Tải bản đầy đủ (.doc) (112 trang)

Hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước đối với đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ tài chính qua Kho bạc Nhà nước tỉnh Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.5 KB, 112 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin kính gửi lời cám ơn chân thành tới : Phòng Tổ chức cán bộ, Phòng
Kế toán Ngân sách Nhà nước, Phòng Tổng hợp Kho bạc Nhà nước tỉnh Quảng
Bình, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã tạo điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn
thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn tới PGS.TS Lê Hùng Sơn đã trực tiếp
hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Thầy đã chỉ dạy cho tôi nhiều kiến thức và kỹ năng tổng hợp các lý luận, kiến thức
thực tiễn quản lý và phương pháp làm việc khoa học trong công tác và nghiên cứu,
các định hướng hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo và các đồng nghiệp đã giúp
đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2012

Tác giả luận văn

Hoàng Thị Tú Linh


MỤC LỤC
MỤC LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
KBNN

: Kho bạc Nhà nước



NSNN

: Ngân sách Nhà nước

NS

: Ngân sách

KSC

: Kiểm soát chi

ĐVSDNS

: Đơn vị sử dụng Ngân sách

KT-XH

: Kinh tế - xã hội

TCTC

: Tự chủ tài chính

CQHCNN

: Cơ quan hành chính nhà nước

CBCC


: Cán bộ công chức

KQKB

: Kho quỹ Kho bạc


DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
BẢNG
Bảng 2.3: Kết quả thực hiện cơ chế tự chủ của các cơ quan hành chính nhà nước
tại tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2007 - 2011...........Error: Reference source not found
Bảng 2.4: Tình hình chi thường xuyên NSNN qua KBNN Quảng Bình...........Error:
Reference source not found
giai đoạn 2006 - 2011...............................................Error: Reference source not found
Bảng 2.5: Kết quả KSC thường xuyên NSNN qua KBNN Quảng Bình giai đoạn
năm 2006 đến 2011...................................................Error: Reference source not found

HÌNH


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tài chính công là 1 trong 4 mục tiêu quan trọng của chương trình
tổng thể “Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010” mà Thủ tướng
Chính phủ đã phê duyệt theo Quyết định số 136/2001/QĐ- Ttg ngày 17-9-2001.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 130/200005/NĐ-CP và 43/2005/NĐ-CP , quy
định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý

hành chính đối với các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp. Công tác tự chủ này
được thực hiện dưới sự kiểm soát, kiểm tra của các cơ quan có thẩm quyền mà
trong đó quy trình kiểm soát chi (KSC) ngân sách nhà nước (NSNN) qua Kho bạc
Nhà nước (KBNN) có một vai trò hết sức quan trọng.
Các cơ quan hành chính nhà nước (CQHCNN) và đơn vị sự nghiệp chiếm số
lượng lớn trong hệ thống các cơ quan nhà nước và có chức năng quan trọng quản lý,
điều hành trên tất cả các lĩnh vực đời sống KT – XH. Do đó, việc kiểm soát chặt chẽ
các khoản chi NSNN đối với các đơn vị này luôn là công việc hết sức cần thiết
nhằm đảm bảo sự phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính một cách đúng mục
đích và có hiệu quả, giúp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Sau gần 7
năm triển khai thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP và Nghị định số
43/2005/NĐ-CP, công tác KSC NSNN qua KBNN của nước ta nói chung và tỉnh
Quảng Bình nói riêng đã có những chuyển biến tích cực, cơ chế KSC NSNN qua
KBNN đã từng bước được hoàn thiện theo hướng hiệu quả, ngày một chặt chẽ và
đúng mục đích hơn cả về quy mô và chất lượng. Kết quả của thực hiện cơ chế KSC
đã góp phần quan trọng trong việc sử dụng NSNN ngày càng hiệu quả hơn.
Mặc dù vậy, việc KSC NSNN qua KBNN đối với đơn vị thực hiện cơ chế tự
chủ tài chính (TCTC) còn những tồn tại, hạn chế, bất cập như: công tác KSC
ngân sách chưa được coi trọng đúng mức, cơ chế KSC NSNN trong nhiều trường
hợp còn bị động và nhiều vấn đề cấp bách không được đáp ứng kịp thời hoặc
chưa có quan điểm xử lý thích hợp, lúng túng. Công tác điều hành NSNN của
các cấp chính quyền đôi lúc còn bất cập; năng lực KSC NSNN qua KBNN đối


2
với các đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính chưa đáp ứng với xu thế đổi
mới. Vì vậy, KSC NSNN qua KBNN đối với các đơn vị thực hiện cơ chế TCTC
cần được hoàn thiện một cách khoa học, có hệ thống.
Xuất phát từ những lý do trên tác giả lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện công tác
kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà nước đối với đơn vị thực hiện cơ chế

tự chủ tài chính qua Kho bạc Nhà nước tỉnh Quảng Bình” để đưa ra những giải
pháp nhằm góp phần giải quyết những vấn đề hạn chế, yếu kém trong công tác KSC
chi đối với đơn vị TCTC qua KBNN hiện nay.

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng và những hạn chế của công
tác KSC qua KBNN đối với các đơn vị thực hiện cơ chế TCTC trong thời gian qua,
cũng như yêu cầu đổi mới của công tác quản lý NSNN trong thời gian tới nhằm đưa ra
các giải pháp hoàn thiện công tác KSC qua KBNN đối với các đơn vị thực hiện cơ chế
TCTC, đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa công tác quản lý, điều hành NSNN, hoàn
thiện quá trình cải cách tài chính công, phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận và thực tiễn của công
tác KSC thường xuyên NSNN qua KBNN.
Cơ chế tự chủ tài chính được áp dụng đối với các CQHCNN và các đơn vị sự
nghiệp công lập. Nhưng trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ đề cập
đến công tác KSC NSNN đối với các CQHCNN thực hiện cơ chế TCTC qua KBNN
Quảng Bình, bao gồm các khoản chi thường xuyên NSNN qua KBNN trên địa bàn
tỉnh Quảng Bình (số liệu chi NSNN từ năm 2006 đến 2011).

4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng các phương pháp luận cơ bản kết hợp các phương pháp điều
tra, quan sát trực tiếp, thống kê, so sánh, phân tích, đối chiếu và tổng hợp.

5. Những đóng góp của luận văn
Đề tài đã đi sâu nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân còn tồn đọng những
hạn chế công tác KSC NSNN qua KBNN đối với CQHCNN thực hiện cơ chế



3
TCTC theo Nghị định 130/2005/NĐ-CP trên địa bàn tỉnh Quảng Bình trên cơ sở
tiếp cận công tác KSC theo yêu cầu đổi mới cải cách tài chính công và kiểm soát chi
tiêu công của các nước tiên tiến. Từ đó đề tài đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện
công tác KSC thường xuyên đối với các CQHCNN thực hiện cơ chế TCTC qua
KBNN theo hướng hiệu quả, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính trong lĩnh vực
quản lý NSNN, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các đơn vị sử dụng ngân sách
(ĐVSDNS), đồng thời phù hợp xu thế hội nhập quốc tế.

6. Tổng quan về đề tài nghiên cứu
KSC NSNN đối với CQHCNN thực hiện cơ chế TCTC qua KBNN là một đề
tài mang tính thời sự trong giai đoạn cải cách tài chính công. Trong thời gian qua,
có một đề tài nghiên cứu về công tác KSC thường xuyên NSNN đối với các
CQHCNN thực hiện TCTC qua KBNN là đề án nghiên cứu cấp ngành của Quách
Hữu Thoại, “Hoàn thiện công tác kiểm soát chi Ngân sách Nhà nước qua Kho bạc
Nhà nước Cần Thơ đối với các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện cơ chế tự
chủ về tài chính”. Đề án đã đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng và những hạn chế
của công tác KSC thường xuyên qua KBNN Cần Thơ đối với các CQHCNN thực
hiện cơ chế TCTC trong thời gian qua; Từ đó, rút ra những nguyên nhân và đề xuất
phương hướng, giải pháp chủ yếu cùng các điều kiện thực hiện nhằm tăng cường
KSC thường xuyên qua Kho bạc Nhà nước Cần Thơ đối với các CQHCNN thực
hiện cơ chế TCTC.
Tôi cho rằng đó là tư liệu quý báu cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên,
tại Quảng Bình chưa có công trình nghiên cứu nào về công tác KSC NSNN đối
với CQHCNN thực hiện cơ chế TCTC qua KBNN theo định hướng đổi mới
công tác kiểm soát chi tiêu công. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài luận văn nêu
trên nhằm đi sâu vào nghiên cứu để làm rõ những bất cập trong cơ chế chính
sách về quản lý NSNN nói chung và cơ chế KSC NSNN đối với các CQHCNN
thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính tại tỉnh Quảng Bình hiện nay. Trên cơ sở
đó, đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác KSC NSNN qua

KBNN tỉnh Quảng Bình.


4

7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về công tác kiểm soát chi ngân sách nhà nước đối
với cơ quan hành chính nhà nước thực hiện cơ chế tự chủ về tài chính qua Kho bạc
Nhà nước
Chương 2: Thực trạng công tác kiểm soát chi thường xuyên ngân sách nhà
nước đối với các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện cơ chế tự chủ tài chính qua
Kho bạc Nhà nước Quảng Bình
Chương 3: Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác kiểm soát chi thường xuyên
ngân sách nhà nước đối với các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện cơ chế tự
chủ tài chính qua Kho bạc Nhà nước Quảng Bình


5

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CHI
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CƠ QUAN HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN CƠ CHẾ TỰ CHỦ
TÀI CHÍNH QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC
1.1. Lý luận chung về kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua Kho
bạc Nhà nước
1.1.1 Chi ngân sách nhà nước và quản lý chi ngân sách nhà nước
1.1.1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của ngân sách nhà nước
* Khái niệm:

Lịch sử nhân loại đã cho thấy, khi xuất hiện Nhà nước thì Nhà nước đó phải có
nguồn lực để bảo vệ chính thể nhà nước và đảm bảo cho các mặt hoạt động phát triển
của mình. Một trong những nguồn lực quan trọng nhất là NSNN. Do đó khi xuất hiện
Nhà nước tất yếu phải có NSNN. NSNN phục vụ cho giai cấp thống trị. Nó là công cụ
để giai cấp thống trị bảo vệ nhà nước, đảm bảo hoạt động bộ máy nhà nước, đồng thời
là công cụ để hoàn thiện quản lý nhà nước của mình.
Về bản chất NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa nhà nước và xã hội
phát sinh trong quá trình nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm
bảo yêu cầu thực hiện các chức năng kiểm soát và điều hành nền KT-XH của mình.
Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống KTXH ở mọi quốc gia. Song quan niệm về NSNN lại chưa thống nhất, người ta đã đưa
ra nhiều định nghĩa về NSNN tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu.
Các nhà kinh tế Nga quan niệm: NSNN là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền
trong một giai đoạn nhất định của quốc gia. Luật NSNN năm 2002 cũng có ghi:
NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước trong dự toán đã được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo
thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Thu NSNN bao gồm các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí; các khoản thu từ hoạt


6
động kinh tế của nhà nước; các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân; các
khoản viện trợ; các khoản thu khác theo quy định của pháp Luật.
Chi NSNN bao gồm các khoản chi phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng an
ninh, bảo đảm hoạt động của bộ máy nhà nước; chi trả nợ của nhà nước; chi viện trợ
và các khoản chi khác theo quy định của pháp Luật.
* Đặc điểm:
NSNN có những đặc điểm sau:
Thứ nhất là có tính pháp lý cao: việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN luôn gắn
với quyền lực của nhà nước và được nhà nước tiến hành trên cơ sở luật định. Đặc
điểm này thể hiện tính pháp lý tối cao của NSNN. Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung

hay bãi bỏ một khoản thu, chi nào của NSNN cũng chỉ có một cơ quan quyền lực
cao nhất của Nhà nước - Quốc hội quyết định. Mặt khác tính quyền lực của Nhà
nước đối với NSNN còn thể hiện ở chỗ Chính phủ không thể thực hiện thu, chi NS
một cách tuỳ tiện mà phải dựa trên cơ sở pháp lý đã được xác định trong các văn
bản pháp luật do cơ quan quyền lực của nhà nước ban hành.
Thứ hai là có hai mặt thu và chi: giữ vai trò quyết định, có ý nghĩa lớn trong
việc nâng cao nguồn thu của NSNN
Thứ ba là NSNN gồm nhiều quỹ khác nhau có các chức năng, nhiềm vụ,
quyền hạn riêng, góp phần thu – chi có hiệu quả hơn, phục vụ lợi ích chung của nền
kinh tế.
* Vai trò:
NSNN có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động KT-XH, an ninh quốc
phòng và đối ngoại của đất nước. NSNN là công cụ tập trung quyền lực tài chính
đảm bảo các khoản chi theo nguyên tắc cân đối tài chính tích cực và là công cụ điều
tiết vĩ mô nền kinh tế.

1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và phân loại về chi ngân sách nhà nước
* Khái niệm:
Chi NSNN là quá trình phân phối, sử dụng quỹ NSNN theo những nguyên tắc
nhất định cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
*Đặc điểm chi NSNN:


7
Về thực chất, chi NSNN chính là việc cung cấp các phương tiện tài chính cho việc
thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước. Cho nên, chi NSNN có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, chi NS luôn gắn với nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội mà Nhà
nước phải đảm nhận. Mức độ và phạm vi chi tiêu NSNN phụ thuộc vào nhiệm vụ
của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Thứ hai, tính hiệu quả của các khoản chi NSNN được thể hiện ở tầm vĩ mô và

mang tính toàn diện cả về KT-XH, chính trị và ngoại giao.
Thứ ba, các khoản chi NSNN đều là các khoản cấp phát không hoàn trả trực tiếp.
Thứ tư, chi NSNN thường liên quan đến phát triển KT-XH, tạo việc làm mới,
thu nhập, giá cả và lạm pháp,...
Do các đặc điểm trên nên chi NSNN cần phải được kiểm tra, kiểm soát chặt
chẽ, chính xác.
* Phân loại chi NSNN:
Phân loại các khoản chi NSNN là việc sắp xếp các khoản chi NSNN theo
những tiêu thức, tiêu chí nhất định vào các nhóm, các loại chi. Có nhiều tiêu thức để
phân loại các khoản chi NSNN, tuy nhiên phân loại theo yếu tố thì chi NSNN được
phân thành:
Thứ nhất là chi thường xuyên bao gồm: các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào
tạo, y tế, xã hội, văn hoá thông tin, văn học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và
công nghệ, các sự nghiệp xã hội khác; các hoạt động sự nghiệp kinh tế; quốc phòng, an
ninh và trật tự an toàn xã hội; hoạt động của các cơ quan Nhà nước; tổ chức chính trị xã hội; trợ giá theo chính sách của Nhà nước; Chương trình mục tiêu quốc gia, dự án
của Nhà nước; hỗ trợ Quỹ Bảo hiểm xã hội; trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã
hội; hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội
- nghề nghiệp; các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật.
Thứ hai là chi đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư xây dựng các công trình kết
cấu hạ tầng KT-XH không có khả năng thu hồi vốn; đầu tư và hỗ trợ cho các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tài chính của Nhà nước; góp vốn cổ phần,
liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà


8
nước; chi bổ sung dự trữ Nhà nước; chi đầu tư phát triển thuộc các Chương trình
mục tiêu quốc gia, dự án Nhà nước; các khoản chi đầu tư phát triển khác theo quy
định của pháp luật.
Thứ ba là chi khác bao gồm: chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ
vay, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, chi bổ sung cho ngân sách cấp dưới...


1.1.1.3 Quản lý chi ngân sách nhà nước
* Khái niệm quản lý:
Quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các mục tiêu đã định
trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Đặc điểm của
quản lý là tác động có hướng đích, có mục tiêu xác định; thể hiện mối quan hệ giữa
hai bộ phận là chủ thể quản lý và đối tượng quản lý.
Hoạt động quản lý bao gồm các chức năng cơ bản: dự báo, hoạch định, tổ chức,
điều hành, kiểm tra kiểm soát và đánh giá. Trong đó, kiểm tra kiểm soát là chức năng
quan trọng, nó được thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình quản lý. Kiểm tra là
việc xem xét để đánh giá, phân loại, đo lường các sai lệch nảy sinh trong quá trình
hoạt động so với mục tiêu, kế hoạch đã định để điều chỉnh các mục tiêu hay định
hướng cho các hoạt động. Nếu nội dung kiểm tra cần thời gian dài, mức độ chi tiết,
phạm vi rộng, tính chất phức tạp và thường gắn liền với xử lý thì được gọi là thanh
tra. Như vậy giữa kiểm tra và thanh tra không có một ranh giới rõ ràng.
* Khái niệm quản lý chi NSNN:
Quản lý chi NS là quá trình Nhà nước vận dụng các quy luật khách quan, sử dụng
hệ thống các phương pháp tác động đến hoạt động chi NSNN nhằm đạt được hiệu quả
cao nhất trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ do Nhà nước đảm nhận.
Đối tượng của quản lý chi NSNN là toàn bộ các khoản chi của NSNN được bố trí
để phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước trong từng giai đoạn nhất định
Tác động của quản lý chi NSNN mang tính tổng hợp, hệ thống, bao gồm nhiều
biện pháp khác nhau được biểu hiện bằng cơ chế quản lý.
Cơ sở của quản lý chi NSNN là sự vận dụng các quy luật KT-XH phù hợp với


9
thực tiễn khách quan.
Mục tiêu của việc quản lý chi NSNN là với một lượng tiền nhất định phải đem
lại kết quả tốt nhất về KT-XH; đồng thời giải quyết hài hòa mối quan hệ về lợi ích

kinh tế giữa một bên là Nhà nước, và một bên là các chủ thể khác trong xã hội.
*Đặc điểm của quản lý chi NSNN:
Trên thế giới, cơ chế quản lý chi NSNN ở mỗi nước là khác nhau. Nhưng có
thể thấy cơ chế quản lý chi NSNN có một số đặc điểm chủ yếu sau:
+ Chi NSNN được quản lý bằng luật pháp và theo dự toán. Đây là đặc điểm
quan trọng nhất. Nhìn nhận và đánh giá đúng đặc điểm này sẽ giúp Nhà nước và các
cơ quan chức năng đưa ra các cơ chế quản lý, điều hành chi NSNN đúng luật, đảm
bảo có hiệu quả và công khai, minh bạch. Và mọi quốc gia trên thế giới đều quản lý
chi NSNN thông qua luật.
+ Quản lý chi NSNN sử dụng tổng hợp các biện pháp nhưng biện pháp quan
trọng nhất là biện pháp tổ chức hành chính. Biện pháp này tác động vào đối tượng
quản lý theo hai hướng:
Chủ thể quản lý ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định tính chất, mục
tiêu, quy mô, cơ cấu tổ chức, điều kiện thành lập, mối quan hệ trong và ngoài tổ chức,…
Chủ thể quản lý đưa ra các quyết định quản lý bắt buộc cấp dưới và cơ quan
thuộc phạm vi điều chỉnh phải thực hiện những nhiệm vụ nhất định.
Đặc trưng của phương pháp quản lý hành chính là cưỡng chế đơn phương của
chủ thể quản lý. Đặc điểm này thể hiện rõ nét trong cơ chế quản lý chi NSNN ở Việt
Nam. NSNN Việt Nam là NS thống nhất từ cấp trung ương tới địa phương, có phân
công, phân cấp quản lý, gắn quyền hạn với trách nhiệm. Trung ương thống nhất việc
ban hành cơ chế, chính sách về quản lý từ khâu lập dự toán, chấp hành dự toán,
hạch toán và quyết toán các khoản chi NSNN.
Hiệu quả, chất lượng công tác quản lý chi NSNN khó đo được bằng các chỉ
tiêu định lượng. Hiệu quả, chất lượng quản lý chi NSNN không đồng nghĩa với hiệu
quả chi NSNN. Nếu hiệu quả so sánh kết quả đạt được với số tiền mà Nhà nước bỏ
ra, thì hiệu quả công tác quản lý NSNN được thể hiện bằng việc so sánh giữa kết


10
quả công tác quản lý chi NSNN thu dc với số chi phí mà Nhà nước đã chi cho công

tác quản lý chi NSNN.
* Nguyên tắc quản lý chi NSNN
Quản lý chi NSNN phải tuân thủ các nguyên tắc trong chu trình quản lý chi
NSNN, từ khâu lập dự toán cho tới chấp hành dự toán chi và quyết toán chi NSNN,
cụ thể như sau:
+ Đối với khâu lập dự toán chi NSNN: Dự toán chi NSNN phải được xây
dựng dựa trên các căn cứ khách quan như chiến lược, kế hoạch, mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của Nhà nước, hệ thống các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn và định
mức chi tiêu hiện hành, từ kết quả phân tích việc chấp hành dự toán chi của những
năm trước …; việc xây dựng dự toán phải đảm bảo chi tiết theo mục lục NSNN hiện
hành và phải sát với nhu cầu thực tế của các đơn vị thụ hưởng NS.
+ Đối với khâu chấp hành dự toán chi NSNN: NSNN phải đảm bảo đáp ứng
đầy đủ, kịp thời mọi nhu cầu chi tiêu của các đơn vị thụ hưởng ngân sách theo dự
toán đã được phê duyệt; mọi khoản chi NSNN đều được thanh toán trực tiếp qua
KBNN cho các cơ quan, đơn vị thụ hưởng và các nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ
cho Nhà nước; mọi khoản chi NSNN đều phải được KBNN kiểm soát trước khi
thanh toán, chi trả cho các đơn vị; phân định rõ trách nhiệm của người chuẩn chi –
thủ trưởng cơ quan đơn vị với KBNN – kế toán của Nhà nước.
+ Đối với khâu quyết toán NSNN: Phản ánh trung thực, đầy đủ và chính xác
mọi khoản chi của Nhà nước (chi tiết theo mục lục NSNN) theo quy định của Luật
NSNN; đảm bảo đúng trình tự, thủ tục và thời gian theo luật định; phải được kiểm
soát trước khi Quốc hội phê chuẩn

1.1.2. Kiểm soát chi ngân sách nhà nước
1.1.2.1 Khái niệm về kiểm soát trong quản lý
Kiểm soát là công việc nhằm soát xét lại những quy định, những quá trình thực thi
các quyết định quản lý được thể hiện trên các nghiệp vụ để nắm bắt, điều hành và quản
lý. Nói một cách chung nhất, kiểm soát được hiểu là tổng hợp những phương sách để
nắm bắt và điều hành đối tượng quản lý. Như vậy có thể hiểu cấp trên kiểm soát cấp



11
dưới thông qua chính sách hoặc biện pháp cụ thể; nội bộ đơn vị tự kiểm soát; cơ quan
quản lý nhà nước kiểm soát việc tuân thủ pháp luật đối với đối tượng quản lý theo quy
định.
Quá trình quản lý, kiểm soát phải tuân thủ theo ba bước cơ bản:
Thứ nhất, là xây dựng hệ thống tiêu chuẩn dựa trên cơ sở của những mục tiêu quản lý.
Thứ hai, là đo lường việc thực hiện theo những tiêu chuẩn đã xây dựng, ở
bước này người quản lý sẽ nhận được những thông tin về đối tượng quản lý.
Thứ ba, là dựa trên những thông tin thu thập được ở bước hai, người quản lý
đánh giá, điều chỉnh các sai lệch trong thực hiện.
Tóm lại, kiểm soát là nhằm rà soát các vấn đề hiện tại và quá khứ để hướng tới
một tương lai tốt đẹp hơn. Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước có chức năng tạo lập
và bảo đảm môi trường kinh doanh ổn định, hướng dẫn và tạo điều kiện cho mọi thành
phần kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa, tổ chức sắp xếp lại các
đơn vị kinh tế và hệ thống quản lý, định hướng phát triển kinh tế thông qua điều tiết vĩ
mô. Với những chức năng đó, đối tượng quản lý rất rộng: từ các doanh nghiệp đến các
ngành, lĩnh vực khác nhau và trên nguyên tắc tất cả các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã
hội,...đều thuộc đối tượng quản lý nhà nước. Với cương vị quản lý vĩ mô, nhà nước
cũng thực hiện chức năng kiểm tra, thanh tra của mình nhằm kiểm soát toàn bộ hoạt
động KT-XH, ngăn ngừa, phát hiện và xử lý các hiện tượng vi phạm pháp luật, thiết lập
các trật tự kỷ cương, bảo đảm thực hiện các chương trình, mục tiêu đề ra.

1.1.2.2. Khái niệm và phân loại kiểm soát chi ngân sách nhà nước
*Khái niệm
KSC NSNN là quá trình các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện thẩm
định, kiểm tra kiểm soát các khoản chi NSNN theo các chính sách, chế độ , tiêu
chuẩn và định mức chi tiêu do Nhà nước quy định dựa trên cơ sở những nguyên tắc,
hình thức và phương pháp quản lý tài chính trong từng thời kỳ.
Đối tượng của KSC NSNN: là toàn bộ các khoản chi của NSNN được bố trí để

phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong từng thời
kỳ lịch sử nhất định.


12

*Phân loại kiểm soát chi NSNN
Có rất nhiều cách phân loại KSC NSNN, nếu phân loại theo thời gian thì có
các hình thức KSC NSNN sau:
Kiểm soát trước khi chi hay còn gọi là kiểm soát phòng ngừa là loại hình kiểm soát
bao gồm những biện pháp phòng ngừa được áp dụng trước khi một nghiệp vụ phát sinh,
nhằm đề phòng rủi ro, loại trừ các sai phạm trước khi chúng xuất hiện.
Kiểm soát trong quá trình chi là hoạt động kiểm soát được tiến hành ngay
trong quá trình tác nghiệp nhằm phát hiện, ngăn ngừa sai lầm có thể xảy ra.
Kiểm soát sau khi đã chi: mặc dù chức năng kiểm tra, phê duyệt báo cáo quyết
toán thuộc về cơ quan tài chính, nhưng về phía Kho bạc cũng cần phải đôn đốc,
nhắc nhở các ĐVSDNS quyết toán các khoản chi đúng chế độ, đúng thời gian quy
định. Thực hiện xác nhận và nhận xét, làm căn cứ để cơ quan tài chính xét duyệt
một cách nhanh chóng và kịp thời.

1.1.2.3. Sự cần thiết phải thực hiện kiểm soát chi ngân sách nhà nước
Thứ nhất, do yêu cầu của công cuộc đổi mới: Đổi mới về cơ chế quản lý tài
chính nói chung và đổi mới cơ chế quản lý NSNN nói riêng, đòi hỏi mọi khoản chi
của NSNN phải đảm bảo chi đúng mục đích, tiết kiệm và hiệu quả. Trong điều kiện
hiện nay, khi khả năng của NSNN còn khá hạn hẹp mà nhu cầu chi phát triển kinh tế
xã hội ngày càng tăng thì việc kiểm soát chặt chẽ các khoản chi NSNN thực sự là
mối quan tâm hàng đầu của Nhà nước, các ngành và các cấp. Thực hiện tốt công tác
này có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện tiết kiệm chống lãng phí nhằm tập
trung mọi nguồn lực tài chính để phát triển KT-XH, góp phần kiềm chế lạm phát, ổn
định tiền tệ và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia; đồng thời, cũng góp phần

nâng cao trách nhiệm cũng như phát huy được vai trò của các ngành các cấp, các cơ
quan, đơn vị có liên quan đến công tác quản lý và điều hành NSNN. Đặc biệt là hệ
thống KBNN sẽ kiểm soát, thanh toán trực tiếp từng khoản chi NSNN cho các đối
tượng sử dụng đúng chức năng nhiệm vụ đã được Nhà nước giao, góp phần lập lại
kỉ cương, kỉ luật tài chính.


13
Thứ hai, do hạn chế từ chính bản thân cơ chế quản lý chi NSNN: cơ chế quản
lý chi NSNN tuy đã thường xuyên được sửa đổi hoàn thiện, nhưng vẫn chỉ quy định
được những vấn đề chung nhất mang tính nguyên tắc, dẫn tới không thể bao quát
hết tất cả các hiện tượng phát sinh trong quá trình thực hiện quản lý kiểm soát chi
NSNN. Mặt khác, cùng với sự phát triển không ngừng của các hoạt động kinh tế xã hội, các nghiệp vụ chi NSNN cũng ngày càng đa dạng và phức tạp hơn. Do vậy
cơ chế quản chi NSNN nhiều khi không theo kịp với biến động của hoạt động chi
NSNN. Từ đó, một số đơn vị, cá nhân tìm cách lợi dụng, khai thác những kẽ hở của
cơ chế nhằm tham ô, trục lợi, tư túi gây lãng phí tài sản và công quỹ Nhà nước. Từ
thực tế đó, đòi hỏi phải có các cơ quan có thẩm quyền, thực hiện kiểm trả, giám sát
quá trình sử dụng kinh phí NSNN của các cơ quan, đơn vị nhằm ngăn chặn tiêu cực,
phát hiện những điểm chưa phù hợp trong cơ chế quản lý để từ đó kiến nghị với các
ngành các cấp sửa đổi, bổ sung kịp thời để cơ chế quản lý và KSC NSNN ngày càng
được hoàn thiện, phù hợp và chặt chẽ hơn.
Thứ ba, do ý thức của các đơn vị sử dụng kinh phí NSNN: Các đơn vị thụ
hưởng NSNN thưởng có tư tưởng tìm mọi cách để sử dụng hết số kinh phí đã được
cấp, không quan tâm tới việc chấp hành đúng mục đích, đối tượng và dự toán được
duyệt. Các đơn vị thường lập hồ sơ, chứng từ thanh toán sai chế độ, chính sách như
không có trong dự toán chi NSNN đã được duyệt hoặc không đúng tiêu chuẩn định
mức chi tiêu của Nhà nước; thiếu hồ sơ, chứng từ có liên quan,…. Vì vậy, cần thiết
phải có cơ quan chức năng có thẩm quyền để thực hiện kiểm tra kiểm soát đối với
các khoản chi của cơ quan, đơn vị có trong dự toán hay không; có đúng mục đích,
đối tượng đã được duyệt không; có đúng chế độ, định mức, tiêu chuẩn chi tiêu

không; có đầy đủ hồ sơ chứng từ thanh toán hay không…. Qua đó, phát hiện và
chấn chỉnh kịp thời các gian lận, sai phạm, sai sót và lãng phí trong việc sử dụng
NSNN của các đơn vị, đảm bảo mọi khoản chi NSNN được sử dụng đúng mục đích,
tiết kiệm và có hiệu quả.
Thứ tư, do tính đặc thù của các khoản chi NSNN: Các khoản chi của NSNN
thường mang tính chất không hoàn trả trực tiếp như các đơn vị được NSNN cấp


14
phát kinh phí sẽ không phải hoàn trả trực tiếp cho Nhà nước về số kinh phí đã sử
dụng; cái mà họ phải hoàn trả cho Nhà nước chính là kết quả công việc đã được
giao. Tuy nhiên, việc dùng các chỉ tiêu định lượng để đánh giá kết quả công việc
trong một số trường hợp sẽ gặp khó khăn và không toàn diện. Do vậy, cần thiết phải
có một cơ quan nhà nước có chức năng, nhiệm vụ để thực hiện kiểm tra kiểm soát
các khoản chi của NSNN để đảm bảo cho việc chi trả của Nhà nước là phù hợp với
các nhiệm vụ đã giao.
Thứ năm, do yêu cầu của mở cửa hội nhập: theo kinh nghiệm của các nước
trên thế giới va khuyến nghị của Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), thì việc kiểm tra, kiểm
soát và thực hiện chi trả trực tiếp các khoản chi NSNN từ KBNN đến từng đối
tượng sử dụng là rất cần thiết, để đảm bảo yêu cầu, kỉ cương quản lý tài chinh và sử
dụng kinh phí NSNN đúng mục đích, có hiệu quả.

1.1.2.4. Trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan, đơn vị trong việc quản
lý, cấp phát và thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước
Cơ quan tài chính các cấp có trách nhiệm, quyền hạn trong quản lý, cấp phát
các khoản chi NSNN như sau: thẩm tra việc phân bổ dự toán NSNN cho các đơn vị
sử dụng NSNN. Trường hợp việc phân bổ không phù hợp với nội dung trong dự
toán do cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao, không đúng chính sách, chế độ, tiêu
chuẩn, định mức, thì yêu cầu cơ quan phân bổ NS điều chỉnh lại; bố trí nguồn để
đáp ứng nhu cầu chi, trường hợp nhu cầu chi vượt quá khả năng thu và huy động

của quỹ NSNN, thì cơ quan tài chính phải chủ động thực hiện các biện pháp vay
tạm thời theo quy định để bảo đảm nguồn; kiểm tra, giám sát việc thực hiện chi tiêu
và sử dụng NS ở các ĐVSDNS.
Cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương có trách nhiệm: hướng dẫn,
theo dõi, kiểm tra việc sử dụng NSNN thuộc ngành, lĩnh vực do cơ quan quản lý và
của các đơn vị trực thuộc; định kỳ báo cáo tình hình thực hiện chi NSNN và các báo
cáo tài chính khác theo chế độ quy định.
Thủ trưởng các ĐVSDNS có trách nhiệm: Quyết định chi theo chế độ, tiêu chuẩn và mức
chi trong phạm vi dự toán chi NSNN được cấp có thẩm quyền giao; Quản lý, sử dụng NSNN và


15
tài sản Nhà nước theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi NSNN; đúng mục đích, tiết kiệm,
có hiệu quả. Trường hợp vi phạm, tuỳ theo tính chất và mức độ, sẽ bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Kho bạc Nhà nước có trách nhiệm kiểm soát các hồ sơ, chứng từ chi và thực hiện chi trả,
thanh toán kịp thời các khoản chi NSNN đủ điều kiện thanh toán theo quy định; KBNN có
quyền tạm đình chỉ, từ chối chi trả, thanh toán và thông báo cho ĐVSDNS biết, đồng thời, chịu
trách nhiệm về quyết định của mình trong các trường hợp sau: Chi không đúng mục đích, đối
tượng theo dự toán được duyệt; chi không đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi do cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quy định.

1.1.3 Kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước
1.1.3.1 Tổ chức bộ máy và chức năng Kho bạc Nhà nước
KSC NSNN là một chức năng, nhiệm vụ quan trọng của KBNN. Để thực hiện
công tác KSC NSNN qua KBNN, tổ chức bộ máy KBNN được thống nhất từ Trung
ương đến địa phương và thể hiện ở hình 1.1.

KBNN


Các Vụ
chức năng
KBNN tỉnh, thành
phố
KBNN quận,
huyện
Hình 1.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy của Kho bạc Nhà nước
Theo sơ đồ 1.1, bộ máy của KBNN được tổ chức thành 3 cấp tại KBNN
Tại KBNN tổ chức quản lý Quỹ ngân sách trung ương; ban hành các văn bản chế


16
độ hướng dẫn công tác KSC thuộc trách nhiệm và quyền hạn; tổng hợp, kiểm tra và giám
sát tình hình quản lý, KSC NSNN của các cấp chính quyền địa phương.

KBNN tỉnh, thành phố thực hiện kiểm soát và thanh toán, chi trả các khoản
chi của NS tỉnh, thành phố và các khoản chi NS Trung ương theo ủy quyền hoặc
các nhiệm vụ chi do KBNN thông báo; hướng dẫn, tổng hợp, kiểm tra công tác
KSC NSNN của KBNN các huyện trực thuộc.
KBNN quận, huyện thực hiện kiểm soát, thanh toán, chi trả các khoản chi của
NS huyện, NS xã và các khoản chi của NS trung ương, NS tỉnh ủy quyền hoặc các
nhiệm vụ chi do KBNN tỉnh thông báo.

1.1.3.2 Nội dung công tác kiểm soát chi ngân sách nhà nước qua Kho bạc
Nhà nước
KSC NSNN qua KBNN là việc KBNN thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát các
khoản chi NSNN theo các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn và định mức chi tiêu do
Nhà nước quy định theo những nguyên tắc, hình thức và phương pháp quản lý tài
chính trong quá trình cấp phát, thanh toán và chi trả các khoản chi của NSNN.
Nội dung KSC NSNN của KBNN bao gồm:

Kiểm tra, kiểm soát tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ chi thường xuyên NSNN;
Kiểm tra, kiểm soát các điều kiện chi theo chế độ quy định, bao gồm:
+ Đã có trong dự toán chi NSNN hàng năm được giao. Dự toán chi NSNN của
các đơn vị phải phản ảnh đầy đủ các khoản chi theo đúng chế độ, tiêu chuẩn, định
mức do ĐVSDNS lập và cơ quan có thẩm quyền duyệt. Đối với các đơn vị sự
nghiệp có thu, trong dự toán phải ghi rõ các nguồn thu của đơn vị được sử dụng và
phần hỗ trợ của NSNN; các khoản chi phải theo nhóm mục của mục lục NSNN. Cơ
quan tài chính cùng cấp có trách nhiệm kiểm tra kết quả lập và giao dự toán ngân
sách cho các đơn vị. Nếu có sự sai lệch so với nội dung dự toán được cấp có thẩm
quyền giao thì yêu cầu đơn vị điều chỉnh lại.
+ Đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức. Định mức tiêu chuẩn chi do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền ban hành là căn cứ quan trọng để KBNN KSC khi cấp


17
phát thanh toán cho ĐVSDNS. Những khoản chi chưa có tiêu chuẩn định mức được
cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, KBNN căn cứ vào dự toán được cơ quan có thẩm
quyền phê duyệt làm căn cứ để kiểm soát.
+ Các khoản chi phải được Thủ trưởng ĐVSDNS chuẩn chi. Trong quản lý và điều
hành ngân sách, chuẩn chi là sự cho phép, đồng ý chi. Thẩm quyền chuẩn chi phải là
người đứng đầu cơ quan, ĐVSDNS, đồng thời là chủ tài khoản. Chủ tài khoản phải đăng
ký chữ ký mẫu và con dấu của cơ quan, đơn vị tại KBNN nơi ĐVSDNS giao dịch.
+ Các khoản chi phải có đủ hồ sơ, chứng từ hợp lệ. Mỗi khoản chi đều phải có các
loại hồ sơ, chứng từ theo mẫu chứng từ quy định. KBNN có trách nhiệm kiểm tra tính
hợp pháp, hợp lệ trước khi cấp phát, thanh toán kinh phí NSNN cho ĐVSDNS.
Ngoài những nội dung trên, trong quá trình KSC NSNN qua KBNN cần thực
hiện một số yêu cầu như: Trường hợp sử dụng vốn, kinh phí NSNN để đầu tư sửa
chữa, mua sắm trang thiết bị phương tiện làm việc phải thực hiện đúng các quy định
về hình thức đấu thầu, chọn nhà thầu phù hợp hoặc phải thẩm định giá theo quy
định; Các khoản chi có tính chất thường xuyên được chia đều cho 12 tháng trong

năm để chi, các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc chỉ phát sinh vào một số thời
điểm như đầu tư xây dựng cơ bản, mua sắm, sửa chữa lớn và các khoản chi có tính
chất không thường xuyên khác phải thực hiện theo dự toán năm.

1.2. Kiểm soát chi ngân sách nhà nước đối với các cơ quan hành chính
nhà nước thực hiện cơ chế tự chủ tài chính qua Kho bạc nhà nước
1.2.1 Khái quát về cơ chế tự chủ tài chính đối với cơ quan hành chính nhà nước
1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm cơ quan hành chính nhà nước
Theo Giáo trình Luật hành chính Việt Nam do PGS. TS Nguyễn Cửu Việt biên
soạn, cơ quan hành chính nhà nước có khái niệm và những đặc điểm như sau:
* Khái niệm:
Cơ quan hành chính nhà nước là một loại cơ quan trong bộ máy nhà nước,
được thành lập theo quy định của pháp luật, có tổ chức và hoạt động theo quyết
định của pháp luật; sử dụng quyền lực nhà nước thực thi chức năng, nhiệm vụ trong


18
phạm vi thẩm quyền do pháp luật quy định.
CQHCNN là một loại cơ quan thuộc quyền lực Hành pháp, được lập ra để
thực thi pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước ban hành. Thẩm quyền chỉ giới
hạn trong phạm vi chấp hành, điều hành và chịu sự giám sát của cơ quan quyền lực
cùng cấp. Tổ chức của CQHCNN có mối quan hệ trực thuộc theo một thứ bậc chặt
chẽ (quan hệ mệnh lệnh) tạo thành một hệ thống thống nhất từ Trung ương xuống
các cấp ở địa phương.
Chức năng quan trọng và chủ yếu của CQHCNN là quản lý, điều hành các lĩnh
vực đời sống KT-XH một cách độc lập tương đối trong phạm vi một quốc gia hay
một địa phương nhất định.
* Đặc điểm của cơ quan hành chính nhà nước:
CQHCNN là một loại cơ quan nhà nước, là một bộ phận cấu thành bộ máy
nhà nước. Do vậy, CQHCNN cũng mang đầy đủ các đặc điểm chung của các cơ

quan nhà nước. Cụ thể:
Một là, CQHCNN hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được tổ chức và
hoạt động trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Tính quyền lực nhà nước thể hiện ở chỗ:
CQHCNN là một bộ phận của bộ máy nhà nước; CQHCNN nhân danh nhà nước khi
tham gia vào các quan hệ pháp luật nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Hai là, mỗi CQHCNN đều hoạt động dựa trên những quy định của pháp luật,
có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền nhất dịnh và có những mối quan hệ phối hợp
trong thực thi công việc được giao. Hệ thống CQHCNN có cơ cấu, tổ chức phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định.
Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của CQHCNN do pháp luật quy định, đó là
tổng thể những quyền và nghĩa vụ cụ thể mang tính quyền lực, được nhà nước trao
cho để thực hiện nhiệm vụ, chức năng của mình, cụ thể: các cơ quan nhà nước tổ
chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật và để thực hiện pháp luật; Trong quá trình
hoạt động có quyền ban hành các quyết định hành chính thể hiện dưới hính thức là
các văn bản pháp quy và các văn bản cá biệt; Được thành lập theo quy định của pháp
luật hoặc theo quyết định của CQHCNN cấp trên; Được đặt dưới sự kiểm tra, giám


19
sát của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp và báo cáo hoạt động trước cơ quan
quyền lực nhà nước cùng cấp; Có tính độc lập và sáng tạo trong tác nghiệp điều hành
nhưng theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc quyền lực phục tùng.
Ba là, về mặt thẩm quyền thì CQHCNN được quyền đơn phương ban hành
văn bản quy phạm pháp luật hành chính và văn bản đó có hiệu lực bắt buộc đối với
các đối tượng có liên quan; CQHCNN có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế
đối với các đối tượng chịu sự tác động, quản lý của CQHCNN.
Ngoài những đặc điểm nói trên, CQHCNN còn có những đặc điểm riêng như sau:
Một là, CQHCNN có chức năng quản lý hành chính nhà nước, thực hiện hoạt
động chấp hành và điều hành trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong khi đó
các cơ quan nhà nước khác chỉ tham gia vào hoạt động quản lý trong phạm vi, lĩnh

vực nhất định.
Hai là, CQHCNN nói chung là cơ quan chấp hành, điều hành của cơ quan
quyền lực nhà nước.
Thẩm quyền của các CQHCNN chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động chấp
hành, điều hành. Hoạt động chấp hành – điều hành hay còn gọi là hoạt ddoognj
quản lý hành chính nhà nước là phương diện hoạt động chủ yếu của CQHCNN.
Các CQHCNN đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ quan quyền lực
nhà nước, chịu sự lãnh đạo, giám sát, kiểm tra của các cơ quan quyền lực nhà nước
cấp tương ứng và chịu trách nhiệm báo cáo trước cơ quan đó.
Các CQHCNN có quyền thành lập ra các cơ quan chuyên môn để giúp cho
CQHCNN hoàn thành nhiệm vụ.
Ba là, CQHCNN là hệ thống cơ quan có mối liên hệ chặt chẽ và có đối tượng
quản lý rộng lớn. CQHCNN là một hệ thống cơ quan được thành lập từ trung ương
đến cơ sở, đứng đầu là chính phủ, tạo thành một chỉnh thể thống nhất, được tổ chức
theo hệ thống thứ bậc, có mối quan hệ mật thiết phụ thuộc nhau về tổ chức và hoạt
động nhằm thực thi quyền quản lý hành chính nhà nước.
Hầu hết các CQHCNN đều có hệ thống các đơn vị cơ sở trực thuộc. Các đơn
vị, cơ sở của bộ máy hành chính nhà nước là nơi trực tiếp tạo ra của cải vật chất và


20
tinh thần cho xã hội.
Bốn là, hoạt động của CQHCNN mang tính thường xuyên, liên tục và tương
đối ổn định, là cầu nối đưa đường lối, chính sách pháp luật vào cuộc sống.
Tất cả các CQHCNN có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là mối quan hệ
trực thuộc trên – dưới, trực thuộc ngang – dọc, quan hệ chéo… tạo thành một hệ
thống thống nhất mà trung tâm chỉ đạo là Chính phủ.
Năm là, CQHCNN có chức năng quản lý nhà nước dưới hai hình thức là ban
hành các văn bản quy phạm và văn bản cá biệt trên cơ sở pháp luật và các văn bản
của các CQHCNN cấp trên nhằm chấp hành, thực hiện các văn bản đó. Mặt khác

trực tiếp chỉ đạo, điều hành, kiểm tra… hoạt động của các CQHCNN dưới quyền và
các đơn vị cơ sở trực thuộc mình.

1.2.1.2. Khái niệm cơ chế tự chủ tài chính
Cơ chế là một thuật ngữ thường để chỉ một kết cấu chặt chẽ về mặt tổ chức
của nhiều bộ phận khác nhau, có quan hệ tương hỗ chặt chẽ với nhau và những
quy trình, quy tắc để vận hành toàn bộ kết cấu ấy nhằm đạt tới một mục tiêu nhất
định. Nói cách khác, cơ chế dùng để chỉ hình thái tồn tại của sự vật đang vận động
thành một hệ thống và nhờ đó hệ thống có thể hoạt động. Cơ chế là tổng thể các
yếu tố có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, làm mắt xích trong quá trình vận
động của sự vật tạo thành động lực dẫn dắt một nền kinh tế hay sự hoạt động về
một lĩnh vực nào đó.
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, cơ chế quản lý là cách thức tổ chức, vận hành
cụ thể các biện pháp để đạt được những yêu cầu và mục tiêu quản lý đã đề ra. Cơ chế
quản lý thường được biểu hiện thông qua hệ thống các văn bản pháp luật do các cơ
quan lập pháp hoặc hành pháp ban hành như Luật, Nghị định, Thông tư.
Cơ chế tự chủ tài chính (TCTC) là cơ chế quản lý nhằm tăng cường quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị về các mặt hoạt động tài chính, tổ chức bộ máy và
sắp xếp lao động qua đó làm tăng chất lượng hoạt động và cung cấp dịch vụ của đơn vị.
Cơ chế quản lý tài chính có thể khái quát đó là hệ thống các nguyên tắc, luật
định, chính sách, chế độ về quản lý tài chính và mối quan hệ tài chính giữa các đơn


21
vị dự toán các cấp với cơ quan chủ quản và cơ quan quản lý Nhà nước.

1.2.1.3 Nội dung cơ bản
*Đối với kinh phí giao tự chủ
Nội dung kinh phí giao tự chủ, tự chịu trách nhiệm, gồm: Kinh phí bảo đảm
hoạt động thường xuyên của các cơ quan quản lý nhà nước, được phân bổ vào một

nhóm mục chi để tạo thuận lợi chủ động cho các cơ quan, đơn vị trong quá trình chi
tiêu thực hiện nhiệm vụ.
Quyền của cơ quan được giao tự chủ, tự chịu trách nhiệm: được tự quyết định
bố trí số kinh phí được giao tự chủ vào các mục chi cho phù hợp; được quyền điều
chỉnh giữa các mục chi (điều chỉnh thực hiện nhiệm vụ này sang thực hiện nhiệm vụ
khác) nếu xét thấy cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ được giao. Đồng thời phải xây
dựng quy chế chi tiêu nội bộ nhưng không được vượt mức chi, chế độ chi do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Kinh phí được giao tự chủ cuối năm chưa sử dụng hết được chuyển nguồn
sang năm sau tiếp tục sử dụng.
*Đối với khoản kinh phí không giao tự chủ:
Gồm các khoản chi không thường xuyên (đã có mục tiêu cụ thể) như: Chi sửa
chữa lớn, kinh phí mua sắm tài sản cố định mà kinh phí thường xuyên không đáp
ứng được; chi đóng niên liễm cho các tổ chức quốc tế; vốn đối ứng các dự án; kinh
phí thực hiện nhiệm vụ đột xuất được cấp có thẩm quyền giao; kinh phí thực hiện
chương trình mục tiêu quốc gia; kinh phí tinh giản biên chế; kinh phí nghiên cứu
khoa học; kinh phí đào tạo lại; vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Kinh phí không giao tự chủ được phân bổ và kiểm soát chi theo quy định hiện
hành của Luật NSNN; cuối năm không sử dụng hết phải nộp trả NSNN.
*Phương pháp xác định kinh phí giao tự chủ:
Được xác định trên số biên chế được giao, định mức phân bổ ngân sách theo
quy định của Thủ tướng Chính phủ và các hoạt động đặc thù hàng năm của từng cơ
quan. Ngoài nguồn kinh phí NSNN cấp theo quy định, kinh phí giao tự chủ còn bao
gồm: Thu phí, lệ phí được để lại theo chế độ quy định; các khoản thu hợp pháp khác


22
được pháp luật cho phép.
*Sử dụng kinh phí quản lý hành chính tiết kiệm được:
Kết thúc năm ngân sách, sau khi được cơ quan quản lý cấp trên đánh giá đã

hoàn thành các nhiệm vụ được giao, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ có số chi thực
tế thấp hơn dự toán kinh phí quản lý hành chính được giao để thực hiện chế độ tự
chủ thì phần chênh lệch này được xác định là kinh phí quản lý hành chính tiết kiệm
được. Kinh phí giao thực hiện chế độ tự chủ để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ
đặc thù cuối năm nếu không triển khai thực hiện nhiệm vụ thì phải nộp trả NSNN,
không được xác định là kinh phí tiết kiệm được.
* Phạm vi sử dụng kinh phí tiết kiệm được:
Một là bổ sung thu nhập cho CBCC: cơ quan thực hiện chế độ tự chủ được
áp dụng hệ số tăng thêm quỹ tiền lương tối đa không quá 1,0 lần so với mức
tiền lương cấp bậc, chức vụ do Nhà nước quy định để chi trả thu nhập tăng
thêm cho CBCC. Trên cơ sở tổng nguồn kinh phí được phép chi trên đây, cơ
quan thực hiện chế độ tự chủ quyết định phương án chi trả thu nhập tăng thêm
cho từng cán bộ, công chức (hoặc cho từng bộ phận trực thuộc) theo nguyên tắc
phải gắn với hiệu quả, kết quả công việc của từng người (hoặc của từng bộ
phận trực thuộc).
Hai là chi cho các hoạt động phúc lợi tập thể: Hỗ trợ các hoạt động Đảng,
đoàn thể; hỗ trợ các ngày kỷ niệm (kỷ niệm ngày phụ nữ, ngày thương binh liệt sỹ,
ngày quân đội nhân dân...); trợ cấp khó khăn thường xuyên, đột xuất; trợ cấp nghỉ
hưu, nghỉ mất sức; chi thêm cho người lao động trong biên chế khi thực hiện tinh
giản biên chế; chi khám bệnh định kỳ; chi thuốc y tế trong cơ quan; chi cho xây
dựng, sửa chữa các công trình phúc lợi.
Ba là chi bổ sung chi phí phục vụ các hoạt động nghiệp vụ (Hỗ trợ thêm tiền
công tác phí ngoài chế độ công tác phí do cơ quan có thẩm quyền ban hành, hỗ trợ
tiền cước điện thoại cho cán bộ); chi hỗ trợ động viên, khuyến khích phối hợp công
tác cho cán bộ, cơ quan ngoài đơn vị.
Khi xét thấy khả năng tiết kiệm kinh phí không ổn định, cơ quan thực hiện chế


×