Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

HỘI THẢO 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 11/2015 GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.1 MB, 48 trang )

HỘI THẢO
10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH

GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 11/2015


CHƯƠNG TRÌNH
HỘI THẢO ĐÁNH GIÁ 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH:
GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP
Thời gian: Ngày 12 tháng 11 năm 2015
Địa điểm: Khách sạn Victory, số 14, Võ Văn Tần, Q.3, T.P. Hồ Chí Minh
Thời gian

Nội dung

Diễn giả

8:00 -8:30

Đăng ký đại biểu

8:30 - 8:45

Khai mạc Hội thảo

8:45 - 9:00

Giới thiệu tổng quan về các hoạt động Ông Phùng Văn Thành
và tình hình thực thi pháp luật cạnh


Phó trưởng phòng Điều tra vụ việc
tranh trong giai đoạn 2005 – 2015
hạn chế cạnh tranh, Cục QLCT

9:00 - 9:15

Tham luận 1
Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh
tại doanh nghiệp trong ngành hàng
Tiêu dùng nhanh, hóa mỹ phẩm những khó khăn, vướng mắc đã gặp
trong thực tiễn và một số khuyến nghị
hoàn thiện Luật Cạnh tranh

Ông Trần Võ Quốc Sơn
Giám đốc Tư vấn pháp luật
Công Ty TNHH Quốc tế Unilever
Việt Nam

9:15- 9:30

Tham luận 2
Một số vướng mắc trong việc thực thi
các quy định liên quan đến hành vi Hạn
chế Cạnh tranh: Từ thực tiễn tư vấn
luật

Ông Nguyễn Anh Tuấn
Tiến sĩ
Thành viên
Công ty Luật LNT & Partners


9:30 - 9:45

Tham luận 3
Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh
trong lĩnh vực Bán hàng đa cấp những khó khăn, vướng mắc đã gặp
trong thực tiễn và một số khuyến nghị
hoàn thiện Luật Cạnh tranh

Ông Võ Đan Mạch
Luật sư
Phó Chánh Văn phòng Hiệp hội
Bán hàng đa cấp Việt Nam

9:45 - 10:00

Nghỉ giải lao

Ông Trần Anh Sơn
Phó Cục trưởng
Cục Quản lý cạnh tranh


Thời gian

Nội dung

10:00 - 10:15 Tham luận 4

10:15-10:30


Diễn giả
Ông Trương Văn Toàn

Đánh giá 10 năm thực thi Luật Cạnh
tranh - góc nhìn từ Công ty TNHH
FrieslandCampina Việt Nam

Giám đốc Đối ngoại & Pháp lý
Công ty TNHH Friesland Campina

Tham luận 5
Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh
của Công ty Bảo hiểm - những khó
khăn, vướng mắc và một số khuyến
nghị hoàn thiện Luật Cạnh tranh

Bà Phạm Thanh Hải
Luật Sư
Giám đốc Pháp lý Tổng Công ty
Cổ phần Bảo Minh

10:30 - 10:45 Tham luận 6
Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh Một số vướng mắc

Bà Trần Chi Anh
Luật sư
Công ty Luật TNHH Baker &
McKenzie Việt Nam


10:45 - 11:00 Tham luận 7
Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh
ở một số doanh nghiệp - những khó
khăn, vướng mắc và một số khuyến
nghị hoàn thiện Luật Cạnh tranh

Ông Lê Quang Vy
Luật sư
Giám đốc Công ty Luật TNHH Việt
Long Thăng (VLT Lawyers)

11:00 - 11:45 Thảo luận, đóng góp ý kiến từ các
đại biểu tham gia Hội thảo

Đại biểu

11:45 - 12:00

Tổng kết và bế mạc Hội thảo

Ông Trần Anh Sơn
Phó Cục trưởng
Cục Quản lý cạnh tranh


HỘI THẢO ĐÁNH GIÁ 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH:
GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP

Giới thiệu
Tổng quan về các hoạt động và tình hình thực thi pháp luật cạnh

tranh trong giai đoạn 2005 – 2015
Ông Phùng Văn Thành
Phó trưởng phòng Điều tra vụ việc hạn chế cạnh tranh
Cục Quản lý cạnh tranh












HỘI THẢO ĐÁNH GIÁ 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH:
GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP

Tham luận 1
Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh tại doanh nghiệp trong ngành
hàng Tiêu dùng nhanh, hóa mỹ phẩm - những khó khăn, vướng mắc đã gặp
trong thực tiễn và một số khuyến nghị hoàn thiện Luật Cạnh tranh.
Ông Trần Võ Quốc Sơn
Giám đốc Tư vấn pháp luật
Công Ty TNHH Quốc tế Unilever Việt Nam


HỘI THẢO ĐÁNH GIÁ 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH:
GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP


Tham luận 2
Một số vướng mắc trong việc thực thi các quy định liên quan đến hành vi
hạn chế Cạnh tranh: Từ thực tiễn tư vấn luật
Ông Nguyễn Anh Tuấn
Luật sư
Công ty Luật LNT & Partners
Sau 10 năm từ khi có hiệu lực thi hành, Luật Cạnh tranh (LCT) đã dần bước vào cuộc
sống. Qua thực tiễn hành nghề của mình, chúng tôi nhận thấy trong một vài năm trở lại đây
các doanh nghiệp đã quan tâm nhiều hơn đến hoạt động tuân thủ luật cạnh tranh. Nhiều doanh
nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) đã có các bộ tài liệu và tập
huấn nội bộ để trang bị cho nhân viên kiến thức luật cạnh tranh cho nhân viên. Sự thay đổi
này này phần lớn là do các nỗ lực của cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc phát hiện và xử
lý nghiêm minh các vụ việc vi phạm luật cạnh tranh (như vụ VINAPCO hay thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh (HCCT) giữa các doanh nghiệp bảo hiểm). Những vụ việc này không chỉ đem
đến bài học thực tế cho các doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh doanh, mà còn cho
thấy những thành công của cơ quan cạnh tranh trong việc phát hiện, xử lý thích đáng những
hành vi vi phạm. Từ đó, giúp các doanh nghiệp có cái nhìn rõ nét hơn, chân thật hơn về việc
áp dụng pháp luật cạnh tranh trên thực tế.
Bên cạnh đó, cũng phải kể đến hiệu quả hoạt động tuyên truyền pháp luật cho cộng
đồng doanh nghiệp và người tiêu dùng của Cục Quản lý cạnh tranh (QLCT). Trong bối cảnh
một số quy định của luật vẫn còn chưa được quy định cụ thể hóa, các báo cáo thường niên về
thực thi luật cạnh tranh, báo cáo tập trung kinh tế tại Việt Nam và gần đây nhất là báo cáo rà
soát các quy định của luật cạnh tranh của Cục QLCT đã cung cấp các thông tin bổ ích, và
quan trọng cho doanh nghiệp trong việc định hướng và theo dõi các thể chế luật cạnh tranh.
Tuy nhiên, qua thực tiễn hành nghề chúng tôi thấy rằng luật cạnh tranh và văn bản
hướng dẫn hiện nay vẫn còn một số bất cập gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc
hiểu và áp dụng trên thực tế như sau:
1. Quy định ở phần chung
Thị trường liên quan là các khái niệm quan trọng của LCT để doanh nghiệp có thể xác

định được thị phần từ đó đánh giá khả năng áp dụng của LCT đối với các trường hợp luật yêu
cầu phải đạt ngưỡng thị phần nhất định (như xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hay
độc quyền hay để kiểm soát hoặc đánh giá vụ việc tập trung kinh tế (TTKT) v.v.). Mặc dù


vậy, các quy định về xác định thị trường liên quan theo dẫn tại Điều 4 Nghị định
116/2005/NĐ-CP (NĐ 116) còn khá chung chung và thiếu thực tế khiến doanh nghiệp gặp
khó khăn trong khâu áp dụng. Đơn cử trong vụ việc Megastar trước đây đã có nhiều tranh
luận về việc xác định thị trường liên quan nhưng cơ quan quản lý cạnh tranh cũng không đưa
ra hướng dẫn gì về trường hợp này.
Hiện nay, hầu như các doanh nghiệp đều thuê các công ty dịch vụ nghiên cứu thị
trường có uy tín để xác định thị phần và mức độ cạnh tranh trên thị trường. Nhưng kết quả
khảo sát này lại không thể sử dụng làm kết quả tham chiếu được nếu theo các tiêu chí nêu tại
Điều 4 NĐ 116. Thực tế này khiến cho doanh nghiệp khá lúng túng trong việc xác định đúng
thị phần của mình từ đó vận dụng các quy định của LCT một cách đúng đắn. Chúng tôi cho
rằng để giúp các doanh nghiệp tự xác định thị phần một cách chính xác, thì nêu tiêu chí xác
định như NĐ 116 hiện nay là chưa đủ, mà cần hướng dẫn phương pháp xác định để tham
chiếu. Trong tương lai, Cục QLCT nên nghiên cứu để áp dụng phương pháp độc quyền giả
định (hypothetical monopolist test - HMT). Hiện nay phương pháp này đang được phổ biến ở
nhiều nước bao gồm Trung Quốc.
LCT cũng cần có hướng dẫn cụ thể hơn về đối tượng áp dụng là “doanh nghiệp nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam” quy định tại Điều 2 LCT. Chẳng hạn các đối tượng này có
bao gồm văn phòng đại diện hoạt động tại Việt Nam hay không. Trong một số lĩnh vực
thương mại nhà đầu tư nước ngoài vẫn bị hạn chế thành lập công ty có vốn nước ngoài, hàng
hóa thông qua bên thứ ba (nhà nhập khẩu, phân phối, hoặc đại lý tại Việt Nam) nhưng vẫn
chịu chi phối bởi chính sách giá và bán hàng bởi công ty nước ngoài. Trong trường hợp này,
công ty nước ngoài có được xem là đối tượng điều chỉnh của luật Việt Nam hay không. Hoặc
trường hợp các công ty ở nước ngoài thực hiện tập trung kinh tế, có doanh số (thông qua nhà
nhập khẩu) tại Việt Nam đạt ngưỡng thông báo nhưng chỉ có văn phòng đại diện ở Việt Nam,
thì có phải thông báo hay không cũng chưa hoàn toàn rõ ràng.

2. Thỏa thuận HCCT
Thứ nhất, Điều 8 LCT chỉ liệt kê các dạng thỏa thuận bị cấm nhưng vẫn chưa đưa ra
định nghĩa như thế nào là “thỏa thuận” cũng như yêu cầu chứng cứ đối với việc xác lập thỏa
thuận khiến cho doanh nghiệp gặp không ít khó khăn trong việc thực hiện. Chúng tôi cho
rằng, cần làm rõ
(i) Hình thức của thỏa thuận có phải được lập bằng văn bản hay các chứng cứ khác
như email, tin nhắn, băng ghi âm có thể được sử dụng?
(ii) Thời điểm được xem là đã hình thành thỏa thuận HCCT khi các doanh nghiệp đã
thống nhất về phương hướng thực hiện (như xác định ngày tăng giá nhưng chưa
kịp thực hiện đã bị phát hiện) hay khi đã bắt đầu thực hiện thỏa thuận?
Đây là một vấn đề quan trọng chưa được xác định cụ thể cho dù đây là một yếu tố quan
trọng để doanh nghiệp tự xác định cần phải làm gì để loại trừ rủi ro vi phạm luật cạnh tranh.
Ví dụ, doanh nghiệp phát hiện nhân viên tham gia họp hoặc trao đổi email liên quan đến xác
lập giá cả với nhân viên của đối thủ doanh nghiệp cần biết như vậy đã được xem là phạm luật
hay chưa. Nếu đã vi phạm thì phải báo cáo với Cục QLCT để được giảm nhẹ hình phạt hoặc
nếu chưa thì xử lý nội bộ.


Thứ hai, phạm vi điều chỉnh theo quy định tại Điều 8 cũng cần làm rõ có bao gồm cả
thỏa thuận dọc hay chỉ áp dụng đối với thỏa thuận ngang. Theo báo cáo giải trình của ban
soạn thảo LCT nêu trước Quốc hội, Điều 8 được thiết kế chỉ bao gồm các thỏa thuận ngang,
các thỏa thuận dọc được áp dụng theo quy định tại Điều 13. Tuy nhiên, trong luật và NĐ 116
sự phân biệt này không được thể hiện rõ ràng. Trong khi đó chúng tôi cho rằng việc xác định
phạm vi điều chỉnh này rất quan trọng vì để áp dụng Điều 13, cần phải chứng minh yếu tố áp
đặt (của bên có vị trí thống lĩnh đối với bên ký kết hợp đồng).
Thứ ba, việc phân nhóm các hành vi bị cấm có điều kiện (từ khoản 1 đến khoản 5, Điều 8)
và bị cấm tuyệt đối (từ khoản 6 đến khoản 8, Điều 8) là chưa thật sự hợp lý và không phù hợp với
xu hướng chung của các nước phát triển. Hiện nay, một số thỏa thuận bị cấm với điều kiện là có
thị phần kết hợp từ 30% trở lên theo quy định tại Điều 8 gồm khoản 1 (ấn định giá), khoản 2
(phân chia thị trường) và khoản 3 (kiểm soát số lượng, khối lượng sản phẩm) đã được chứng

minh là đi ngược lại với nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường nên cần bị cấm tuyệt đối.
Cuối cùng, thực tiễn áp dụng luật cạnh tranh ở các nước (như Mỹ, Nhật Bản) cho thấy
chính sách khoan hồng là công cụ hữu hiệu để giúp cơ quan quản lý cạnh tranh có thể phát
hiện và xử lý kịp thời và hiệu quả các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Tuy nhiên, Việt Nam
hiện vẫn chưa áp dụng chính sách này đồng thời vẫn chưa có quy định rõ ràng về các lợi ích
khi thông báo vi phạm. Điều này dẫn đến việc doanh nghiệp khi phát hiện nhân viên của mình
đang tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không biết phải xử lý như thế nào. Cần có chính
sách khoan hồng áp dụng đối với thành viên tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh để
khuyến khích doanh nghiệp báo cáo vụ việc đến cơ quan quản lý cạnh tranh để được hưởng
khoan hồng.
3. Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền
Các quy định về lạm dụng vị trí thống lĩnh/ vị trí độc quyền vẫn còn khá cứng nhắc khi
áp dụng trên thực tế. Với vai trò là văn bản pháp luật trọng yếu nhằm xác định các vấn đề
pháp lý về cạnh tranh, nhưng LCT chỉ chú trọng mô tả các dấu hiệu bên ngoài mà chưa đánh
giá đúng các đặc tính, bản chất các hành vi lạm dụng. Từ đó, những biện pháp xử lý mà LCT
đề xuất vẫn nặng hướng điều chỉnh các biểu hiện bên ngoài thay vì thay đổi tác động của
hành vi đến thị trường. Chúng tôi cho rằng, LCT cần khuyến khích và bảo vệ các thoả thuận
này chừng nào nó còn có thể thúc đẩy hiệu quả kinh tế và lợi ích của người tiêu dùng. Do đó
về nguyên tắc, các doanh nghiệp (bao gồm doanh nghiệp có sức mạnh thị trường) cần được tự
do thỏa thuận. Các thỏa thuận đó chỉ bị cấm khi nó hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể mà
không có một lợi ích kinh tế nào quan trọng hơn có thể biện minh cho hành vi đó. Hay nói
cách khác, LCT không ngăn cản hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp lớn mà chỉ ngăn
cấm các doanh nghiệp đó lạm dụng quyền lực thị trường của mình một cách bất bình đẳng.
Tuy nhiên, một số quy định của luật được quy định khá cứng nhắc và không phù hợp
với thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp lớn.
Thứ nhất, quy định về cấm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hạn chế phân phối sản
phẩm của đối thủ và hạn chế địa bàn phân phối, Điều 30 Nghị định 116/2005/NĐ-CP qui định
một số hành vi hạn chế cạnh tranh như sau: “[Hành vi] áp đặt cho doanh nghiệp khác điều
kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ là việc đặt điều kiện tiên quyết sau đây
trước khi ký kết hợp đồng: … (a) Hạn chế về sản xuất, phân phối hàng hoá khác… không liên

quan trực tiếp đến cam kết của bên nhận đại lý theo quy định của pháp luật về đại lý; (b) Hạn


chế về địa điểm bán lại hàng hóa, trừ những hàng hóa thuộc danh mục mặt hàng kinh doanh
có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định của pháp luật”.
Trong khi đó, các doanh nghiệp cần phải hợp lý hóa hệ thống phân phối nên trong
nhiều trường hợp việc phân chia thị trường phân phối cho các nhà phân phối là cần thiết và
mang lại hiệu quả kinh doanh (như đối với hợp đồng Franchise). Nếu nhìn từ khía cạnh tích
cực mà các thoả thuận dọc đem lại, việc cho phép duy trì các thoả thuận này là phù hợp với
mục tiêu của LCT là để tối đa hoá phúc lợi người tiêu dùng bằng cách đạt hiệu quả phân phối
nguồn lực và giảm chi phí đến mức thấp nhất có thể. Một thoả thuận phân phối độc quyền
(hai chiều) chỉ nên bị cấm khi (i) gây thiệt hại cho khách hàng là khi nó ngăn cản không cho
khách hàng có khả năng tiếp cận và mua các sản phẩm cùng loại của các nhà sản xuất khác
hoặc (ii) ngăn cản đối thủ cạnh tranh mới gia nhập thị trường là khi nó không cho phép các
nhà sản xuất mới có thể sử dụng hệ thống phân phối sản phẩm trên thị trường.
Ví dụ: Giả sử HONDA (HD) là nhà sản xuất chiếm hơn 60% thị phần xe máy trên toàn
quốc, ký hợp đồng phân phối độc quyền với HONDA VIETNAM (HV), theo đó HV chỉ được
phép phân phối xe máy của HD cho các cửa hàng bán lẻ và để đổi lại một số ưu đãi nhất định
từ phía HD. Thoả thuận này không hề ảnh hưởng đến lợi ích người tiêu dùng nếu như các
cửa hàng này không bị ràng buộc bởi điều kiện chỉ được phép bán xe HONDA vì họ mua xe
máy không phải từ HV mà là ở các cửa hàng bán lẻ xe máy. Người tiêu dùng có thể lựa chọn
xe máy của các nhà sản xuất khác được bán tại cửa hàng tuỳ theo thị hiếu và túi tiền của
mình. Thậm chí, ngay cả khi các cửa hàng bán lẻ này bị ràng buộc bởi thoả thuận chỉ được
bán xe máy của HD, nhưng các nhà sản xuất khác cũng có các thoả thuận tương tự như vậy
đối với nhà phân phối độc quyền của họ, có nghĩa là trong khu vực lãnh thổ đó có nhiều cửa
hàng bán lẻ xe máy khác cũng chỉ bán xe của SUZUKI (SZ) và SYM thì người tiêu dùng vẫn
có quyền lựa chọn cửa hàng để mua SZ, SYM hay HD tuỳ theo thị hiếu của mình, hay theo
chất lượng phục vụ, hậu mãi của cửa hàng đó. Trên thực tế, để bảo vệ uy tín và thương hiệu
của nhà sản xuất, các cửa hàng như vậy luôn được nhà sản xuất hỗ trợ tối đa để có thể phục
vụ tốt nhất cho khách hàng (như vốn, đào tạo nhân viên,…). Do đó, thoả thuận phân phối độc

quyền ở cấp độ bán lẻ cũng không bị coi là vi phạm LCT nếu nhìn từ góc độ gây tổn hại cho
người tiêu dùng.
Tuy nhiên, quy định hiện hành không cho phép xem xét yếu tố này để miễn trừ các
thỏa thuận này.
Thứ hai, Điều 31 Nghị định 116/2005/NĐ-CP qui định: “Ngăn cản việc gia nhập thị
trường của những đối thủ cạnh tranh mới là hành vi tạo ra những rào cản sau đây: “… yêu cầu
khách hàng của mình không giao dịch với đối thủ cạnh tranh mới.” Quy định này cũng khá
cứng nhắc và chưa thật sự hợp lý xét từ khía cạnh thương mại.
Một hoạt động thương mại khá phổ biến trên thị trường, nhất là khi Việt Nam gia nhập
WTO, là hoạt động của nhà sản xuất tài trợ cho các cửa hàng bán lẻ để mở rộng kênh phân
phối. Một nhà sản xuất (có vị trí thống lĩnh trên thị trường) muốn hợp tác với một số cửa hàng
bán lẻ của họ thông qua hình thức tài trợ. Nhà sản xuất cung cấp một số vốn, trang thiết bị để
kinh doanh và bán sản phẩm của nhà sản xuất. Vì đây là mục đích của hợp đồng, nên nhà bán
lẻ chỉ được phép bán sản phẩm khác nếu không ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn đã tài trợ
và hiệu quả của hình thức hợp tác. Việc một nhà sản xuất thỏa thuận với cửa hàng bán lẻ chỉ
bán sản phẩm của mình chưa hẳn đã ngăn cản việc gia nhập thị trường của những đối thủ


cạnh tranh mới vì đối thủ cạnh tranh có thể bán hàng cho những cửa hàng bán lẻ khác trên
cùng thị trường. Trên thực tế các nhà sản xuất sản phẩm cùng loại khác cũng có hợp đồng
tương tự như vậy với các cửa hàng bán lẻ khác.
Ví dụ: Trong sản xuất nông nghiệp, các nhà máy đường cũng tài trợ cho nông dân
trồng mía, đổi lại việc nông dân chỉ bán mía cho nhà máy đường đó, chứ không phải nhà máy
đường khác. Thỏa thuận như vậy nếu bị cấm sẽ không đem lại hiệu quả kinh tế cho cả nhà
máy đường lẫn nông dân. Các nhà máy đường sẽ không tài trợ cho nông dân nếu như họ
không được chắc chắn là sẽ được thu mua mía và do vậy không đảm bảo được nguồn cung. Ở
chiều ngược lại, nông dân sẽ không được hỗ trợ kinh phí để canh tác trồng mía.
Thứ ba, Cục QLCT cũng cần giải thích như thế nào là “điều kiện tiên quyết” theo quy
định tại Điều 30 NĐ 116. Điều này xuất phát từ thực tế là các điều khoản thương mại của hợp
đồng thường được đàm phán chung với nhau. Như vậy, một điều khoản được quy định trong

hợp đồng có thể được xem là điều kiện tiên quyết hay không hay phải gắn với chế tài nhất
định như chấm dứt hợp đồng mới được xem là điều kiện tiên quyết.
Thứ tư, quy định về phân biệt đối xử cũng gây không ít lúng túng cho doanh nghiệp
khi áp dụng.
Điều 29 NĐ 116 đưa ra khái niệm “tương tự về mặt giá trị hoặc tính chất hàng hoá,
dịch vụ” nhưng không giải thích như thế nào là tương tự về “tính chất” cũng như “tương tự về
tính chất” có loại trừ đối với hàng hóa hay không. Suy luận lô-gic thì hàng hóa đều có cùng
tính chất, và do vậy bất kỳ giao dịch nào khác nhau đều có yếu tố phân biệt đối xử là không
hợp lý. Ngoài ra, trên thực tế khi ký hợp đồng, doanh nghiệp cũng thường gặp phải trường
hợp khách hàng yêu cầu doanh nghiệp phải bán ở mức giá tốt nhất trên thị trường, quy định
như vậy có bị xem là vi phạm luật cạnh tranh hay không?
Cuối cùng, quy định về cấm ấn định giá bán lại tối thiểu tại khoản 5 Điều 13 cũng cần
được làm rõ. Theo đó, việc ấn định giá bán lại không nêu tối đa hay tối thiểu có bị xem là vi
phạm luật cạnh tranh hay không. Có nhiều doanh nghiệp in giá bán lại sản phẩm trên bao bì,
hành vi này có bị xem là vi phạm luật cạnh tranh hay không.
4. Tập trung kinh tế
Tương tự như quy định điều chỉnh hành vi lạm dụng, hiện nay, theo Điều 16, LCT chỉ
liệt kê bốn dạng TTKT theo chiều ngang để điều chỉnh. Tuy nhiên các quy định về ngưỡng
thông báo hoặc cấm tập trung kinh tế khá cứng nhắc chỉ tập trung vào thị phần chứ chưa quan
tâm đến tác động thị trường.
Ví dụ, tập trung kinh tế giữa công ty mẹ, con về bản chất là tái cấu trúc trong nội bộ
doanh nghiệp chứ không ảnh hưởng đến tính cạnh tranh trên thị trường. Nhưng theo quy định
hiện nay, trường hợp này vẫn phải thông báo hoặc phải xin miễn trừ nếu thị phần công ty mẹ từ
30% trở lên. Trong khi đó trường hợp tập trung kinh tế hỗn hợp (công ty A mua lại công ty C là
đối thủ cạnh tranh của công ty con là B) thì không phải thuộc đối tượng điều chỉnh của luật.
Bên cạnh đó các tiêu chí thường được sử dụng để đo lường mức độ tâp trung kinh tế ở
các nước khác như HHI (Hirschman-Herfindahl Index), CR3 hay CR5 (Concentration Ratio)
thì chưa được chính thức sử dụng để phân tích tác động của TTKT đối với thị trường. Ngoài
ra, do các quy định về xác định thị trường liên quan chưa rõ nên doanh nghiệp tham gia



TTKT cũng gặp không ít khó khăn trong việc tự xác định thị phần của mình để quyết định
thực hiện thủ tục thông báo hoặc miễn trừ TTKT.
5. Vai trò giải thích luật của cơ quan quản lý cạnh tranh
Hiện nay, cơ quan cạnh tranh tại Việt Nam bao gồm hai cơ quan tách biệt là Hội đồng
Cạnh tranh (HĐCT) và Cục Quản lý Cạnh tranh (Cục QLCT) (trong khi ở các quốc gia khác,
cơ quan cạnh tranh thường chỉ có một). Theo quy định LCT và các Nghị định hướng dẫn, Cục
QLCT giữ vai trò phát hiện, thu thập, tìm kiếm các chứng cứ liên quan đến hạn chế cạnh
tranh và lập báo cáo điều tra. HĐCT xét xử, đưa ra các quyết định, giải quyết khiếu nại có
liên quan đến các vụ việc cạnh tranh. Tuy nhiên, các cơ quan này lại không có chức năng ban
hành văn bản hướng dẫn, giải thích thực thi luật cạnh tranh. Trong khi đó, các vụ việc cạnh
tranh không được công khai nên các doanh nghiệp không có thông tin và không hiểu được
cách vận dụng quy định luật cạnh tranh của cơ quan quản lý cạnh tranh. Mặc dù các tài liệu
và báo cáo của Cục QLCT là tài liệu tham khảo rất hữu ích cho doanh nghiệp. Nhưng đây lại
không phải là các hướng dẫn chính thức nên khi tư vấn luật sư vẫn phải dẫn chiếu các quy
định pháp luật vốn không rõ ràng như đã nêu ở trên.
Ví dụ, hiên nay Cục QLCT linh động cho phép doanh nghiệp tham vấn không chính
thức trước khi quyết định có nên nộp hồ sơ thông báo tập trung kinh tế hay không. Đây là một
thủ tục hết sức hữu ích và tiết kiệm thời gian cho doanh nghiệp đặc biệt trong trường hợp thị
phần kết hợp ở mức gần với ngưỡng thông báo TTKT. Mặc dù vậy, chúng tôi gặp không ít
khó khăn trong việc thuyết phục các bên đồng ý thực hiện tham vấn vì không có cơ sở pháp lý
rõ ràng. Doanh nghiệp thường chọn cách thực hiện và chỉ thực hiện tham vấn/thông báo khi
được sở KHĐT yêu cầu phải có ý kiến của Cục QLCT.
6. Cần minh bạch hóa thông tin về chính sách cạnh tranh và hoạt động xử lý vụ
việc cạnh tranh
Vào ngày 5/10/2015, Bộ trưởng Thương mại của 12 nước tham gia đàm phán Hiệp
định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), trong đó có Việt Nam đã tuyên bố kết thúc đàm
phán kỹ thuật. Hiệp định TPP đã dành riêng Chương 16 để quy định về chính sách cạnh tranh.
Trong đó thiết lập và duy trì thể chế cạnh tranh tương đồng với các thành viên khác, minh
bạch và công bằng cho các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh tại Việt Nam là một yêu cầu

thiết yếu. Bên cạnh đó, năm 2015 đánh dấu việc Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) sẽ chính
thức đi vào hoạt động và Việt Nam phải hoàn thành các cam kết của AEC trong năm nay.
Trong đó, ban hành và thực thi luật cạnh tranh là chưa đủ mà phải tiến tới hài hòa hóa chính
sách và pháp luật cạnh tranh tiêu chuẩn chung trong các chế định của LCT nhằm khỏa lấp dần
những khác biệt giữa các thành viên.
Trước những bất cập trong LCT cũng như các Nghị định hướng dẫn thi hành, trong dài
hạn việc sửa đổi, bổ sung pháp luật sao cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam cũng như nhu cầu
hội nhập quốc tế (khi tham gia vào Hiệp định TPP cũng như Cộng đồng kinh tế ASEAN) là hết
sức cần thiết. Trong thời gian sắp tới, cơ quan quản lý cạnh tranh nên công khai và minh bạch
hóa thông tin các vụ việc hạn chế cạnh tranh, bao gồm công bố các quyết định xử lý, hoặc đình
chỉ xử lý vụ việc cạnh tranh để doanh nghiệp có thể nắm thông tin. Cục QLCT cũng cần được
giao vai trò ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng luật để doanh nghiệp có thể kịp thời theo
dõi và nắm bắt các vấn đề liên quan đến chính sách và thực thi luật cạnh tranh.


HỘI THẢO ĐÁNH GIÁ 10 NĂM THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH:
GÓC NHÌN TỪ PHÍA DOANH NGHIỆP

Tham luận 3
Thực tiễn vận dụng Luật Cạnh tranh trong lĩnh vực Bán hàng đa cấp những khó khăn, vướng mắc đã gặp trong thực tiễn và một số khuyến nghị
hoàn thiện Luật Cạnh tranh
Ông Võ Đan Mạch
Luật sư
Phó Chánh Văn phòng Hiệp hội Bán hàng đa cấp Việt Nam
1. Tổng quan các quy định pháp luật cạnh tranh trong bán hàng đa cấp tại Việt Nam
Từ khi Luật cạnh tranh 2004 được ban hành, các văn bản điều chỉnh về hoạt động bán
hàng đa cấp bao gồm:
• Luật cạnh tranh 2004
• Nghị định 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 về quản lý hoạt động bán hành đa cấp,
• Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/05/2014 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp

thay thế Nghị định 110/2005/NĐ-CP.
• Thông tư 19/2005/TT-BTM hướng dẫn thực hiện Nghị định 110/2005/NĐ-CP; Thông
tư 35 /2011/TT-BCT sửa đổi, bổ sung một số nội dung về thủ tục hành chính tại thông
tư số 19/2005/TT-BTM ngày 08 tháng 11 năm 2005 hướng dẫn một số nội dung quy
định tại nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2005 của chính phủ về
Quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.
• Thông tư 24/2014/TT-BCT ngày 30/07/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của
Nghị định 42/2014/NĐ-CP về Quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.
• Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 quy định về xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực cạnh tranh;
• Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/07/2014 thay thế Nghị định 120/2005/NĐ-CP quy
định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh
2. Qui định về Bán hàng Đa cấp trong Luật Cạnh tranh
Luật cạnh tranh 2004 ra đời lần đầu tiên có quy định về lĩnh vực bán hàng đa cấp tại
Khoản 11 Điều 3:


Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người tham gia
bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau;
b) Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng
tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ
thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia;
c) Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích
kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia bán hàng đa cấp cấp
dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được doanh nghiệp bán hàng đa cấp
chấp thuận.
Luật Cạnh tranh của Việt Nam quan niệm hành vi bán hàng đa cấp bất chính là hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Điều này được được quy định tại Điều 39 và 48 của Luật cạnh
tranh như sau:

Điều 39. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật này bao gồm:
1. Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
2. Xâm phạm bí mật kinh doanh;
3. ép buộc trong kinh doanh;
4. Gièm pha doanh nghiệp khác;
5. Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
6. Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
7. Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
8. Phân biệt đối xử của hiệp hội;
9. Bán hàng đa cấp bất chính;
Điều 48. Bán hàng đa cấp bất chính
Cấm doanh nghiệp thực hiện các hành vi sau đây nhằm thu lợi bất chính từ việc tuyển
dụng người tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp:
1. Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban đầu
hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
2. Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người
tham gia để bán lại;
3. Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ
việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
4. Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp,
thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia.
Đối với việc xử phạt vi phạm trong lĩnh vực bán hàng đa cấp, Điều 36 Nghị định
71/2014/NĐ-CP quy định như sau:


Điều 36. Hành vi vi phạm quy định về bán hàng đa cấp
1. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi
sau đây:
a) Hoạt động bán hàng đa cấp mà không đảm bảo các điều kiện đăng ký hoạt động bán

hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
b) Không thực hiện thủ tục đề nghị cấp bổ sung, thay đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt
động bán hàng đa cấp khi có thay đổi, bổ sung liên quan đến hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp;
c) Không thực hiện thủ tục đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng
đa cấp khi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp bị mất hoặc bị rách, nát;
d) Cung cấp thông tin gian dối trong hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động
bán hàng đa cấp;
đ) Không triển khai hoạt động bán hàng đa cấp trong thời hạn 12 tháng liên tục kể từ
ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp hoặc tạm ngừng hoạt động
bán hàng đa cấp quá 12 tháng liên tục;
e) Ký hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với cá nhân không đủ điều kiện tham gia bán
hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
g) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến
hoạt động đào tạo người tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
h) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến
việc cấp, đổi, thu hồi thẻ thành viên bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
i) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ công bố công khai
tại trụ sở và cung cấp cho người có dự định tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp các thông tin,
tài liệu theo quy định của pháp luật;
k) Không thường xuyên giám sát hoạt động của người tham gia bán hàng đa cấp để bảo
đảm người tham gia bán hàng đa cấp thực hiện đúng Quy tắc hoạt động, Chương trình trả
thưởng của doanh nghiệp;
l) Không khấu trừ tiền thuế thu nhập cá nhân của người tham gia bán hàng đa cấp để nộp
vào ngân sách nhà nước trước khi chi trả hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác cho
người tham gia bán hàng đa cấp;
m) Không quản lý người tham gia bán hàng đa cấp qua hệ thống thẻ thành viên theo quy
định của pháp luật;
n) Không thông báo hoặc thông báo không đúng, không đầy đủ cho người tham gia bán
hàng đa cấp những hàng hóa thuộc diện không được doanh nghiệp mua lại trước khi người đó

tiến hành mua hàng;
o) Ký hợp đồng với người tham gia bán hàng đa cấp không bằng hình thức văn bản hoặc
không bao gồm đầy đủ các nội dung cơ bản theo quy định của pháp luật.


2. Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với một trong các hành vi
sau đây:
a) Không thực hiện đúng quy định về đối tượng kinh doanh theo phương thức đa cấp hoặc
kinh doanh theo phương thức đa cấp đối với hàng hóa chưa đăng ký với cơ quan cấp Giấy chứng
nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
b) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ được pháp
luật quy định khi tạm ngừng hoạt động bán hàng đa cấp hoặc tiếp tục hoạt động bán hàng đa cấp
sau thời gian tạm ngừng;
c) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thông báo đến cơ
quan có thẩm quyền khi chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp;
d) Hoạt động bán hàng đa cấp ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp
không có trụ sở chính khi chưa có xác nhận của Sở Công Thương tỉnh, thành phố đó về việc tiếp
nhận hồ sơ thông báo hoạt động;
đ) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thông báo đến Sở
Công Thương nơi tổ chức hội nghị, hội thảo, đào tạo theo quy định của pháp luật;
e) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ mua lại hàng hóa
của người tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
g) Trả cho người tham gia bán hàng đa cấp tổng giá trị hoa hồng, tiền thưởng và các lợi
ích kinh tế khác trong một năm vượt quá 40% doanh thu bán hàng đa cấp trong năm đó của
doanh nghiệp bán hàng đa cấp;
h) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ pháp luật quy định
khi chấm dứt hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp;
i) Rút khoản tiền ký quỹ khi chưa có văn bản đồng ý của Cơ quan cấp giấy chứng
nhận đăng kýhoạt động bán hàng đa cấp trừ trường hợp doanh nghiệp rút khoản tiền đã ký quỹ
vào ngân hàng thương mại để thực hiện thủ tục đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp mà không

được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp;
k) Không thực hiện thay đổi văn bản xác nhận ký quỹ hoặc thực hiện thủ tục thay đổi
văn bản xác nhận ký quỹ nhưng không thông báo đến cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký
hoạt động bán hàng đa cấp khi có sự thay đổi liên quan tới các nội dung cơ bản của văn bản
xác nhận ký quỹ;
l) Không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ báo cáo định kỳ với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
3. Phạt tiền doanh nghiệp bán hàng đa cấp từ 60.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối
với một trong các hành vi sau đây:
a) Kinh doanh theo phương thức đa cấp mà không đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp
với cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
b) Yêu cầu người muốn tham gia bán hàng đa cấp phải đặt cọc hoặc đóng một khoản tiền
nhất định dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;


×