Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

DE CUONG CHINH TRI HOC DAI CUONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 45 trang )

MỤC LỤC

1


Câu 1: Chính trị là gì? Chính trị học là gì? Trình bày đối tượng nghiên cứu của chính trị học?
Trả lời:
1. Chính trị là gì?
Chính trị:
- là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia với vấn đề giành, giữ,
tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước.
- là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội.
- là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm khả năng thực hiện
đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
2. Chính trị học là gì?
Chính trị học là khoa học nghiên cứu về lĩnh vực chính trị nhằm làm sáng tỏ những quy luật, tính quy luật
của đời sống chính trị - xã hội, cùng những thủ thuật chính trị để hiện thực hóa những quy luật, tính quy luật
trong xã hội có giai cấp và được tổ chức thành nhà nước.
3. Đối tượng nghiên cứu của chính trị học:
- Mọi khoa học, như Ph.Ăngghen khẳng định, đều có đối tượng nghiên cứu riêng là những quy luật, tính quy
luật thuộc khách thể nghiên cứu của nó. Điều đó cũng hoàn toàn đúng với Chính trị học, khoa học lấy lĩnh vực
chính trị làm khách thể nghiên cứu.
- Cùng một khách thể, có thể có nhiều khoa học nghiên cứu. Lĩnh vực chính trị là khách thể nghiên cứu của:
chủ nghĩa xã hội khoa học, nhà nước và pháp luật, luật học, xã hội học, xây dựng Đảng… Sự phân biệt Chính trị
học với các khoa học chính trị khác trước hết là ở đối tượng nghiên cứu.
- Chính trị học nghiên cứu khái quát đời sống chính trị của xã hội nhằm đạt được những tri thức mang tính
bản chất, từ đó làm cơ sở cho việc nhận thức đúng đắn những quy luật, tính quy luật chi phối toàn bộ đời sống
chính trị, là khoa học nghiên cứu đời sống chính trị xoay quanh vấn đề trung tâm, then chốt là quyền lực
chính trị. Từ đó có thể xác định: Chính trị học là khoa học nghiên cứu chính trị như một chỉnh thể nhằm nhận
thức và vận dụng những quy luật và tính quy luật chung nhất của đời sống chính trị. Đối tượng nghiên cứu của
Chính trị học là những quy luật, tính quy luật chung nhất của đời sống chính trị xã hội, những cơ chế tác động,


cơ chế vận dụng, những phương thức, thủ thuật, công nghệ chính trị để hiện thực hóa những quy luật, tính quy
luật đó.
- Để khái quát hóa những quy luật, tính quy luật chung nhất của đời sống chính trị, Chính trị học đi sâu
nghiên cứu các hình thức hoạt động xã hội đặc biệt có liên quan đến nhà nước.
+ Hoạt động xác định mục tiêu chính trị trước mắt, mục tiêu triển vọng dưới dạng khả năng và hiện thực,
cũng như những con đường giải quyết các mục tiêu đó có tính đến tương quan lực lượng xã hội, khả năng xã hội
ở giai đoạn phát triển tương ứng của nó.
+ Hoạt động tìm kiếm, thực thi các phương pháp, phương tiện, những thủ thuật, những hình thức tổ chức
có hiệu quả đạt mục tiêu đã đề ra.
+ Việc lựa chọn, tổ chức, sắp xếp những cán bộ thích hợp nhằm hiện thực hóa có hiệu quả mục tiêu.
- Đồng thời, với việc nghiên cứu các hoạt động của các chủ thể, Chính trị học còn nghiên cứu các quan hệ giữa
các chủ thể chính trị:
+ Quan hệ giữa các giai cấp, thực chất là quan hệ giữa các lợi ích chính trị mà các giai cấp theo đuổi để hình
thành lý luận về liên minh giai cấp, đấu tranh và hợp tác các giai cấp vì yêu cầu chính trị.
+ Quan hệ giữa các chủ thể trong hệ thống tổ chức quyền lực: đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức
chính trị - xã hội để hình thành lý luận về đảng chính trị, nhà nước pháp quyền, và về hệ thống chính trị và cơ
chế thực thi quyền lực chính trị.
+ Quan hệ giữa các dân tộc để hình thành lý luận chính trị về vấn đề dân tộc trong sự vận dụng vào điều
kiện cụ thể của mỗi quốc gia dân tộc.
+ Quan hệ giữa các quốc gia để hình thành học thuyết về chính trị quốc tế trong thời đại quốc tế hóa hiện
nay.

2


Câu 2: Trình bày nội dung tư tưởng chính trị của phái Nho gia sơ kỳ? Phân tích mặt tích cực và hạn chế
của nó? Liên hệ với Việt Nam?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia với vấn đề
giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã

hội, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm thực hiện đường lối và những mục tiêu
đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
1. Nội dung tư tưởng chính trị của phái Nho gia sơ kỳ:
Tư tưởng Nho gia chiếm vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc. Nó đã ảnh
hưởng sâu sắc mọi mặt của đời sống xã hội Trung Quốc và các nước láng giềng trong suốt hơn 2000 năm lịch
sử. Hai nhân vật tiêu biểu của trường phái Nho gia là Khổng Tử và Mạnh Tử.
a. Khổng Tử:
* Tiểu sử: Khổng Tử là người sáng lập ra trường phái Nho gia. Ông tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ra
trong một gia đình quý tộc nhỏ ở nước Lỗ. Thời trẻ, ông đã từng mở trường dạy học, ra làm quan. Vì
không được trọng dụng, ông dẫn các học trò đi chu du các nước hơn 10 năm. Cuối đời, ông trở về nước Lỗ tiếp
tục dạy học và chỉnh lý, san định các thư tịch cổ như ngũ kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch và viết kinh Xuân
Thu. Luận ngữ là bộ sách do học trò của Khổng Tử ghi lại.
* Tư tưởng chính trị của Khổng Tử trước hết là vì sự bình ổn xã hội – một xã hội “thái bình thịnh trị”. Theo ông,
chính trị là chính đạo, đạo của người làm chính trị phải ngay thẳng, phải lấy chính trị để dẫn dắt dân, nhà Nho
phải tham chính… Từ nhận thức đó, Khổng Tử cho rằng, xã hội loạn lạc là do mỗi người không ở đúng vị trí
của mình, Lễ bị xem nhẹ. Để thiên hạ có “đạo”, quay về Lễ, phải củng cố điều Nhân, coi trọng Lễ nghĩa, mỗi
người phải hành động trong khuôn khổ của mình, từ đó xã hội sẽ ổn định. Để thực hiện lý tưởng chính trị
của mình, ông đề ra học thuyết “Nhân – Lễ - Chính danh”
- Nhân là phạm trù trung tâm trong học thuyết chính trị của Khổng Tử. Nó là thước đo, là chuẩn mực quyết
định thành hay bại, tốt hay xấu của chính trị. Nội dung điều Nhân rất rộng, bao hàm các vấn đề về đạo đức, lý
luận xã hội. Trong chính trị, điều Nhân thể hiện ở các nội dung:
+ Thương yêu con người, trong đó thương yêu người thân của mình hơn và yêu người nhân đức hơn. Từ
thương người đi đến hai nguyên tắc: “Điều mình không muốn thì đừng đối xử với người khác” và “Mình
muốn thành đạt thì phải làm cho người khác thành đạt”
+ Tu dưỡng bản thân, sử mình theo lễ. +
Tôn trọng và sử dụng người hiền.
Nhân là trung thành, là vị tha. Người có Nhân phải thực hiện 5 điều: Cung kính, khoan nhượng, giữ chữ
tín, siêng năng, làm lợi cho người khác. Hiều với cha mẹ và hữu ái là gốc của đức Nhân.
=> Như vậy, nội dung Nhân là nhân đạo, yêu thương con người, coi người như mình, giúp đỡ lân nhau. Khi
điều Nhân đã bao trùm thì không còn mâu thuẫn, xung đột, lễ nhà Chu được phục tùng, xã hội sẽ tự ổn định.

Theo Khổng Tử, đạo Nhân không phải để cho tất cả mọi người mà chỉ có ở người “quân tử” (quý tộc, trí thức
thuộc giai cấp thống trị), còn kẻ “tiểu nhân” (người lao động, giai cấp bị trị) thì không bao giờ có. Để đạt được
điều Nhân, cần phải có Lễ.
- Lễ vốn là những quy định, nghi thức trong cúng tế. Khổng Tử đã lý luận hóa, biến Lễ thành những quy
định, trật tự phân chia thứ bậc trong xã hội, được thể hiện trong phong cách sinh hoạt: hành vi, ngôn ngữ, trang
phục, nhà cửa…
+ Lễ là chuẩn mực đạo đức, là khuôn mẫu cho mọi hành động của cá nhân và các tầng lớp trong xã hội. Lúc
này, Lễ mang tính pháp lý, có tác dụng khống chế các hoạt động thái quá. Ai ở địa vị nào thì chỉ được dùng Lễ
ấy, tùy vào tính chất công việc khác nhau. Lễ là bộ phận của Nhân. Lễ là ngọn, Nhân là gốc. Người có đức Nhân
là người “không nhìn cái không hợp Lễ, không nghe cái không hợp Lễ, không nói những điều không hợp Lễ,
không làm những điều không hợp Lễ”…
+ Lễ tạo cho con người biết phân biệt trên dưới, biết thân phận, vai trò, địa vị của mình trong xã hội, biết
phục tùng làm theo điều lành và xa rời điều ác.
3


+ Theo Khổng Tử, Lễ quy định chuẩn mực cho các đối tượng quan hệ cơ bản: vua – tôi, cha – con,
chồng – vợ, anh – em, bạn bè. Các quan hệ này đều có hai chiều, phụ thuộc vào nhau. “Vua sai khiến bề tôi phải
theo Lễ, bề tôi thờ vua theo đạo trung, cha đối với con phải nhân từ, con thờ cha phải hiếu thảo…” Nhưng
ông cũng coi việc bề dưới lật đổ bề trên là hợp lý, khi bề trên không xứng đáng với danh vị của mình nữa.
Việc vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà Thương bị lật đổ là hợp mệnh trời, vì đó là những ông vua ác, thất nhân tâm.
+ Khổng Tử xem Lễ như luật lệ. “Một ngày sửa mình theo Lễ thì thiên hạ sẽ theo về”. Lễ không phải
dùng cho tất cả mọi người mà chỉ đem áp dụng cho người có Nhân. Cung kính là gốc của Lễ. Nhân có
trước, Lễ có sau.
- Chính danh là danh phận đúng đắn, ngay thẳng. Đây là phạm trù cơ bản trong học thuyết chính trị của
Khổng Tử. Chính danh là xác định và phân biệt quan hệ danh phận, đẳng cấp giữa các giai cấp, thực chất là
khẳng định tính hợp lý của giai cấp quý tộc trong việc thực thi quyền lực của mình. Nó vừa là điều kiện, vừa
là mục đích của chính trị. Chính danh thể hiện ở các nội dung:
+ Xác định danh phận, đẳng cấp và vị trí của từng cá nhân, tầng lớp trong xã hội. Ai ở vị trí nào thì làm tròn
bổn phận ở vị trí ấy: vua phải giữ đúng đạo làm vua, tôi phải giữ đúng đạo làm tôi, cha phải giữ đúng đạo làm

cha, con phải giữ đúng đạo làm con; không được làm quá chức năng, bổn phận của mình.
+ “Danh” phải phù hợp với “thực”, nội dung phải phù hợp với hình thức. Trong chính trị, lời nói phải đi đôi
với việc làm.
+ Đặt con người vào đúng vị trí và chức năng. Phải xác định “danh” trước khi có “thực” vì “danh” là
điều kiện thi hành “thực”. Khi có danh thì thực mới có ý nghĩa “danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn
không thuận thì việc không thành”.
+ Giữa Chính danh và Lễ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: muốn “danh” được “chính” (đúng đắn, phù hợp
với thực) thì phải thực hiện Lễ. Chính danh là điều kiện để thực hiện, trau dồi Lễ.
+ Chính danh là một biện pháp quy định và giúp mọi người nhận rõ cương vị, quyền hạn và nghĩa vụ của
mình trong quan hệ với chức vụ và đẳng cấp tương ứng. Có xác định được danh phận thì mới điều hòa được các
mối quan hệ. Đây là vấn đề cơ bản của cách ứng xử chính trị.
=> Học thuyết chính trị của Khổng Tử được xây dựng trên ba phạm trù cơ bản: Nhân – Lễ - Chính danh.
Nhân là cốt lõi của vấn đề, vừa là điểm xuất phát nhưng cũng là mục đích cuối cùng của hệ thống. Do vậy, có
thể gọi học thuyết của chính trị của Khổng Tử là “đức trị” vì lấy đạo đức làm gốc hay “nhân trị”. Điều nhân
được biểu hiện thông qua lễ, chính danh là con đường đạt đến điều nhân. Ba yếu tố đó có quan hệ biện chứng
với nhau, tạo nên tính chặt chẽ của học thuyết. Về bản chất, học thuyết chính trị của Khổng Tử là duy tâm và
phản động, vì nó không tính đến các yếu tố vật chất của xã hội mà chỉ khai thác yếu tố tinh thần – đạo đức.
Mục đích của học thuyết này là bảo vệ chế độ đẳng cấp, củng cố địa vị thống trị của giai cấp quý tộc đã lỗi
thời, đưa xã hội trở về thời Tây Chu.
b. Mạnh Tử:
Mạnh Tử là người nước Trâu. Ông đã kế thừa và phát triển sáng tạo những tư tưởng của Khổng Tử, xây dựng
học thuyết “Nhân chính” (chính trị nhân nghĩa) của mình. Tư tưởng chính trị của ông có những nội dung cơ
bản sau:
- Thuyết tính thiện: Theo Mạnh Tử, bản tính tự nhiên của con người là thiện. Con người có lòng trắc ẩn thì
tự nhiên biết xấu hổ, nhường nhịn, biết phải trái. Lòng trắc ẩn là nhân, biết xấu hổ là nghĩa, biết nhường
nhịn là lễ, biết phải trái là trí. Nhân, lễ, nghĩa, trí là bốn thứ vốn có ở tâm ta. Con người trở thành ác vì không
biết tu tâm, dưỡng tính, để cho vật dục chi phối, chạy theo lợi ích cá nhân.
- Quan niệm về vua – tôi – dân: Mạnh Tử cho rằng, Thiên từ là do mệnh trời trao cho thánh nhân và vận
mệnh trời nhất trí với ý dân. Trời ngấm ngầm trao quyền cho người có đức, hợp lòng dân. Quan hệ vua – tôi là
quan hệ hai chiều: “Vua coi bầy tôi như chân tay thì bầy tôi coi vua như ruột thịt, vua coi bầy tôi như chó ngựa

thì bầy tôi coi vua như người dưng, vua coi bầy tôi như cỏ rác thì bầy tôi coi vua như cừu địch”. Tiến thêm một
bước, ông cho rằng: “Ta phải hiểu là giết thằng Trụ chứ không nên hiểu là giết vua vậy”. Mạnh Tử đề xuất tư
tưởng “nhường ngôi”. Thiên tử có thể nhường ngôi cho vua chư hầu, căn cứ vào đức hạnh và khăn năng thực
hành nhân chính của ông ta.
4


+ Mạnh Tử là người đầu tiên đưa ra luận điểm tôn trọng nhân dân: “Dân là quý nhất, quốc gia đứng thứ
hai, vua là không đáng trọng”. Như dân ở đây là chỉ thần dân, kẻ phụ thuộc, bị thống trị. Coi trọng dân chỉ là thủ
đoạn chính trị để thống trị tốt hơn mà thôi.
- Quan niệm về quân tử - tiểu nhân: Quân tử là hạng người lao tâm, cai trị và được cung phụng. Tiểu nhân
là hạng người bạo lực, bị cai trị và phải cung phụng người. Mạnh Tử đề xuất chủ trương dùng người hiền để
thực hành chính trị nhân nghĩa. Trị nước là nghề cao quý và quan trọng nhất, nên người cai trị phải được
tuyển chọn công phu, chu đáo. Nhưng bất đắc dĩ mới để cho có ngoại lệ “kẻ hèn vượt người tôn quý”.
- Chủ trương vương đạo: Mạnh Tử kịch liệt phản đối chiến tranh, bạo lực, nguồn gốc của mọi rối ren, loạn
lạc. Chính trị “vương đạo” là nhân chính, lấy dân làm gốc. “Vương đạo” chỉ nhằm vào nhân nghĩa để mỗi
người “tự nuôi lấy bản thân mà chờ số mệnh” thì thiên hạ sẽ bình yên vô sự. Muốn cho tâm trí dân ổn định
không làm loạn, thì phải tạo điều kiện cho họ có một mức sống vật chất tối thiểu. Thực chất của “”vương
đạo” là người cai trị phải giáo dục dân tuyệt đối phục tùng bề trên, thực hiện “tam cương, ngũ thường”, trói
buộc ý thức và luân lý Nho giáo để dễ bề cai trị họ.
=> Học thuyết “chân chính” của Mạnh Tử có nhiều tiến bộ hơn so với Khổng Tử. Tuy vẫn đứng trên lập
trường của giai cấp thống trị, nhưng ông đã nhìn thấy được sức mạnh của nhân dân, chủ trương thi hành nhân
chính, vương đạo. Đó là những yếu tố dân chủ, tiến bộ. Điểm hạn chế của ông là còn tin vào mệnh trời và
tính thần bí trong lý giải vấn đề quyền lực.
3, Liên hệ với Việt Nam:
Nho gia Trung Quốc tác động tới Việt Nam trên mọi phương diện: thể chế chính trị, giáo dục, đao đức, văn
học, nghệ thuật, phong tục… Nho gia ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hóa xã hội Việt Nam:
- Ban đầu khi được truyền bá vào Việt Nam, Nho gia đã được sử dụng như một thứ vũ khí để thể hiện sức
mạnh và tham vọng đồng hóa người phương Nam của phong kiến phương Bắc. Tuy nhiên, Nho giáo được
người Việt tiếp biến có chọn lọc và mang những nội hàm mới.

- Tư tưởng chính trị của Nho gia góp phần xây dựng nên nhà nước phong kiến Việt Nam vững mạnh (là nền
tảng lý luận để tổ chức nhà nước, pháp luật, phát triển kinh tế - xã hội). Thời nhà Lê, vua Lê Thánh Tông đưa
Nho giáo thành quốc giáo ở nước ta. Ông tổ chức nhiều khoa thi để tuyển chọn nhân tài vào làm việc trong bộ
máy nhà nước. Ông tiến hành cải cách bộ máy hành chính, xây dựng hệ thống chính trị chặt chẽ từ cơ sở đến
trung ương, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, đưa pháp luật vào đời sống, thay thế các tục lệ cũ.
- Nho gia không chú ý đến khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật là kìm hãm đất nước ta nhiều thế kỷ.
- Nho gia được Việt Nam hóa đã có những đóng góp đáng kể vào việc củng cố những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc. Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập và sự thay đổi trong định hướng giá trị nhân cách cỉa người
Việt Nam, việc phát triển con người Việt Nam bền vững cần có Nho gia là cơ sở triết học vững chắc nhằm đảm
bảo, duy trì các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp mà vẫn chứa đựng những yếu tố năng động, hiện đại.
Câu 3: Trình bày nội dung tư tưởng chính trị của Pháp gia? Liên hệ với Việt Nam?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia với vấn đề
giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã
hội, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phải, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện
đường lối và những mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
1. Nội dung tư tưởng của Pháp gia:
Vào cuối thời Chiến quốc, quá trình phát triển kinh tế - xã hội mạnh mẽ cùng với sự phân hóa giai cấp ngày
càng sâu sắc đã cho ra đời một tầng lớp mới là địa chủ mới và thương nhân. Do áp dụng phương thức sản
xuất tiến bộ và chính sách kinh tế phù hợp nên tầng lớp này đã nắm giữ, chi phối nền kinh tế đất nước. Tuy vậy,
tầng lớp quý tộc cũ nắm giữ quyền lực chính trị và đang trở thành vật cản của phát triển xã hội. Yêu cầu bức xúc
lúc này là tập phân trung kinh tế và quyền lực để kết thúc tình trạng phân tranh, cát cứ, mở đường cho lực
lượng sản xuất phát triển. Pháp gia ra đời đã đáp ứng được yêu cầu trên. Tư tưởng
5


Pháp gia được áp dụng thành công và đưa vào thời Tần trở thành bá chủ, thống nhất Trung Quốc vào năm 221
trước Công Nguyên
Phái Pháp gia gồm nhiều nhà tư tưởng, nhiều trường phái khác nhau như phái trọng pháp, phái trọng thuật,
phái trọng thế. Hàn Phi Tử là người tổng kết và phát triển tư tưởng của những nhà Pháp gia tiền bôi, hoàn

chỉnh học thuyết này.
Hàn Phi Tử (khoảng 280 – 233 TCN) là nhà tư tưởng cuối cùng của thời Tiên Tần, là con của công tử (con
vua) nước Hàn. Ông cùng với Lý Tư là học trò của Tuân Tử, nhà tư tưởng lớn nhất đương thời. Ông muốn
dùng học thuyết của mình để giúp vua làm cho đất nước phú cường, nhưng không được vua Hàn trọng dụng.
Đến nước Tần, ông bị Lý Tư hãm hại buộc phải tự sát trong ngục. Tác phẩm Hàn Phi Tử của ông là tác phẩm
kinh điển của phái Pháp gia.
Hàn Phi Tử cho rằng, xã hội loài người luôn biến đổi, phát triển theo hướng đi lên. Bản tính con người là ham
lợi. Điều lợi ảnh hưởng và chi phối các mối quan hệ trong xã hội. Chính trị đương thời không nên bàn chuyện
nhân nghĩa cao xa mà cần có biện pháp cụ thể, cứng rắn, kiên quyết. Từ nhận thức đó, học thuyết chính trị của
ông được xây dựng trên cơ sở thống nhất pháp – thuật – thế:
- Pháp luật là những quy ước, khuôn mẫu, chuẩn mực do vua ban ra, được phổ biến rộng rãi để nhân dân
thực hiện. Pháp luật phải hợp thời, đáp ứng được những yêu cầu, không phát triển của xã hội, rõ ràng, dễ hiểu,
phù hợp với trình độ dân chúng. Pháp luật phải công bằng, để kẻ mạnh không lấn át kẻ yếu, đám đông hiếp áp
số yếu. Quyền lực cần phải tập trung vào một người là vua. Vua đề ra pháp luật, quan lại theo dõi việc thực hiện,
dân là người thi hành pháp luật.
- Thuật là thủ đoạn hay thuật cai trị của người làm vua, để kiểm tra, giám sát, điều khiển bầy tôi. Thuật là
phương pháp tuyển chọn, sử dụng người đúng chức năng, tạo cho họ làm tròn bổn phận của mình. Như vậy,
thuật là yếu tố cần thiết, bổ trợ và làm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh. Thuật phải được giữ bí mật,
kín đáo, không được tiết lộ với bất cứ ai. Vua không được để lộ sự yêu ghét của mình, đề phòng quần thần lợi
dụng. Ông ta không phải làm gì mà bắt các quan phải làm việc cai trị dân chúng.
- Thế là uy thế, quyền lực của người cầm quyền. Quần thần phục tùng nhà vua không phải theo tình cốt nhục,
mà chịu sự ràng buộc bởi quyền lực. Yếu tố để quẩn thần buộc phải tuân theo đó là thế. Thế là quyền lực
đảm bảo cho việc thi hành pháp luật. Thế phải tuân thủ theo nguyên tắc tập trung, không được chia sẻ, không
được để rơi vào tay người khác. Vua phải nắm chắc hai phương tiện cưỡng chế, đó là “nhị bính”: thưởng và
phạt. Thưởng, phạt phải căn cứ vào cơ sở pháp luật chứ không thể tùy tiện, Vua cũng phải phục tùng pháp
luật. Khi có thể, quyền uy của vua cũng sẽ tăng lên, lời nói có thêm sức mạnh.
- Hàn Phi Tử cho rằng: “pháp”, “thuật”, “thế” cần phải kết hợp làm một, trong đó “pháp” là trung tâm,
“thuật” và “thế” là những điều kiện tất yếu trong việc thi hành luật. Pháp luật phải vì lẽ phải và phục vụ lợi ích
chung, “việc phạt tội không trừ bậc đại thần, việc thưởng công không bỏ sót kẻ thất phu”
- “Pháp trị” đối lập với “Nhân trị” của Nho gia. Theo Hàn Phi Tử, nguồn gốc làm rối loạn pháp luật là do bọn

du sĩ và các học thuyết chính trị đua nhau làm hỏng pháp độ, cho nên phải dùng pháp luật để ngăn cấm và
không cho họ tham gia chính trị.
=> Như vậy, đứng trên lập trường của giai cấp địa chủ mới, tư tưởng Pháp gia đã khai thông các bế tắc xã
hội, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Tư tưởng Pháp gia đã phục vụ đắc lực cho chế độ phong
kiến trung ương tập quyền, góp phần không nhỏ trong việc củng cố chế độ phong kiến đời Tần. Tuy nhiên, học
thuyết Pháp trị bị giai cấp cầm quyền cực đoan hóa, dẫn đến sự thống trị hà khắc tàn bạo (như vụ án lịch sử Tần
Thủy Hoàng ra lệnh đốt sách, chôn kẻ sỹ).
3. Liên hệ với Việt Nam:
Đối với Việt Nam, tư tưởng Pháp gia chiếm một ý nghĩa quan trọng trong đời sống chính trị.
- Từ thời phong kiến, các vua chúa Việt Nam bị ảnh hưởng bởi tư tưởng cai trị phương Bắc, trong đó, biết
đề ra các quy tắc, chuẩn mực xã hội, buộc mọi người phải tuân theo nhằm ổn định xã hội (Luật Hình thư, Luật
Hồng Đức, Luật Gia Long…)
- Biểu hiện thời hiện đại: Việc xây dựng Hiến pháp, pháp luật, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa.
6


Câu 4: Trình bày nội dung tư tưởng chính trị Hy La cổ đại?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong lĩnh vực quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia với vấn đề
giành, giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã
hội, là hoạt động thực tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện
đường lỗi và những mục đích đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
Văn minh Hy Lạp cổ đại đã tạo tiền đề hình thành và phát triển khá sớm những tư tưởng chính trị của nhân
loại. Những vấn đề căn bản của chính trị, tư duy chính trị đã được đặt ra và luận giải trên những nét chính ngay
ở thời kỳ này. Trong quá trình phát triển từ chế độ cộng sản nguyên thủy sáng chiếm hữu nô lệ, ở Hy Lạp đã
xuất hiện các quốc gia thành thị chiếm hữu nô lệ. Mâu thuẫn xã hội giữa các tập đoàn trong giai cấp chủ nô
nhằm tranh giành quyền lực và mâu thuẫn giữa chủ nô với nô lệ và tầng lớp thị dân tự do ngày càng gay gắt dẫn
đến hình thành các phe phái chính trị và xuất hiện những chính trị gia xuất sắc.
1. Hêrêđốt (484 – 425 TCN)

Hêrêđốt được coi là người cha của chính trị học. Ông là người đầu tiên phân biệt và so sánh các thể chế chính
trị khác nhau. Theo ông, có ba thể chế chính trị: quân chủ, quý tộc và dân chủ.
- Quân chủ: là thể chế độc quyền của một người là vua. Vua có công lập quốc, sống vì nước, vì dân. Vua có
quyền cấm tất cả những ý kiến phản biện, phản kháng. Đặc quyền và lạm dụng quyền lực khiến vua dễ trở
thành tội lỗi.
- Quý tộc: là thể chế được xây dựng trên cơ sở cầm quyền của một nhóm người ưu tú nhất của đất nước, vì lợi
ích chung. Tuy nhiên, thể chế này dễ có sự khác biệt, bất hòa, chia bè kéo phái dẫn đến tranh giành, tàn sát lẫn
nhau.
- Dân chủ: là thể chế mà quyền lực do đông đảo nhân dân nắm bằng con đường bỏ phiếu để trao những chức
vụ công cộng một cách đúng đắn và ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực, xây dựng nhà nước trên nguyên tắc
cơ bản: tất cả đều bình đẳng trước pháp luật. Nhưng khi dân chúng có trình độ thấp thì dễ bầu ra những người
lãnh đạo kém hiểu biết. Họ dễ bị kích động bởi các cá nhân cầm quyền, từ đó xảy ra tình trạng vô chính phủ.
2. Xênôphôn (khoảng 427 – 355 TCN)
- Ông thuộc tầng lớp quý tộc. Khi bàn về chính trị, ông bàn về cách cai trị và cách quản lý. Ông thấy
chính trị có một nghệ thuật thực hành, nghệ thuật cao nhất – nghệ thuật của bậc đế vương. Ai nhận thức được
các vấn đề chính trị sẽ trở thành người trung thực, người tốt. Ai ngu dốt về chính trị sẽ rơi vào hàng nô lệ.
- Tư tưởng chính trị của ông thể hiện ở quan điểm về thủ lĩnh chính trị. Theo ông, thủ lĩnh chính trị là người
biết chỉ huy, giỏi kỹ thuật, giỏi thuyết phục, biết cảm hóa người khác. Nhưng người thủ lĩnh cũng phải có
những phẩm chất đặc biệt như biết bảo vệ lợi ích chung, có khả năng tập hợp sức mạnh của quần chúng. Thiên
tài của thủ lĩnh không phải tự nhiên mà có. Nó sinh ra từ sự kiên nhẫn, từ khả năng chịu đựng lớn vể mặt thể
chất, với ý chí sống và rèn luyện theo phong cách thanh liêm.
3. Platôn (428 – 347 TCN)
- Platôn là nhà triết học thiên tài, đồng thời còn là nhà chính trị xuất sắc. Tư tưởng chính trị của ông được
phản ánh trong tác phẩm: “Nước cộng hòa”, “Các đạo luật và Nền chính trị”. Ông là người đầu tiên đạt tới
quan niệm giá trị phổ biến, tầm vĩ mô của chính trị và hoạt động chính trị, tiêu chuẩn của nền chính trị đích
thực.
- Khi bàn về khái niệm chính trị, Platôn cho rằng chính trị là sự thống trị của trí tuệ tối cao, là nghệ thuật dẫn
dắt xã hội con người. Chính trị tự phân chia thành pháp lý, hành chính, tư pháp, ngoại giao… Chính trị là nghệ
thuật cai trị. Cai trị bằng sức mạnh là độc tài, cai trị bằng thuyết phục mới đích thực là chính trị. Chính trị
phải là sự chuyên chế, tất cả các cá nhân phải phục tùng quyền uy. Tự do chỉ dẫn đến hỗn loạn, gây tai họa cho

đời sống công dân.
- Xã hội lý tưởng của Platôn là xã hội được trị vì bởi sự thông thái. Ông chia xã hội thành ba hạng người: +
Các nhà triết học thông thái đảm nhận vai trò lãnh đạo, cai trị, quản lý nhà nước.
+ Tầng lớp chiến binh bảo vệ an ninh xã hội.
7


+ Tầng lớp nông dân, thợ thủ công làm ra của cải, vật chất, đảm bảo cuộc sống cho xã hội.
- Công lý là ở chỗ, mỗi hạng người làm hết trách nhiệm của mình, hoạt động phù hợp với chức năng của
mình. Theo Platôn, điều kiện và cơ sở để duy trì một xã hội được cai trị bởi những người thông thái là phải
thực hiện cộng đồng về tài sản và hôn nhân. Ông chủ trương xóa bỏ sở hữu cá nhân (vì nó là nguồn gốc sinh ra
cái ác) và tình yêu gia đình, thay vào đó là những tổ chức cộng đồng. Như vậy, xóa cá nhân vì một xã hội lý
tưởng, Platôn đã biến phương tiện thành mục đích. Đó là khởi nguồn của “chủ nghĩa cộng sản không tưởng”.
Ông cho rằng, khi lãnh đạo nhà nước, cần gạt sang một bên ý chí cá nhân, trước tiên phải dựa vào tôn giáo và
pháp luật. Sự chuyển hóa quyền lực trong xã hội là do có sự đối kháng về quyền lợi và những vận động về chính
trị.
=> Quan điểm chính trị của Platôn còn nhiều mâu thuẫn: vừa đòi hỏi xóa bỏ tư hữu, vừa muốn duy trì chế độ
đẳng cấp. Ông đưa ra mô hình xã hội lý tưởng và công lý nhưng đồng thời lại bảo vệ lợi ích của tầng lớp quý tộc,
chủ nô. Tuy nhiên, ông đã có những quan niệm cụ thể và hệ thống về chính trị và sự phát triển của xã hội nói
chung.
4. Arixtốt (384 – 322 TCN)
- Arixtốt là nhà bác học vĩ đại của văn minh Hy Lạp. Trong hai công trình nghiên cứu và chính trị là
“Chính trị” và “Hiến pháp Aten”, ông đã tổng kết và phát triển tài tình các kết luận của các bậc tiền bối về
nguồn gốc và bản chất, hình thức và vai trò của nhà nước pháp quyền.
- Theo Arixtốt, nhà nước xuất hiện tự nhiên, được hình thành do lịch sử. Con người là “động vật chính trị”
Bản tính của con người là sống trong cộng đồng. Hình thức tổ chức cuộc sống cộng đồng trong một thể chế xã
hội nhất định được gọi là nhà nước. Nhà nước ra đời trên cơ sở gia đình, chính quyền nhà nước và sự tiếp tục
chính quyền trong gia đình. Nhà nước không phải là kết quả của sự thỏa thuận giữa mọi người với nhau dựa trên
ý chí của họ. Nó được phát triển từ gia đình và làng xã. Thể chế chính trị là trật tự làm cơ sở để phân bố chính
quyền nhà nước. Thể chế chính trị điều hành, quản lý xã hội về ba phương diện: lập pháp, hành pháp và phân

xử. Sứ mệnh của nhà nước là lãnh đạo tập thể các công dân, quan tâm tới các quyền chung của công dân, làm
cho mọi người sống hạnh phúc. Điều đó lại chính là bản chất và chức năng của pháp luật. Công lý chính là hành
động một cách công bằng theo pháp luật. Thông qua pháp luật, các quyền chung của công dân được thể hiện và
củng cố.
- Ông cho rằng, không một loại hình chính phủ nào là duy nhất có thể phù hợp với tất cả mọi thời đại và các
nước. Ông phân loại chính phủ theo tiêu chuẩn số lượng (người cầm quyền) và chất lượng (mục đích của sự
cầm quyền). Kết hợp hai mặt đó, có thể sắp xếp chính phủ theo hai loại: chính phủ chân chính là: quân chủ,
quý tộc, cộng hòa, chính phủ biến chất là: độc tài, quả đầu, dân trị. Ông nhiệt thành ủng hộ chế độ quân chủ,
coi như hình thức tổ chức nhà nước thần thánh và ưu việt nhất.
=> Tư tưởng chính trị của Arixtốt chứa đựng những giá trị tích cực sau:
- Con người có khuynh hướng tự nhiên gắn bó với nhau thành xã hội. Do đó, con người là động vật công dân,
động vật chính trị, sống có trách nhiệm với cộng đồng.
- Chính trị là làm sao trong đời sống cộng đồng, cái chung cao cả hơn cái cá nhân riêng biệt, con người sống
ngày càng tốt hơn.
- Chính trị phải giáo dục đạo đức và phẩm chất cao thượng cho công dân.
- Chính trị là khoa học lãnh đạo con người, khoa học kiến trúc xã hội của mọi công dân.
- Chế độ dân chủ sẽ chuyển thành chế độ mị dân hoặc độc tài nếu: ý chí cá nhân thay thế pháp luật, chế độ bị
trao cho những tên nịnh bợ, gian xảo, ham quyền lực…
- Không thể hoạt động chính trị nếu bị dục vọng của cải chi phối và sự dốt nát chế ngự.
- Chế độ quân chủ là hình thức sơ khai vì không có ai uy tín bằng lãnh tụ chiến thắng. Nhưng khi xã hội phát
triển, người tốt, người giỏi có nhiều thì chế độ chính trị phải thay đổi.
Mặc dù hạn chế bởi mục tiêu giai cấp, bởi quan điểm cổ đại hẹp hòi về quyền tự do cá nhân cho những
người nô lệ và lao động… song với nhãn quan uyên thâm và sâu sắc, tư tưởng chính trị của Arixtốt có ý
nghĩa là sự tổng hợp và khái quát hóa những giá trị cơ bản của tư tưởng chính trị Hy Lạp cổ đại.
Câu 5: Trình bày sự hình thành và phát triển của thuyết: “Tam quyền phân lập”?
Trả lời:
8


Tam quyền phân lập hay còn hiểu theo nghĩa phân chia quyền lực là một mô hình quản lý nhà nước với mục

tiêu kiềm chế quyền lực để hạn chế lạm quyền, bảo vệ tự do và công bằng pháp luật. Mô hình và khái niệm này
được biết đến từ lâu, ít nhất là từ thời La Mã cổ đại và được thể chế hóa trong hiến pháp hiện đại của nhiều
quốc gia, trong đó có Hiến pháp Hoa Kỳ, Hiến pháp CHLB Đức hay các nước cộng sản khác. Trong mô hình
này, quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp được tách biệt và giao cho 3 cơ quan độc lập khác
nhau thực hiện và qua đó ràng buộc, kiểm tra và giám sát hoạt động lẫn nhau. Theo thể chế này, không một cơ
quan hay cá nhân nào có quyền lực tuyệt đối trong sinh hoạt chính trị của một quốc gia.
Trước chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực nhà nước đều tập trung vào trong
tay một cá nhân. Chính đây là căn nguyên cho mọi hành vi độc tài, chuyên chế của các công việc nhà nước. Vì
vậy, muốn chống chế độ này, một lý thuyết của nhiều học giả tư sản đã được nêu ra, đó là thuyết phân chia
quyền lực.
Cội nguồn của tư tưởng phân quyền đã có từ thời cổ đại ở Phương Tây mà điển hình là nhà nước cộng hòa
La Mã. Cộng hòa La Mã hàng năm đã bầu lãnh sự đã được lựa chọn bởi một cơ thể của công dân, Thượng
viện quản lý pháp luật, nghị định được ban hành bởi các viên chức lãnh sự và ban hành nghị quyết về
những vấn đề quan trọng và cũng tham gia vào các quan hệ đối ngoại, và các hội đồng đã được thực hiện
bởiCông dân có vai trò khác nhau trong chính phủ.Các viên chức lãnh sự phụ trách của chính phủ và của quân
đội. Có 300 công dân Thượng viện khuyên họ ở tất cả các lần. Trong lịch sử của Cộng hòa La Mã Thượng viện
luôn luôn là nhóm mạnh nhất. Chỉ có Đại hội có thể chấp thuận hoặc không chấp thuận của pháp luật và chỉ
có ứng cử đại biểu được bầu chọn cho văn phòng của lãnh sự.Hiến pháp của La Mã luôn luôn là một khái niệm
cơ bản của kiểm tra và cân bằng.
Những tư tưởng phân quyền sơ khai trong thời cổ đại được phát triển thành học thuyết ở Tây Âu vào thế kỷ
17 – 18, gắn liền với hai nhà tư tưởng lớn là John Locke và C.L. Montesquieu.
John Locke (1632 - 1704), một nhà triết học người Anh, ông là người đầu tiên khởi thảo ra thành hệ thống
lý luận hoàn chỉnh về học thuyết phân quyền, và được thể hiện trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về Chính
quyền.” Về quyền lực nhà nước, ông cho rằng “chỉ có thể có một quyền lực tối cao, là cơ quan lập pháp, mà tất
cả các quyền lực còn lại là, và phải là, những cái phụ thuộc vào nó.” Theo đó, có thể thấy Locke đồng nhất
quyền lực nhà nước với quyền lập pháp.
Ông chia quyền lực nhà nước thành các phần: lập pháp, hành pháp và liên minh. Theo đó, quyền lập pháp
là quyền lực cao nhất trong nhà nước, và phải thuộc về nghị viện; nghị viện phải họp định kỳ thông qua các
đạo luật, nhưng không thể can thiệp vào việc thực hiện chúng. Quyền hành pháp phải thuộc về nhà vua. Nhà
vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật, bổ nhiệm các chức vị, chánh án và các quan chức khác. Hoạt động của

nhà vua phụ thuộc vào pháp luật và vua không có đặc quyền nhất định nào với nghị viện nhằm không cho
phép vua thâu tóm toàn bộ quyền lực về tay mình và xâm phạm vào các quyền tự nhiên của công dân. Nhà vua
thực hiện quyền liên minh, tức là giải quyết các vấn đề chiến tranh, hòa bình và đối ngoại.
Những luận điểm phân quyền của J. Locke đã được nhà khai sáng người Pháp, C.L. Montesquieu (1689 –
1775) phát triển. Montesquieu đã phát triển một cách toàn diện học thuyết phân quyền, và sau này khi nhắc
tới thuyết phân quyền người ta nghĩ ngay đến tên tuổi của ông.
Montesquieu kịch liệt lên án chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp lúc bấy giờ. Chế độ quân chủ chuyên chế
là một tổ chức quyền lực tồi tệ, phi lý, vì: nhà nước tồn tại vốn biểu hiện của ý chí chung, nhưng trong chế độ
chuyên chế nó lại biểu hiện ý chí đặc thù; chế độ chuyên chế với bản chất vô pháp luật và nhu cầu pháp luật.
Montesquieu nhận thấy pháp luật gồm nhiều lĩnh vực, phân ngành rõ rệt, cho nên tập trung vào một người duy
nhất là trái với bản chất của nó; gắn với bản chất chế độ chuyên chế là tình trạng lạm quyền. Vì vậy việc
thanh toán hiện tượng lạm quyền chỉ có thể là đồng thời, là sự thanh toán chế độ chuyên chế. Theo
Montesquieu, một khi quyền lực tập trung vào một mối, kể cả một người hay một tổ chức, thì nguy cơ
chuyên chế vẫn còn.
Trong tác phẩm “Tinh thần pháp luật”, Montesquieu đã lập luận tinh tế và chặt chẽ tính tất yếu của việc tách
bạch các nhánh quyền lực và khẳng định: “Trong bất cứ quốc gia nào đều có ba thứ quyền: quyền lập
9


pháp, quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những điều trong luật dân sự.” Ta
có thể nhận ra sự tiến bộ trong tư tưởng phân quyền của Montesquieu so với tư tưởng của Locke, khi tách
quyền lực xét xử - quyền tư pháp ra độc lập với các thứ quyền khác.
Từ đó, Montesquieu chủ trương phân quyền để chống lại chế độ chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, để
chính quyền không thể gây hại cho người bị trị và đảm bảo quyền tự do cho nhân dân. Montesquieu đã viết:
“Khi mà quyền lập pháp và hành pháp nhập lại trong tay một người hay một Viện Nguyên Lão, thì sẽ không có
gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng chính ông ta hoặc viện ấy chỉ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách
độc tài. Cũng không có gì là tự do nếu như quyền tư pháp không tách rời quyền lập pháp và hành pháp. Nếu
quyền tư pháp được nhập với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống, quyền tự do của
công dân; quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan tòa sẽ có
cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức, hoặc của quý tộc, hoặc của dân

chúng, nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất cả sẽ mất hết."
Tóm lại, theo Montesquieu, cách thức tổ chức nhà nước của một quốc gia là: “Cơ quan lập pháp trong
chính thể ấy gồm có hai phần, phần này ràng buộc phần kia do năng quyền ngăn cản hỗ tương. Cả hai phần
sẽ bị quyền hành pháp ràng buộc và quyền hành pháp sẽ bị quyền lập pháp ràng buộc.”
Tư tưởng của Montesquieu tuy vẫn còn điểm hạn chế là bảo thủ phong kiến, đòi hỏi đặc quyền cho tầng lớp
quý tộc. Nhưng nó vẫn là nền móng cho tư tưởng phân chia quyền lực sau này, có ảnh hưởng sâu sắc đến
những quan niệm sau này về tổ chức nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức của các nhà nước tư bản. Ví dụ như
đa số Hiến pháp của các nhà nước tư bản hiện nay đều khẳng định nguyên tắc phân quyền như một nguyên tắc
cơ bản của việc tổ chức quyền lực nhà nước. Như điều 10 Hiến pháp liên bang Nga quy định: “Quyền lực nhà
nước ở Liên bang Nga được thực hiện dựa trên cơ sở của sự phân quyền thành các nhánh lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Các cơ quan của các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phải độc lập.” Điều 1 của Hiến pháp Ba
Lan cũng trực tiếp khẳng định việc tổ chức bộ máy nhà nước theo nguyên tắc phân chia quyền lực thành ba
quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Tiếp nối Montesquieu, J.J. Rousseau cùng với tác phẩm “Bàn về khế ước xã hội,” đã đưa ra những quan
điểm rất mới mẻ và tiến bộ về sự phân chia quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Rousseau (1712 – 1778) chủ trương nêu cao tinh thần tập quyền, tất cả quyền lực nhà nước nằm trong tay cơ
quan quyền lực tối cao tức toàn thể công dân trong xã hội. Nhưng ông lại chỉ ra rằng phân chia quyền lực
nhà nước thành quyền lập pháp và quyền hành pháp, giao chúng vào tay cơ quan quyền lực tối cao và chính
phủ là cách thức hợp lý duy nhất để đảm bảo sự hoạt động có hiệu quả cho nhà nước, cũng như ngăn chặn
được xu hướng lạm quyền. Ngoài ra ông còn nêu lên vai trò quan trọng của cơ quan tư pháp trong việc đảm
bảo cho sự hoạt động ổn định của nhà nước, cũng như cho sự cân bằng giữa các vế cơ quan quyền lực tối cao,
chính phủ và nhân dân. Nhưng cách phân quyền của Rousseau không giống với Locke và Montesquieu, bởi ông
luôn khẳng định một điều duy nhất rằng: “những bộ phận quyền hành được chia tách ra đều phụ thuộc vào
quyền lực tối cao” và “mỗi bộ phận chỉ thực hiện ý chí tối cao đó” mà thôi.
Câu 6: Quyền lực chính trị là gì? Phân tích sự hình thành quyền lực chính trị và sự chuyển hóa quyền lực
chính trị thành quyền lực nhà nước?
Trả lời:
1. Quyền lực chính trị là gì?
Quyền lực chính trị là quyền sử dụng sức mạnh của một hay liên minh giai cấp, tập đoàn xã hội nhằm thực
hiện sự thống trị chính trị, là năng lực áp đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai

cấp mình chủ yếu thông qua đấu tranh giành, giữ và thực thi quyền lực nhà nước.
2. Sự hình thành quyền lực chính trị?
Công cụ lao động của con người, lực lượng sản xuất của xã hội nằm trong quá trình biến đổi và phát triển
không ngừng. Sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động, của lực lượng sản xuất dẫn tới đòi hỏi phải biến
đổi về chất quan hệ sản xuất hiện tồn. Quá trình này đưa tới sự xuất hiện các nhóm quan hệ sản xuất mới về mặt
giai cấp, làm xuất hiện đối kháng mới về mặt lợi ích, về mặt giai cấp – xã hội. Kết quả là lực lượng chính trị
mới tương ứng ra đời như là chủ thể hay là đại diện cho chủ thể của các lợi ích giai cấp
10


mới đó. Và điều này đưa tới một sự cọ xát, sự đụng độ giữa các lực lượng chính trị mới với lực lượng chính
trị cũ (nhất là quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền). Dần dần hay nhanh chóng, sớm hay muộn thì
lực lượng chính trị mới sẽ vươn lên để tự khẳng định mình về mặt nhà nước. Khi mà lực lượng chính trị mới
buộc nhà nước hiện tồn phải thừa nhận nó về mặt pháp lý là nó đã giành được quyền tồn tại về mặt pháp lý, và
như thế, quyền lực chính trị của giai cấp mới (hay của nhóm xã hội mới về mặt giai cấp) đã được thừa nhận về
mặt nhà nước, trong khuôn khổ của nhà nước hiện tồn. Lúc đó, người ta nói rằng lực lượng chính trị của nhóm
xã hội mới về mặt giai cấp (hay của giai cấp mới) đã được hình thành.
Thực chất của quá trình hình thành quyền lực chính trị là quá trình hình thành của một lực lượng xã hội mới về
mặt giai cấp và sự vươn lên của nó (trước hết là trong khuôn khổ của pháp luật hiện tồn) nhằm giành quyền
chính trị cho nó.
3. Sự chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước.
Quyền lực nhà nước là quyền lực của giai cấp thống trị, là bộ phận cơ bản của quyền lực chính trị.
Quyền lực nhà nước được chia thành quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Trong xã hội có giai cấp và còn đối kháng giai cấp, về cơ bản tồn tại hai quyền lực chính trị: Quyền lực chính trị của giai cấp thống trị (quyền lực nhà nước)
- Quyền lực chính trị của các giai cấp và các nhóm xã hội không ở địa vị thống trị. Nhóm quyền lực thứ hai
này có thể chia thành hai phân nhóm nhỏ hơn:
+ Phân nhóm quyền lực chính trị của các giai cấp và các tầng lớp xã hội tuy có lợi ích khác biệt (đối lập)
nhưng không đối kháng với lợi ích cơ bản của giai cấp hay tầng lớp cầm quyền. Xét về bản chất thì nhóm
quyền lực này vẫn nằm trong cùng một phạm trù với quyền lực chính trị của nhóm cầm quyền, và vì thế, không
có sự khác biệt về chất với quyền lực chính trị của giai cấp thống trị. Và do vậy, nó vẫn tồn tại dường như

trong sự “đối lập một cách dung hòa” với quyền lực nhà nước hiện tồn. Cái gọi là nền chính trị “đa nguyên
chính trị, đa đảng đối lập” ở các nước tư bản hiện đại là nền chính trị với các lực lượng chính trị và các quyền
lực chính trị khác nhau nhưng lại thuộc cùng một phạm trù này mà thôi, chứ không hề có nền “đa nguyên chính
trị, đa đảng chính trị đối kháng”.
+ Phân nhóm quyền lực chính trị của các giai cấp hay các tầng lớp xã hội có lợi ích đối kháng với lợi ích
của giai cấp cầm quyền. Về bản chất, nhóm này đối kháng với nhà nước hiện tồn, và vì vậy, đó là đối tượng
phải bị trấn áp, phải được xóa bỏ trong nhà nước ấy. Như vậy, phân nhóm quyền lực chính trị này sẽ có một
trong hai kết cục sau đây trong sự vận động của nó:
▪ Hoặc là nó sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn và triệt để bởi quyền lực nhà nước hiện tồn.
▪ Hoặc là nó sẽ ngày càng mạnh lên, bất chấp sự trấn áp của nhà nước hiện tồn, cho tới lúc nó đủ sức lật đổ
quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền, xóa bỏ quyền lực nhà nước và đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp
ấy, thiết lập bộ máy nhà nước mới dùng vào việc tổ chức lại xã hội theo cách mới phù hợp với lợi ích giai cấp
của nó. Khi đó, người ta nói quyền lực chính trị đã chuyển hóa thành quyền lực nhà nước.
- Ngoài hai hình thức vận động cổ điển này, còn có hình thức đảo chính trung tính nhằm giành giật và
chuyển giao quyền điều khiển nhà nước giữa các nhóm xã hội khác nhau trong nội bộ giai cấp cầm quyền vẫn
thường thấy ở nửa cuối thế kỷ XIX ở Liên Xô và Đông Âu. Đây cũng là một hình thức và một bài học chính
trị về quá trình chuyển hóa quyền lực chính trị thành quyền lực nhà nước bất lợi cho giai cấp công nhân mà các
thể chế chống chủ nghĩa xã hội đang cố gắng thực hiện trong chiến lược “diễn biến hòa bình” phản cách mạng
của chúng hiện nay.
Câu 7: Đảng chính trị là gì? Trình bày vai trò của Đảng chính trị?
Trả lời:
Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ
chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước, là hoạt động thực
tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những
mục tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
1. Đảng chính trị là gì:
Đảng chính trị là một hiện tượng đặc thù của xã hội có phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp. Trong sự phát
triển của xã hội loài người, đặc biệt là ở thời đại ngày nay, đảng chính trị - yếu tố cơ bản của hệ thống
11



tổ chức quyền lực chính trị, của chế độ chính trị và xã hội công dân – ngày càng thể hiện vai trò to lớn là công
cụ tập hợp giai cấp của một giai cấp, tổ chức lãnh đạo đấu tranh giai cấp vì mục tiêu giành, giữ, tổ chức, sử
dụng quyền lực nhà nước và định hướng cho sự phát triển.
2. Vai trò của đảng chính trị
a. Đảng chính trị là nhân tố tác động:
Là bộ phận tích cực nhất, có tổ chức nhất của giai cấp, đảng chính trị được lập ra để thực hiện lợi ích, mục
đích giai cấp, nắm quyền lực nhà nước. Như vậy, vai trò của đảng chính trị (vai trò cách mạng, tiến bộ hay bảo
thủ, phản động) tùy thuộc vào địa vị lịch sử mà đảng chính trị đó thực hiện. Trong lịch sử tồn tại và phát triển
của các đảng chính trị, có đảng đóng vai trò tiến bộ cách mạng, như đảng Mácxít – Lêninnit, có đảng thể hiện
sự bảo thủ, phản động như các đảng địa chủ, nông dân..., cũng có đảng chính trị, ở thời kỳ này đóng vai trò cách
mạng, tiến bộ, còn ở thời kỳ khác lại bảo thủ, phản động. Điều này tùy thuộc vào bản chất của giai cấp mà đảng
đó đại diện. C. Mác đã thể hiện tư tưởng đó trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”: “Ở Pháp, những người
cộng sản liên hợp với Đảng Dân chủ - xã hội chủ nghĩa chống giai cấp tư sản bảo thủ và cấp tiến… Ở Đức,
Đảng Cộng sản đấu tranh chung với giai cấp tư sản mỗi khi giai cấp này hành động cách mạng chống chế độ
quân chủ chuyên chế, chống chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến và giai cấp tiểu tư sản phản động”
b. Vai trò của đảng chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa: *
Vai trò tích cực của Đảng cầm quyền:
- Ở các nước tư bản chủ nghĩa, vai trò của đảng chính trị thể hiện rõ nhất trong các cuộc bầu cử giành
quyền lực nhà nước. Đó là tổ chức bầu cử, đảm bảo thay đổi chính quyền bằng cách hòa bình, hợp pháp, hợp
hiến.
- Sau khi đắc cử, Đảng cầm quyền đề ra đường lối, định hướng phát triển kinh tế - xã hội thông qua
cương lĩnh chính trị, đào tạo, bố trí tuyển lựa thành viên của đảng vào các cương vị chủ chốt của chính
quyền, chuẩn bị các chính sách, chiến lược hoạt động của nhà nước.
* Vai trò tích cực của Đảng không cầm quyền:
- Đảng không cầm quyền kiềm chế, đối trọng, giám sát đảng cầm quyền, là “cái van” điều chỉnh hoạt
động của đảng cầm quyền.
- Đảng không cầm quyền tập hợp giai cấp, tổ chức giai cấp, tập hợp lực lượng để đấu tranh chính trị nhằm
giành quyền lực nhà nước về tay mình.
=> Đảng không cầm quyền tăng cường tính tích cực cho công dân. *

Ảnh hưởng tiêu cực:
- Mặt tiêu cực của đảng chính trị bộc lộ rõ khi nó chia rẽ nhân dân, tách nhân dân ra khỏi chính trị.
- Để đạt được mục đích, đảng chính trị hành động kể cả những thủ đoạn, kích thích sự thèm khát quyền lực
chính tri và tạo thêm những điều kiện cho tham nhũng, tước bỏ quyền dân chủ của nhân dân.
c. Vai trò của đảng chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa: *
Vai trò tích cực:
- Trong hệ thống chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng cộng sản là lực lượng duy nhất lãnh đạo, thực
hiện quyền thống trị về chính trị của giai cấp công nhân để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân và quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản chịu trách nhiệm hoàn toàn
trước vận mệnh phát triển của dân tộc, lãnh đạo mọi mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội.
- Sự lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản trong điều kiện Đảng cầm quyền thực chất là xây dựng nhà
nước về mặt kinh tế. Bởi vậy, quyền lực của Đảng không mâu thuẫn và không thay thế quyền lực nhà nước,
tập trung vào việc lãnh đạo xây dựng nhà nước để quản lý kinh tế - lĩnh vực suy cho cùng quyết định đến sự
phát triển của xã hôi, quyết định vai trò lãnh đạo của Đảng.
=> Như vậy, Đảng Cộng sản có vai trò tích cực, gần như không có ảnh hưởng tiêu cực bởi mục tiêu cuối cùng
là vì nhân dân, đưa xã hội đi lên cộng sản chủ nghĩa, không còn giai cấp, không còn bóc lột, con người sống
trong hòa bình, tình yêu.
12


* Ảnh hưởng tiêu cực:
Tuy nhiên, trong những tình hình cụ thể, Đảng Cộng sản cũng có những biểu hiện tiêu cực trong lãnh đạo
xã hội khi nội bộ Đảng tha hóa, biến chất, xã rời lợi ích giai cấp, mất sức chiến đấu. Do đó, cần phải làm
trong sạch và chỉnh đống Đảng.
Câu 8: Văn hóa chính trị là gì? Phân tích cấu trúc của văn hóa chính trị? Trình bày cơ sở hình thành văn
hóa chính trị ở Việt Nam và phương thức giáo dục văn hóa chính trị cho đội ngũ cán bộ và nhân dân?
Trả lời:
Văn hóa là trình độ phát triển lịch sử nhất định của xã hội, trình độ phát triển năng lực và khả năng sáng tạo
của con người biểu hiện trong các phương thức tổ chức đời sống xã hội và hoạt động của con người cũng như

toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo nên trong tiến trình lịch sử vì lẽ sinh tồn và
mục đích của cuộc sống.
Chính trị là hoạt động trong quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia với vấn đề giành, giữ, tổ
chức và sử dụng quyền lực nhà nước, là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước, là hoạt động thực
tiễn của các giai cấp, đảng phái, nhà nước nhằm tìm kiếm những khả năng thực hiện đường lối và những mục
tiêu đã đề ra nhằm thỏa mãn lợi ích.
Văn hóa chính trị là một lĩnh vực, một biểu hiện đặc trưng của văn hóa của loài người trong xã hội có giai
cấp, là trình độ phát triển của con người thể hiện ở trình độ hiểu biết về chính trị, trình độ tổ chức hệ thống tổ
chức quyền lực theo một chuẩn mực giá trị xã hội nhất định nhằm điều hòa các quan hệ lợi ích giữa các giai
cấp và bảo vệ lợi ích của giai cấp cầm quyền, phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ xã hội. 2. Cấu trúc của
văn hóa chính trị?
a. Văn hóa chính trị với tư cách là chủ thể chính trị:
Với tư cách là chủ thể, phán ánh trình độ của con người về chính trị, văn hóa chính tị được tạo thành bởi kết
quả của sự thống nhất và tác động qua lại của văn hóa chính trị cá nhân và văn hóa chính trị tổ chức (cộng
đồng)
* Văn hóa chính trị của cá nhân:
- Cá nhân là phạm trù chỉ một con người, một cá thể người, một nhân cách. Sự phát triển đầy đủ và toàn diện
văn hóa chính trị cá nhân phản ánh trình độ chín muồi của chế độ dân chủ. Văn hóa chính trị cá nhân được thể
hiện trên ba mặt:
+ Trình độ hiểu biết về chính trị
+ Khả năng, năng lực của cá nhân tham gia vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực
chính trị.
+ Mức độ hoàn thiện nhân cách
- Văn hóa chính trị cá nhân chịu sự chi phố bởi các tư tưởng xã hội, động cơ chính trị và lợi ích giai cấp, phụ
thuộc vào trình độ dân chủ xã hội và truyển thống của dân tộc, đồng thời cũng phụ thuộc vào toàn bộ kinh
nghiệm sống, kết quả đào tạo, tự đào tạo, sự tự ý thức, tự phát triển. Văn hóa chính trị cá nhân thường
được bộc lộ qua văn hóa ứng xử, giao tiếp, tranh luận, bởi vì giao tiếp, ứng xử, tranh luận không chỉ thể hiện
thái độ thuẩn túy mà còn là biểu hiện của lòng trung thành, trình độ giác ngộ chính trị, là năng lực trí tuệ, đạo
đức và tác phong, là động cơ chính trị hướng về một lợi ích chính trị, một mục tiêu lý tưởng nhất quán cơ
bản và lâu dài.

- Văn hóa chính trị cá nhân không chỉ thể hiện qua quan hệ giao tiếp, ứng xử, mà còn bộc lộ đầy đủ ở năng
lực, khả năng hoạt động sáng tạo, đặc biệt trong việc tham gia vào quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống tổ
chức quyền lực chính trị. Con đường đi tới hoạt động sáng tạo bắt đầu từ tri thức, sự hiểu biết về chính trị - cơ
sở để hoạt hành động đúng. Để hình thành văn hóa chính trị cá nhân, phải thường xuyên trau dồi tư duy
khoa học trên cơ sở hoàn chỉnh về kiến thức, phải tích lũy kinh nghiệm, nhất là kinh nghiệm sống trực tiếp
trong hoạt động chính trị, phải học tập văn hóa ứng xử khoan dung…
* Văn hóa chính trị của tổ chức:
Văn hóa chính trị của các cá nhân chỉ thực sự thể hiện và phát huy trong quan hệ với văn hóa chính trị của một
tổ chức xác định, bởi con người bất cứ ở đâu và bất cứ bao giờ cũng không tồn tại ở một bình
13


diện, một chiều mà ở nhiều bình diện, nhiều chiều, và luôn đặt vào những quan hệ cụ khác nhau, vào vị trí khác
nhau. Con người, theo quan niệm của Hồ Chí Minh: “nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa
rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”
Văn hóa chính trị của một tổ chức phụ thuộc vào văn hóa của từng cá nhân, vào văn hóa của người thủ lĩnh,
vào trình độ dân trí nói chung, vào trình độ tổ chức của tổ chức và suy đến cùng còn tùy thuộc vào bản chất
của chế độ chính trị, trình độ chín muồi của chế độ dân chủ.
Đối với người thủ lĩnh chính trị, văn hóa chính trị của họ lại tùy thuộc vào trình độ trí tuệ (tài), tâm trong
sáng (đạo đức), sự tự giác mộ mục tiêu lý tưởng, khả năng thu phục, tập hợp, tổ chức mọi người vào công việc
chung, tùy thuộc vào kinh nghiệm thực tiễn, sự nếm trải trong thực tiễn và sự công tâm của họ.
Trình độ tổ chức thể hiện ở nguyên tắc tổ chức, ở cơ cấu tổ chức, đặc biệt ở hiệu lực, hiệu quả trong việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị. Bản chất của chế độ xã hội quy định trình độ văn hóa của tổ chức, cộng đồng.
Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, xã hội dựa trên tư hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, lấy việc bóc lột giá trị
thặng dư làm phương thức tồn tại, dân chủ chỉ là hình thức. Điều đó quy định trình độ hạn chế của văn hóa
chính trị cộng đồng. Trái lại, trong chủ nghĩa xã hội, xã hội dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất
chủ yếu, xã hội lấy việc thủ tiêu, bóc lột, bất công, bất bình đẳng làm cơ sở tồn tại, dân chủ xã hội được thực
hiện trong thực tế, do đó, văn hóa chính trị của mỗi tổ chức xã hội có môi trường nảy nở, phát huy. Sự tác
động qua lại thuận chiều giữa văn hóa chính trị cá nhân và văn hóa chính trị tổ chức, cộng đồng là nét đặc sắc của
văn hóa chính trị xã hội chủ nghĩa.

b. Văn hóa chính trị với tư cách là hệ giá trị
Do con người sáng tạo nên, tiếp thu và lựa chọn, biến thành nhu cầu, phương tiện, công cụ trong hoạt động
thực tiễn, trong tổ chức quyền lực nhằm đạt mục đích chính trị, văn hóa chính trị là kết quả tổng hòa của các giá
trị sau:
- Tri thức, sự hiểu biết, giác ngộ khoa học về chính trị:
Tri thức, sự hiểu biết về chính trị là sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức khoa học (lý luận) và tri thức kinh
nghiệm chính trị. Tri khoa học càng đạt tới tính khách quan bao nhiêu càng có vai trò to lớn mở đường cho
những hành động đúng bấy nhiêu. Tri thức kinh nghiệm gồm những tri thức kinh nghiệm thực tiễn trực tiếp và
truyền thống sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn tri thức lý luận, khắc phục những hành động chủ quan, duy ý chí vủa
các chủ thể chính trị.
Trên cơ sở những hiểu biết đúng đắn, khoa học về chính trị, các chủ thể chính trị có thể giác ngộ về lợi ích,
mục tiêu chính, về động cơ, thái độ chính trị, từ đó tự giác hơn trong hành động thực tiễn.
- Nhu cầu, thói quen, trình độ nhận định và đánh giá những hiện tượng, những quá trình chính trị của các
chủ thể chính trị.
Trên cơ sở những hiểu biết về chính trị, truyền thống mỗi dân tộc, trình độ hoàn thiện và phát triển các thể
chế chính trị hình thành ổn định, đồng thời khả năng nhận định, đánh giá các hiện tượng, các quá trình
chính trị của họ từng bước được xác lập làm cơ sở cho những hoạt động của những cá nhân phù hơp với những
chuẩn mực và lợi ích cộng đồng, nâng cao tinh thần và tính kiên quyết đấu tranh, bảo vệ hoặc phê phán những
hiện tượng, sự kiện trong đời sống xã hội theo quan điểm, lập trường chính trị nhất định.
- Các truyền thống chính trị:
Là những giá trị do con người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử, văn hóa chính trị, cũng như văn hóa nói
chung, ở trong một giai đoạn lịch sử nhất định là sự kế thừa và phát triển những giá trị chính trị truyền
thống trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Các giá trị văn hóa chính trị truyền thống không chỉ là những “chất
liệu” tạo nên bản sắc văn hóa chính trị. Việt Nam từ ngàn đời xưa, với lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân
nghĩa chính là nét đặc sắc trong văn hóa chính trị truyền thống. Trong thời đại mới, văn hóa chính trị nhân
nghĩa không chỉ là yên dân, trừ baok, mà hơn thế nữa, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân
nghĩa tức là xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội và góp phần vào sự nghiệp
hòa bình trên thế giới.
- Những chuẩn mực, phương tiện, phương thức tổ chức và hoạt động của quyền lực:
Những giá trị chính trị được đúc kết thành những chuẩn mực chính trị, được xã hội thừa nhận sẽ có ý nghĩa

trong việc định hướng, điều chỉnh hành vi cho các chủ thể chính trị trong cuộc đấu tranh giành, giữ,
14


và thực thi quyền lực chính trị. Các chuẩn mực chính trị một khi đã được xã hội thừa nhận, nghĩa là được thể
chế hóa thành kết cấu xã hội, thành phương thức hoạt động của các chủ thể chính trị, trong đó, hình thức tổ
chức quyền lực, tổ chức nhà nước, cơ chế vận hành của nó thích ứng với yêu cầu chính trị thực tiễn là nhân tố
quan trọng cấu thành văn hóa chính trị trong xã hội tương ứng.
Ngoài ra, các phương tiện phục vụ cho hoạt động, điều chỉnh các quan hệ chính trị, những giá trị vật chất
của văn hóa chính trị không chỉ là yếu tố cấu thành văn hóa chính trị mà hơn thế nữa làm cho việc tổ chức
quyền lực, mà cơ bản nhất là quyền lực nhà nước, có hiệu quả nhất trong việc thực thi quyền lực và bảo vệ lợi
ích của giai cấp chủ thể quyền lực.
- Trình độ hoàn thiện của thể chế chính trị
Sự hoàn thiện của thể chế chính trị trước hết biểu hiện sức mạnh, tính hiệu lực của thiết chế và pháp chế,
giá trị và sức mạnh của truyền thống, tính pháp lý, tính phổ biến của các chuẩn mực xã hội trong việc điều
chỉnh những hành vi, quan hệ xã hội – chính trị phù hợp với mục tiêu chính trị. Sau nữa, sự hoàn thiện của
thể chế chính trị biểu hiện sự kiện toàn và sức mạnh của hệ thống tổ chức quyền lực trong tổ chức xã hội,
trong phối hợp hành động, trong việc khơi dậy và nhân lên sức mạnh của truyền thống và hiện đại, sức mạnh
của giai cấp, dân tộc, nhân loại trong việc hiện thực hóa mục tiêu chính trị.
3. Trình bày cơ sở hình thành văn hóa chính trị ở Việt Nam?
a. Cơ sở văn hóa chính trị truyền thống:
Việt Nam là một nước văn hiến. Văn hóa chính trị Việt Nam là toàn bộ những thái độ, lòng tin, chủ nghĩa yêu
nước, tình cảm của con người Việt Nam với tư tưởng cốt lõi là “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Nó là thành
quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh ngoan cường dựng nước và giữ nước của dân tộc, là kết quả
của giao lưu và tiếp thu của nhiều nền văn minh thế giới.
Văn hóa chính trị Việt Nam hình thành từ khi nhà nước sơ khai đầu tiên – nhà nước Văn Lang, dưới thời đại
các vua Hùng ra đời. Tư tưởng giữ vững, bảo vệ nền độc lập dân tộc gắn liền với giữ nước, là vấn đề chính trị
lớn nhất, thường xuyên đặt ra trước tất cả các nhà nước Việt Nam trong lịch sử.
Có thể khái quát những đặc trưng tiêu biểu của văn hóa chính trị Việt Nam:
- Nêu cao tinh thần dân tộc và truyền thống yêu nước, động viên sức mạnh toàn dân vì độc lập tự do. - Đề

cao vai trò nhân dân, dựa vào dân để giữ nước.
- Thể hiện tinh thần nhân bản sâu sắc. Trọng nhân nghĩa, yêu thương con người bị áp bức, bóc lột, yêu hòa
bình, lên án bất công, tàn bạo, phi nhân tính, chống chiến tranh xâm lược và nô dịch dân tộc.
- Đề cao trí tuệ, trọng dụng nhân tài.
- Nêu cao pháp luật để trị nước, phát huy tinh thần dân chủ và bảo tồn văn hóa dân tộc…
Những hạn chế:
- Tính vô chính phủ của người tiểu nông khá rõ.
- Chế độ chuyên chế đã sản sinh ra tất cả những thiết chế, lễ nghi… rườm rà, phức tạp và bộ máy quan liêu.
Bộ máy đó không trực tiếp quản lý mà nặng về bóc lột, áp bức.
- Văn hóa chính thống là độc quyền của vua, dân chỉ lắng nghe và cam chịu hơn là chủ động sáng tạo. b.
Những cơ sở hình thành văn hóa chính trị Việt Nam thời hiện đại:
Văn hóa chính trị Việt Nam hiện đại bắt đầu được hình thành từ sau khi thắng lợi của cuộc cách mạng chính
trị, Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền, nhà nước kiểu mới ra đời.
Xét về bản chất nền văn hóa chính trị hiện đại phải dựa trên cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh
tế phát triển dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
Đối với nước ta hiện nay, với sự thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, cũng có nghĩa là thừa
nhận tính đa dạng của các hình thức sở hữu, song với việc khẳng định vị trí chủ đạo của chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu là đảm bảo định hướng xã hội cho sự phát triển kinh tế, đồng thời cũng là bảo đảm về mặt
kinh tế cho việc hình thành và phát triển văn hóa chính trị.
Hệ thống chính trị mà trụ cột của nó là nhà nước của dân, do dân và vì dân, được tổ chức và hoạt động dưới
sự lãnh đạo của Đảng nhằm từng bước hình thành nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo toàn bộ quyền lực
thuộc về nhân dân là cơ sở chính trị cho nền văn hóa chính trị hình thành và phát triển.
15


Do việc thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nên trong xã hội tất yếu còn tồn tại nhiều giai
cấp và tầng lớp xã hội. Trên cơ sở củng cố khối liên minh giai cấp giữa các giai cấp công nhân và giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng để tạo ra khả năng khách quan, thu hẹp khoảng
cách giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, hình thành quan hệ tốt đẹp giữa các
dân tộc từng bước khắc phục sự bất bình đẳng, sự bất công, cùng với nền giáo dục mới hướng vào mục

đích toàn xã hội mà trực tiếp là nâng cao dân chủ, là cơ sở xã hội cho việc hình thành và phát triển văn hóa
chính trị.
Chân lý khoa học, bản chất nhân văn và nhân đạo của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
cùng với những giá trị văn hóa truyền thống chính là cơ sở khoa học cho những thái độ Mácxít đối với việc nhận
thức và phát triển xã hội. Bởi vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tinh thần của
xã hội, cơ sở tư tưởng của văn hóa chính trị.
Câu 9. Trình bày nội dung tư tưởng chính trị Phương Tây thời cổ đại và thời cận đại?
Thời cổ đại ở phương Tây, với những cuộc đấu tranh một mất một còn giữa chủ nô dân chủ và chủ
nô quý tộc mà biểu hiện của nó là những cuộc cải cách dân chủ ở các thành bang là đặc trưng cơ bản nổi
bật của hệ tư tưởng lúc bấy giờ. Thời trung cổ là sự kết hợp và xuyên thấu lẫn nhau giữa thần quyền và thế
quyền để thống trị thần dân mà biểu hiện cơ bản là sự thống trị của kitô giáo đối với tinh thần của nông nô.
Sang thời cận đại, đặc trưng cơ bản là sự phát triển mạnh mẽ của triết học khai sáng và là thời kỳ của các cuộc
cách mạng dân chủ tư sản với sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động đấu tranh cho các
quyền cơ bản của con người. Đó là những nét tổng thể dệt nên nội dung cơ bản của lịch sử phát triển tư tưởng
chính trị ở các nước phương Tây thời kỳ trước Mác.
Việc làm rõ những giá trị phổ biến trong sự phát triển chính trị của nhân loại qua sự phát triển tư tưởng
chính trị phương Tây từ cổ đại đến cận đại sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong tổ chức thực thi quyền lực
chính trị của nhân dân lao động ở nước ta.
* Thời cổ đại mà đặc trưng là các tư tưởng và học thuyết chính trị Hy Lạp - La Mã. Họ đề cập về
những vấn đề như nguồn gốc, bản chất của nhà nước, các hình thức xã hội, thể chế nhà nước, thủ lĩnh chính
trị
Trước hết, bàn về thủ lĩnh chính trị, đã có rất nhiều quan điểm, ý kiến của các học giả về vấn đề này
SOCRAT cho rằng: thủ lĩnh chính trị phải là người có đạo đức, nhưng đạo đức phụ thuộc vào trí tuệ. Tuy
nhiên, do xuất thân từ tầng lớp chủ nô quý tộc nên ông cho rằng chỉ có thiểu số tầng lớp quý tộc mới là người có
trí tuệ, mới là những người sáng tạo đúng đắn.
DEMOCRITE: Yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải là người có tài năng, đạo đức. Là nhà triết học duy vật và
thuộc tầng lớp chủ nô dân chủ nên Ông cho rằng tầng lớp bình dân cũng có tài năng, có thể làm được chính trị.
SENOPHONE: Yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải có kỷ thuật giỏi, phải có sức thuyết phục cao, người thủ
lĩnh phải biết vì lợi ích chung nghĩa là phải biết chăm sóc cho người bị trị, biết hợp lại và nhân sức
16



mạnh của mọi người. Ông là người đầu tiên đặt ra yêu cầu về thủ lĩnh chính trị khá toàn diện như: phải có
chuyên môn giỏi, có uy tín, vì dân…
PLATON: yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải thực sự có khoa học chính trị, có tính khí phù hợp với
nhiệm vụ đảm đương. Ông quan niệm người lãnh đạo trong xã hội không được có quyền tư hữu (sở hữu về tài
sản) bởi vì tư hữu sẽ làm mất công tâm. Theo ông, thủ lĩnh chính trị phải biết hy sinh lợi ích cá nhân vì những
giá trị chung. Tuy có những quan điểm tiến bộ nhưng ông vẫn còn sai lầm khi cho rằng một thủ lĩnh chính trị
như vậy chỉ có ở tầng lớp chủ nô quý tộc.
ARISTOTE: xem thủ lĩnh chính trị là người sung túc, là người ở tầng lớp trung lưu không phải giàu
cũng không phải nghèo, họ là người phải biết uốn mình theo lới khuyên của các bên (vì quan điểm của ông
theo nhị nguyên luận).
Thứ hai, bàn về nguồn gốc của quyền lực nhà nước:
PLATON: xem quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước là quyền lực thống trị của kẻ trí đối với
người ngu. Đó là đặc tính của trí tuệ. Chỉ có người có trí tuệ mới có quyền lực. Trí tuệ chỉ có ở quý tộc.
ARISTOTE: quan niệm quyền lực của xã hội cũng là một trạng thái tự nhiên. Nó xuất phát từ gia
đình, quyền của cha đối với con, chồng đối với vợ, anh đối em; xuất phát từ quyền lực đối với xã hội.
Trong xã hội có nhiều gia đình, gia đình này có sự xâm hại đối với gia đình khác. Do đó mỗi gia đình phải
nhượng lại quyền lực của từng gia đình thành quyền lực chung. Người nắm quyền lực chung là nhà nước. Vì
vậy, quyền lực nhà nước là tự nhiên, pháp luật là những nguyên tắc khách quan, vô tư, xuất phát vì lợi ích của
xã hội, của từng công dân.
Thứ ba, bàn về thể chế nhà nước, các quan điểm lớn bao gồm :
HÉRODOT : là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã phân biệt và so sánh các thể chế của nhà
nước khác nhau. Theo ông có 3 hình thức cơ bản:
+ Thể chế quân chủ: tức là thể chế cầm quyền của một người-đó là vua.
+ Thể chế quý tộc: thể chế của một số ít người thông thái và tiêu biểu về phẩm hạnh của quốc gia để cầm
quyền.
+ Thể chế dân chủ: thể chế này là của đông đảo nhân dân nắm quyền và nó được thành lập bởi chế độ
bỏ phiếu để bầu ra các pháp quan.
Theo ông, loại thể chế tốt nhất là thể chế hỗn hợp những ưu điểm của từng thể chế trên.

DEMOCRIT: ông ủng hộ chế độ dân chủ cộng hoà chủ nô.
SOCRAT: ông là người ủng hộ chế độ chuyên chế độc tài. Ông cho rằng dân chủ là sai lầm. Dân chủ là
chính quyền của người ngu dốt, ông gọi đó là chính quyền “bình dân”.
ARISTOTE: ông cho rằng thể chế nhà nước dân chủ là thể chế người giàu, người nghèo không bên
nào số lượng tuyệt đối. Ông cho rằng mọi thể chế đều có nguy cơ biến chất, thay đổi bằng cuộc cách mạng.
17


Ông là người đầu tiên phân loại quyền lực nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
* Thời trung cổ (thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 15) xã hội phương Tây chìm đắm trong xiềng xích nô lệ của
hai thế lực thần quyền và thế quyền, đó là
Thiên chúa giáo và chế độ phong kiến mà người ta gọi đêm trường Trung cổ. Thiên chúa giáo lấn át cả chế
độ phong kiến và chi phối toàn bộ đời sống xã hội bằng những luật lệ hà khắc và người xuẩn. Chính vì vậy, thời
kỳ này xã hội phương Tây hầu như không phát triển được về mọi mặt, kể cả hệ tư tưởng chính trị.
* Thời cận đại là thời kỳ triết học khai sáng, những tư tưởng chính trị phát triển rất rực rỡ, phong
phú và đa dạng, đặc biệt là ở Pháp.
VOLTAIRE: là lãnh tụ của phong trào khai sáng, ông chống chế độ chủ nô, đấu tranh cho sự bình
đẳng của công dân nước Pháp. Ông phê phán nhà thờ và chuyên chế, mọi tội ác trong xã hội là do nhà thờ mà
ra. Ông chủ trương tự do tín ngưỡng, báo chí, ngôn luận và sở hữu. Ông kịch liệt chống chiến tranh. Theo
ông, chiến tranh còn kinh khủng hơn dịch hạch và điên khùng. Theo ông bất bình đẳng về tài sản là tất yếu.
MONTESQUIEU: Phê phán chế độ chuyên chế phong kiến và cho rằng chuyên chế về bản chất là đối
lập với tự do. Theo ông chế độ chuyên chế là bạo chúa, vua pháp là một gã phù thuỷ. Về nguồn gốc của nhà
nước, theo ông, nhà nước xuất hiện trong một quá trình lịch sử lâu dài khi mà trong xã hội xuất hiện tình trạng
mâu thuẫn không thể điều hoà nếu không có một cơ quan có quyền lực đủ mạnh để giữ gìn sự bình ổn của xã
hội. Theo Ông, cách tốt nhất để chống lạm quyền là phải chống độc quyền, là phải phân chia sao cho quyền lực
kiềm chế quyền lực, từ đó ông đưa ra học thuyết tam quyền phân lập một cách có hệ thống (lập pháp hành pháp
và tư pháp) và là đối thủ đáng sợ nhất của chế độ chuyên chế phong kiến.
ROUSSEAU: là đại biểu của tầng lớp dân chủ thị dân, ông phê phán gay gắt quan hệ đẳng cấp phong
kiến và chế độ chuyên chế.
Về chính trị: quan điềm về chính trị của ông cấp tiến hơn Montesquieu (vì Montesquieu bảo vệ tư

tưởng quân chủ lập hiến), quan điểm của ông tiến xa hơn ở chỗ đề cao tư tưởng chủ quyền nhân dân, ông phê
phán chế độ phong kiến và đòi bác bỏ hoàn toàn chế độ đó. Ông cho rằng trong xã hội mọi người phải được tự
do bình đẳng đó là trạng thái tự nhiên vốn có, là phúc lợi cao nhất của con người, quyền lực trong xã hội phải
thuộc về nhân dân. Nhà nước lập ra qua các khế ước xã hội phải thể hiện ý chí quyền lực của nhân dân nếu
không thể hiện được điều đó thì bộ phận cầm quyền phải bị đào thải, thay thế.
Như vậy, tư tưởng chính trị ở phương tây thường gắn liền với pháp luật trong khi tư tưởng chính trị phương
đông thường gắn liền với đạo đức. Tư tưởng chính trị phương tây thường xuất phát từ “trạng thái
tự nhiên” của con người thường đề cao động lực “quyền lợi” của con người. Chính trị học của giai cấp tư 18


sản phương tây thường dựa trên cơ sở của chủ nghĩa cá nhân, tuyết đối hoá quyền lợi cá nhân. Tư tưởng
chính trị của giai cấp tư sản so với tư tưởng chính trị của giai cấp phong kiến là một bước tiến bộ trong
việc giải phóng con người nhưng vẫn chưa đặt con người như là mục đích, tức là vẫn chưa thể giải phóng
đại đa số nhân dân lao động.
Giá trị của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay
Khi nghiên cứu tư tưởng chính trị của các thời đại lịch sử Tây, chúng ta không được quên tính giai cấp
của nó, mặt khác không vì thế mà phủ nhận toàn bộ nội dung, tri thức khách quan trong các học thuyết
chính trị mà phải biết chọn lọc, rút ra những cái giá trị để kế thừa, làm giàu tri thức của mình, kể cả đối với tư
tưởng chính trị tư sản hiện đại.
Qua những giá trị tư tưởng chính trị Phương Tây đã trình bày, chúng ta nhận thấy rằng bất cứ hệ thống
chính trị nào, nhà nước cũng mang bản chất giai cấp, nhưng đồng thời phải thực hiện chức năng xã hội. Mặt
khác, hệ thống chính trị nào, nhà nước nào mà quyền lực thuộc về nhân dân lao động thì đó là xu hướng tiến bộ.
Nhà nước pháp quyền là một thành tựu của văn minh chính trị cần phải được ứng dụng. Hệ thống chính trị
cần phải có cơ chế tự điều chỉnh và cơ chế cân bằng kiểm soát quyền lực để thích ứng với điều kiện thay đổi và
cần phát huy sáng tạo cá nhân.
Ở Việt Nam ta, do chịu ảnh hưởng của tư tưởng chính trị phương Đông nên gắn liền với đạo đức (Nho
giáo, Phật giáo), ý thức tuân thủ pháp luật của công dân chưa cao. Việc vận dụng những tri thức về xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội công dân vào công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nước
pháp quyền XHCN là rất cần thiết và bổ ích. Đó chính là quan điểm kết hợp hài hoà những giá trị đạo đức tiến
bộ của nhân loại với giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.

- Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, để tiếp tục hoàn thiện nhà nước, phát huy dân chủ và tăng
cường pháp chế XHCN, phải xây dựng nhà nước CH XHCN VN thực sự là trụ cột của hệ thống chính trị và là
công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đó là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân, nhà nước ta dưa trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân
dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (không phân quyền). Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi
cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật. Cán bộ, công
chức nhà nước phải là đầy tớ trung thành của dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân.
- Quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện trên mọi lĩnh vực và được thể chế hoá bằng pháp luật, được
hòan thiện trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao dân trí. Nhà nước tạo điều kiện để nhân dân
thực sự tham gia quản lí xã hội thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, liên quan đến
lợi ích đông đảo của nhân dân. Phát huy dân chủ kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế.
19


- Những nhà thủ lĩnh chính trị ở bất cứ cương vị nào đều phải chấp hành nghiêm chỉnh cương lĩnh,
điều lệ, nghị quyết của Đảng và pháp luật của nhà nước. Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện coi
thường và buông lỏng kỷ luật. Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lí ở các cấp thật sự vững vàng và
kiên định về chính trị gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lói sống, có trí tuệ kiến thức và năng lực hoạt động
thực tiễn sáng tạo, gắn bó với nhân dân.
Tóm lại: việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCNVN thực sự vững mạnh đồng thời nâng cao hiệu quả
và chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước đã trở một đòi hỏi bức thiết của cuộc sống, của sự nghiệp đổi
mới, sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta vì chỉ có xây dựng nhà nước pháp quyền đủ mạnh mới có thể bảo
vệ và phát huy những thành quả trong quá trình đổi mới về mọi mặt mới có đủ khả năng giải quyết vấn đề mới
nảy sinh do mặt trái của cơ chế thị trường, của kinh tế nhiều thành phần mang lại, và mới có khả năng đương
đầu và đập tan chiến lược “diễn biến hoà bình” mà các thế lực chống đối đang ráo riết tiến hành .
Câu 10. Vận dụng những giá trị trong nội dung tư tưởng chính trị của Khổng tử và tư tưởng chính trị
Hàn Phi tử vào thực tiễn chính trị nước ta hiện nay?
Chính trị là một khoa học về việc giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, chính vì vậy, từ khi xuất
hiện nhà nước sơ khai đầu tiên cũng là lúc đặt nền móng cho việc ra đời của các học thuyết chính trị. Lịch sử ra

đời của các nhà nước khác nhau cũng đem lại sự khác biệt rõ rệt trong tiến trình phát triển của các tư tưởng,
các học thuyết chính trị tương ứng.
Tư tưởng chính trị của Trung Quốc đã ra đời vào thời kỳ cổ đại và kéo dài suốt trong quá trình lịch sử,
mặc dù có những diễn biến nhằm phù hợp với từng thời kỳ lịch sử, nhưng nói chung vẫn giữ được những
điểm cơ bản. Điểm xuất phát của tư tưởng chính trị là bàn về vấn đề con người như thế nào, sẽ có một đường
hướng chính trị, quyết sách quản lý xã hội như thế đó mà điển hình là các học thuyết đức trị, pháp trị…gắn liền
với các nhân vật lịch sử tiêu biểu như Khổng Tử, Hàn Phi Tử…
* Học thuyết “Đức trị” của Khổng tử: Từ cơ sở của học thuyết “nhân-lễ”, Khổng Tử cho rằng xã hội
con người phải được gắn lại với nhau bằng chất keo là “lòng nhân ái”. Ông coi con người là tính bản thiện,
con người sinh ra là tốt cho nên chủ trương người cầm quyền phải thực thi đức trị. Nghĩa là nhà cầm quyền
phải dùng đức để cảm hóa, hướng xã hội vào kỷ cương, nề nếp. Khổng Tử cực lực phản đối dùng pháp luật
hình phạt như là công cụ chủ yếu để cai trị, ông nói “dựa vào pháp luật để trị dân, sử dụng hình phạt để chỉnh
đốn họ thì họ tạm thời khỏi bị phạm tội, nhưng lại không có liêm sỉ. Nếu như dựa vào đức để trị dân, sử dụng lễ
giáo để chỉnh đốn họ, thì không những có liêm sỉ mà còn qui phục”.
Từ quan điểm trên, ông là người đầu tiên mở ra phong trào tự học, thu nạp học trò không phân biệt
sang hèn, trên dưới, giàu nghèo. Là người sáng lập ra Nho giáo (Ngũ kinh, tứ thư), tư tưởng chính trị của ông
đề cập ba vấn đề:
20


Nhân ái lễ được coi là hạt nhân của tư tưởng chính trị của ông để nhằm khôi phục thể chế chính trị
nhà Chu bao gồm: Nhân là người, nhân là lòng người, người và nhân là thương người, để đạt đến nhân đòi
hỏi phải tu thân để lập nhân. Oâng chia xã hội thành hai hạng người, quân tử và tiểu nhân. Từ đó quân tử
tu thân để đạt đến nhân, còn tiểu nhân thì không bao giờ đạt được đến nhân. Khổng Tử nói: “một ngày tu mình
để khôi phục điều lễ sẽ đạt nhân và yên hà sẽ theo”. Do vậy ông đặt ra mục tiêu tu thân đạt nhân để đạt lễ. Tu
thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Thân thân trọng hiền là sự phát triển tông pháp của nhà Chu cho phù hợp với hiện thực xã hội, muốn
những người này tham gia vào bộ máy của nhà nước, lựa chọn huyết thống của nhà Chu và đưa những
người hiền để tham gia bộ máy. Khổng Tử là người phát triển dân chủ lên một bước nhưng chỉ dừng lại ở
người hiền, chỉ ở chức quan lại thấp.

Chính danh định phận là quan điểm nhằm cứu vãn lễ chế nhà Chu vì sự hỗn loạn đẳng cấp là nguy cơ
sụp đổ chế độ. Oâng đưa ra quan niệm mỗi người phải biết giữ danh phận của mình để giữ nền chính trị của
thiên hạ nhằm ngăn chặn các cuộc chiến tranh chiếm ngôi thiên tử của các chư hầu. Khổng Tử nói: “Thân mình
không chính thì chính người khác sau được. Thân mình không chính dù ra lệnh không ai theo. Danh không chính
thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc không thành”.
Như vậy Khổng Tử là người kiến trúc tư tưởng chính trị đức trị và hơn trăm năm sau khi ông qua đời,
học thuyết “nhân” của ông được nhân vật mà ông chưa hề quen biết nhưng vô cùng ngưỡng mộ ông, tiếp tục
phát triển.
*Học thuyết pháp trị (Pháp gia), quan niệm rằng bản chất của con người là xấu, “ác”. Con người vốn
sinh ra đã mang đầy tính tham lam, ích kỷ, tự tư, tự lợi, thường xâm phạm lẫn nhau, do đó cần có pháp luật
trừng trị nghiêm minh những kẻ vụ lợi. Pháp trị bắt đầu từ Tuân tử nhưng Hàn Phi Tử mới là kiến trúc sư chủ
yếu, có hệ thống (280-233 TCN).
Tinh thần cơ bản của pháp trị là bất vi thân. Pháp luật không phân biệt kẻ trên, người dưới, chấp nhận
tính tàn bạo của pháp luật để bảo đảm cho sự tồn tại của chính quyền. Pháp trị tôn sùng sức mạnh của quyền
lực chứ không tôn sùng sức mạnh của đạo đức, chân lý bao giờ cũng thuộc về kẻ mạnh, với sức mạnh tổng hợp
là pháp-thuật-thế.
Thuật là phương pháp, thủ thuật, cách thức, mưu lược điều khiển công việc bắt buộc mọi người thực
hiện. Pháp trị chấp nhận chính trị có quyền nói dối, nói dối là tàn bạo nhưng để bảo vệ chính quyền thì được
chấp nhận.
Thế là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm đầu chính thể để trị vì thiên hạ.
Pháp là tiêu chuẩn khách quan, là chế độ chính trị - xã hội, là những hiến lệ được soạn ra để trị
nước.
21


Pháp trị chỉ được đề cao ở thời Tần Thủy Hoàng với thời gian ngắn ngủi không có vị trí đáng kể
trong lịch sử Trung Quốc.
* Vận dụng những ưu điểm của Đức trị và Pháp trị vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam hiện nay:
Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng chính trị của Khổng tử và Hàn Phi tử, cần tiếp thu có chọn lọc

những giá trị tích cực và loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong học thuyết của các ông. Trong giai đoạn hiện nay,
Việt Nam đang tiến hành xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân”. Nội dung của Nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang xây dựng phải phản ánh được những giá trị
của truyền thống và nhân loại, thể hiện được tính giai cấp và tính nhân dân sâu sắc. Chính vì thế những tư tưởng
dân chủ, vì con người mang giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc của đức trị là những hạt nhân hợp lý cần được
tiếp thu kế thừa và cụ thể hóa dưới hình thức những quy phạm pháp luật. Quan niệm về “đức” của Khổng tử rất
sâu sắc và phong phú. “Đức” không chỉ là thiện đức mà chủ yếu là hành động, là lời nói đi đôi với việc làm.
Lòng tin mãnh liệt vào thiện đức của con người chính là cơ sở của đường lối đức trị.
Trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, việc vận dụng những tư
tưởng tích cực trong học thuyết “Pháp trị” có ý nghĩa quan trong trong việc đề cao ý thức pháp luật và thực
hiện pháp luật trong nhân dân. Tiếp thu những giá trị trong tư tưởng “Pháp trị” của Hàn Phi tử, cần vận dụng
những yếu tố “pháp” và “thuật” vì nó phù hợp với xã hội Việt Nam hiện nay. Ngoài ra cần phải hạn chế “thế”
vì nó chỉ phục vụ cho những người có quyền lực.
Việc vận dụng những tư tưởng trong học thuyết Đức trị của Khổng tử và Pháp trị của Hàn Phi tử trong
xây dựng nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì nhân dân ở nước ta cần được kết hợp
nhuần nhuyễn, linh hoạt, đặc biệt trong xây dựng pháp luật đảm bảo vừa hợp lý vừa hợp tình, đảm bảo nhân
dân là chủ của đất nước.
Câu 11. Hãy trình bày sự hiểu biết về quyền lực chính trị?
* Quan niệm về quyền lực chính trị và nguồn gốc của nó đã có từ thời cổ đại, được phát triển và
hoàn thiện dần qua các thời trung đại, cận đại và hiện đại.
Thời cổ đại và trung đại có nhiều quan điểm khác nhau về quyền lực chính trị, tuy nhiên, nhìn
chung các học giả đều thống nhất quan điểm cho rằng, quyền lực chính trị xuất phát một cách tự nhiên trong
lịch sử nhân loại. Quyền lực là của chung và phải vì lợi ích chung, do đó pháp luật phải khách quan, trực tiếp,
vô tư phù hợp với lợi ích quốc gia, gia đình và mỗi công dân. Quyền lực phải có hai phẩm chất quan trọng:
Thứ nhất, là sở hữu chung của cộng đồng xã hội, nếu không sẽ là một sai lầm. Thứ hai, sứ mệnh của quyền
lực là phải làm cho công bằng được ngự trị, nếu không cũng là một sai lầm.

22



Thời cận đại, các học giả đã luận giải sâu sắc hơn về nguồn gốc, bản chất của quyền lực chính trị, đó
là nhà nước và quyền lực nhà nước. Tiêu biểu cho các học giả thời kỳ này là Mongtetkyơ và Rutxô.
Nhìn chung, các học giả cho rằng, quyền lực tự nhiên của con người do tạo hoá sinh ra là quyền
thiêng liêng, tối cao và bất khả xâm phạm, đó là quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Do
quy luật tự nhiên của cuộc sống đã dẫn đến sự bất công về kinh tế, về xã hội và do đó quyền tự nhiên của con
người bị xâm hại. Để bảo vệ quyền tự nhiên của mình thì mọi người, mọi thành viên trong xã hội phải" ký kết"
hình thành một cơ quan có quyền lực chung - cơ quan quyền lực nhà nước, đó là sự uỷ quyền của nhân
dân. Do đó, quyền lực nhà nước về bản chất là của nhân dân.
* Thời hiện đại, quan điểm Mát-xít cho rằng, quyền lực chính trị ra đời cùng với sự xuất hiện xã hội có
giai cấp và quá trình đấu tranh giai cấp. Hai cơ sở căn bản của quyền lực chính trị là, xuất phát từ nền tảng của
chế độ kinh tế- xã hội và xuất phát từ lợi ích giai cấp và bảo vệ giai cấp. Đây cũng là hai cơ sở căn bản để khẳng
định quyền lực chính trị thuộc về ai.
Cuộc đấu tranh giữa các giai cấp để giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị mà cơ bản là giành, giữ
và thực thi quyền lực nhà nước, đã diễn ra trong suốt quá trình lịch sử từ khi xã hội cộng sản nguyên thủy tan
rã và xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời cho đến nay. Kết quả là đưa đến sự thay đổi hình thức của quyền lực
chính trị, hình thức thống trị giai cấp.
Như vậy, có thể định nghĩa: Quyền lực chính trị là sức mạnh trong mối quan hệ giữa các chủ thể
chính trị hành động trong đời sống xã hội – trong đó chủ thể chính trị này có thể chi phối hoặc buộc chủ thể
chính trị khác phải phục tùng ý chí của mình nhờ có sức mạnh, vị thế nào đó trong quan hệ chính trị-xã hội.
- Bản chất của quyền lực chính trị là sức mạnh quan hệ giữa các giai cấp trong việc giành, giữ, thực thi
quyền lực nhà nước, hoặc chí ít là gây áp lực đối với quyền lực nhà nước. Khẳng định điều này, chủ nghĩa
Mác-Lênin viết:“Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn
áp một giai cấp khác”. Do vậy, quyền lực chính trị ra đời gắn liền với sự xuất hiện của các giai cấp trong xã
hội, nhưng các chế độ xã hội có bản chất khác nhau, quyền lực chính trị cũng sẽ hiểu khác nhau. Song, dù chế
độ xã hội nào thì quyền lực chính trị cũng biểu hiện trên các đặc trưng cơ bản sau:
+ Quyền lực chính trị là tất yếu khách quan trong giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội. Về
nguyên tắc, giai cấp lực lượng xã hội nào cũng có một năng lực, ở chừng mực nào đó, cho phép
hiện thực hóa những lợi ích của mình. Do vậy, cùng với tính tất yếu khách quan của sự ra đời, tồn tại và tiêu
vong của các giai cấp, quyền lực chính trị - khả năng một giai cấp thực hiện lợi ích khách quan của mình,
cũng mang đặc trưng khách quan tất yếu đó.

+ Quyền lực chính trị thống trị trong một xã hội là quyền lực của giai cấp, lực lượng xã hội giữ địa vị
thống trị về kinh tế.
23


Đặc trưng này phản ánh mục tiêu thực chất của quyền lực chính trị là thiết lập, duy trì một trật tự
bảo vệ và phát triển các lợi ích mà trước hết là lợi ích kinh tế cho giai cấp nắm quyền.
Đặc trưng này cũng chỉ rõ nền tảng, cơ sở của chính trị, quyền lực chính trị là ở kinh tế mà gốc là từ
quan hệ sở hữu. Mối quan hệ giữa sở hữu tư liệu sản xuất với trính trị trở thành mối quan hệ cơ bản nhất, gốc
gác nhất trong xã hội có phân chia giai cấp.
Quyền lực về kinh tế là cơ sở để đảm bảo quyền lực về chính trị. Song quyền lực về chính trị là điều kiện
tiên quyết để thực hiện quyền lực về kinh tế.
+ Quyền lực chính trị mang tính chính đáng. Tính chính đáng của quyền lực chính trị càng cao thì tính
hiệu lực, hiệu quả của nó càng cao, và ngược lại. Tính chính đáng của quyền lực chính trị thể hiện ở tính đại
diện lợi ích cho nhóm, cộng đồng người; ở tính hợp lý và hợp pháp của cơ quan quyền lực.
Tính đại diện cho lợi ích nhóm, cộng đồng người: Nằm chủ yếu ở tính dân chủ trong hoạt động
chính trị, cơ hội thực hiện quyền làm chủ, cơ hội thể hiện ý kiến và tham gia hoạt động chính trị…
Tính hợp lý: Nằm chủ yếu ở tính khoa học trong việc tổ chức hệ thống chính trị, thể hiện trước hết ở
hiến pháp và luật. Sau đó là các hoạt động chính trị thực tiễn.
Tính hợp pháp của các cơ quan quyền lực: Nằm chủ yếu ở các hình thức lựa chọn người lãnh đạo và ra
quyết định, trong đó hệ thống bầu cử có vai trò trung tâm.
+ Quyền lực chính trị bao giờ cũng mang tính giai cấp. Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp
để thực hiện lợi ích khách quan của mình. Do vậy, nói đến đặc trưng của quyền lực chính trị là nói tới bản chất
giai cấp của nó.
Câu 12. Nêu hiểu biết về nét đặc trưng của văn hóa chính trị và những giá trị cơ bản tạo nên cấu trúc
văn hóa chính trị?
Trong thực tiễn đời sống chính trị, để thực thi quyền lực, nếu chủ thể cầm quyền chỉ nhấn mạnh
việc sử dụng quyền lực với tư cách là một công cụ cưỡng bức, thì hiệu quả cầm quyền thường sẽ không cao.
Điều này chỉ có thể được giải quyết khi việc tuân thủ quyền lực trở thành thói quen, được chia sẻ rộng rãi
trong cộng đồng, tức là nó đã trở thành văn hóa chính trị.

Văn hóa chính trị có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống chính trị nói chung, đến hành vi của các cá nhân,
các nhóm trong xã hội nói riêng. Vậy văn hóa chính trị là gì? Có nhiều quan điểm khác nhau về văn hóa chính
trị:
+ Văn hóa chính trị là một phương diện của văn hóa, ở đó kết tinh toàn bộ các giá trị, phẩm chất, trình
độ, năng lực chính trị, được hình thành trên một nền chính trị nhất định.
+ Văn hóa chính trị là văn hóa được thể hiện trong hoạt động chính trị của con người, tổ chức và thể
chế chính trị.

24


+ Văn hóa chính trị là những giá trị, thái độ, niềm tin được cộng đồng chia sẻ và những thiên
hướng, hành vi của các cá nhân khi họ tham gia vào đời sống chính trị.
+ Theo Lucian Pye và Sidny Verba: “Văn hóa chính trị là một hệ thống các niềm tin được hình
thành trong thực tiễn chính trị, những biểu tượng chuyển tải các ý nghĩa và các giá trị định hình nên môi
trường trong đó các hoạt động chính trị diễn ra.
Tóm lại, Văn hóa chính trị là tập hợp các giá trị, thái độ và niềm tin được hình thành trong thực tiễn
chính trị. Nó có thể chi phối, định hướng hoạt động của các cá nhân, tổ chức và cộng đồng khi các chủ thể này
tham gia vào đời sống chính trị.
Tùy theo cách hiểu về văn hóa chính trị và từng cấp độ chủ thể mà cấu trúc của văn hóa chính trị sẽ khác
nhau. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, dù ở cấp độ nào, văn hóa chính trị cũng sẽ bao gồm những yếu tố cơ
bản sau:
+ Tri thức chính trị: Là những hiểu biết của con người về đời sống chính trị. Tri thức bao gồm cả tri thức
lý luận và tri thức kinh nghiệm được thu nhận, tích lũy trong quá trình tham gia vào đời sống chính trị của mỗi
cá nhân.
+ Hệ tư tưởng chính trị: Là một tập hợp những tư tưởng tạo thành các mục tiêu, đường lối, chiến lược,
sách lược chính trị của một chủ thể. Nó cũng là một tầm nhìn toàn diện, một cách thức nhìn nhận sự vật do các
giai cấp trong xã hội đưa ra.
Trong một xã hộ, tư tưởng thống tri xã hội bao giờ cũng là tư tưởng của giai cấp cầm quyền. Hệ tư
tưởng chính trị phản ánh khái quát lợi ích của giai cấp cũng như phương thức, con đường để hiện thực hóa

lợi ích của mỗi giai cấp. Giai cấp nào cầm quyền thì hệ tư tưởng của giai cấp đó sẽ được truyền bá trong xã
hội, trở thành hệ tư tưởng chính thống.
Trong lý luận Mácxít, hệ tư tưởng là hạt nhân của văn hóa chính trị. Thông qua công tác tư tưởng và bộ
máy tuyên truyền, giai cấp thống trị sẽ truyền bá cho người dân các giá trị mà họ tin tưởng, từ đó giúp người
dân nhận thức được sự đúng đắn của các giá trị mà giai cấp cấm quyền đang theo đuổi.
+ Giá trị: Là những điều được tin là đúng đắn, có ý nghĩa…được cộng đồng chia sẻ và thừa nhận một
cách rộng rãi. Các giá trị thường được tiếp nhận từ truyền thông, hoặc được định hình thông qua thực tiễn
chính trị. Các giá trị có tính ổn định và bền vững, có ý nghĩa chi phối hành vi của các cá nhân, các nhóm trong
cộng đồng.
+ Thái độ chính trị: Là trạng thái tâm lý thể hiện sự yêu, ghét, thờ ơ…đối với một chủ thể, một địa
điểm, một sự kiện…chính trị. Thái độ chính trị của một người có thể được định hình trong quá khứ, hoặc từ trải
nghiệm thực tiễn. Người ta có thể đo lường thái độ chính trị của một người thông qua nghiên cứu hành vi của
họ. Thái độ chính trị cũng có thể thay đổi theo thời gian và nó tác động đến tình cảm, hành vị
của mỗi cá nhân.
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×