Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TUEI LUAN MON HANH CHINH SO SANH cải cách hành chính nhà nước trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.37 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Cải cách hành chính (CCHC) nhà nước là một trong những nội
dung cơ bản của khoa học hành chính, luôn là một vấn đề được quan tâm
phổ biến ở hầu hết các nước trên thế giới nhằm làm đòn bẩy để nâng cao
hiệu quả quản lý của nhà nước trong việc phát triển kinh tế, phát huy dân
chủ và tiếng nói của người dân trong hoạt động của bộ máy công quyền,
củng cố và tăng cường tiềm lực về mọi mặt cho đất nước.
Từ những nền tảng ban đầu trong CCHC, Chương trình tổng thể
CCHC được xác định là: “Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong
sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới
sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất
và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất
nước”.
Để thực hiện mục tiêu này, CCHC được tiến hành trên các lĩnh vực:
Cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ máy hành chính; đổi mới, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công và hiện đại
hóa nền hành chính. Nội dung hiện đại hóa nền hành chính được bổ sung
vào nội dung cải cách hành chính nhà nước là một sự khẳng định về nỗ lực
cải cách, tạo ra sự đồng bộ, toàn diện trong các nội dung cải cách.
Trong khuôn khổ phần học, học viên chọn đề tài: “Cải cách hành
chính nhà nước trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
hiện nay” làm đề tài tiểu luận cho học phần: Hành chính so sánh.


NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH QUẢN LÝ CÔNG MỚI (NMP)
1.1 Quản lý công mới
“Quản lý công mới” là mô hình hành chính công theo các tiêu chí hiện
đại, chủ động, năng động, nhạy bén, thích nghi cao nhằm đáp ứng các yêu cầu


quản lý và dịch vụ tối đa trong các điều kiện kinh tế thị truờng phát triển mạnh
mẽ và những quan hệ quốc tế ngày càng phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau. Trong khi
đó, mô hình “Hành chính công truyền thống” là mô hình hành chính công dựa
trên cơ sở là những nguyên tắc, quy tắc nhất định với bản chất chủ yếu thiên về
tính “cai trị”. Phương thức hoạt động của mô hình này dựa trên cơ sở thi hành
các quy định một cách “cứng nhắc”, lấy tổ chức thứ bậc chặt chẽ, trình tự, thủ
tục và việc thực hiện nghiêm ngặt các thủ tục đó làm biện pháp tối ưu.
1.2 Các yếu tố của mô hình NMP
Một là, đẩy mạnh phân quyền chính sách
Phân quyền được thể hiện dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau như
trao quyền, uỷ quyền, tản quyền, phân công, phân cấp, phân nhiệm,... Tuy
nhiên, xu hướng chung của phân quyền là việc Chính phủ trung ương chia sẻ
quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ nhiều hơn cho chính quyền địa phương hay
các cơ quan chuyên môn cấp dưới trong việc chủ động quản lý và sử dụng các
nguồn lực được phân bổ. Việc phân quyền giúp chính phủ tập trung vào vai trò
quản lý và điều tiết vĩ mô, thay vì ôm đồm cả những công việc sự vụ, các tác
nghiệp vi mô như trước đây; đồng thời, đây cũng là cơ sở để chính quyền địa
phương chủ động, phát huy sáng tạo, đổi mới quản lý, khai thác hết tiềm năng
của cơ sở. Phân quyền, ở một khía cạnh phát triển nữa, còn tạo điều kiện cho
“khách hàng” của nhà nước tham gia vào các hoạt động quản lý công và đặc
biệt là giám sát quá trình thực thi công vụ.
Hai là, tư nhân hoá một số nhiệm vụ của nhà nước diễn ra mạnh mẽ
Tư nhân hoá chính là cách thức huy động mọi nguồn lực trong xã hội
tham gia vào quản lý và phát triển đất nước, giải quyết các vấn đề xã hội thông
2


qua các hình thức đa dạng như đấu thầu, hợp đồng công vụ, hợp đồng lao động,
cổ phần hoá, tập đoàn hoá. Bản chất tối ưu của tư nhân hoá là nhằm nâng cao
tính cạnh tranh trong thực thi công vụ, cung cấp dịch vụ công cho khu vực công

cộng - yếu tố mà trước đây chưa từng được thừa nhận trong khu vực nhà nước.
Vấn đề cơ bản và cốt lõi của các nhà nước trong điều hành, quản lý là cần
nghiên cứu để tìm được biện pháp tư nhân hoá tối ưu nhất, nhất là trong các
dịch vụ công ít mang lại mục tiêu lợi nhuận; và bất kể khi nào, nhà nước cũng
phải là người chịu trách nhiệm chính trong vấn đề bảo đảm chất lượng các dịch
vụ được cung ứng.
Ba là, tăng khả năng cạnh tranh
Việc đưa các yếu tố của thi trường như khuyến khích cạnh tranh vào hoạt
động cung cấp dịch vụ của nhà nước khiến cho các hàng hóa và dịch vụ công
được cung cấp tốt hơn, với giá rẻ hơn và đáp ứng yêu cầu xã hội. Cạnh tranh
trong cung cấp dịch vụ công có thể diễn ra không chỉ giữa các tổ chức tư nhân
mà còn có thể được thực hiện giữa các cơ quan nhà nước và tư nhân hay giữa cơ
quan nhà nước với nhau. Bên cạnh đó, hoạt động cung cấp dịch vụ theo hình
thức hợp tác công – tư cũng được thực hiện.
Thứ tư, xây dựng một hệ thống cơ chế quản lý mềm dẻo, linh hoạt, có khả
năng thích nghi cao đối với những sự thay đổi
Một hệ thống các thể chế, quy định nghiêm ngặt, cứng nhắc, máy móc
trong điều hành, quản lý của nền hành chính công truyền thống được xây dựng
và phát triển. Tính cứng nhắc, máy móc trong cơ chế quản lý một thời gian dài
đã làm xuất hiện trong bộ máy hành chính nhà nước cơ chế “xin – cho” - một
yếu tố cản trở sự phát triển của nền kinh tế - xã hội và làm xấu đi mối quan hệ
giữa nhà nước với công dân. Sự thay đổi của NPM chính là ở chỗ, các nguyên
tắc quản lý vẫn giữ được tính tôn nghiêm và uy quyền cần thiết, song cách thức
để thực hiện các nguyên tắc đó lại linh hoạt, mềm dẻo và thích nghi với tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội mới, với những thay đổi trong tổ chức bộ máy nền
hành chính. Bản chất của vấn đề này là loại bỏ bớt các thể chế, các quy định,
thủ tục của chính phủ để người dân dễ hiểu và thực hiện; cho phép các cơ quan
3



hành chính nhà nước và công chức có nhiều quyền tự do hơn trong quá trình ra
quyết định giải quyết các yêu cầu của công dân và xã hội.
Thứ năm, vận dụng nhiều phương pháp quản lý của khu vực tư vào quản
lý công
Trong một số lĩnh vực, phương pháp quản lý của tư nhân là một mẫu hình
tốt cho nhà nước học tập, nhất là phương pháp quản lý doanh nghiệp. Trong
quản lý công mới, các co quan cung cấp dịch vụ của nhà nước áp dụng các
phương pháp quản lý của doanh nghiệp để tăng hiệu quả, chất lượng và sự linh
hoạt trong đáp ứng các dịch vụ cho yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Song, do
quản lý nhà nước có những nét đặc thù riêng, khác với quản lý của doanh
nghiệp nên không phải bất cứ phương pháp nào có hiệu quả của khu vực tư
cũng có thể áp dụng vào khu vực công được.

4


Chương 2
THỰC TRẠNG CỦA QUẢN LÝ
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
1. Một số ưu điểm của nền hành chính nhà nước trong thời gian
qua:
Thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính (CCHC) nhà
nước; công cuộc CCHC đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp
phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển và ổn định kinh tế - xã hội,
bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự xã hội. CCHC đã được triển khai
đồng bộ trên 4 lĩnh vực chủ yếu: thể chế, tổ chức bộ máy, xây dựng và
phát triển đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công, từng bước
đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của bộ máy hành chính, hỗ trợ
tích cực và thúc đẩy quá trình cải cách, đổi mới toàn diện của đất nước. Có
thể đánh giá chung về kết quả của CCHC nhà nước trong thời gian qua

như sau:
- Hệ thống thể chế pháp luật từng bước được đổi mới và hoàn thiện,
góp phần xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân: Về cơ bản, các chủ trương,
quan điểm của Đảng và Nhà nước về chuyển nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã được thể
chế hoá, thông qua gồm nhiều văn bản luật, pháp lệnh ban hành thời gian
qua đã tạo dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho các thành phần kinh tế,
cho người dân làm ăn và phát triển kinh tế.
Khuôn khổ thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính
Nhà nước, về công chức, công vụ được chú trọng đổi mới để bảo đảm
thích ứng với yêu cầu quản lý nhà nước trong điều kiện chuyển đổi này.
Cơ sở pháp lý phân biệt quản lý nhà nước với các hoạt động sự
nghiệp dịch vụ công, thúc đẩy xã hội hoá, phân công, phân cấp đã hình
5


thành và từng bước được bổ sung, hoàn thiện. Thủ tục hành chính trên các
lĩnh vực được rà soát, sửa đổi theo hướng đơn giản hoá, loại bỏ những
khâu phiền hà, trùng lắp, bao gồm thủ tục hành chính trong quan hệ với
dân, với doanh nghiệp và quan hệ giữa các cơ quan hành chính Nhà nước
với nhau.
Cùng với các thể chế kinh tế, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế về
bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dân chủ hoá đời sống
xã hội đã có bước tiến dài, góp phần quan trọng vào ổn định xã hội, khai
thác và phát huy các nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội.
- Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong hệ thống hành chính
Nhà nước được từng bước điều chỉnh phù hợp với yêu cầu quản lý Nhà
nước trong thực hiện nền kinh tế thị trường.
Chính phủ, các bộ đã tập trung nhiều hơn vào thực hiện chức năng

quản lý Nhà nước vĩ mô trong phạm vi cả nước, trên các lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội; tập trung thời gian và nguồn lực vào việc thực hiện
chức năng đích thực của mình là xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, xây dựng và ban hành cơ chế, chính sách, thanh tra, kiểm tra việc tổ
chức thực hiện.
Đã thực hiện điều chỉnh chức năng quản lý Nhà nước giữa các cấp
hành chính cho phù hợp với tình hình thực tiễn, trên nguyên tắc mỗi việc
chỉ do một cơ quan phụ trách, khắc phục sự trùng lắp, chồng chéo về chức
năng, nhiệm vụ. Chính quyền địa phương được phân cấp nhiều hơn, nhất
là trong các lĩnh vực ngân sách, tài chính, biên chế, đầu tư, đất đai, y tế,
giáo dục.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước từ Trung ương đến
địa phương được điều chỉnh, sắp xếp tinh gọn, hợp lý hơn:
Đồng thời với quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, từng bước làm rõ
phạm vi và nội dung chức năng quản lý Nhà nước trên các lĩnh vực, trong
6


những năm qua, đã tiến hành nhiều đợt sắp xếp, điều chỉnh lại tổ chức bộ
máy các cơ quan hành chính Nhà nước.
Cơ cấu bên trong các cơ quan của Chính phủ và Chính quyền địa
phương cũng có bước điều chỉnh theo hướng phân biệt rõ các đơn vị thực
hiện chức năng quản lý Nhà nước với các tổ chức sự nghiệp cung cấp dịch
vụ công.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính
nhà nước được nâng lên:
Công tác xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức thời gian
qua được quan tâm triển khai trên diện rộng, kết hợp huy động nhiều giải
pháp và đã đạt được một số kết quả tích cực.
Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 qua 2 lần sửa đổi vào các

năm 2001 và 2003- Nay là Luật cán bộ, công chức đã có sự phân loại
tương đối rõ các đối tượng cán bộ, công chức, tạo căn cứ pháp lý để định
ra yêu cầu, tiêu chuẩn về trình độ, năng lực chuyên môn, phẩm chất và
chế độ, chính sách đãi ngộ tương ứng.
Có thể khẳng định, thực hiện những đổi mới, cải cách chế độ công
vụ, công chức thời gian qua, đội ngũ cán bộ công chức đã có bước trưởng
thành đáng kể. Một bộ phận công chức hành chính đã có năng lực, trình
độ, kỹ năng đáp ứng đòi hỏi của một nền hành chính chuyên nghiệp, hiện
đại.
- Phương thức hoạt động của Chính phủ, các bộ ngành trung ương và
Uỷ ban nhân dân các cấp có bước đổi mới:
Tinh thần xuyên suốt quá trình đổi mới phương thức hoạt động của
các cơ quan hành chính Nhà nước là giảm tối đa sự can thiệp hành chính
vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Các cơ quan Nhà nước tập
trung làm tốt chức năng định hướng phát triển, tạo lập môi trường pháp lý,
cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực, tăng cường quản
lý nhà nước bằng pháp luật.
7


2. Một số hạn chế, yếu kém của nền hành chính nhà nước hiện
nay:
Tuy đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng so với yêu cầu
của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội và chủ động hội nhập
quốc tế thì công cuộc CCHC ở Việt Nam còn chậm, hiệu quả chưa cao.
Nền hành chính còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém cần tiếp tục đổi mới,
sửa chữa như sau:
- Hệ thống thể chế Pháp luật vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán,
trong một số lĩnh vực chưa bám sát quá trình chuyển đổi khó khăn và phức
tạp. Sự chưa đồng bộ của hệ thống thể chế một mặt thể hiện ở chỗ một số

luật, pháp lệnh đã ban hành nhưng các nghị định và thông tư hướng dẫn
triển khai chậm được ban hành.
Thủ tục hành chính vẫn chưa được cải cách đơn giản hoá triệt để,
tính công khai minh bạch còn thấp. Sau một thời gian có những kết quả
bước đầu trong cải cách thủ tục hành chính, thời gian gần đây vẫn còn
nhiều thủ tục hành chính không hợp lý, phức tạp, tiếp tục gây phiền hà
cho nhân dân và các doanh nghiệp.
- Chậm xác định rõ chức năng, nhiệm vụ quản lý hành chính Nhà
nước vĩ mô của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước, nhất là ở
cấp Chính phủ và các bộ. Mặc dù hiện tại Chính phủ đã có nhiều chuyển
biến tích cực trong chỉ đạo các Bộ, ngành, nhưng trong thực tế những việc
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phải quyết vẫn quá nhiều, chưa ngang
tầm đòi hỏi của xã hội hiện nay. Nhìn tổng thể thì mối quan hệ giữa Nhà
nước với thị trường, giữa Nhà nước với doanh nghiệp, trong đó có doanh
nghiệp Nhà nước vẫn chưa thật sự rõ.
- Tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước vẫn cồng kềnh, nhiều tầng
nấc. Bộ máy hành chính ở cấp Trung ương còn quá lớn, số lượng tổ chức
bên trong các bộ, ngành còn nhiều và có xu hướng tăng lên. Việc thực hiện
phân cấp về quản lý ngành và lĩnh vực giữa Trung ương và địa phương,
8


giữa các cấp Chính quyền địa phương còn chậm, vẫn chưa có sự phân biệt
rõ về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của chính quyền đô thị với
chính quyền nông thôn.
- Chế độ công vụ mới chậm hình thành đầy đủ, chất lượng cán bộ,
công chức chưa đáp ứng với yêu cầu đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội.
Đội ngũ cán bộ, công chức còn bất cập về kỹ năng quản lý mới, thiếu tính
nhạy bén thị trường, trách nhiệm thực thi công vụ chưa cao. Một bộ phận
cán bộ, công chức suy thoái phẩm chất, đạo đức, tham nhũng. Rõ ràng,

chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đang là vấn đề có ý nghĩa sống còn
không chỉ riêng của công cuộc cải cách hành chính mà của cả sự nghiệp
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Phương thức, lề lối làm việc còn thủ công, lạc hậu chưa đáp ứng
yêu cầu chuyên nghiệp, hiện đại:
Hoạt động của bộ máy hành chính Nhà nước từ Trung ương đến địa
phương chưa thực sự thống nhất, thông suốt. Quy trình làm việc của cán
bộ, công chức nhìn chung còn thủ công, thiếu tính chuyên nghiệp. Dấu ấn
của cơ chế tập trung quan liêu còn khá đậm nét trong điều hành và tổ chức
công việc của các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức ở tất cả các cấp.
Họp hành nhiều, giấy tờ hành chính chưa giảm, thẩm quyền và trách
nhiệm giải quyết công việc của từng cán bộ, công chức không rõ ràng; đặc
biệt là quy chếp phối hợp giữa các cơ quan hành chính Nhà nước trong quá
trình giải quyết công việc còn nhiều hạn chế.
Trang bị thiết bị, điều kiện làm việc của cơ quan hành chính Nhà
nước nói chung còn nghèo nàn, lạc hậu. Việc triển khai áp dụng các giải
pháp kỹ thuật và nhất là công nghệ tin học vào hoạt động quản lý Nhà
nước còn chậm, đạt hiệu chưa cao. Chủ trương hiện đại hoá nền hành
chính, thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực vẫn là
một thách thức lớn.
9


Chương 3
VẬN DỤNG QUẢN LÝ CÔNG MỚI TRONG
CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY
Việt Nam đang trong tiến trình đẩy mạnh CCHC, hội nhập ngày
càng sâu, rộng vào nền kinh tế của thế giới. Để hội nhập thành công, ngoài
sự quyết tâm về mặt chính trị, Việt Nam cần phải tự xây dựng mô hình

quản lý có hiệu quả. Ở Việt Nam, khoa học hành chính ra đời và phát triển
rất muộn, lại phải chịu sự tác động trực tiếp của Chính trị, chính vì vậy
tính độc lập của khoa học hành chính chưa rõ nét. Chúng ta thực sự chưa
có một mô hình hành chính công.
Trong điều kiện kính tế - xã hội phát triển nhanh chóng như ngày
nay, khi nền hành chính Nhà nước có sự phát triển theo xu hướng tiến bộ
tích cực (chuyển từ hành chính cai trị sang hành chính phục vụ): trong
khoa học hành chính đã xuất hiện thuật ngữ “hành chính phát triển”. Từ
đó, thuật ngữ “hành chính truyền thống” cũng được quan tâm, nghiên cứu
trong mối tương quan với “Hành chính phát triển”
Hành chính truyền thống được hiểu là cách thức tổ chức và hoạt
động của các cơ quan Nhà nước thuộc các kiểu Nhà nước trong lịch sử,
cũng như các cơ quan, tổ chức khác, trên cơ sở những nguyên tắc, quy tắc
nhất định (bao gồm cả nguyên tắc chính trị - xã hội và nguyên tắc tổ chức kỹ thuật) do Nhà nước hoặc các chủ thể đặt ra mà bản chất chủ yếu thiên
về tính “cai trị”, phương thức hoạt động dựa trên cơ sở thi hành các quy
định một cách “cứng nhắc”, lấy tổ chức thứ bậc chặt chẽ, trình tự, thủ tục
và việc thực hiện nghiêm ngặt các thủ tục đó làm biện pháp tối ưu mà ít
quan tâm đến kết quả hoạt động của Nhà nước, của các cơ quan, tổ chức
hay của công chức Nhà nước.

10


Hành chính phát triển (Quản lý công mới) thường được sử dụng khi
nói đến “mô hình Hành chính công theo các tiêu chí hiện đại, chủ động,
năng động, nhạy bén, thích nghi cao nhằm đáp ứng các yêu cầu quản lý và
dịch vụ tối đa trong các điều kiện kinh tế thị truờng phát triển mạnh mẽ và
những quan hệ quốc tế ngày càng phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau”
Chuyển đổi từ Hành chính công truyền thống sang Quản lý hành
chính công mới (Hành chính phát triển) là xu hướng phổ biến trên thế giới,

đặc biệt là những nước kinh tế thị trường phát triển. Vì sao lại vậy?
Nguyên nhân là:
Thứ nhất: Về quy mô của Chính phủ, nhiều quốc gia cho rằng bộ
máy của Chính phủ quá lớn, chi phí cho việc duy trì bộ máy đó ngày càng
tăng trong khi đó hiêu quả hoạt động của nó ngày càng giảm đi. Do đó cần
phải xem xét lại quy mô và vai trò của Chính phủ. Theo quan điểm mới,
vai trò của Chính phủ chuyển từ “chèo thuyền” sang “lái thuyền”. Nhà
nước không nên ôm đồm làm hết mọi dịch vụ mà nên “dân chủ hoá” gắn
liền với phân quyền, “xã hội hoá” nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả
quản lý của Nhà nước.
Thứ hai: Chất lượng dịch vụ công chất lượng thấp, loại hình không
đa dạng, phong phú mà giá cả lại cao hơn khu vực tư. Mặt khác, về bối
cảnh và xu hướng thời đại tác động đến mô hình Hành chính công truyền
thống dẫn đến sự xuất hiện mô hình Hành chính phát triển. Đó là: Sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ đòi hỏi phải có sự điều chỉnh nền
kinh tế và phát triển nền hành chính; sự phát triển nền kinh tế thị trường và
toàn cầu hoá kinh tế điều chỉnh các mối quan hệ quốc tế đã tác động ảnh
hưởng đến nền hành chính công của mỗi nước trong quá trình hội nhập.
Xu hướng dân chủ hoá đời sống xã hội do trình độ dân trí ngày càng được
nâng cao; tình thế chung buộc Nhà nước phải một mặt xã hội hoá, tư nhân
hoá, chấp nhận sự tham gia của công chúng vào công việc quản lý Nhà
nước, đồng thời phải can thiệp ngày càng sâu vào các quá trình kinh tế - xã
11


hội và cải tiến mô hình nền Hành chính công và nâng cao chất lượng dịch
vụ đối với người dân - những “khách hàng” của nền hành chính.
Như vậy về bản chất, Hành chính truyền thống và Hành chính phát
triển đều là đối tượng nghiên cứu của khoa học hành chính công được xây
dựng bởi một hệ thống các khái niệm, hệ thống lý thuyết hành chính công

với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Sự khác nhau cơ bản ở đây là “mô
hình”, mỗi “mô hình” có những thế mạnh và phù hợp với điều kiện kinh tế
- xã hội trong những giai đoạn lịch sử nhất định của mỗi quốc gia. Đi sâu
vào nghiên cứu hai “mô hình” dựa trên một số tiêu thức chúng ta nhận
thấy những điểm khác nhau cơ bản sau đây:
So sánh tiêu thức mục tiêu: Hành chính công truyền thống; bảo đảm
đúng chu trình, đúng quy tắc, thủ tục hành chính (đầu vào). Đánh giá việc
quản lý hành chính thông qua xem xét mức độ thực thi các quy tắc, thủ tục
hành chính. Trong khi đó, mục tiêu của Hành chính phát triển là: Bảo đảm
kết quả tốt nhất, hiệu quả cao nhất (đầu ra); dùng các tiêu chí cụ thể để
đánh giá kết quả quản lý hành chính.
Đối với công chức của Hành chính công truyền thống: trách nhiệm
của người công chức, nhà quản lý là giám sát việc thực hiện và giải quyết
công việc theo quy chế thủ tục. Những quy định, điều kiện để công chức
thực thi công vụ theo một hệ thống thứ bậc rất chặt chẽ, cứng nhắc theo
quy định. Thời gian làm việc của công chức được quy định chặt chẽ, có
thời gian công (làm việc ở cơ quan) và thời gian tư (thời gian không làm
việc ở cơ quan). Công chức mang tính trung lập, không tham gia chính trị,
thực hiện một cách trung lập các chính sách do nhà nước đề ra. Trong khi
đó, đối với công chức của Hành chính phát triển: Trách nhiệm của người
công chức, nhà quản lý chủ yếu là bảo đảm thực hiện mục đích, đạt kết
quả tốt, hiệu quả cao. Những quy định, điều kiện để công chức thực thi
nhiệm vụ có hình thức linh hoạt, mềm dẻo hơn. Thời gian làm việc linh
hoạt hơn, có thể họ làm việc trong một thời gian nhất định, có thể làm
12


chính thức hoặc hợp đồng (có một phần thời gian làm công vụ tại nhà).
Công chức cam kết về mặt chính trị cao hơn trong các hoạt động của mình,
các hoạt động hành chính mang tính chính trị nhiều hơn.

Đối với Chính phủ của Hành chính công truyền thống: Mọi công vụ
được Chính phủ thực thi, giải quyết theo Pháp luật quy định. Chức năng
của Chính phủ nặng về hành chính xã hội, trực tiếp tham gia các công việc
công ích xã hội. Chức năng của Chính phủ thuần tuý mang tính hành chính
không trực tiếp liên hệ đến thị trường. Trong khi đó, đối với Chính phủ của
Hành chính phát triển: Các công vụ mang tính chính trị nhiều hơn, ảnh
hưởng của chính trị ngày càng lớn trong hành chính. Chức năng tham gia
trực tiếp các dịch vụ công cộng ngày càng giảm bớt mà thông qua việc xã
hội hoá các dịch vụ đó để quản lý xã hội, nhưng vẫn có sự quản lý của Nhà
nước. Chức năng của Chính phủ đối mặt với những thách thức của thị
trường. Nền hành chính phát triển của các nước đều phải quan tâm và gánh
vác nghĩa vụ chung đối với những vấn đề của loài người như nghèo đói,
dịch bệnh, môi truờng, ma tuý, tội phạm…..
Thời gian tới là thời kỳ đất nước hội nhập sâu vào nền kinh tế thế
giới, sau khi chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới
(WTO) từ ngày 01/01/2007. Do đó việc tiếp tục hoàn thiện thể chế của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, sẽ là cơ sở cho việc xây dựng đồng
bộ nền hành chính mới của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam “của
dân, do dân, vì dân”, trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu tới năm 2020 Việt Nam cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ to lớn từ nay cho đến năm
2020, việc tiếp tục cải cách nền hành chính Nhà nước cần thiết hướng vào
thực hiện các mục tiêu tổng quát: xác lập mô hình tổ chức nền Hành chính
mới cho phù hợp với yêu cầu xây dựng một nền hành chính phục vụ nhân
dân, phục vụ phát triển và hội nhập của đất nước; Hoàn thiện thể chế hành
13


chính dân chủ - pháp quyền XHCN, có sự tham gia tích cực của người dân

vào quá trình quản lý nền hành chính hiệu lực - hiệu quả của đất nước; có
chế độ công vụ chuyên nghiệp, đảm bảo triệt để tính trách nhiệm, tính
công khai, minh bạch trong hoạt động công vụ. Có sức đề kháng cao với tệ
quan liêu, tham nhũng; xây dựng nền hành chính thống nhất thông xuốt,
trên cơ sở của phân cấp, phân quyền triệt để trong bộ máy quản lý hành
chímh Nhà nước. Đề cao tính tự chủ, tự chụi trách nhiệm của tổ chức,
người đứng đầu các tổ chức chính quyền các cấp trong thực hiện chính
sách, pháp luật, thiết lập một trật tự hành chính phù hợp với việc tăng
cường kỷ luật, kỷ cương của nền hành chính; nền hành chính năm 2020
phải được hiện đại hóa từ công sở tới phương thức quản trị hiện đại, đạt
trình độ quản lý của nền hành chính khu vực và thế giới. Chính phủ điện tử
được thiết lập và vận hành hiệu quả.

14


KẾT LUẬN
Thực tiễn cải cách hành chính sinh động và phong phú, những kết
quả đạt được và những hạn chế, tồn tại trong CCHC chính là một vấn đề
cấp về sự cần thiết phải phát triển một hệ thống lý luận về CCHC - một hệ
thống lý thuyết đóng vai trò định hướng tư duy, cải tạo thực tiễn. Các bài
viết của các nhà khoa học, các nhà quản lý thực tiễn đã phân tích, đánh giá
thực trạng CCHC, chỉ ra những nền tảng để thành công trong CCHC, vấn
đề động lực của CCHC, những vấn đề cần quan tâm cho công cuộc CCHC
trong những năm tiếp theo là phải tìm ra câu trả lời cho thực tiễn cấp thiết
đó.
Những định hướng CCHC Nhà nước được thực hiện sẽ tạo lập được
một nền hành chính dân chủ, hiện đại, một nền hành chính năng động
trong một thế giới luôn biến đổi, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa hội

nhập kinh tế quốc tế.
Quản lý công mới (Hành chính phát triển) có cách tiếp cận mới đối
với Hành chính công truyền thống. Sự xuất hiện của mô hình này đã làm
cho cách thức hoạt động của khu vực công có nhiều thay đổi đáng kể. Nền
kinh tế Việt Nam đang vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN
và ngày càng hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Chức năng của
Chính phủ chắc chắn sẽ phải đối mặt với những thách thức của thị trường
trong nước và thị trường thế giới. Vận dụng những nhân tố hợp lý của mô
hình Quản lý công mới để xây dựng một mô hình mang tính đặc sắc Việt
Nam, đẩy mạnh CCHC theo kịp cải cách kinh tế đang là câu hỏi đặt ra đối
với các nhà lãnh đạo, quản lý và các nhà khoa học hành chính .

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS. Đặng Khắc Ánh (chủ biên) [2012], tập bài giảng Hành chính
so sánh, Hà Nội.
2. Học viện hành chính quốc gia [1996], giáo trình về quản lý hành
chính nhà nước, tập I, Hà Nội.
3. Học viện hành chính quốc gia [1996], giáo trình về quản lý hành
chính nhà nước, tập II, Hà Nội.
4. Học viện hành chính quốc gia [1996], giáo trình về quản lý hành
chính nhà nước, tập III, Hà Nội.

16


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................2
Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ MÔ HÌNH QUẢN LÝ CÔNG MỚI (NMP). 2
1.1 Quản lý công mới.......................................................................................2
1.2 Các yếu tố của mô hình NMP...................................................................2
Chương 2 THỰC TRẠNG CỦA QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Ở
VIỆT NAM.......................................................................................................5
1. Một số ưu điểm của nền hành chính nhà nước trong thời gian qua:.....5
2. Một số hạn chế, yếu kém của nền hành chính nhà nước hiện nay:........8
Chương 3........................................................................................................10
VẬN DỤNG QUẢN LÝ CÔNG MỚI TRONG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT
NƯỚC HIỆN NAY........................................................................................10
KẾT LUẬN...................................................................................................15

17



×