Cuộc cách mạng tháng 10 Nga bùng nổ thắng lợi và ảnh hưởng đến phong
trao dân tộc dân chủ nước khác, trong đó có phong trào cách mạng nước ta.
Chính vào lúc đó nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc trên hành trình tìm đường
cứu nước đã đến với chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm thấy ở chủ nghĩa MácLênin bí quyết thần kỳ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc ta. Từ đó, Người
đã đề ra con đường duy nhất đúng đắn cho cách mạng Việt Nam- con
đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và chuyển cách mạng đân tộc

dân chủ nhân dân lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.

20


Tấm gương cách mạng Nga và phong trào cách mạng và phong trào
cách mạng ở nhiều nước khác đã cổ vũ giai cấp công nhân non trẻ Việt
Nam đứng lên nhận lấy sứ mệnh lãnh đạo cách mạng nước ta và đồng thời
cũng là chất xúc tác khích lệ nhân dân ta lựa chọn, tiếp nhận con đường
cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp duy nhất lãnh đạo
cách mạng Việt Nam.
Giai cấp công nhân Việt Nam mà tuyệt đại bộ phận xuất thân từ nông
dân lao động và những tầng lớp lao động khác, nên có mối liên hệ tư nhiên
với đông đảo nhân dân lao động bị mất nước, sống nô lệ nên cũng là điều
kiện thuận lợi để giai cấp công nhân xây dựng lên khối liên minh công
nông vững chắc và khối đoàn kết dân tộc và rộng rãi bảo đảm cho sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân trong suốt quá trình cách mạng ở nước ta.
Ngoài những đặc điểm trên giai cấp công nhân Việt Nam còn có
những đặc điểm chung giống như giai cấp công nhân quốc tế đó là giai cấp
tiên tiến nhất, đại biểu cho một nền sản xuất tiến bộ nhất. Giai cấp công
nhân cũng là những người nắm được và biết sử dụng khoa học kỹ thuật để
sản xuất ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội. Là giai cấp có ý
thức tổ chức, kỷ luật và tư tưởng tập thể. Đó là điều kiện rất cần thiết để
ánh đổ ách thống trị của giai cấp tư sản và xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội.
Như vậy những điều kiện và đặc điểm trên đã quy định sứ mệnh lịch
sử giai câp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và
trong công cuộc giải phóng dân tộc và trong công cuộc xây dựng đất nước
tiến lên chủ nghĩa xã hội, bởi đó là giai cấp cách mạng nhất triệt để nhất,
kiên quyết nhất vì là lớp người bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất trong xã hôi

tư bản.

21


2.2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc.
Ơ nước ta, giai cấp công nhân trước hết phải làm cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phải
lãnh đạo cuộc cách mạng đó thông qua đội tiên phong của mình là Đảng
cộng sản Việt Nam. đấu tranh giành chính quyền, thiết lập nền chuyên
chính dân chủ nhân dân. Trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, giai
cấp công nhân từng bước lãnh đạo nhân dân lao động xây dựng thành công
xã hội chủ nghĩa không có chế độ người bóc lột người, giải phóng nhân dân
lao động khỏi áp bức, bóc lột, bất công.
Như chúng ta đã biết, qúa trình hình thành và phát triển của giai cấp
công nhân ta đầu thế kỷ này là sự chuyển biến trực tiếp từ người nông dân
yêu nước thành người công nhân cách mạng. Người nông dân yêu nước
hiện nay lai là người kế tục trực tiếp của hàng trăm thế hệ nông dân Việt
Nam có truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất cho độc lập tự do.
Lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta đã
tạo nên trong nhân dân ta chủ nghĩa yêu nước nồng nàn, sáng suốt, bất
khuất và có tính chất nhân dân. Vào giữa thế kỷ XIX khi đế quốc Pháp xâm
lược Việt Nam, nhân dân ta chủ yêu là nông dân, đã kết hợp được một cách
tự nhiên cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc với cuộc đấu tranh dành quyền
làm chủ vận mệnh dân tộc của nhân dân ta. Tinh thần yêu nước nồng nàn
bất khuất đó của nông dân Việt Nam đã truyền tới giai cấp công nhân mới
hình thành vào đầu thế kỷ XX. Tiếp thu được chủ nghĩa yêu nước của dân
tộc, giai cấp công nhân đã sớm tìm thấy con đường đi đúng đắn phù hợp
với bước phát triển của thời đại. Với chủ nghĩa yêu nước nồng nàn, sáng

suốt và có tính chất nhân dân, phong trào công nhân Việt Nam đã kết hợp
làm một với chủ nghĩa xã hội khoa học tạo thành chủ nghĩa yêu nước chân

22


chính Vịêt Nam và Hồ Chí Minh khẳng định “Tinh thần yêu nước chân
chính là một bộ phận của tinh thần quốc tế” (Hồ Chí Minh,st 1960). Người
đã dẫn dắt dân tộc ta đi theo con đường cứu nước của quốc tế vô sản thứ III
do Lênin sáng lập ra.
Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rằng giai cấp công nhân Việt Nam
ra đời chưa được bao lâu ngay cả khi nó chưa có đảng mà đã tổ chức một
cách tự phát nhiêu cuộc đấu tranh chống tư bản thực dân và được nhân dân
ủng hộ. Tiêu biểu là cuộc bãi công của 600 thợ nhuộm ơ chợ Lớn 1922 mà
Nguyễn Ái Quốc coi đó mới chỉ là “Do bản năng tự vệ” của những người
công nhân “Không được giáo dục và tổ chức” nhưng đã là “Dấu hiệu… của
thời đại”. Năm 1927 có gần chục cuộc bãi công với hàng trăm người tham
gia, trong đó tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy xi
măng Hải Phòng, sợi Nam Định, xe lửa Trường Thi… Những cuộc đấu
tranh như thế không chỉ giới hạn trong công nhân mà còn tác động sâu sắc
đến các tầng lớp khác, đặc biệt là đến giai cấp nông dân. các tầng lớp nhân
dân lao động, thanh niên, sinh viên làm cho bọn thống trị thực dân hoảng
sợ.
Tuy nhiên, trong giai đoạn đấu tranh tự phát, giai cấp công nhân
chưa thể nhận thức được sứ mệnh lịch sử của mình. Sự kết hợp chủ nghĩa
Mac-Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đưa tới sự
kiện lịch sử; Đảng cộng sản việt nam ra đời năm 1930, chính đảng của giai
cấp công nhân. Đây là bước nhảy vọt về chất của giai cấp công nhân và là
bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Chỉ có đảng cộng sản lãnh đạo,
thì giai cấp công nhân mới chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự

giác trong mỗi hành động với tư cách một giai cấp tự giác và thực sự cách
mạng. CácMác đã nhấn mạnh rằng, trong cuộc đấu tranh của mình trong
cuộc đấu tranh chống lại quyền lực liên hiệp của các giai cấp hữu sản, chỉ

23


khi nào giai cấp tự mình tổ chức được thành một chính đảng độc lập của
mình chông lại quyền lực liên hiệp của tất cả các chính đảng cũ do giai cấp
hữu sản lập ra thì mới có thể hành động với tư chách là một giai cấp được.
Đảng chính trị là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho trí tuệ và
lợi ích của toàn thể giai cấp. Đối với giai câp công nhân đó là đảng cộng
sản, chẳng những đại biểu cho chí tuệ và lợi ích của giai cấp công nhân mà
còn đại biểu cho toàn thể nhân dân lao động và dân tộc.
Cho nên phải có một đảng chính trị vững vàng, kiên định và sáng
suốt, có đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của
toàn giai cấp và toàn bộ phong trào để giai cấp công nhân có thể hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Đảng cộng sản ra đời với sự truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin soi sáng
cho giai cấp công nhân để đạt được tới trình độ nhận thức lý luận về vai trò
lịch sử của mình, từ đó các phong trào cách mạng chính trị của nó mới thực
sự là một phong trào chính trị. Trình độ lý luận đó cho phép giai cấp công
nhân nhận thức được vị trí, vai trò của mình, trong xã hội, nguồn gốc tạo
nên sức mạnh đó bằng sự đoàn kết, nhận rõ mục tiêu, con đường và những
biện pháp giải phóng giai cấp mình, giải phóng xã hội và giải phóng cả
nhân loại.
Tiếp thu lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, đảng cộng sản Việt Nam
đã tự đề ra cho mình:” Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp phải thu
phục đại bộ phận của giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo
được dân chúng”. Đảng đề ra đường lối, sách lược, phương pháp cách

mạng, thông qua tuyên truyền, tổ chức và đấu tranh cách mạng làm cho giai
cấp công nhân trở thành đội ngũ có ý thức giác ngộ cao về kẻ thù của dân
tộc và giai cấp, về những người bạn đồng minh chiến đấu của mình nhất là
giai cấp nông dân, về chủ nghĩa quốc tế vô sản.

24


Lịch sử cách mạng đã chứng minh rằng giai cấp công nhân đã trưỏng
thành trong đường lối chính trị và phương pháp cách mạng của đảng.
Ngược lại giai cấp công nhân đã rèn luyện và xứng đáng là giai cấp của
đảng tiên phong, đảm bảo cho thắng lợi của đường lối của đảng.
Ngay khi đảng mới đời “những cuộc bãi công tiến công” của công
nhân trong những htáng đầu năm 1930, đã có sức cổ vũ rất lớn đối với
nông dân và các tầng lớp nhân dân khác, từ đó mở màn cao trào cách mạng
1930-1931. Trong các cao trào này, 129 cuộc bãi công của công nhân kết
hợp với 636 cuộc biểu tình của công nhân mà đỉnh cao của cao trào là sự
thành lập Xô Viết Nghệ Tĩnh. Đây là thời kỳ đầu của phong trào công nhân
ở trình độ tự giác. Biểu hiện về tinh thần giác ngộ của giai cấp công nhân là
hăng hái nhât, chiến đấu với tinh thần cách mạng nhất vì lợi ích dân tộc và
giai cấp, đồng thời xây dựng được khối liên minh công nông vững mạnh.
Và đến cao trào 1936-1939 lại là một thời kỳ phát triển cao hơn về ý thức
giai cấp công nhân. Trải qua những cuộc đấu tranh tranh trong lịch sửvới
những thắng lợi to lớn giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng trưởng
thành và lớn mạnh về mọi mặt đưa cuộc đấu tranh của dân tộc ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, đặc biệt là chiến thắng của cuộc cách
mạng tháng 8-1945 đã trở thành mốc son chói lọi trong lịch sử vẻ vang của
dân tộc ta. Nó đã phá tan 2 tầng xiềng xích nô lệ của thực dân pháp kéo dài
hơn 80 năm và của phát xít Nhật, đồng thời lật nhào chế độ quân chủ
chuyên chế ngót ngàn năm. Với thắng lợi của cách mạng tháng 8, nước ta

từ một nước thuộc địa đã trở thành một nước độc lập dưới chế độ dân chủ
cộng hoà, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người dân độc lập, tự
do, làm chủ đất nước. Thắng lợi của cách mạng tháng 8 đánh dấu một bước
phát triển nhảy vọt của cách mạng Việt Nam mở ra một kỷ nguyên mới
trong sự phát triển lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền

25


×