Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Những thành tựu và hạn chế về lý luận giá trị của các nhà kinh tế tư sản cổ điển, việc kế thừa và phát triển lý luận giá trị của c mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.48 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
vấn đề phát triển cơ cấu kinh tế được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với
nền kinh tế Việt Nam. Các lý luận giá trị kinh tế của các nhà kinh tế tư bản cổ
điển là một bộ phận trong cơ cấu ấy, đã có những lý luận bị coi là đối lập với
kinh tế XHCN, vì vậy phải nằm trong diện cải tạo xoá bỏ. Song thực tiễn đã
cho thấy quan niệm như vậy là cực đoan vì các lý luận giá trị của các nhà kinh
tế cổ điển tư bản đã góp một phần không nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền
kinh tế theo hướng tích cực. Cùng với chủ trương chuyển nền kinh tế Việt
Nam sang nền kinh tế thị trường, Đảng và nhà nước Việt Nam đã ban hành
nhiều Chủ trương, Chính sách để khuyến khích sự phát triển của các thành
phần kinh tế. Tuy nhiên, các lý luận giá trị đó, còn nhiều những hạn chế trong
thực tế và nhiều vấn đề bất cập trong xã hội.
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu môn học lịch sử các học thuyết
kinh tế, em thấy rằng kinh tế chính trị tư sản cổ điển là tư tưởng kinh tế của
giai cấp tư sản nhưng đó là những tư tưởng kinh tế của giai cấp tư sản trong
giai đoạn chống chế độ phong kiến và thiết lập phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa. Giai cấp tư sản đang đóng vai trò cách mạng trong lịch sử, tư
tưởng của nó phản ánh sự tiến bộ chung của xã hội. Kinh tế chính trị tư sản cổ
điển là một trường phái khoa học trong lịch sử các học thuyết kinh tế. Họ đã
nghiên cứu những mối quan hệ nội tại của các quan hệ sản xuất tư sản, nghĩa
là nghiên cứu để vạch ra bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Với
một hệ thống lý luận đã đặt nền móng cho khoa học kinh tế, điều này có ý
nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển của kinh tế học hiện đại ở tất cả nước đang
thực hiện nền kinh tế thị trường, trong đó có nước ta.
Tuy học thuyết của họ đứng trên lập trường của giai cấp tư sản và còn có
những hạn chế nhất định, song những thành tựu mà họ đạt được có ý nghĩa
hết sức to lớn đối với các nhà nghiên cứu kinh tế sau này. Và có thể nói, học
thuyết kinh tế của các nhà tư sản cổ điển là nền tảng lý luận để C.Mác –


1


Ănghen và sau này là Lênin kế thừa và phát triển thành một hệ thống lý luận
có ý nghĩa mang tầm giá trị vượt thời đại và không chỉ là nền tảng cho việc
phát triển kinh tế ở các nước XHCN mà cả cho các nước trên thế giới.
Nước ta hiện nay đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa “vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
nên việc nghiên cứu lại những thành tựu về lý luận giá trị mà các nhà kinh tế
tư sản cổ - sự kế thừa của C.Mác về thành tựu ấy là rất cần thiết cho việc sản
xuất trao đổi và lưu thông hàng hóa, nhất là trong thời kì hội nhập như hiện
nay.
Chính vì thế tôi chọn đề tài “Những thành tựu và hạn chế về lý luận
giá trị của các nhà kinh tế tư sản cổ điển, việc kế thừa và phát triển lý luận
giá trị của C.Mác” để làm bài tiểu luận của mình
Tuy nhiên, do kiến thức còn nhiều hạn chế và thời gian nghiên cứu
không nhiều nên bài viết còn có những thiếu sót nên em rất mong được nhận
được những ý kiến đóng góp của thầy, (cô) để bài viết của em được hoàn
chỉnh hơn.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Hê thống lại các lý luận của các nhà kinh tế cổ điển theo một trình tự từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian, nên tiểu luận chỉ bàn về các vấn đề chung nhất
trong học thuyết kinh tế của các nhà kinh tế cổ điển. Nghiên cứu những phạm
trù chung nhất của nền kinh tế hàng hoá.
4. Phương pháp nghiên cứu.
-Phương pháp duy vật biện chứng va duy vật lịch sử.
-Phương pháp phân tích, so sánh.


2


NỘI DUNG
Chương I. Sơ lược về tiểu sử của các nhà kinh tế học tư sản cổ điển.
1.1

William Petty (1623-1687).

W.Petty sinh năm 1623, trong một gia đình thợ may nghèo ở một thị trấn
yên bình của Hampshire, bên dòng sông Test, miền nam nước Anh. Việc học
của ông về cơ bản chỉ có học thuộc lòng, đó là một kiểu giáo dục điển hình
đối với trẻ em thuộc tầng lớp xã hội thấp trong thời kỳ đó. Mặc dù vậy,
W.Petty nổi lên trong cách giáo dục đó vì ông có tính rất tò mò và đọc rộng về
văn chương và khoa học.
Vào độ tuổi 14, ông thôi học và tìm việc trên một chiếc tàu thường
xuyên qua lại eo biển Măng-sơ, Trong năm đầu làm việc, ông bị gẫy chân, vì
không còn có ích đối với người chủ ông ở lại Pháp. W.Petty quyết định ở lại
Pháp và nhập jọc trường Jesuit College ở Caen. Ông rời Cean năm 1640, dành
3 năm trong hải quân, và sa đó đến Hà Lan để học giải phẫu và y học.
Năm 1646 W.Petty trở lại nướic Anh để học nghề y tại trường Oxford.
Sau khi nhận bằng tiến sỹ y học ông được bổ nhiệm làm giáo sư giải phẫu tại
Oxford. W.Petty trở nên nổi tiềng và được kính trọng vì người ta tưởng ông là
kiếp phục sinh từ cái chết của một người đàn bà bị xử treo cổ. Nhưng trong
những tuần giảng đầu tiên, ông đã nhận thấy rằng cuộc sống nghiên cứu
không thích hợp đối với ông và ông đã rời Oxford để trở thành một bác sỹ
trưởng trong quân đội Ailen,. cùng thời gian đóm W.Petty trở thành người
giám sát chính ở Ailen, và ông đã dùng kiến thức có được trong công việc này
để tích luỹ được nhiều của cảc và đất đai. Vào những năm 1660, ông giúp
thành lập một Hiệp hội hoàng gia London về nâng coa hiểu biết tự nhiên.

Cương lĩnh của nó tuân thieo phương pháp kho học của Francis Bacon-sử
dụng quan sáo và thí nghiệm đểt nghiên cứu thế giới tự nhiên và xã hội.
1.2. Francois Quesnay (1694-1774).
F.Quesnay nổi tiếng với tư cách là người sáng tạo ra mô hình kinh tế đầu
tiên, tức là Biểu kinh tế, và với tư cách là người đứng đầu phái trọng nông,
3


trường phái tư tưởng kinh tế đầu tiên. Tuy vậy, F.Quesnay được ngưỡng mộ vì
nhiều điều khác như việc đề xuất của ông về thị trường tự do, phân tích sự tạo
thành văn hoá phân phối thặng dư kinh tế, cũng như cách nhìn nhận của ông
về nền kinh tế như là một tập hợp gắn kết chặt chẽ của các bộ phận độc lập.
F.Quesnay sinh năm 1694 ở gần Versailles. Cha ông là một nông dân và
là chủ một cửa hàng nhỏ, vì thế ông không được giáo dục một cách chính
thống, nhưng F.Quesnay là một người rất ham mê sách .
Vào tuổi 17, ông quyết định trở thành nhà giải phẫu. Mặc dù không thích
khoá học y khoa nhưng ông vẫn tiếp tục nghiên cứu. Năm 1735, ông được
mời làm bác sỹ riêng cho công tước Villenroy. Năm 1774, ông nhận bằng tiến
sỹ y học và trở thành thành viên của Hội khoa học Pháp.
Lúc 55 tuổi, F.Quesnay trở nên quan tâm đên kinh tế học và toán học.
Với hiểu biết rộng và có nhiều mối quan hệ với những người có địa vị cao,
ông được viết một số mục trong Bách khoa thư của Diderot. Những mục đó
đã làm ông trở nên nổi tiếng và được nhiều người ủng hộ.
Chịu ảnh hưởng của các phương pháp nghiên cứu khoa học tự nhiên,
F.Quesnay cổ vũ nhiệt thành cho trật tự tự nhiên của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa dựa trên cơ sở tự do cạnh tranh, không có sự can thiệp của nhà
nước. Ông có công lớn trong việc phân tích tư bản và “sản phẩm thuần tuý”
của nền kinh tế.
1.3. Adam Smith (1723-1790).
A.Smith sinh năm 1723 tại Kirkcaldy, một thị trấn nhỏ gần Edinburgh,

Scotland. Cha ông là một luật sư đã mất ngay trước khi ông sinh ra. Do vậy,
A.Smith được mẹ và những người bảo trợ theo di chúc của cha ông nuôi
nấng.
Mặc dù khi nhở là một đức trẻ ốm yếu bênhj tật, nhưng A.Smith có niềm
đam mê rất lớn đối với với sách vở và là một độc giả nhiệt tình. Vảo tuổi 14,
ông được gửi đến trường Đại học Glasgow, nơi ông nghiên cứu triết học đạo

4


đức, toán học và kinh tế chính trị. Năm 1740, ông giành được học bổng đi
Oxford và học tại trường Balliol trong sáu năm tiếp theo.
Năm 1751. A.Smith được mời làm giáo sư về Lôgic tại Đại học
Glasgow. Một năm sau đó ông đảm trách vị trí Giáo sư Triết học đạo đức. Các
bài giảng của ông về đạo đức được nhiều người chú ý tham dự và sau đó được
tập hợp thành tác phẩm thành công đầu tiên của ông – tác phẩm Lý thuyết về
những xúc cảm đạo đức.
Khi Charles Townshend đọc cuốn “Lý thuyết về những cảm xúc đạo
đức”, ông nhận ra thật may mắn nếu mời đựoc A.Smith làm gia sư cho con
trai riêng của ông, Smith đã nhận lời và từ giã chức giáo sư tại Glasgow để
lên đường sang Pháp làm gia sư cho con trai của nha quý tộc. Công việc mới
này cho phép A.Smith có nhiều thời gian rảnh rỗi để đọc và suy ngẫm, và nhờ
chuyến đi Pháp , ông có cơ hội gặp gỡ những người đứng đầu của phái trọng
nông, kể cả Francois Quyesnay.
Sau khi đi vòng quanh nước Pháp ba năm, A.Smith trở về Kirđcaly và
sau đó dành 10 năm tiếp theo để hoàn thành cuốn sách của ông – tác phẩm
“Của cải của các dân tộc”, được xuất bản năm 1776, và tác phẩm này đã đem
lại cho ông sự nổi tiếng và giàu có.
Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng của mình với lý thuyết “bàn tay vô
hình”, từ năm 1778 A.Smith từ bỏ lĩnh vực nghiên cứu kinh tế để trở về cuộc

sống của một viên chức thuế quan ơ Scotland cho đến cuối đời. Với đức tính
khiêm nhường, giản dị và giàu lòng nhân ái, A.Smith đã được nhiều người
đương thời kính phục, và yêu mến.
1.4. David Ricardo (1772-1823).
D.Ricardo sinh năm 1772 tại London trong một gia đình Do thái giàu có.
Ông được đào tạo chu đáo theo hướng kế nghiệp cha trong thế giới tài chính
và thương mại. Khi 14 tuổi ông vào làm trong công ty môi giới của cha, ông
nhanh chóng làm quen với hoạt động kinh doanh. Ông được xem là một nhà

5


đàm phán cực kỳ tài năng, và nhanh chóng thành thạo trong các hoạt động
đày khó khăn và bí ẩn như kinh doanh trên thị trường chứng khoán.
D.Ricardo bị cha từ bỏ vì ông cưới một cô gái thuộc giáo pháo Quaker
và cải sang đạo Thiên chúa. Không một xu dính túi và phải đảm bảo cho cuộc
ssong gia đình,D.Ricardo chạy vạy khắp nới để vây tiền và mở một công ty
môi giới của chính ông. Dù những năm đầu đầy gian khó, nhưng sau đó
không lâu ông nhanh chóng kiếm được một tài sản lớn và trở nên độc lập về
tài chính vào tuổi 26. Điều này cho phép ông giành thời gian theo đuổi những
sở thích của ông trong lĩnh vực khoa học và tri thức. Ông thành lập một
phòng thí nghiệm, bắt đầu thu thập khoáng vật, văn hoá tham gia hội địa chất
học Anh.
Trong một kỳ nghỉ với vợ vào năm 1799, D.Ricardo ngẫu nhiên đọc
được cuốn “Của cải của các dân tộc” của A.Smith, D.Ricardo quyết định dành
thời gian rảnh rỗi cho nghiên cứu kinh tế.
Năm 1819, D.Ricardo tậu được một ghế trong hạ viện Anh. Đây là một
ghế đại biểu cho hạt Portarlington xứ Ailen-một địa điểm ông chưa bao giờ
đặt chân đến. D.Ricardo đã nhanh chóng trở thành một chuyên gia có tiếng
trong nghị viện về các vẫn đề tài chính và ông thường phát biểu sôi nổi về các

vấn đề kinh tế cấp bách đương thời như tiền tệ văn hoá ngân hàng, thuế quan,
thuế khoá và suy thoái trong nông nghiệp.
Trong cuộc đời khoa học của mình, D.Ricardo chịu ảnh hưởng nhiều
nhất của A.Smith và Malthus-nhà kinh tế học tư sản tầm thường nổi tiếng.
Người ta cũng không thể không nói đên J.Mill, một nhà văn và nhà chính luận
có công lao to lớn trong việc dẫn dắt D.Ricardo đến với khoa học, giúp ông
xuất bản những công trình đầu tiên, một người bạn trung thành đến tận cuối
đời nhưng luôn luôn tự nhận là học trò và người kế tục của ông.
Công trình nổi tiếng nhất của D.Ricardo là cuốn sách “Những nguyên lý
của kinh tế chính trị học và vấn đề thuế khoá” được xuất bản vào tháng 4 –

6


1817 khi ông 35 tuổi. Trước đó, năm 1815 ông đã viết cuốn sách nghiên cứu
về ảnh hưởng của giá cả thấp đối với lợi nhuận của tư bản.
D.Ricardo có một tài sản vô giá là kiến thức kinh tế thực tến đặc biệt là
trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ. Nhờ vậy trong hệ thống lý luận của mình,
ông đã thể hiện được một cơ sở vững chắc cho phương pháp nghiên cứu kinh
tế học. Đối với những người đương thời hệ thống kinh tế của D.Ricardo là
một hệ thống kinh tế kiểu mới.

7


Chương II. Hệ thống một số lý luận.
2.1. Lý luận về lợi nhuận.
Các nhà kinh tế học tư sản cổ điển chưa phân biệt được lợi nhuận với giá
trị thặng dư. A.Smith thì cho rằng lợi nhuân là một trong ba nguồn gốc cấu
thành nên thu nhập xã hội. Khi nghiên cứu về nguồn gốc giá trị thặng dư,

Smith coi lơi nhuận lợi tức địa tô là những khoản khấu trừ vào lao động của
công nhân làm thuê. D.Ricardo không hề quan tâm đến điều đó, ông xuât phát
từ cái có sẵn, hiện đang tồn tại và không biến đổi về chất, coi ngày lao động là
bất biến, vấn đề chỉ là phân chia cái có sẵn đó. Ông xuất phát từ giả thuyết
cho rằng giá cả lúa mì và giá cả hàng hoá công nghiệp không thay đổi do dó
dẫn đến kết luận là lợi nhuận cao hay thấp là tuỳ theo tiền công thấp hay cao
Đây là luận điểm nổi tiếng của ông . Về cơ bản ông đã nhận xét đúng tính đối
lập trong sự vận động lên xuống của tiền công và lợi nhuận. D.Ricardo tin
rằng, ông đã vạch ra được cái cơ sở kinh tế của quan hệ giữa giai cấp tư sản
và vô sản. Nhưng công thức của ông chỉ đúng trong trường hợp ngày lao động
là bất biến và coi lợi nhuận là giá trị thặng dư. Bởi những giả thiết đó quy luật
của ông không còn đúng nữa. Về thực chất ông đã đi đến phân tích về giá trị
thặng dư tương dôi. C.Mác đánh giá rất đúng rằng, sự phân tích tiền công
tương đối là một công lao khoa học của D.Ricardo. Trong những trường hợp
cá biệt, D.Ricardo cũng phân biệt lợi nhuận và giá trị thặng dư, còn nhìn
chung ông lẫn lộn giữa hai cái đó. Sự trừu tượng của ông không đủ sâu,
không thể gạt lợi nhuận để nghiên cứu riêng về giá trị thặng dư được.
Khi nghiên cứu về lợi nhuận, A.Smith cũng đã nhìn thấy xu hướng bình
quân hoá tỉ suất lợi nhuận và cho rằng cạnh tranh đã tạo ra bình quân hoá lợi
nhuận. Ông cho rằng lợi nhuận cao hơn ở nhưng nước nghèo, còn lợi nhuận
thấp ở những nước giàu. Các tư bản lớn thu được lợi nhuận lớn nhưng với tỉ
suất nhỏ. Ông tỏ ra lo ngại với xu hướng giảm sút của tỉ suất lợi nhuận. Theo
ông chính độc quyền đã làm kìm hãm sự bình quân hoá của tỉ suất lợi nhuận.
Ông còn cho rằng lợi nhuận không những khác tiền công về nguyên tắc mà
8


lợi nhuận là một hình thái độc lập có tính chất điều tiết các thu nhập của chủ
nghĩa tư bản, nó đối lập với tiền công.
So với các tư tưởng kinh tế trước đó, A.Smith đã đẩy việc giải quyết vấn

đề lợi nhuận tiến lên rất nhiều và ông đã nêu được cả một loạt luận điểm đúng
đắn. Công lao to lớn của ông là ở chỗ ông đã nêu một ý kiến hoàn toàn xa lạ
đối với phái trọng thương và phái trọng nông, tức là ý kiến nói rằng các nhà
tư bản làm giàu nhờ vào lao động. Phái trọng thương giải thích lợi nhuận chỉ
bằng những kinh doanh đầu cơ trong lĩnh vực lưu thông, còn phái trọng nông
cho rằng lợi nhuận là một tặng vật của tự nhiên. Ngược lại A.Smith xác định
rằng lợi nhuận là một khoản khấu vào snr phẩm do công nhân tạo ra, là kết
quả lao động của họ. Ở đây, ông đã dựa vào cái biến thể đúng đắn trong học
thuyết của ông về giá trị và đã đặt vấn đề thu nhập tư bản chủ nghĩa một cách
khoa học.
Ở Smith, C.Mác đã tìm ra được những mầm mống của học thuyết giá trị
thặng dư, tư tưởng coi lợi nhuận là kết quả lao động của công nhân là thành
tựu cao nhất của tư tưởng kinh tế tư sản trong thời kỳ phát triển khoa học của
nó. Về sau tư tưởng này được D.Ricardo phát triển một cách triệt để hơn.
Những cơ sở khoa học của học thuyết D.Ricardo về lợi nhuận biểu hiện
ra rất rõ, ông coi lợi nhuận là kết quả lao động của công nhân, giá trị do công
nhân sản xuất ra trong hàng hoá có thể vượt gấp đôi tiền công của anh ta, sự
bóc lột công nhân là nguồn gốc của lợi nhuận, một khi giá trị đã do lao động
sáng tạo ra thì nguồn gốc của lợi nhuận chỉ do lao động tạo ra mà thôi. Khi
năng suất lao động tăng lên làm cho gía trị của lao động giảm xuống và lợi
nhuận tăng lên, điều đó không ảnh hưởng chút nào tới lượng giá trị hàng hoá.
D.Ricardo cũng nhận thấy tỉ suất lợi nhuận có khuynh hướng tự nhiên
giảm xuống cùng với sự tiến bộ của xã hội và sự tăng lên của của cải. A.Smith
cho rằng nguyên nhân làm giảm sút tỉ suất lợi nhận là do tích luỹ tư bản ngày
càng tăng và kèm theo là sự cạnh tranh tăng lên giữa các tư bản. D.Ricardo
vạch ra sự cạnh tranh giữa các ngành có thể san bằng lợi nhuận trong các
9


ngành chứ không làm tỉ suất lợi nhuận giảm xuống, do giá trị các vật phẩm

tiêu dùng của công nhân tăng lên làm tiền lương tăng lên và dẫn đến tỉ suất lợi
nhận giảm xuống. Giá trị của các vật phẩm tiêu dùng của công nhân tăng lên
là vì gía trị nông phẩm ngày càng cao do canh tác ở đất đai ngày càng kếm
mày mỡ làm cho tỉ suất địa tô không ngừng tăng lên.
2.2. Lý luận về địa tô.
Người đặt nền mống cho kinh tế học tư sản cổ điển W.Petty cho rằng địa
tô là một khoản thặng ra do nhà kinh doanh bòn rút được ngoài số thời gian
lao động tất yếu, địa tô ngang với sản phẩm thặng dư, trong đó lao động thặng
dư được vật thể hoá. Địa tô còn bao gồm cả lợi nhuận, lợi nhuận chưa tách
khỏi địa tô. Không chỉ có W.Petty mà phái trọng nông sau này cũng đồng nhất
giá trị thặng dư với địa tô.
Trong học thuyết của A.Smith, cũng như lợi nhuận, địa tô được ông coi
là một khoản khấu trừ đầu tiên vào kết quả lao động của người công nhân,
nhưng ở chỗ khác ông lại cho rằng địa tô là món tiền trả về việc sự dụng đát
đai và lệ thuộc vào mức phù nhiều chủ khoàng đấtư liệu Bản thaan đất đai
sinh ra nhiều hơn số cần thiết để nuôi dưỡng lao động, số dư ra đó là địa tô.
Ông phân địa tô phụ thuộc vào độ màu mỡ và địa tô phụ thuộc vào vị trí
của đất đai. Địa tô và lợi nhuận thu được trên đất đai sản xuất nông nghiệp
bao giờ cũng quy định địa tô và lợi nhận trên các đất đai khác. Hình như
những sản phẩm là lương thực bao giờ cũng đem lại số địa tô còn các sản
phẩm khác thì tuỳ theo, thậm chí không có địa tô. Hơn nữa thức ăn không chỉ
là nguồn gốc đầu tiên của địa tô mà tất cả các sản phảm khác đều nhận được
địa tô do năng suất lao động trong sản xuất lương thực tăng lên. Giá cả nông
phẩm ngày càng đắt lên là do việc tăng những nguyên liệu đó là có hạn và
không xác định. Ông thừa nhận như phái trọng nông rằng đất đai là bộ phận
tài sản lớn nhất, quan trọng nhất của một quốc gia. Mọi việc tăng của cải thật
sự của xã hội, tăng số lượng lao động hữu ích vào của cải đó sẽ gián tiếp dẫn

10



tới chỗ tăng địa tô. Ông phân biệt địa tô và tiền thuê ruộng, tiền thuê ruộng
ngoài địa tô ra còn cộng thêm lợi tức.
Ricardo cho rằng nguồn gốc của địa tô là một bộ phận sản phẩm của đất
đai được trả cho cho địa chủ về việc sử dụng những lực lượng đầu tiên và
chưa bị phá hoại của đất đai. Bản thân sự xuất hiện của địa tô gắn với việc xác
lập quyền tư hữu ruộng đất. Do sân số tăng lên làm cho nhu cầu về lương thực
tăng lên cho nên ngưòi ta phải sản xuất cả trên những đất đi xấu. Mà chi phí
cần thết để sản xuất trong điều kiện xấu nhất quyết định lượng giá trị hàng
hoá nông phẩm. Trên mảnh đất xấu nhất không có địa tô vì giá nông phẩm đắt
mới có địa tô chứ không phải vì có địa tô mà giá nông phẩm đắt. Giả sử chỉ có
đất đai tốt thì không có địa tô. Nếu địa chủ không nhận địa tô thì người
Fecmie được hưởng chứ không làm cho giá cả nông phẩm giảm đi. Ông cho
rằng cùng với việc tích luỹ tư bản thì địa tô ngày càng tăng lên, trong công
nghiệp cũng như trong nông nghiệp, tự nhiên đều giúp sức cho con người;
quy luật giá trị vẫn hoạt động cả khi địa tô xuất hiện.
Việc thiếu khái niệm về kết cấu hữu cơ của tư bản đã ngăn cản
D.Ricardo giải quyết vấn đề hình thành siêu lợi nhuận trên những đất đai xấu
nhất. Ông đã tỏ ra thiếu can đảm rõ ràng, khi do sự phê phán của Manthus,
ông đã bước đầu khước từ những suy luận triệt để của ông về bọn địa chủ,
thừa nhận sự quan tâm xa xôi của chúng đối với sự tiến bộ của nông nghiệp.
Tính chất cấp tiến của ông tỏ ra hết sức không vững vàng. Tính chất tư sản
trong thế giới quan của D.Ricardo đặc biệt lõ rõ trong lời khẳng định rằng sản
phẩm thặng dư dưới hình thái lợi nhuận sẽ đem lại một hiệu quả kinh tế lớn
hơn là dưới hình thái địa tô. Ở đây, ông đã thể hiện những nguyện vọng thầm
kín của giai cấp tư sản Anh muốn chiếm tất cả những nguồn gốc thu nhập tư
bản chủ nghĩa, mơ tưởng đến việc chiếm đoạt toàn bộ khối lượng giá trị thặng
dư.
2.3. Lý luận về tiền tệ.


11


Lý luận về tiền tệ đã được nhiều học giả tư sản cổ điển nói đến, nhưng
người nói đầy đủ hơn cả là D.Ricardo, ông là người rất sành về tiền tệ và lưu
thông tiền tệ. Thực tiễn hoạt động giao dịch của ông và những sự nghiên cứu
lý luận của ông đã trực tiếp gẵn liền với nhau, làm phong phú cho nhau.
Chúng ta có đủ cơ sở để khẳng định rằng về vấn đề lưu thông tiền tệ,
D.Ricardo đã đưa ra nhiềuluận điểm đúng đắn. Trong tất cả những tác phẩm
của ông đều nhấn mạnh rằng vàng và bạc là hàng hóa, cógía trị riêng của
chúng, giá trị này do những chi phí lao độngdùng để khai thác và vận chuyển
chúng quyết định. Ông đã chỉ rõ bản chất hàng hoá của tiền và sự phụ thuộc
của tiền vào quy luật giá trị. Đồng thời ông đã phát triển một cách tỉ mỉ và rõ
ràng cái tư tưởng về tính quy luật của số lượng tiền trong lưu thông. Tư tưởng
đó đã được W.Petty nói đến rồi và đã được phái trọng nông và A.Smith nêu
ra.
Những nhận xét về tiền của A.Smith cũng rất độc đáo. Ông cho rằng sự
xuất hiện của tiền không phải do một cá nhân nào hay một sự thoả thuận nào
của mọi người mà có. Trái lại ông đặt vấn đề đúng khi tách tiền ra khỏi thế
giới hàng hoá khi mà trình độ trao đổi hàng hoá đã phát triển đến mức cao
nhất định. Ông chú trọng đến chức năng thanh toán của đồng tiền cùng các
phương tiện kỹ thuật của sự thanh toán. A.Smith cũng thừa nhận tính tất yếu
của sự thay thế tiền vàng và tiền bạc bằng tiền giấy. Ông còn chú ý cả đến khả
năng to lớn của tín dụng trong hoạt động của chế độ tiền tệ mới.
D.Ricardo đã phát triển lý luận về tiền tệ lên cao hơn và ông cũng đã viết
khá nhiều về vấn đề tiền tệ, tron các tácphẩm khác nhau. Ông hiểu rõ bản chất
hàng hoá của tiền tệ, tiền tệ là hàng hoá, vàng và bạc cũng giống những hàng
hoá khác tỉ lệ với số lượng lao động càn thiết để sản xuất ra chúng và đưa
chúng ra thị trường. Số luợng tiền tệ ở trong nước phụ thuộc vào giá trị của
chúng. Theo ông, tiền có chức năng thước đo giá trị và phương tiện lưu thông.

Nhưng ông không hiểu được nguồn gốc của tiền tệ và đơn giản hoá những
chức năng của nó. Khi nghiên cứu về tiền giấy, ông cũng vạch rõ tiền giấy
12


không có giá trị nội tại, giá trị này tuỳ thuộc vào số lượng của chúng. Sau đó
ông đã nhầm lẫn quy luật lưu thông tiền giấy và quy luật lưu thông tiền tệ, đã
rơi vào thuyết số lượng tiền tệ.
2.4. Những thành tựu và hạn chế
1. Thành tựu
Kinh tế chính trị cổ điển là trường phái khoa học có nhiều đóng góp to
lớn cho lịch sử chung của loài người. Trong số những thành tưu nổi bật của
trường phái này, phải kể tới trước hết là phương pháp nghiên cứu khoa học.
Sử dụng sức mạnh của phương pháp trừu tượng hoá, những người cổ điển đã
phát hiện và đi sâu nghiên cứu, vạch rõ nhiều vẫn đề có tính quy luật nội tại
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Mặt khác, lý luận kinh tế cổ điển
được phân tích trên cơ sở được phân tích các phạm trù và khái niệm kinh tế
vẫn còn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Những đóng góp to lớn nhất về lý
luận của trường phái cổ điển bao gồm giá trị - lao động, lý luận về tiền tệ, tiền
công, lợi nhuận về địa tô. Công lao to lớn của các nhà kinh tế học cổ điển
không chỉ thể hiện ở chỗ họ là những người đầu tiên đặt cơ sở khoa học cho
việc phân tích các phạm trù về quy luật của phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Chính việc phân tích sâu sắc và toàn diện các phạm trù và quy luật này
của họ đã giúp cho nhiều nhà kinh tế sau này phát triển lý luận kinh tế tới
những đỉnh cao rực rỡ. Những đại biểu nổi tiếng nhất của trường phái cổ điển
cũng đồng thời là những tên tuổi lớn nhất của lịch sử kinh tế học. Đặc biệt,
chủ nghĩa cổ điển có thể được coi là đã thực hiện những bước cách mạng
quan trọng nhất trong việc phân tích các quy luật của lền kinh tế thị trường
nói chung, và cơ chế thị trường nói riêng trong chủ nghĩa tư bản. Điều đó có ý
nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển kinh tế học hiện đại ở tất cả các nước đang

thực hiện nề kinh tế thị trường, kể cả đối với nước ta trong điều kiện xác định
định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế đó.
2. Hạn chế
13


Tui nhiên, trường phải cổ điển trong kinh tế học cổ điển có những hạn
chế nhất định. Đó là tính chất hai mặt trong phương phát luận nghiên cứu vừa sử dụng các nghiên cứu khoa học, khách quan để phân tích bản chất của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa lại vừa bị ràng buộc bởi tính chất phi
lịch sử trong việc đánh giá phương thức sản xuất này. hơn nữa cổ vũ một cách
mạnh mẽ cho tự do kinh tế của thị trường và tuyệt đối hóa vai trò tự điều tiết
của thị trường, những người cổ điển cũng chưa có thái độ khách quan và thực
tế đối với việc xem xét vai trò kinh tế của nhà nước - điều mà chính thực tế
phát triển của chủ nghĩa tư bản cũng khan thể phủ nhận được. Trong khi cống
hiến cho lý luận kinh tế học nhiều thành tựu xuất xắc, các nhà kinh tế học cổ
điển cũng để lại nhiều quan điểm tầm thường mà những người kế thừa họ
biến thành trào lưu tầm thường hoá và làm giảm giá trị của học thuyết cổ điển
nói chung.
III. Lý luận về thu nhập của C.Mác
3.1. Tiền lương và các chức năng cơ bản
a. Chức năng thuớc đo giá trị:
Như trên đã nêu, tiền lương là sự thể hiện bằng tiền của giá trị sức lao
động, được biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả của sức lao động. Vì vậy tiền
lương chính là thuớc đo giá trị sức lao động, được biểu hiện như giá trị lao
động cụ thể của việc làm được trả công. Nói cách khác, giá trị của việc làm
được phản ánh thông qua tiền lương. Nếu việc làm có giá trị càng cao thì mức
lương càng lớn.
b. Duy trì và phát triển sức lao động:
Theo Mác tiền lương là biểu hiện giá trị sức lao động, đó là giá trị của
những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức lao

động, theo điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ văn minh của mỗi nước. Giá
trị sức lao động bao hàm cả yếu tố lịch sử, vật chất và tinh thần. Ngoài ra, để
duy trì và phát triển sức lao động thì người lao động còn phải sinh con (như
sức lao động tiềm tàng), phải nuôi dưỡng con, cho nên những tư liệu sinh hoạt
cần thiết để sản xuất ra sức lao động phải gồm có cả những tư liệu sinh hoạt
14


cho con cái học. Theo họ, chức năng cơ bản của tiền lương còn là nhằm duy
trì và phát triển được sức lao động.
Giá trị sức lao động là điểm xuất phát trong mọi bài tính của sản xuất xã
hội nói chung và của người sử dụng lao động nói riêng. Giá trị sức lao động
mang tính khách quan, được quy định và điều tiết không theo ý muốn của một
các nhân nào, dù là người làm công hay người sử dụng lao động. Nó là kết
quả của sự mặc cả trên thị trường lao động giữa người có sức lao động “bán”
và người sử dụng sức lao động “mua”
c. Kích thích lao động và phát triển nguồn nhân lực
Tiền lương là bộ phận thu nhập chính đáng của người lao động nhằm
thoả mãn phần lớn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của người lao động.
Do vậy, các mức tiền lương là các đòn bẩy kinh tế rất quan trọng để định
hướng sự quan tâm và động cơ trong lao động của người lao động. Khi độ lớn
của tiền lương phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất của công ty nói chung và cá
nhân người lao động nói riêng thì họ sẽ quan tâm đến việc không ngừng nâng
cao năng suất và chất lượng công việc
d. Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển
Nâng cao hiệu quả lao động, năng suất lao động suy cho cùng là nguồn
gốc để tăng thu nhập, tăng khả năng thoả mãn các nhu cầu của người lao
động.
Khác với thị trường hàng hoá bình thường, cầu về lao động không phải
là cầu cho bản thân nó, mà là cầu dẫn xuất, tức là phụ thuộc vào khả năng tiêu

thụ của sản phẩm do lao động tạo ra và mức giá cả của hàng hoá này. Tổng
mức tiền lương quyết định tổng cầu về hàng hoá và dịch vụ cần thiết phải sản
xuất cũng như giá cả của nó. Do vậy, tiền lương phải dựa trên cơ sở tăng năng
suất lao động. Việc tăng nưang suất lao động luôn luôn dẫn đến sự tái phân bố
lao động. Theo qui luật thị trường, lao động sẽ tái phân bố vào các khu vực có
năng suất cao hơn để nhận được các mức lương cao hơn.
e. Chức năng xã hội của tiền lương
Cùng với việc kích thích không ngừng nâng cao năng suất lao động, tiền
lương còn là yếu tố kích thích việc hoàn thiện các mối quan hệ lao động.
Thực tế cho thấy, việc duy trì các mức tiền lương cao và tăng không ngừng
15


ch c thc hin trờn c s hi ho cỏc mi quan h lao ng trong cỏc
doanh nghip. Vic gn tin lng vi hiu qu ca ngi lao ng v n v
kinh t s thỳc y cỏc mi quan h hp tỏc, giỳp ln nhau, nõng cao hiu
qu cnh tranh ca cụng ty. Bờn cnh ú, to tin cho s phỏt trin ton
din ca con ngi v thỳc y xó hi phỏt trin theo hng dõn ch v vn
minh.
3.2. Các hình thức của lợi nhuận:
Nh ta đã biết giá trị thặng d và lợi nhuận không hoàn
toàn đồng nhất nhng giữa chúng đều có chung nguồn gốc
là từ lao động thặng d. Ngời tạo ra giá trị thặng d là công
nhân và ngời tìm ra giá trị thặng d lại là các nhà t bản. Giá
trị thặng d rất rõ ràng nhng nó đợc che đậy bởi lợi nhuận và
nó tồn tại trong xã hội t bản bởi các hình thái sau:
3.2.1. Lợi nhuận công nghiệp:
Về bản chất là phần giá trị do công nhân tạo ra và bị
nhà t bản chiếm không và phần giá trị này bán trên thị trờng
thu đợc một số tiền lời sau khi trừ đi chi phí sản xuất. Ngày

lao động của công nhân đợc chia làm hai phần: một phần
làm ra giá trị tơng ứng với tiền lơng và chi phí sản xuất,
phần còn lại tìm ra giá trị thặng d. Vì thèm muốn lợi nhuận
nên nhà t bản luôn tìm mọi cách tăng phần lao động thặng
d (tăng thời gian lao động, tăng năng suất lao động). Thời
gian lao động càng nhiều thì nhà t bản thu đợc lợi nhuận
càng lớn và lợi nhuận công nghiệp là hình thái gần nhất, dễ
thấy nhất với giá trị thặng d và lợi nhuận công nghiệp là
hình thức chung, lớn nhất của các loại lợi nhuận. Vì vậy lợi
nhuận công nghiệp đợc xem là động lực mạnh mẽ nhất để
phát triển sản xuất.
3.2.2. Lợi nhuận thơng nghiệp.
Trong lu thông, trao đổi không tạo ra giá trị nhng nhà t
bản thơng nghiệp làm nhiệm vụ lu thông hàng hoá một trong
16


những khâu quan trọng của sản xuất hàng hoá. Chính vì
vậy họ phải thu đợc lợi nhuận. Nhìn bề ngoài dờng nh lợi
nhuận thơng nghiệp là do lu thông mà có, nhng xét về bản
chất thì lợi nhuận thơng nghiệp là một phần giá trị thặng d
mà nhà t bản chủ nghĩa nhờng cho nhà t bản chủ nghĩa.
Nhà t bản chủ nghĩa phải nhờng cho nhà t bản chủ nghĩa
một phần giá trị thặng d của mình vì nó đảm đơng một
khâu quá trình sản xuất nó tiêu thụ đợc một khối lợng hàng
hoá lớn của t bản chủ nghĩa, làm cho nhà t bản chủ nghĩa
rảnh tay sản xuất tức là t bản chủ nghĩa góp phần sáng tạo
ra giá trị thặng d. Hơn nữa t bản chủ nghĩa kinh doanh
hàng hoá cho nên nó phải có lợi nhuận. Vậy nhà t bản nhờng
cho nhà t bản chủ nghĩa bằng cách nào? Đó là nhà t bản chủ

nghĩa mua hàng hoá của nhà t bản chủ nghĩa với giá thấp
hơn giá trị và bán lại trên thị trờng bằng giá trị, nghĩa là t
bản chủ nghĩa đã có lợi nhuận. Về thực chất đây là sự phân
chia giá trị thặng d giữa t bản chủ nghĩa - t bản chủ nghĩa
theo tỉ suất lợi nhuận bình quân, nghĩa là nhà t bản chủ
nghĩa hay t bản trọng nông chỉ hởng một phần lợi nhuận
theo tỉ suất lợi nhuận bình quân.
3.2.3. Lợi nhuận ngân hàng
Ngân hàng là cơ quan kinh doanh tiền tệ là ngời môi giới
giữa ngời đi vay và ngời cho vay. Do đo t bản ngân hàng là
t bản kinh doanh tiền tệ, t bản ngân hàng cũng tham gia
vào quá trình sản xuất. Vì vậy lợi nhuận ngân hàng là lợi
nhuận thu đợc do hoạt động và nó chính là lợi nhuận bình
quân. Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi trừ
đi những khoản chi phí cần thiêt về nghiệp vụ ngân hàng,
cộng với khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ hình
thành nên lợi nhuận ngân hàng.
3.2.4. T bản cho vay và lợi tức.

17


T bản cho vay đã xuất hiện từ lâu, sớm hơn cả t bản chủ
nghĩa, đó là t bản cho vay nặng lãi nhng t bản cho vay dới
chủ nghĩa t bản khác với t bản cho vay nặng lãi bởi vì t bản c
ho vay là một bộ phận của t bản chủ nghĩa đợc tách ra. Bởi
vì trong quá trình sản xuất thì luôn có một lợng tiền nhàn
rỗi cha đợc sử dụng và t bản cho vay đảm đơng vụ huy
động số tiền này để các nhà t bản khác cần tiền hơn vay,
thực hiện để sản xuất và họ thu đợc lợi nhuận gọi là lợi tức

cho vay. Lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân, mà nhà t
bản đi vay phải trả cho nhà t bản cho vay căn cứ vào món
tiền mà nhà t bản đi vay đa cho nhà t bản đi vay sử dụng
và sự thoả thuận của hai bên. Về nguồn gốc lợi tức là một
phần giá trị thặng d do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh
vực sản xuất, do đó lợi tức cũng hoạt động theo quy định tỉ
suất lợi tức.
Z' = . 100%

Z: Lợi tức
Z': tỉ suất lợi tức

Về đặc điểm quá trình cho vay đó là ngời sử dụng có
quyền sở hữu và quyền sử dụng tách rời nhau.
3.3. thu nhập Địa tô:
T bản không chỉ thống trị trong lĩnh vực công nghiệp
mà còn thấp trị cả lĩnh vực nông nghiệp. Bởi vì tiếng gọi
của lợi nhuận làm cho nhà t bản có mặt ở khắlợi nhuậnmọi
nơi, mọi lĩnh vực. Xét về bản chất nhà t bản kinh doanh
những thuế ruộng đất của địa chủ nó cũng thu đợc lợi
nhuận bình quân, còn một phần lợi nhuận siêu ngạch nằm
ngoài lợi nhuận bình quân phải trả cho địa chủ dới hình
thái địa tô t bản.
Vậy địa tô t bản xét về bản chất là một phần giá trị
thặng d siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình quân của nhà t bản
kinh doanh ruộng đất trả cho địa chủ dới hình thái địa tô.
18


Phần giá trị thặng d siêu ngạch này tơng đối ổn định lâu

dài nó không đợc bình quân hoá và độc quyền kinh doanh
ruộng đất mà lợi nhuận siêu ngạch phải chuyển hoá thành
địa tô t bản.
Khi đi sâu vào phân tích địa tô t bản C.Mác đã chia
thành: địa tô chênh lệch I, địa tô chênh lệch II và địa tô
tuyệt đối.
Theo C.Mác: địa tô chênh lệch I là địa tô thu đợc trên
những ruộng đất màu mỡ và tốt ruộng gần thị trờng. Địa tô
chênh lệch II là địa tô do thâm canh mà có còn địa tô
tuyệt đối là phần m siêu ngạch do cấu tạo hữu cơ trong nông
nghiệp thấp hơn trong công nghiệp.
Chính lao động với năng suất cao đó làm cho nông phẩm
thu đợc trên một diện tích canh tác tăng lên ,và giá cả sản
xuất chung của một đơn vị nông phẩm hạ xuống so với giá cả
sản xuất chung của nông phẩm,do đó mà có lợi nhuận siêu
ngạch .Sự hình thành của lợi nhuận siêu ngạch mà từ đó của
địa tô chênh lệch
Địa tô tuyệt đối.
Ngoài địa tô chênh lêch địa chủ cũn thu đợc địa tô
tuyệt đối trong khi cho thuê ruộng đất.
Phần trên, khi nghiên cứu địa tô chênh lệch chúng ta đó
giả định là ngời thuê đất xấu chỉ thu về chi phí sản xuất
cộng với lợi nhuận bỡnh quõn , và khụng tớnh đến việc phải
nộp địa tô.Thực ra không phải nh vậy, ngời thuê ruộng đất
dù là đất tốt hay xấu đều phải nộp địa tô cho chủ đất. Địa
tô mà các nhà t bản thuê ruộng đất nhất thiết phải nộp
_tuyệt đối phải nộp dù ruộng đất tốt ,xấu nh thế nào , là
địa tô tuyệt đối .Vậy các nhà t bản kinh doanh trên ruộng
đất lấy đâu mà nộp?


19


Dới chế độ t bản chủ nghĩa , nông nghiệp lạc hậu hơn
công nghiệp , cả về kinh tế lẫn kĩ thuật . Cấu tạo hữu cơ
của t bản trong nông nghiệp vỡ vậy thấp hơn trong công
nghiệp . Cho nên nếu tỉ suất giá trị thặng d tức là trỡnh độ
bóc lột ngang nhau từ một t bản ngang nhau sẽ sinh ra trong
công nghiệp nhiều giá trị thặng d hơn trong nông nghiệp .
Ví dụ : có hai t bản nông nghiệp và t bản công nghiệp
ngang nhau,đều là 100 chẳng hạn; cấu tạo hữu cơ trong t
bản công nghiệp là 80c + 20v (4/1) của t bản nông nghiệp là
60c + 40v (3/2) nếu tỉ suất giá trị thặng d đều là 100% thỡ
sản phẩm và giỏ trị thặng d sản xuất ra sẽ là.
Trong cụng nghiệp : 80c + 20v + 20m = 120
Trong nụng nghiệp : 60c + 40v + 40m = 140
Giá trị thặng d dôi ra trong nông nghiệp so với công
nghiệp là 20m.
Nếu là trong cụng nghiệp thỡ số giỏ trị thặng d này sẽ
đợc đem chia chung cho các nhà công nghiệp trong quỏ trỡnh
bỡnh quõn hoỏ tỉ suất lợi nhuận . Nhng trong nông nghiệp
điều đó không thể diễn ra đợc ,đó là chế độ độc quyền t
hữu ruộng đất không cho phép t bản tự do di chuyển vào
trong nông nghiệp , do đó ngăn cản việc hỡnh thành lợi nhuận
bỡnh quõn chung giữa nụng nghiệp và cụng nghiệp. Và nh
vậy ,phần giá trị thặng d dôi ra ngoài lợi nhuận bỡnh quõn
( Nhờ cấu tạo hữu cơ của t bản trong nông nghiệp thấp ,bóc
lột đợc của công nhân nông nghiệp nhiều hơn) đợc giữ lại
và dùng để nộp địa tô tuyệt đối cho địa chủ.
Vậy địa tô chênh lệch tuyệt đối cũng là một loại lợi

nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bỡnh quõn, hỡnh thành nờn

20


do cấu tạo hữu cơ của t bản trong nông nghiệp thấp hơn
trong công nghiệp mà bất cứ nhà t bản thuê ruộng đất nào
cũng phải nộp cho địa chủ .Nó là số chênh lệch giữa giá trị
nông phẩm và giá cả thực tế hỡnh thành nờn do cạnh tranh trờn
thị trờng .
Địa tô tuyệt đối gắn liền với độc quyền t hữu ruộng
đất .Chính độc quyền t hữu ruộng đất làm cho lợi nhuận
siờu ngạch hỡnh thành trong nụng nghiệp khụng bị đem chia
đi và làm cho lợi nhuận siêu ngạch đó phải chuyển hoá thành
địa tô.
Về địa tô tuyệt đối ,Mac nói :...bản chất của địa tô
tuyệt đối là :Những t bản ngang nhau của chúng sinh sản
những khối lợng giá trị thặng d khác nhau .
Tóm lại , nêú điều kiện sản xuất có lợi (điều kiện tự
nhiên hoặc điều kiện kinh tế do thâm canh đa lại ) là điều
kiện hỡnh thành địa tô chênh lệch và độc quyền kinh doanh
ruộng đất là nguyên nhân trực tiếp để tạo ra địa tô chênh
lệch ấy, thì điều kiện để hình thành địa tô tuyệt đối là
cấu tạo hữu cơ của t bản trong nông nghiệp thấp hơn trong
công nghiệp , và nguyên nhân trực tiếp đẻ ra địa tô tuyệt
đối là độc quyền t hữu về ruộng đất .
Song dù là địa tô chênh lệch hay địa tô tuyệt đối ,
nguồn gốc và bản chất của địa tô cũng chỉ là một bộ phận
của giá trị thặng d , do lao động không công của công nhân
làm thuê trong nông nghiệp tạo ra . Nói cách khác ,địa tô chỉ

là một hình thức đặc thù của giá trị thặng d mà thôi .
Địa tô cùng với lợi nhuận của nhà t bản nông nghiệp chính
là cái xác định tính qui định về mặt xã hội của t bản kinh

21


doanh trong nông nghiệp , nói lên t bản nông nghiệp là mối
quan hệ bóc lột , gắn liền với một quan hệ bóc lột khác của
địa chủ do quyền t hữu về ruộng đất sinh ra .
2.Bản chất của lợi nhuận:
Nh ta đã biết giá trị thặng d và lợi nhuận không hoàn
toàn đồng nhất nhng giữa chúng đều có nguồn gốc từ lao
động thặng d. Giá trị thặng d là phần lao động không công
của công nhân và bị nhà t bản chiếm đoạt còn lợi nhuận là
số tiền ra khi bán sản phẩm trên thị trờng so với tiền bỏ vào
sản xuất. Đứng về khía cạnh nào đó thì chính giá trị thặng
d tạo ra lợi nhuận nó biểu hiện sự bóc lột và chứng minh mâu
thuẫn của chủ nghĩa t bản một cách khá chính xác, khoa
học. Trớc Mác các nhà kinh tế đã hình dung ra giá trị thặng
d nhng họ cha có đủ lý luận để diễn đạt. Nhng đến C.Mác
ông đã xây dựng tơng đối hoàn chỉnh về phạm trù giá trị
thặng d và tìm ra nguồn gốc thực sự của lợi nhuận. Mặc dù
tồn tại ở hình thái nào thì lợi nhuận vẫn cần phản ánh quan
hệ bóc lột của chủ nghĩa t bản và đợc sinh ra từ trong quá
trình sản xuất.

22



KẾT LUẬN
Kinh tế chính trị tư sản cổ điển là một trường phái khoa học có nhiều
đóng góp to lớn cho lịch sử tư tưởng kinh tế chung của loài người . Trong
những thành tựu nổi bật của trường phái này phải kể tới trước hết là phương
pháp nghiên cứu khoa học, nhờ đó đã vạch rõ nhiều vấn đề có tính quy luật
nội tại của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Lý luận kinh tế cổ điển được phân tích trên cở sở một hệ thống các phạm
trù còn nguyên giá trị cho đến ngày nay. Chính việc phân tích sâu sắc các
phạm trù và quy luật đã giúp cho nhiều nhà kinh tế sau này phát triển lý luận
kinh tế đến đỉnh cao rực rỡ.
Tuy nhiên trường phái cổ điển cũng có những hạn chế nhất định. Đó là
tình chất hai mặt trong phương pháp luận nghiên cứu-vừa sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khoa học, khách quan để phân tích bản chất của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, lại vừa bị ràng buộc bởi tính chất phi
lịch sử trong việc đánh giá phương thức sản xuất này. Hơn nữa họ cổ vũ mạnh
mẽ cho tự do kinh tế, tuyệt đối hóa vai trò của thị trường trong việc phát triển
kinh tế. Bên cạnh những cống hiến vĩ đại cho khoa học kinh tế, các nhà kinh
tế cổ điển đã để lại nhiều quan điểm tầm thường mà những người kế tục họ
biến thành một trào lưu tầm thường hóa và làm giảm giá trị của học thuyết cổ
điển nói chung.

23


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Mai Quế Anh, Phạm Văn Chiến… Lịch sử tư tưởng kinh tế, Trường
Đại học Tổng hợp Hà Nội.
2. Phân viện Báo chí và Tuyên truyền-Lịch sử các học thuyết kinh tế,
NXBCTQG 2003
3. PGS.TS. Mai Ngọc Cường-GT Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB

Thống Kê 2001.
4. TS. An Như Hải-Tìm hiểu môn học Lịch sử các học thuyết kinh tế,
NXBLLCT 2006.
5. GS. I.Đ.Uđanxôp -Lịch sử tư tưởng kinh tế (phần thứ nhất, Tập 3),
NXB Khoa học xã hội Hà Nội 1974.

24



×