Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Luận văn thạc sỹ: Hoàn thiện Kiểm soát chất lượng Kiểm toán Báo cáo Tài chính tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán (AASC)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 102 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trên thế giới chất lượng kiểm toán là vấn đề được đặc biệt quan tâm. Tại Mỹ
ngoài việc các công ty kiểm toán xây dựng những hệ thống kiểm soát chất lượng của
riêng mình thì nhà nước cũng tham gia vào quá trình kiểm soát thông qua 3 tổ chức là
Ủy ban Giám sát hoạt động kiểm toán cho các công ty đại chúng, trung tâm chương
trình kiểm tra chéo các công ty kiểm toán cho các công ty đại chúng và hiệp hội kế
toán viên công chứng hoa kỳ.
Tại Việt Nam Kiểm toán độc lập đã hình thành và phát triển từ năm 1991 với 2
công ty kiểm toán đầu tiên, sau gần 20 năm thị trường kiểm toán độc lập ở Việt Nam
đã được mở rộng với gần 160 công ty với khoảng 8.000 nhân viên và hơn 1.100 người
có chứng chỉ Kiểm toán viên. Thị trường kiểm toán Việt Nam là rất lớn, đặc biệt khi
thị trường chứng khoán hình thành và phát triển, số lượng người sử dụng thông tin tài
chính ngày càng nhiều và đa dạng. Để ổn định thị trường chứng khoán, một trong
những biện pháp không thể thiếu là thông tin cung cấp phải trung thực. Muốn vậy,
dịch vụ kiểm toán phải đảm bảo chất lượng. Nói cách khác, chất lượng của dịch vụ
kiểm toán là mối quan tâm của các đối tượng sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính.
Muốn nâng cao chất lượng, cần tiến hành kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán.
Nhận thức được tầm quan trọng của viêc kiểm soát chất lượng kiểm toán từ năm 1998,
Bộ Tài chính đã tổ chức các cuộc kiểm tra đối với công ty kiểm toán. Ngày 14/3/2003
Bộ Tài chính đã ban hành chuẩn mực số 220 về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm
toán. Đến ngày 15/5/2007 Bộ đã ban hành quy chế kiểm soát chất lượng kiểm toán và
đến ngày 15/12/2009 hội kiểm toán viên hành nghề đã ban hành hồ sơ kiểm toán mẫu
để áp dụng cho mùa kiểm toán 2009-2010.
Về phía các công ty do số lượng các công ty kiểm toán ngày càng cao, mức độ
cạnh tranh ngày càng lớn. Một trong những nhân tố để khẳng định vị thế của mình trên
thị trường được thể hiện thông qua chất lượng của các thông tin cung cấp trên báo cáo



2

kiểm toán. Chính vì thế, việc nâng cao chất lượng kiểm toán là một trong những yêu
cầu cấp thiết để tồn tại và phát triển.
Trong bối cảnh đó việc nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện Kiểm soát chất lượng
Kiểm toán Báo cáo Tài chính tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Tư vấn Tài chính Kế
toán và Kiểm toán (AASC)” là hết sức cần thiết, giúp công ty ngày càng phát triển và
tăng cường được tính cạnh tranh trên thị trường.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là:
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng Kiểm toán báo cáo tài
chính, kiểm soát chất lượng Kiểm toán báo cáo tài chính;
Phân tích đánh giá thực trạng kiểm soát chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính
tại công ty AASC;
Trên cơ sở đó, luận văn đã đánh giá những ưu điểm và tồn tại trong kiểm soát
chất lượng kiểm toán Báo cáo tài chính của công ty từ đó đề ra một số các phương
hướng và giải pháp nâng cao chất lượng cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính tại công ty
AASC.
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Thực trạng Kiểm soát chất lượng Kiểm toán
báo cáo tài chính do công ty AASC thực hiện.
Giới hạn về địa điểm thực hiện: Đi sâu nghiên cứu công tác kiểm soát chất
lượng kiểm toán từ giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán, kết thúc
cuộc kiểm toán và kiểm soát chất lượng sau kiểm toán do công ty AASC thực hiện,
trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện thủ tục này.
Giới hạn về thời gian thực hiện: Đi vào nghiên cứu công tác kiểm soát chất lượng
trong năm tài chính 2010 do Công ty AASC thực hiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, phương pháp tổng hợp, phân
tích, kết hợp chặt chẽ giữa tư duy lý luận và phân tích thực tiễn.Trong quá trình nghiên

cứu thực trạng tại công ty, tác giả đã thực hiện các phương pháp:
Phỏng vấn các thành viên trong Ban kiểm soát và Phòng đào tạo và kiểm soát
chất lượng của Công ty AASC.
Nghiên cứu quy trình và tìm hiểu thực tế áp dụng được ghi chép trong các hồ sơ
kiểm toán của công ty AASC. Để có cái nhìn cụ thể hơn về chất lượng hoạt động kiểm


3

toán Báo cáo tài chính tại Công ty Kiểm toán AASC, tôi đã đi vào nghiên cứu chọn
mẫu 10 khách hàng là những công ty,tổng công ty lớn cùng 10 khách hàng có quy mô
nhỏ. Số lượng mẫu chọn chiếm 10% tỷ lệ khách hàng của công ty, mặc dù tỷ lệ mẫu
chọn nhỏ nhưng mang tính đại diện cao do 90% khách hàng kiểm toán Báo cáo tài
chính của công ty có kết cấu tương tự. Trên cơ sở quy trình chuẩn và khảo sát thực tế
tại công ty đánh giá thực trạng kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán Báo cáo tài
chính.
Tổng hợp các tài liệu hội thảo và tạp chí chuyên ngành để rút ra những tồn tại
trong công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập và các bài học kinh
nghiệm từ các quốc gia khác.
Kỹ năng trình bày: Sử dụng phương pháp diễn giải, quy nạp trình bày lời văn
cùng với bảng biểu và số liệu minh họa.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; đề tài được chia
thành ba chương như sau:
Chương 1: Lý luận chung về kiểm soát chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính
do công ty kiểm toán thực hiện.
Chương 2: Thực trạng kiểm soát chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính tại
công ty AASC
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện kiểm soát chất lượng
kiểm toán báo cáo tài chính do công ty AASC thực hiện


CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH DO CÔNG TY KIỂM TOÁN
THỰC HIỆN
1.1. Lý luận chung về kiểm soát chất lượng kiểm toán
1.1.1. Lịch sử ra đời của kiểm soát chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính


4

Kiểm toán là một hoạt động đã có lâu đời kể từ thời kỳ thông tin được phê
chuẩn bằng cách đọc lên trong buổi họp công khai. Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, sự ra đời của công ty cổ phần và thị trường chứng khoán, sự tách rời giữa
quyền sở hữu và quyền quản lý đã làm cho nhu cầu cần kiểm tra của người chủ sở hữu
để chống lại sự gian lận của người quản lý lẫn người làm công. Kiểm toán độc lập đã
ra đời vào thế kỷ 18 nhằm đáp ứng cho nhu cầu này. Đến thế kỷ 19, với việc bành
trướng thuộc địa của Anh đã kéo theo sự mở rộng đầu tư của các nhà tư bản Anh sang
các quốc gia thuộc địa. Do sự cách trở về địa lý nên các nhà đầu tư cần có người giám
sát các khoản đầu tư khi họ vắng mặt, nhiệm vụ này đã được trao cho các kiểm toán
viên. Trong thời kỳ này, để tăng độ tin cậy vào kiểm toán viên, các nhà đầu tư Anh chỉ
cấm kiểm toán viên làm việc cho công ty được kiểm toán hơn là chú trọng vào chất
lượng của các cuộc kiểm toán do kiểm toán viên thực hiện.
Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, do có sự dịch chuyển vốn từ quốc gia này sang
quốc gia khác và hợp nhất các công ty lớn ở Anh trong ngành khai thác mỏ, đường sắt,
nhiên liệu,... đã dẫn đến sự thay đổi trong quan điểm về mục đích, bản chất và nguồn
vốn đầu tư vào các công ty. Từ đó nhiệm vụ của kiểm toán viên chuyển sang phục vụ
cho cổ đông trong cộng đồng nhiều hơn là lợi ích của người chủ sở hữu vắng mặt.
Nhóm cổ đông trong cộng đồng chủ yếu là các nhà đầu tư địa phương, mà thường là
các ngân hàng lớn hay các nhà đầu tư lớn và nhóm này ngày càng gia tăng. Chính

nhóm cổ đông này đã làm thay đổi quan điểm về chất lượng của hoạt động kiểm toán,
vì họ mong muốn rằng những thông tin mà họ nhận được từ các báo cáo tài chính đã
được kiểm toán mang tính trung thực và khách quan cao. Chính vì thế, vào thời gian
này các công ty kiểm toán bắt đầu chú trọng đến công tác kiểm soát chất lượng hoạt
động của mình với mục tiêu là đem đến cho người sử dụng những thông tin có chất
lượng tốt nhất.
Cùng với quá trình phát triển của kinh tế, yêu cầu của xã hội đối với kiểm toán
ngày càng cao. Kiểm soát chất lượng ngày càng trở thành mối quan tâm hàng đầu của
nghề nghiệp.
1.1.2. Khái niệm chất lượng hoạt động kiểm toán và kiểm soát chất lượng

hoạt động kiểm toán


5

Chất lượng luôn là sự thách thức, là mối quan tâm hàng đầu mà bất cứ tổ chức
nào đều phải đối mặt trong lĩnh vực hoạt động của mình. Dưới những góc nhìn khác
nhau, có thể có các định nghĩa khác nhau về chất lượng:
Theo từ điển Tiếng Việt thì: “Chất lượng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của
con người, của một sự vật, sự việc”.
Theo định nghĩa của tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) 5200-ISO 9000 thì “chất
lượng là mức độ phù hợp của sản phẩm hoặc dịch vụ thỏa mãn các yêu cầu đề ra hoặc
định trước của người mua”.
Một sản phẩm có tồn tại được là nhờ chất lượng, Kiểm toán là một ngành cung
cấp dịch vụ với mục đích nâng cao chất lượng thông tin tài chính của đơn vị. Do vậy,
tương tự như các ngành nghề khác, kiểm toán chỉ có thể tồn tại khi cung cấp dịch vụ
có chất lượng cao, được người sử dụng tin cậy. Chất lượng kiểm toán được đo bởi sự
thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng.
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 220 (VSA 220 - Kiểm soát chất lượng

hoạt động kiểm toán): “Chất lượng hoạt động kiểm toán là mức độ thỏa mãn của các
đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán về tính khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm
toán của kiểm toán viên; đồng thời thỏa mãn mong muốn của đơn vị được kiểm toán
về những ý kiến đóng góp của kiểm toán viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh, trong thời gian định trước với giá phí hợp lý.”
Như vậy, chất lượng hoạt động kiểm toán có thể được xem xét dưới ba góc độ:
Mức độ người sử dụng thông tin thỏa mãn đối với tính khách quan và độ tin cậy
của kết quả kiểm toán;
Mức độ đơn vị được kiểm toán thỏa mãn về ý kiến đóng góp nhằm mục đích
nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh;
Báo cáo kiểm toán được lập và phát hành theo đúng thời gian đã đề ra trong
hợp đồng kiểm toán và chi phí dịch vụ kiểm toán ở mức hợp lý.
Do vậy, muốn nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán đòi hỏi phải có sự kiểm
soát chất lượng. Kiểm soát chất lượng hoạt động là một quá trình trong đó công ty
kiểm toán thực hiện nhiều thủ tục như hướng dẫn, giao việc, giám sát, kiểm tra công
việc mà các kiểm toán viên thực hiện và kiểm tra các nhận xét, kết luận của nhóm
kiểm toán trước khi phát hành báo cáo kiểm toán.
Đối với hoạt động kiểm toán, kiểm soát chất lượng kiểm toán có thể được hiểu
là một hệ thống chính sách và biện pháp để nắm bắt và điều hành hoạt động kiểm toán


6

đạt chuẩn mực chung. Hệ thống chính sách và biện pháp đó bao gồm: quan điểm về
kiểm soát, các qui định nghiệp vụ kiểm toán và kiểm soát, cơ cấu tổ chức bộ máy kiểm
soát, chính sách về nhân sự, các hoạt động kiểm tra, soát xét, thu thập thông tin, xác
nhận.... Kiểm soát chất lượng kiểm toán được thực hiện từ trước trong và sau quá trình
kiểm toán, do nhiều cấp độ kiểm soát tiến hành, với nhiều phương pháp kiểm soát
khác nhau.
Mục tiêu chung của kiểm soát chất lượng kiểm toán là nhằm bảo đảm cho kiểm

toán viên tuân thủ đúng chuẩn mực nghề nghiệp và chuẩn mực chất lượng theo quy
định, nhằm tạo ra những sản phẩm kiểm toán đạt tiêu chuẩn chất lượng, đáp ứng yêu
cầu của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán. Các mục tiêu cụ thể là:
- Việc kiểm toán được thực hiện phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán, quy
trình kiểm toán, phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán và các quy chế, quy
định khác trong hoạt động kiểm toán;
- Các thành viên của đoàn kiểm toán hiểu rõ và nhất quán về kế hoạch kiểm
toán, tổ chức thực hiện kiểm toán, lập báo cáo kết quả kiểm toán;
- Các ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán có đầy đủ
bằng chứng kiểm toán thích hợp, phù hợp với các chuẩn mực đã quy định. Tất cả các
lỗi, thiếu sót và các vấn đề không bình thường phải được nhận biết, lưu lại bằng văn
bản và giải quyết đúng đắn hoặc báo cáo cho người có thẩm quyền cao hơn xem xét,
sử lý;
- Đạt được các mục tiêu kiểm toán đã đặt ra; báo cáo kiểm toán phải bao gồm
đầy đủ các ý kiến đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị kiểm toán liên quan đến
cuộc kiểm toán;
- Rút ra những kinh nghiệm nhằm cải thiện hoạt động kiểm toán trong tương
lai. Những kinh nghiệm đó cần phải được nhận biết, ghi chép và phải được đưa vào kế
hoạch kiểm toán kỳ sau và trong các hoạt động phát triển nhân sự.
Như vậy, kiểm soát chất lượng kiểm toán đã được thừa nhận như một chức
năng của quản lý hoạt động kiểm toán, là trách nhiệm pháp lý, trách nhiệm chuyên
môn nghề nghiệp của mọi tổ chức kiểm toán, là một trong những chuẩn mực kiểm toán
quan trọng trong hoạt động kiểm toán. Do vậy, việc thiết lập và duy trì một hệ thống
kiểm soát chất lượng kiểm toán là một trong những nhiệm vụ không thể thiếu được
của các tổ chức kiểm toán.


7

Thiết lập và duy trì cơ chế kiểm soát chất lượng kiểm toán chặt chẽ, có hiệu

quả, các tổ chức kiểm toán sẽ đảm bảo với công chúng rằng, kết quả kiểm toán trước
khi đến với công chúng đã được kiểm soát, chất lượng kiểm toán được bảo đảm, từ đó
củng cố được lòng tin của công chúng vào chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề
nghiệp của kiểm toán viên. Ngược lại, nếu chất lượng kiểm toán không được kiểm
soát, hoặc kiểm soát không có hiệu quả thì lòng tin của công chúng vào chất lượng
kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của kiểm toán viên khó tránh khỏi sự lung lay.
Muốn đạt được các mục tiêu trên, chất lượng hoạt động kiểm toán phải được
kiểm soát chặt chẽ. Việc kiểm soát không chỉ được thực hiện bởi chính các công ty
kiểm toán mà còn được tiến hành bởi hội nghề nghiệp, Bộ tài chính hoặc các cơ quan
chức năng có liên quan.

1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng kiểm toán
Có thể thấy chất lượng kiểm toán bao gồm các chỉ tiêu chủ yếu sau:
Mức độ thoả mãn về tính khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của
những đối tượng sử dụng dịch vụ kiểm toán;
Mức độ thoả mãn về những đóng góp của kiểm toán viên nhằm nâng cao hiệu
quả công tác quản lý tài chính của đơn vị được kiểm toán theo đúng chế độ chính sách
của nhà nước cũng như các qui định riêng của đơn vị.
Báo cáo kiểm toán được phát hành theo đúng thời gian đã đề ra trong hợp đồng
kiểm toán và chi phí cho dịch vụ kiểm toán ở mức độ phù hợp.

1.1.3.1.Mức độ thoả mãn về tính khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán
của những người sử dụng kết quả kiểm toán
Tính khách quan, độc lập của kiểm toán viên là điều kiện trước hết để đảm bảo
ý nghĩa và giá trị sử dụng của dịch vụ kiểm toán độc lập. Ý kiến kiểm toán đưa ra
không làm tăng thêm lượng thông tin cho những người sử dụng kết quả kiểm toán mà
chỉ đảm bảo cho những đối tượng này về tính trung thực hợp lý của các báo cáo tài
chính mà họ được cung cấp. Sự đảm bảo này được chấp nhận và có giá trị bởi: (i) ý



8

kiến kiểm toán được đưa ra bởi chuyên gia kiểm toán có đủ năng lực, trình độ chuyên
môn; (ii) tính độc lập, khách quan của ý kiến kiểm toán. Những người sử dụng kết
quả kiểm toán chỉ thật sự hài lòng và thoả mãn khi họ tin tưởng rằng ý kiến kiểm toán
đưa ra dựa trên các cơ sở đó. Để đánh giá được chỉ tiêu này, người ta xem xét tính
tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp của kiểm toán viên và của công ty kiểm toán,
điều này thể hiện khá rõ qua tính chuyên nghiệp của kiểm toán viên trong quá trình
thực hiện công việc kiểm toán. Việc đánh giá đó cần bao quát các khía cạnh sau:
-

Đảm bảo tính độc lập, khách quan và chính trực

-

Kiến thức, kỹ năng kinh nhiệm của kiểm toán viên

-

Các phương pháp thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán

-

Công tác giám sát, quản lý cuộc kiểm toán

-

Các thủ tục soát xét, phát hành báo cáo kiểm toán

-


Các khía cạnh khác

1.3.1.2. Mức độ thoả mãn về sự đóng góp của kiểm toán viên nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý tài chính của đơn vị được kiểm toán theo đúng chế độ
chính sách của nhà nước cũng như các qui định riêng của đơn vị.
Mục tiêu chính của kiểm toán độc lập báo cáo tài chính là đưa ra ý kiến độc lập
về tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính. Do vậy ở chỉ tiêu thứ nhất là
thể hiện sự thoả mãn về tính khách quan, độc lập và tin cậy vào ý kiến kiểm toán của
những người sử dụng kết quả kiểm toán thì ở chỉ tiêu này lại là sự thoả mãn của đơn
vị được kiểm toán về giá trị gia tăng mà kiểm toán viên có thể cung cấp cho đơn vị.
Đối với các nhà quản lý đơn vị được kiểm toán, việc phát hiện và ngăn ngừa các sai
sót trong quản lý tài chính, kế toán không phải lúc nào cũng hoàn hảo và kiểm soát
được toàn bộ. Do vậy báo cáo tài chính do đơn vị lập nên vẫn có thể có những sai sót
trọng yếu do những hạn chế trong hệ thống kiểm soát của đơn vị. Trách nhiệm của
các kiểm toán viên là phải đảm bảo rằng báo cáo tài chính đó không có sai sót trọng
yếu, và nếu có kiểm toán cần chỉ ra những sai sót đó để đơn vị sửa chữa và điều chỉnh
hoặc là cơ sở cho việc không đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần. Đó chính là cơ sở để
các nhà quản lý đơn vị tin tưởng và đặt hy vọng vào những phát hiện và những kiến


9

nghị đóng góp của kiểm toán viên theo đó có thể sửa đổi và đảm bảo rằng báo cáo tài
chính của họ là trung thực và hợp lý. Hơn nữa, thông qua những phát hiện và kiến
nghị đóng góp của kiểm toán viên các nhà quản lý đơn vị có thể hoàn thiện hệ thống
kiểm soát của mình và nâng cao hiệu quả quản lý tài chính kế toán của đơn vị.
Mức độ thoả mãn của các nhà quản lý đơn vị đối với những đóng góp của kiểm
toán không cụ thể hoá được bằng số lượng bởi có thể có hoặc có thể không có các
phát hiện và kiến ghị góp ý hoàn thiện hệ thống kiểm soát của đơn vị mà chỉ có thể

đánh giá ở sự hài lòng và đánh giá cao của các nhà quản lý doanh nghiệp về tính
chuyên nghiệp và trách nhiệm của kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán.

1.3.1.3. Báo cáo kiểm toán được lập và phát hành theo đúng thời gian đã
đề ra trong thư hẹn kiểm toán và chi phí cho dịch vụ kiểm toán ở mức độ phù
hợp.
Một trong các yêu cầu của thông tin tài chính là tính kịp thời, các thông tin
không được cung cấp đúng lúc sẽ trở nên không có giá trị sử dụng, đồng thời có thể
gây nhiều khó khăn trong việc đưa ra các quyết định quản lý hoặc bỏ lỡ các cơ hội
kinh doanh. Mặc dù kiểm toán không phải là kênh cung cấp thông tin riêng biệt,
nhưng nó là một khâu thẩm định trong hệ thống cung cấp thông tin. Các thông tin tài
chính do đơn vị lập và được các kiểm toán viên, công ty kiểm toán kiểm tra và đưa ra
ý kiến về tính trung thực hợp lý của các thông tin này trước khi chuyển cho những
người sử dụng. Do vậy mọi chậm trễ trong quá trình kiểm toán do nguyên nhân của
việc tổ chức, giám sát quản lý cuộc kiểm toán thiếu hiệu quả hoặc bất cứ lý do gì khác
từ phía công ty kiểm toán dẫn đến sự chậm trễ không theo đúng kế hoạch đặt ra trong
hợp đồng kiểm toán/ hay Thư hẹn kiểm toán đều làm ảnh hưởng đến uy tín và giá trị
của dịch vụ của công ty kiểm toán.
Về giá phí kiểm toán, đây cũng là chỉ tiêu quan trọng đánh giá chất lượng kiểm
toán. Ở chỉ tiêu thứ nhất và thứ hai nói lên tính chất kỹ thuật của dịch vụ, nó đánh giá


10

mức độ thoả mãn nhu cầu của những người sử dụng kết quả của dịch vụ kiểm toán về
sự đảm bảo cho tính trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính mà họ được cung
cấp cũng như lượng những ý kiến tư vấn nhằm hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ
của đơn vị được kiểm toán. Trong nền kinh tế thị trường đặc biệt là hoạt động kiểm
toán độc lập, việc quan tâm đến lợi ích của đơn vị được kiểm toán hết sức quan trọng,
đó chính là yếu tố kinh tế xã hội của dịch vụ. Yếu tố này yêu cầu công ty kiểm toán

không những phải đảm bảo nhu cầu có được ý kiến độc lập của kiểm toán viên về tính
trung thực của báo cáo tài chính mà cả giá của nhu cầu cũng được thoả mãn. Phí dịch
vụ kiểm toán xác định trên cơ sở thời gian cần thiết để các kiểm toán viên thực hiện
công việc kiểm toán và đơn giá giờ công làm việc của kiểm toán viên. Ngoại trừ
những ảnh hưởng của yếu tố đơn giá giờ công làm việc của kiểm toán viên và sự hợp
tác của đơn vị được kiểm toán với các kiểm toán viên trong quá trình kiểm toán thì
việc xác định và giảm thiểu thời gian kiểm toán mà vẫn đảm bảo thu thập được đầy
đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp sẽ là điều kiện để giảm thiểu giá dịch vụ cho
khách hàng. Đó chính là sự thể hiện và là một trong các chỉ tiêu đánh giá chất lượng
kiểm toán.
Chất lượng là khái niệm tương đối, biến đổi theo thời gian, không gian, theo sự
phát triển của nhu cầu xã hội và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Ở nước ta, kiểm
toán độc lập hình thành và phát triển chưa lâu, hành lang pháp lý đang từng bước
hoàn thiện (các chuẩn mực kiểm toán đã và đang tiếp tục được nghiên cứu và công
bố), và sự hiểu biết về kiểm toán của các đơn vị được kiểm toán còn hạn chế. Do vậy
sự đánh giá về chất lượng kiểm toán vẫn còn nhiều bất cập và thiếu cơ sở theo đó lý
luận về chất lượng kiểm toán cần tiếp tục nâng cao và hoàn thiện.

1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động kiểm toán.
Nếu xét theo các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán, có thể tổng hợp
các yếu tố này thành 2 nhóm chủ yếu là nhóm các yếu tố bên ngoài và nhóm các yếu tố
bên trong.


11

1.1.4.1. Nhóm các yếu tố bên ngoài: bao gồm nhu cầu của nền kinh tế và
cơ chế của nền kinh tế.
Nhu cầu của nền kinh tế:
Không có sản phẩm dịch vụ nào cung cấp cho thị trường lại không nhằm đáp

ứng nhu cầu nào đó của nền kinh tế. Do vậy ở bất cứ trình độ nào, với mục đích sử
dụng gì chất lượng sản phẩm, dịch vụ bao giờ cũng bị chi phối, bị ràng buộc bởi hoàn
cảnh, điều kiện và nhu cầu nhất định của nền kinh tế. Ảnh hưởng của nhu cầu của nền
kinh tế đối với chất lượng kiểm toán thể hiện qua:
Đòi hỏi của thị trường: Ở những thị trường khác nhau có những đòi hỏi khác
nhau và đối tượng khác nhau thì yêu cầu khác nhau. Có những đối tượng cần kiểm
toán bởi theo qui định của nhà nước phải kiểm toán, có đối tượng cần kiểm toán do
yêu cầu quản lý của bản thân họ hay do yêu cầu của bên thứ 3, đối tác kinh doanh …
Mặc dù kiểm toán cho đối tượng nào đi chăng nữa thì công việc kiểm toán cũng phải
tuân theo pháp luật và các chuẩn mực nghề nghiệp. Tuy nhiên các điều kiện riêng của
từng đối tượng này là không giống nhau, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khác
với doanh nghiệp nhà nước và khác với công ty cổ phần, Luật pháp điều chỉnh đối với
các đối tượng này không giống nhau, hệ thống quản lý, kiểm soát nội bộ của họ cũng
rất khác nhau và mục đích sử dụng kiểm toán cũng không thống nhất. Điều này thực
sự sẽ ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán. Đối với khách hàng có hệ thống quản lý
hữu hiệu, hiểu biết về kiểm toán đương nhiên sẽ dễ dàng hơn nhiều cho kiểm toán viên
trong quá trình kiểm toán so với khách hàng có hệ thống kiểm soát thiếu hiệu lực,
thiếu sự hợp tác với kiểm toán viên. Trong những trường hợp như vậy những ảnh
hưởng đến kết quả kiểm toán là rất khác nhau và trong nhiều trường hợp kiểm toán
viên phải đưa ra ý kiên không thể đưa ra ý kiến. Đó là điều không mong đợi của kiểm
toán viên và của những người sử dụng dịch vụ, kết quả kiểm toán.
Trình độ kinh tế, xã hội: Muốn có được sản phẩm có chất lượng phải dựa trên
cơ sở phát triển của nền kinh tế, xã hội. Thực tế không thể đánh giá hoặc so sánh chất
lượng kiểm toán ở Việt nam với chất lượng kiểm toán ở các nước phát triển như Anh,


12

Hoa Kỳ, Pháp...Bởi hệ thống lý luận về kiểm toán, hệ thống về qui trình kỹ thuật
nghiệp vụ của Việt nam vẫn khác nhiều so với các nước đó hay về đội ngũ chuyên gia

kiểm toán ở Việt nam vẫn chưa được đào tạo đầy đủ và cơ bản như các nước. Tất cả
những điều này đều ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán. Do vậy, vấn đề nâng cao
chất lượng kiểm toán cần phải xem xét trong quá trình phát triển chung của nền kinh
tế.
Cơ chế quản lý kinh tế:
Bất cứ hoạt động kinh tế nào, dưới chế độ nào đều chịu tác động, chi phối bởi
cơ chế quản lý kinh tế nhất định. Cơ chế quản lý kinh tế tác động đối với chất lượng
kiểm toán thể hiện ở qua các nội dung sau:
Mục tiêu kinh tế: Mục tiêu phát triển kinh tế có thể làm thay đổi lớn đến nhu
cầu về kiểm toán kéo theo những ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán. Ví dụ về chủ
trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước hoặc qui định khi công bố báo cáo tài
chính phải được kiểm toán xác nhận đã tạo ra thị trường lớn về nhu cầu kiểm toán.
Hoặc định hướng phát triển dịch vụ kiểm toán của đảng cũng tạo ra nhiều cơ hội cho
sự phát triển của hoạt động này.
Các chính sách kinh tế: Chính sách kinh tế có tác động rõ nét đến chất lượng
kiểm toán. Trên cơ sơ xác định mục tiêu phát triển kiểm toán, Nhà nước đã có hàng
loạt các biện pháp đảm bảo cho sự phát triển như việc đầu tư nghiên cứu các chuẩn
mực kiểm toán, kế toán. Đây là những nỗ lực lớn nhằm phát triển hoạt động kiểm toán
và đảm bảo chất lượng kiểm toán. Hoặc chính sách khuyến khích công ty kiểm toán
quốc tế kết hợp cùng các công ty kiểm toán trong nước kiểm toán các khách hàng là
doanh nghiệp nhà nước, dự án đã tạo cho sự trao đổi học hỏi kinh nghiệm cùng nâng
cao chất lượng công việc. Ngược lại cũng có những chính sách làm hạn chế khả năng
nâng cao chất lượng. Cụ thể như việc qui định về khung giá phí kiểm toán hoặc cơ chế
tiền lương của các kiểm toán viên trong các công ty kiểm toán là doanh nghiệp nhà
nước làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng làm việc, nghiên cứu của kiểm toán viên,


13

Tổ chức quản lý chất lượng: Hình thành cơ chế quản lý chất lượng trong cơ chế

chung của quản lý kinh tế. Cơ chế quản lý chất lượng sẽ đảm bảo sự hài hoà giữa lợi
ích của công chúng đối với kiểm toán và sự phát triển của hoạt động kiểm toán. Cơ
chế kiểm soát quản lý chất lượng hữu hiệu sẽ đảm bảo cho sự phát triển có chất lượng
và hiệu quả của hoạt động kiểm toán.

1.4.1.2. Nhóm các yếu tố bên trong
Là các yếu tố trong phạm vi của công ty kiểm toán. Đây là các yếu tố cơ bản
quyết định đến chất lượng kiểm toán. Các yếu tố bao gồm:

Yếu tố con người:
Đối với hoạt động kiểm toán, lao động của kiểm toán viên (bao gồm cả các cấp
quản lý) là yếu tố chính, cơ bản nhất tạo nên giá trị của dịch vụ. Kiểm toán là quá trình
các kiểm toán viên thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán để đưa ra ý kiến của
mình. Trong quá trình này cần đến những đánh giá mang tính chủ quan của kiểm toán
viên. Do vậy có thể thấy, chất lượng kiểm toán phụ thuộc lớn vào chất lượng của đội
ngũ kiểm toán viên (nhân viên kiểm toán và các cấp quản lý của công ty kiểm toán).
Yếu tố kỹ thuật:
Để cụ thể hoá các chuẩn mực chuyên môn, các công ty kiểm toán thiết kế riêng
cho mình hệ thống các qui trình kỹ thuật, các bước và phương pháp thu thập bằng
chứng kiểm toán, để dựa vào đó kiểm toán viên tiến hành thực hiện công việc được
giao. Hệ thống các yếu tố kỹ thuật này sẽ đảm bảo cho các kiểm toán viên thực hiện
công việc một cách khoa học, thu thập được đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích
hợp với chi phí và thời gian hợp lý, hạn chế thấp nhất rủi ro kiểm toán. Trong hệ thống
các yếu tố kỹ thuật có thể kể đến sự hỗ trợ của các phần mềm máy tính được các
chuyên gia thiết lập áp dụng cho một số các thủ tục kiểm toán như giúp các kiểm toán
viên có được số liệu phân tích, đánh giá hoặc đưa ra kết quả lựa chọn phương pháp


14


chọn mẫu, và các ứng dụng khác. Với phương pháp khoa học trong quá trình thu thập
bằng chứng kiểm toán, kiểm toán viên thể hiện cho đơn vị được kiểm toán thấy được
tính chuyên nghiệp, mặt khác hạn chế thấp nhất sự ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của đơn vị trong quá trình kiểm toán, tạo lòng tin nơi khách hàng. Có thể nói
yếu tố kỹ thuật như là công nghệ của quá trình kiểm toán.
Yếu tố quản lý:
Quản lý là yếu tố không thể thiếu và là quan trọng nhất trong mọi hoạt động
kinh tế xã hội. Đối với hoạt động kiểm toán độc lập, yếu tố quản lý cuộc kiểm toán có
ý nghĩa hết sức quan trọng, đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành tuân theo đúng
chuẩn mực nghề nghiệp, các yêu cầu kỹ thuật của công ty cũng như chuẩn mực phục
vụ khách hàng của công ty kiểm toán.
Các yếu tố về điều kiện phương tiện làm việc: Đây là những yếu tố quan trọng
giúp các kiểm toán viên thực hiện tốt công việc của mình một cách hiệu quả. Các yếu
tố này có thể kể như: máy tính, fax, mạng máy tính nội bộ, phương tiện liên lạc… Mặc
dù không tham gia trực tiếp tạo nên chất lượng kiểm toán nhưng những yếu tố này có
tác động tích cực trong chính sách thu hút nhân viên của công ty, mặt khác yếu tố này
cũng làm tăng thêm hình ảnh tốt về công ty kiểm toán trước khách hàng, tạo niềm tin
nơi khách hàng về tính chuyên nghiệp của kiểm toán.

1.1.5. Các loại hình kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán
Nếu xem xét theo phạm vi kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán có thể
phân chia thành

1.1.5.1. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập từ bên ngoài
Để nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán, các quốc gia luôn có các tổ chức
độc lập để tiến hành soát xét lại dịch vụ mà các công ty kiểm toán đã cung cấp cho
khách hàng. Tùy vào đặc điểm kinh tế, chính trị và yêu cầu quản lý của từng quốc gia
mà chủ thể kiểm soát độc lập đó có thể là các công ty kiểm toán khác, hội nghề nghiệp



15

hoặc cơ quan nhà nước phụ trách về kế toán, kiểm toán thực hiện công tác kiểm soát
chất lượng từ bên ngoài. Mặc dù, các chủ thể kiểm soát có thể khác nhau nhưng nhìn
chung quy trình và thủ tục kiểm soát chất lượng từ bên ngoài được thực hiện qua các
giai đoạn: Chuẩn bị kiểm soát, thực hiện kiểm soát, phát hành báo cáo kiểm soát, theo
dõi sau kiểm soát.
Công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán từ bên ngoài nhằm mục
tiêu:
Giúp cho các cơ quan quản lý, cơ quan chức năng liên quan kiểm soát việc xây
dựng và thực hiện các chính sách, thủ tục kiểm soát chất lượng kiểm toán của các công
ty kiểm toán độc lập có được tiến hành phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán từ đó đề
xuất các biện pháp thích hợp;
Giúp cho các công ty kiểm toán kịp thời khắc phục những sai sót, tồn tại trong
quá trình lập kế hoạch, thực hiện kiểm toán, cũng như tìm ra nguyên nhân và hoàn
thiện các phương pháp, kỹ năng làm việc của các kiểm toán viên nhằm góp phần hoàn
thiện quy trình nghiệp vụ đem lại một dịch vụ kiểm toán có chất lượng cao cho người
sử dụng.

1.1.5.2. Kiểm soát chất lượng kiểm toán từ bên trong
Đối với các công ty kiểm toán, Kiểm soát chất lượng là quá trình kiểm toán
viên độc lập và công ty kiểm toán thực hiện các chính sách và thủ tục kiểm soát chất
lượng đối với toàn bộ hoạt động kiểm toán của công ty và đối với từng cuộc kiểm
toán. Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán không chỉ nhằm nâng cao chất lượng
dịch vụ mà còn là biện pháp hữu hiệu để xử lý các rủi ro phát sinh từ việc tranh chấp
trách nhiệm nghề nghiệp giữa các bên. Kiểm soát chất lượng tại các công ty kiểm toán
vừa là quy chế vừa là các bước công việc mà các công ty Kiểm toán phải làm để có
cam kết hợp lý rằng mọi phần việc, mọi cuộc kiểm toán mà công ty đã thực hiện là
phù hợp với chuẩn mực kiểm toán Việt Nam hoặc chuẩn mực quốc tế được thừa nhận
tại Việt Nam.

Trong phạm vi giới hạn của đề tài em chỉ xin trình bày về cấp độ kiểm soát chất
lượng từ phía bên trong công ty kiểm toán.


16

1.2. Kiểm soát chất lượng kiểm toán theo chuẩn mực kiểm toán
1.2.1. Lịch sử phát triển chuẩn mực kiểm soát chất lượng
Nhằm phát triển và tăng cường phối hợp của ngành nghề một cách hài hòa trên
toàn thế giới, vào năm 1977 Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) đã được thành lập. Năm
1981, Ủy ban thực hành kiểm toán quốc tế (IAPC) trực thuộc IFAC đã ban hành
Nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc tế. Trong các nguyên tắc chỉ đạo kiểm toán quốc
tế, có nguyên tắc số 7 bàn về kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Nguyên tắc
này đưa ra hướng dẫn về những phương pháp mà công ty kiểm toán áp dụng nhằm
kiểm soát các công việc ủy thác cho các trợ lý trong một cuộc kiểm toán; những qui
chế, các bước công việc mà một công ty kiểm toán cần thiết lập để đảm bảo chất lượng
kiểm toán như [25]:
Giao việc: công việc kiểm toán phải được giao cho kiểm toán viên có đầy đủ
năng lực và trình độ; kiểm toán viên phải xem xét kỹ năng và trình độ của các trợ lý
trong quá trình làm việc để xác định phạm vi hướng dẫn, giám sát và soát xét lại.
Hướng dẫn: những trợ lý được giao việc đều phải được hướng dẫn cặn kẽ.Việc
hướng dẫn bao gồm: thông báo cho họ về trách nhiệm, mục đích, các bước công việc
cần thực hiện và đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp, những vấn đề cần lưu ý khi
thực hiện công việc kiểm toán.
Giám sát: trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán cán bộ phụ trách giám sát
nhằm bảo đảm rằng: các trợ lý tỏ ra có đầy đủ kỹ năng, trình độ nghiệp vụ để thực hiện
công việc mà mình được giao; các trợ lý hiểu rõ các hướng dẫn kiểm toán. Tiến hành
giải quyết sự khác nhau về mặt xét đoán nghiệp vụ giữa các cán bộ cùng tham gia cuộc
kiểm toán.
Soát xét lại: các phần việc do các trợ lý thực hiện cần phải được người thứ hai

có trình độ tương đương hoặc cao hơn soát xét lại. Trong một cuộc kiểm toán có thể
xác định các giai đoạn soát xét chính sau: Soát xét kế hoạch kiểm toán và chương trình
kiểm toán ban đầu; Soát xét việc nghiên cứu và đánh giá các quy chế kiểm soát nội bộ
kể cả các phương pháp tuân thủ; Soát xét các bằng chứng kiểm toán đã thu thập được
và các kết luận rút ra từ bằng chứng này; Soát xét báo cáo tài chính và dự thảo báo cáo
kiểm toán.


17

Kiểm tra chất lượng nói chung: kiểm tra chất lượng là quy chế các bước công
việc mà các hãng kiểm toán phải làm theo để có các cam kết hợp lý rằng mọi phần
việc, mọi cuộc kiểm toán mà công ty kiểm toán đã thực hiện là phù hợp với các
nguyên tắc cơ bản của kiểm toán. Nội dung và phạm vi của các thủ tục kiểm tra chất
lượng tùy thuộc vào các yếu tố như quy mô và loại hình hành nghề, địa bàn hoạt động,
cơ cấu tổ chức, chi phí thích hợp và sự cân nhắc về lợi ích của công ty kiểm toán.
Đến năm 1994, IAPC đã sửa đổi các nguyên tắc thực hành kiểm toán quốc tế và
ban hành chuẩn mực kiểm toán quốc tế số 220 (ISA 220 - Kiểm soát chất lượng hoạt
động kiểm toán). Cuối thế kỷ 20, quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển thị trường tài
chính quốc tế đã làm tăng nhu cầu thông tin phục vụ cho các nhà đầu tư. Sự phát triển
của công nghệ thông tin đòi hỏi việc kiểm tra, kiểm soát chặc chẽ các hệ thống và quy
trình liên quan đến thông tin. Các thay đổi này dẫn đến sự hình thành hàng loạt nhu
cầu xã hội đối với việc nâng cao chất lượng thông tin. Cũng trong thời gian này, sự sụp
đổ hàng loạt các công ty hàng đầu trên thế giới như Enron, Worlcom… trong đó có lỗi
của công ty kiểm toán. Sự sụp đổ và thất bại trong các cuộc kiểm toán buộc nghề
nghiệp phải xem xét lại các chuẩn mực đã được ban hành. Vào năm 2002, IFAC ban
hành chuẩn mực về dịch vụ đảm bảo có tên là ISAE100. Tầm quan trọng của dịch vụ
đảm bảo được thể hiện thông qua việc Ủy ban thực hành kiểm toán quốc tế (IAPC) đổi
tên thành Ủy ban quốc tế về chuẩn mực kiểm toán và dịch vụ đảm bảo (IAASB).
Trong cấu trúc các chuẩn mực ban hành bởi IAASB, chuẩn mực kiểm soát chất lượng

quốc tế (ISCQ) được áp dụng cho tất cả các dịch vụ nằm trong phạm vi quy định bởi
IAASB và chuẩn mực ISA 220 “Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán áp dụng
cho kiểm toán các thông tin tài chính lịch sử”.

1.2.2. Quy định về kiểm soát chất lượng đối với các công ty kiểm toán
Nội dung, quy mô và trình tự tiến hành thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động
kiểm toán được vận dụng tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng cuộc kiểm toán. Tuy
nhiên, có những chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán mà
các công ty kiểm toán phải xây dựng và thực hiện trong mọi cuộc kiểm toán để phù
hợp với chuẩn mực kiểm toán Việt Nam [10]. Đó là:


18

Thứ nhất, các công ty kiểm toán phải luôn xem xét về tính tuân thủ nguyên tắc
đạo đức nghề nghiệp của các nhân viên của mình. Việc theo dõi, kiểm tra sự tuân thủ
nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp bao gồm kiểm tra tính độc lập, chính trực, khách
quan, năng lực chuyên môn, tính thận trọng, bí mật, tư cách nghề nghiệp. Phân công
một người hoặc một nhóm người chịu trách nhiệm hướng dẫn và giải quyết những vấn
đề về tính độc lập, tính chính trực, tính khách quan và tính bí mật, công ty kiểm toán
có thể yêu cầu cán bộ, công nhân viên chuyên nghiệp nộp bản giải trình về tính độc lập
đối với khách hàng. Trong quá trình đào tạo và quá trình hướng dẫn, giám sát và kiểm
tra một cuộc kiểm toán cần nhấn mạnh đến tính độc lập và tư cách nghề nghiệp.
Thứ hai, công ty kiểm toán phải xem xét đến kỹ năng và năng lực chuyên môn
của các nhân viên chuyên nghiệp. Muốn cung cấp một dịch vụ với chất lượng cao
không những phải tuyển chọn các nhân viên có kỹ năng và năng lực chuyên môn cao
mà còn phải thường xuyên duy trì, cập nhập và nâng cao kiến thức cho họ trong quá
trình đào tạo và đào tạo lại.
Thứ ba, công việc kiểm toán phải được giao cho những cán bộ, nhân viên
chuyên nghiệp được đào tạo và có đầy đủ kỹ năng và năng lực chuyên môn đáp ứng

được yêu cầu thực tế. Cần lập kế hoạch về thời gian và nhân sự cho một cuộc kiểm
toán, phân công công việc cho họ một cách cụ thể rõ ràng.
Thứ tư, công việc kiểm toán phải được hướng dẫn, giám sát thực hiện đầy đủ ở
tất cả các cấp cán bộ, nhân viên nhằm đảm bảo là công việc kiểm toán đã được thực
hiện phù hợp với chuẩn mực kiểm toán và các quy định có liên quan.
Thứ năm, các công ty kiểm toán khi cần thiết có thể tham khảo ý kiến tư vấn
của chuyên gia trong công ty hoặc ngoài công ty. Việc tham khảo ý kiến tư vấn của
chuyên gia sẽ tăng mức độ tin cậy của ý kiến kiểm toán về các lĩnh vực chuyên môn
phức tạp, những ngành nghề kinh doanh phức tạp.
Thứ sáu, việc duy trì khách hàng hiện có và đánh giá khách hàng tiềm năng,
công ty kiểm toán phải cân nhắc đến tính độc lập, năng lực phục vụ khách hàng của


19

công ty kiểm toán và tính chính trực của Ban lãnh đạo của khách hàng, là nhân tố quan
trọng quyết định đến chất lượng kiểm toán.
Thứ bảy, công ty kiểm toán phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra quá trình thực
hiện các chính sách và thủ tục kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán của công ty
dưới nhiều hình thức như: đánh giá tính độc lập của kiểm toán viên, lựa chọn để kiểm
tra chất lượng và công việc từng hợp đồng kiểm toán.
Bên cạnh chuẩn mực này, xuyên suốt trong hệ thống các chuẩn mực kiểm toán
đều có những quy định về tuân thủ các nguyên tắc và thủ tục cơ bản liên quan đến
kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán. Việc áp dụng các quy định này nhằm giúp
cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán thực hiện công việc một cách khoa học, trên
cơ sở đó đạt được những mục tiêu trong công tác kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm
toán.

1.2.3. Kiểm soát chất lượng từ phía các công ty kiểm toán
Mục tiêu của kiểm soát chất lượng là bảo đảm cho kiểm toán viên tuân thủ đúng

các chuẩn mực nghề nghiệp hiện hành và các chuẩn mực chất lượng theo quy định đặt
ra, nhằm giúp công ty tạo ra những sản phẩm kiểm toán đạt tiêu chuẩn chất lượng, đáp
ứng yêu cầu của các đối tượng sử dụng kết quả kiểm toán. Vì vậy, trong những năm
qua các công ty kiểm toán đã xây dựng các chính sách kiểm soát chất lượng cho riêng
mình dựa trên các quy định của chuẩn mực để đạt được các mục tiêu chung ở trên. Các
chính sách này được xây dựng trước trong và sau quá trình kiểm toán, cụ thể:

1.2.3.1. Kiểm soát chất lượng trước kiểm toán
Chính sách tuyển dụng và đào tạo
Các công ty kiểm toán hiện nay đều nhận thức rõ nhân viên là tài sản của Công
ty, chất lượng nhân viên sẽ tạo nên sự khác biệt của các Công ty trên thị trường.Vì vậy,
hiện nay các công ty đều đã xây dựng chính sách tuyển dụng cho riêng mình. Khi
tuyển dụng, các công ty đều đặt ra yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp như: có trình độ tốt về kinh tế, tài chính, kế toán và kiểm toán; giỏi về ngoại
ngữ, độc lập, chính trực, khách quan….Trong thực tế, công tác tuyển dụng và đào tạo
của các công ty khái quát như sau:


20

Về công tác tuyển dụng: Các công ty kiểm toán đều xây dựng qui chế thi tuyển
và thực hiện tuyển dụng nhân viên qua nhiều bước trong đó đưa ra các tiêu chuẩn chi
tiết về tuyển chọn nhân viên. Các ứng viên đạt yêu cầu sẽ được mời thi tuyển qua
nhiều vòng và sẽ nhận được thông báo trúng tuyển khi đạt yêu cầu.
Về công tác đào tạo: Đây là hoạt động rất quan trọng của các công ty kiểm toán.
Trên thực tế do có sự khác biệt về đầu tư, kinh nghiệm nên giữa các công ty, hoạt động
này còn rất khác nhau. Các doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài đã và đang triển khai
chiến lược "Quốc tế hoá đội ngũ nhân viên", và thực hiện chính sách đào tạo chung
của công ty mẹ nên được tiếp nhận công nghệ kiểm toán quốc tế và được đào tạo một
cách có hệ thống về kế toán và kiểm toán quốc tế. Các doanh nghiệp kiểm toán Việt

Nam là thành viên hãng kiểm toán quốc tế đã cử các kiểm toán viên tham dự các khóa
đào tạo theo chính sách đào tạo riêng của từng hãng, đồng thời nhận được sự trợ giúp
của các hãng kiểm toán quốc tế về chuyển giao công nghệ kiểm toán, kỹ thuật và quản
lý, đào tạo đội ngũ nhân viên Việt Nam một cách có hệ thống, từng bước đạt tiêu
chuẩn quốc tế.Các doanh nghiệp kiểm toán lớn đã tự xây dựng được các chương trình
và nội dung đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, theo chuyên ngành và theo cấp bậc
nhân viên về: chuyên môn (như tài chính, kế toán, thuế, kiểm toán) và kỹ năng (như kỹ
năng quản lý, giao tiếp và thu hút khách hàng...), kết hợp đào tạo ở trong nước và
ngoài nước dưới nhiều hình thức như đào tạo cơ bản vào năm thứ 1,2,3; đào tạo kèm
cặp qua làm việc thực tế, chuyển đổi văn phòng đào tạo, học tập trung theo chuyên
ngành, học các chương trình đại học bằng 2, cao học, tham gia khoá học và dự thi lấy
chứng chỉ kiểm toán viên nước ngoài nhằm trang bị kiến thức sâu rộng hơn cho kiểm
toán viên, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập và mở cửa thị trường dịch vụ kế toán,
kiểm toán. Nhiều công ty đã có chương trình đào tạo chi tiết cho từng loại nhân viên
(thường là từ 150 đến 300 giờ/1năm).
Tuân thủ đạo đức nghề nghiệp
Đây là việc theo dõi, kiểm tra sự tuân thủ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp bao
gồm kiểm tra tính độc lập, chính trực, khách quan, năng lực chuyên môn, tính thận
trọng, bí mật, tư cách nghề nghiệp của nhân viên. Các công ty kiểm toán có thể yêu
cầu cán bộ công nhân viên chuyên nghiệp nộp bản giải trình về tính độc lập đối với


21

khách hàng, phân công người có đủ thẩm quyền kiểm tra tính độc lập của các nhân
viên.Trong quá trình đào tạo và hướng dẫn thực hiện, các công ty kiểm toán cần nhấn
mạnh đến tính độc lập và tư cách nghề nghiệp.
Giao việc
Đánh giá năng lực chuyên môn của đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp.Năng
lực chuyên môn của các nhân viên này cần được xem xét không những trong quá trình

thực hiện kiểm toán, mà phải được cân nhắc qua quá trình tuyển dụng và đào tạo nhân
viên. Thiết lập các tiêu chuẩn cho từng cấp bậc, chức danh và xác định cơ hội thăng
tiến nghề nghiệp cho các nhân viên là cách thức hiệu quả để tăng động lực cho các
kiểm toán viên không ngừng nâng cao khả năng chuyên môn. Hơn nữa, để góp phần
nâng cao năng lực và kỹ năng cho các nhân viên, các công ty kiểm toán cần tiến hành
đánh kết quả công tác và định kỳ thông báo cho họ triển vọng và cơ hội thăng tiến của
từng cá nhân.
Hướng dẫn và giám sát
Được thực hiện đầy đủ ở tất cả các cấp cán bộ, nhân viên. Đối với mỗi cuộc
kiểm toán, thành phần trong nhóm kiểm toán bao giờ cũng được xác định cụ thể, phù
hợp với đối tượng kiểm toán và yêu cầu pháp lý của cuộc kiểm toán, cơ cấu bao gồm:
giám đốc (partner), chủ nhiệm kiểm toán (manager), giám sát kiểm toán (supervisor),
kiểm toán viên chính (senior auditor) và các trợ lý kiểm toán. Cấp độ giám sát kiểm
toán sẽ tăng dần lên theo phạm vi của đối tượng và tính chất pháp lý của cuộc kiểm
toán. Bên cạnh việc tuân thủ các quy định trong việc soát xét công việc kiểm toán của
công ty trong từng nhóm kiểm toán, việc giám sát có thể do các kiểm toán viên trong
các nhóm kiểm toán khác thực hiện.
Tham khảo ý kiến
Trong trường hợp cần thiết phải tham khảo ý kiến của các chuyên gia tư
vấn.Việc tham khảo ý kiến tư vấn của chuyên gia sẽ tăng mức độ tin cậy của ý kiến
kiểm toán về các lĩnh vực chuyên môn phức tạp, những ngành nghề kinh doanh phức


22

tạp.Tuy nhiên, khi tham khảo ý kiến của chuyên gia, công ty kiểm toán luôn luôn phải
xem xét đến năng lực chuyên môn và tính độc lập, khách quan của chuyên gia tư vấn.

Duy trì và chấp nhận khách hàng
Cân nhắc đến khả năng phục vụ khách hàng của công ty kiểm toán và tính

chính trực của nhà quản lý công ty khách hàng, là nhân tố quan trọng quyết định đến
chất lượng kiểm toán. Nếu công ty kiểm toán không có những nhân viên chuyên
nghiệp, am hiểu về lĩnh vực kinh doanh của khách hàng thì họ nên nghĩ đến quyết định
không thực hiện kiểm toán toán đối với khách hàng đó.Nếu những nghi ngại về tính
chính trực của nhà quản trị quá nghiêm trọng, công ty kiểm toán cũng có thể từ chối
kiểm toán đối với khách hàng đó.

1.2.3.2. Kiểm soát chất lượng trong kiểm toán
Kiểm soát chất lượng trong khi kiểm toán tại mỗi công ty khác nhau sẽ được
thiết kế khác nhau, phù hợp với đặc điểm, quy mô của từng công ty.
Kiểm soát quá trình lập kế hoạch kiểm toán
Việc lập kế hoạch kiểm toán được tuân thủ chặt chẽ tại các Công ty Kiểm toán
lớn, kế hoạch kiểm toán sẽ được cấp kiểm toán viên có năng lực phù hợp thực hiện và
được soát xét ở cấp chủ nhiệm kiểm toán và giám đốc kiểm toán. Với các công ty kiểm
toán nhỏ thì tùy thuộc vào quan điểm của từng kiểm toán viên và tùy thuộc vào từng
cuộc kiểm toán, công tác này sẽ được thực hiện.
Về qui trình, kỹ thuật kiểm toán và hồ sơ kiểm toán
Tất cả các công ty kiểm toán quốc tế đều có các hướng dẫn từ tổng hợp đến
chi tiết trong qui trình kỹ thuật kiểm toán, đồng thời một số kỹ thuật trong qui trình
kiểm toán đã được vi tính hoá. Đối với các công ty TNHH trong nước thì các tài liệu
này còn rất hạn chế. Mặc dù không có qui định chi tiết, hướng dẫn cách lập hồ sơ kiểm
toán, tuy nhiên các công ty đều hình thành và áp dụng cách thức lập hồ sơ kiểm toán
và đánh tham chiếu một cách rõ ràng, khoa học. Các nội dung, phần hành công việc
kiểm toán được sắp xếp theo trình tự nhất định, có chỉ mục và tham chiếu rõ ràng. Các
hồ sơ kiểm toán lưu trữ của các công ty kiểm toán quốc tế. Đối với hồ sơ kiểm toán
của các công ty kiểm toán khác mà đặc biệt là các công ty TNHH trong nước thì lưu


23


tại hồ sơ kiểm toán còn thiếu nhiều các tài liệu cần thiết, mặc dù nội dung kiểm toán
đó đã được tiến hành.
Việc ghi chép lập hồ sơ kiểm toán có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc kiểm
soát và đảm bảo chất lượng kiểm toán. Hồ sơ kiểm toán thể hiện chất lượng công việc
kiểm toán đã tiến hành.

1.2.3.3. Kiểm soát chất lượng sau kiểm toán
Đánh giá mức độ hài lòng của khách hàng
Việc tìm hiểu mức độ thoả mãn của khách hàng là việc làm hết sức quan trọng
giúp tìm ra những tồn tại cần khắc phục và đáp ứng tốt nhất các mong muốn của khách
hàng. Đánh giá sau mỗi cuộc kiểm toán rút kinh nghiệm, so sách với kế hoạch đề ra
nhằm xác định những nội dung cần hoàn thiện cho đợt kiểm toán năm tiếp theo là nội
dung rất cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động cũng như tính chuyên nghiệp kiểm
toán viên.
Qua tìm hiểu thực tế thấy các công ty kiểm toán quốc tế đều có chương trình
tìm hiểu mức độ thoả mãn của khách hàng. Công việc này do bộ phận riêng tiến hành
một cách độc lập. Dựa trên kết quả nghiên cứu, bộ phận này sẽ tiến hành các hành
động cần thiết nhằm đáp ứng tốt nhất mong đợi của khách hàng. Đối với bộ phận kiểm
toán của công ty cũng đều tiến hành kiểm tra, đánh giá xác định mức độ phù hợp giữa
thực tế kiểm toán và kế hoạch đề ra, đánh giá khả năng, kết quả công việc của nhân
viên trong nhóm kiểm toán từ đó xác định các yếu tố cần bổ sung cho những nhân viên
cụ thể.
Đối với các công ty kiểm toán trong nước việc điều tra, thăm dò mức độ thoả
mãn của khách hàng vẫn chưa được thực hiện một cách có hệ thống và không được
lưu trữ đầy đủ. Một số công ty tìm hiểu mức độ thoả mãn khách hàng thông qua hình
thức tiếp xúc trực tiếp dưới các hình thức khác nhau bởi các cán bộ quản lý. Hình thức
thăm dò này rất hạn chế chất lượng thông tin và không đảm bảo mức độ khách quan
trong việc đánh giá, nhận xét đối với các thành viên đã tham gia kiểm toán khách hàng
đó. Nhìn chung đa số các công ty không thực hiện các hoạt động đánh giá thăm dò
mức độ thoả mãn khách hàng.

Soát xét hồ sơ kiểm toán
Việc soát xét hồ sơ sau kiểm toán tại mỗi công ty kiểm toán khác nhau được
quy định khác nhau. Đối với các công ty kiểm toán lớn công việc này được chủ nhiệm


24

kiểm toán và giám đốc kiểm toán thực hiện ngay trong giai đoạn soát xét báo cáo trước
khi phát hành, đối với các công ty trong nước thì tùy thuộc vào từng công ty sẽ được
soát xét tương tự như các công ty Bigfour hoặc thực hiện vào giai đoạn sau.

1.2.3.4. Xây dựng bộ máy chuyên trách về kiểm soát chất lượng kiểm toán
Các công ty hiện nay đều đã bố trí nguồn nhân lực để thực hiện việc kiểm soát
chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính nhưng ở các công ty khác nhau thì mức độ
khác nhau. Tại các công ty lớn ngoài việc soát xét của chủ nhiệm kiểm toán và giám
đốc kiểm toán cuộc kiểm toán còn được kiểm soát chất lượng bởi một bộ phận hoặc
một phòng chuyên trách riêng biệt. Nhiệm vụ của phòng này thường bao gồm:
• Đào tạo bao gồm xây dựng chương trình đào tạo, lập kế hoạch đào tạo, tham gia
đào tạo, theo dõi đào tạo theo quy chế của công ty
• Kiểm soát chất lượng bao gồm kiểm soát chất lượng báo cáo trước khi phát
hành và kiểm soát chất lượng hồ sơ đã thực hiện
• Tóm tắt văn bản nghiệp vụ, nghiên cứu và ban hành các hướng dẫn về nghiệp
vụ chuyên môn
• Thực hiện các nhiệm vụ khác theo yêu cầu của Ban Tổng Giám đốc
Đối với các công ty nước ngoài tại Việt Nam thì ngoài việc bị kiểm soát chất
lượng bởi phòng nghiệp vụ các Công ty này còn bị kiểm soát chất lượng từ Công ty
mẹ ở nước ngoài.

1.3. Kinh nghiệm của các nước trong việc kiểm soát chất lượng kiểm toán
1.3.1. Kinh nghiệm của Hoa Kỳ trong việc kiểm soát chất lượng kiểm toán

1.3.1.1. Kiểm soát chất lượng từ bên ngoài tại Hoa Kỳ
Kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán từ bên ngoài của Hoa Kỳ ra đời từ
thập niên 60. Từ khi ra đời đến năm 2002, kiểm toán tại Hoa Kỳ phát triển theo mô
hình tự kiểm soát với đặc điểm là quá trình thiết lập chuẩn mực kiểm toán và kiểm soát
chất lượng hoàn toàn do tổ chức nghề nghiệp đảm nhận. Mô hình tự kiểm soát xuất
phát từ nguyên nhân là hoạt động kiểm toán độc lập Hoa Kỳ đã phát triển mạnh và rất
sớm do nền kinh tế được tài trợ bởi thị trường chứng khoán. Sự phát triển mạnh của
hoạt động kiểm toán từ khi chưa có các quy định của nhà nước đã đưa đến sự hình
thành và phát triển mạnh mẽ của tổ chức nghề nghiệp, hội nghề nghiệp là cơ quan có
quyền lực trong việc xây dựng và ban hành chuẩn mực kiểm toán, cũng như giám sát
chất lượng hoạt động kiểm toán. Việc kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán do


25

Hiệp Hội kế toán viên công chứng Hoa Kỳ đảm nhận (AICPA). Năm 1987, AICPA đã
chính thức yêu cầu bắt buộc kiểm tra chéo trong các công ty kiểm toán ba năm một
lần. Năm 1988, AICPA đã phê chuẩn hai chương trình kiểm tra chéo khác nhau.
Chương trình kiểm tra chéo cho các công ty kiểm toán kiểm toán cho các công ty niêm
yết, để thực hiện tiểu ban phụ trách kiểm tra chéo phải phối hợp với tiểu ban của Ủy
ban chứng khoán (SECPS - Securities and Exchànge Commission Practice Section)
phụ trách tài chính, kế toán. Chương trình còn lại (PCPS) tiến hành kiểm tra cho các
công ty kiểm toán kiểm toán cho các công ty không phải là công ty niêm yết.
Đến những năm đầu thế kỷ 21, một số vụ bê bối về tài chính và kế toán dẫn đến
sự sụp đổ các công ty hàng đầu thế giới đặc biệt là vụ gian lận tài chính của Enron đã
dẫn đến sự tan rã của một trong năm công ty kiểm hàng đầu trên thế giới là Arthur
Andersen, điều này đã làm giảm đáng kể lòng tin của công chúng đối với thông tin
được cung cấp bởi các kiểm toán viên. Do đó, để vực lại lòng tin của công chúng và ổn
định thị trường tài chính, các nước trên thế giới nhận thấy rằng cần có sự can thiệp của
chính phủ vào công tác kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán hơn là để cho các

công ty kiểm toán và hội nghề nghiệp thực hiện công việc này. Từ sự thất bại của nghề
nghiệp trong quản lý và giám sát chất lượng hoạt động kiểm toán, nhà nước Hoa Kỳ
bắt đầu can thiệp vào hoạt động kiểm toán thông qua việc ban hành luật SarbanesOxley. Việc ban hành đạo luật Sarbanes là một thay đổi rất lớn đối với nghề nghiệp
kiểm toán Hoa Kỳ. Nó thể hiện sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kiểm toán và
làm thay đổi từ mô hình tự kiểm soát sang mô hình có sự kiểm soát của Nhà nước.
Việc kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán kiểm toán được thực hiện bởi 3 tổ chức
khác nhau:
Ủy ban Giám sát hoạt động kiểm toán cho các công ty đại chúng (Public
Company Accounting Oversight Board – PCAOB).
Trung tâm chương trình Kiểm tra chéo các công ty kiểm toán cho các công ty
đại chúng (Centre for Public Company Audit Firm Peer Review Program – CPCAF).
Hiệp Hội kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA).
Ủy ban Giám sát hoạt động kiểm toán cho các công ty đại chúng (Public
Company Accounting Oversight Board – PCAOB): Theo luật Sarbanes-Oxley, kiểm
toán viên cho các công ty niêm yết phải đăng ký với PCAOB và đồng ý rằng các cuộc


×