Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

BIỆN PHÁP THỰC HÀNH, TRẢI NGHIỆM HÌNH THÀNH BIỂU TƯỢNG KÍCH THƯỚC CHO TRẺ 34 TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.98 KB, 56 trang )

KHOA GIÁO DỤC MẦM NON
-----------

BÀI TẬP TỐT NGHIỆP SƯ PHẠM
TÊN ĐỀ TÀI:

BIỆN PHÁP THỰC HÀNH, TRẢI NGHIỆM HÌNH THÀNH
BIỂU TƯỢNG KÍCH THƯỚC CHO TRẺ 3-4 TUỔI Ở TRƯỜNG
MẦM NON.


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN


LỜI CAM ĐOAN.
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu do tôi thực hiện.
Các số liệu trong khóa luận là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố ở
các nghiên cứu khác hay trên bất kỳ phương tiện truyền thông nào.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về kết quả nghiên cứu trong khóa luận
tốt nghiệp của mình.


LỜI CẢM ƠN.
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc nhất, tôi xin gửi lời cảm
ơn đến giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Thị Như Mai, người đã hướng
dẫn động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài “Biện pháp thực hành,
trải nghiệm hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi”. Sự
chỉ bảo, giúp đỡ tận tình của cô là nguồn động lực tinh thần to lớn để tôi có được
thành quả như ngày hôm nay.
Trong suốt thời gian làm đề tài, tôi đã học hỏi được rất nhiều điều, có


thêm những kiến thức và thông tin hữu ích về phương pháp cũng như hình thức
tổ chức hoạt động thực hành, trải nghiệm, hình thức mà tôi sẽ phải sử dụng
thường xuyên khi thực hiện công tác giảng dạy tại trường mầm non. Đây sẽ là
hành trang bổ ích và quan trọng để tôi bước đến sự nghiệp ước mơ của mình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu trường Đại Học Sư Phạm Hà
Nội, Ban chủ nhiệm Khoa Giáo dục mầm non cùng toàn thể các thầy cô trong
khoa đã giúp đỡ, tạo điều kiện để tôi hoàn thành kì học cuối cùng của mình.
Đây là bước đầu tiên tôi làm quen với công tác nghiên cứu khoa học nên
không tránh khỏi sự thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý của thầy cô và toàn
thể các bạn đọc để khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1: Vai trò của việc hình thành biểu tượng kích thước cho..........................................................14
trẻ nhà trẻ.......................................................................................................................................... 14
Bảng 2. Thực trạng mức độ nhận thức của GVMN về vai trò của thực hành, trải nghiệm trong việc hình
thành biểu tượng kích thước................................................................................................................ 14
Bảng 3: Thực trạng mức độ tổ chức thực hành trải, nghiệm trong việc hình thành biểu tượng kích
thước cho trẻ........................................................................................................................................ 15
Bảng 4. Thực trạng hình thức tổ chức hoạt động hình thành biểu tượng kích thước..........................16
Bảng 5. Mục đích sử dụng thực hành, trải nghiệm trong hoạt động....................................................16
Bảng 7. Mức độ nhận thức biểu tượng kích thước của trẻ 3 – 4 tuổi ở nhóm lớp TN sau TN..............43

DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT.
BTKT
GV
GVMN
TN


: Biểu tượng kích thước
: Giáo viên
: Giáo viên mầm non.
: Thực nghiệm.


ĐC

SL

: Đối chứng.
: Mức độ.
: Số lượng


PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Bác Hồ kính yêu đã viết:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn, ngủ biết học hành là ngoan”.
Trẻ em là hạnh phúc của gia đình, là tương lai của đất nước, việc bảo vệ,
chăm sóc trẻ không những là trách nhiệm của mỗi gia đình mà còn là trách nhiệm
của toàn xã hội. Đây là giai đoạn quan trọng để hình thành những nền tảng cho sự
phát triển sau này. Ở trẻ, tất cả mọi thứ mới bắt đầu: bắt đầu ăn, bắt đầu nói, bắt
đầu nghe, nhìn và vận động bằng đôi bàn chân, đôi tay của mình… Tất cả những
cử chỉ đó đã làm nên những thói quen, những nét nhân cách mới ở trẻ. Vì vậy làm
thế nào để trẻ được phát triển toàn diện luôn là mong muốn của mọi gia đình và
của toàn xã hội.
Bậc học mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, đặt

nền tảng ban đầu cho việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam.
Hình thành các biểu tượng sơ đẳng về toán là một trong những nội dung giáo dục
quan trọng của trẻ ở trường Mầm non. Nó góp phần giáo dục toàn diện cho trẻ, đặc
biệt giáo dục nhận thức và giáo dục trí tuệ giúp trẻ thích ứng với môi trường sống
luôn luôn thay đổi, toán học giúp trẻ nhận thức về thế giới xung quanh về các mối
quan hệ số lượng, kích thước, hình dạng, vị trí trong không gian giữa các đồ vật so
sánh với nhau.
Ngay từ khi còn rất nhỏ, trẻ đã được tiếp xúc với người lớn và các sự vật, hiện
tượng xung quanh nên trẻ rất hiếu động, tò mò, thích cái mới lạ nhưng lại chóng
chán mau quên mà toán học gồm các khái niệm khó và trừu tượng. Vì vậy mà trẻ
không thể ngồi lâu một chỗ nghe cô giáo hình thành các biểu tượng toán thông qua
những lời giảng giải… Đối với trẻ mầm non chỉ có hoạt động mới tạo ra hứng thú,
hoạt động mới gây ra những tình huống để trẻ được thực hành, trải nghiệm, tìm
tòi…giúp trẻ tiếp thu các biểu tượng toán một cách tự nhiên.
Một trong những cách thức có ưu thế nhất trong việc giúp trẻ khám phá, phát
hiện các đặc tính của sự vật, hiện tượng xung quanh, hình thành các biểu tượng
toán học sơ đẳng đó là hoạt động thực hành, trải nghiệm.Trẻ mầm non nói chung
và trẻ mẫu giáo nói riêng hoạt động của trẻ là những hoạt động không có sự định
hướng, trẻ hoạt động theo ý thích của cá nhân và đặc biệt trẻ mẫu giáo hoạt động

1


chủ đạo là hoạt động với đồ vật “trẻ học mà chơi chơi mà học” vì vậy vai trò của
giáo viên lúc này rất quan trọng, giáo viên cần tổ chức tốt các hoạt động chơi – tập
giúp trẻ được trải nghiệm, được thực hành thao tác trên đồ vật, nhằm hình thành
những biểu tượng toán học sơ đẳng.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài “Biện pháp thực hành, trải nghiệm hình thành
biểu tượng kích thước cho trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi ở trường mầm non” làm đề tài
nghiên cứu trong khóa luận tốt nghiệp của mình nhằm tìm hiểu về thực trạng mức

độ hình thành biểu tượng kích thước của trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu đề xuất biện pháp thực hành, trải nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả
hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ 3-4 tuổi ở trường mầm non.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu.
3.1. Khách thể nghiên cứu:
Quá trình hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ độ tuổi 3-4 tuổi ở trường
mầm non.
3.2. Đối tượng nghiên cứu:
Một số biện pháp thực hành, trải nghiệm hình thành biểu tượng kích thước
cho trẻ 3-4 tuổi ở trường mầm non.
4. Giả thuyết khoa học.
Việc hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ 3-4 tuổi sẽ đạt kết quả cao hơn
nếu chúng ta biết tổ chức, sử dụng linh hoạt các nhóm biện pháp kích thích hứng
thú hướng trẻ tới nhu cầu hoạt động thực hành, trải nghiệm với biểu tượng kích
thước theo hướng phát triển và các biện pháp đánh giá mức độ phát triển biểu
tượng kích thước của trẻ.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của hoạt đông thực hành, trải nghiệm
với sự hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi.
- Đề xuất một số biện pháp thực hành, trải nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả hình
thành biểu tượng kích thước cho trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm một số hoạt động thực hành, trải nghiệm với
sự hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi.
6. Địa bàn nghiên cứu :
- Trường MN
7. Phương pháp nghiên cứu.
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận

2



Thu thập tài liệu, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp khái quát, hệ thống hóa
những nguồn tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu để làm rõ vấn đề nghiên
cứu.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
a. Phương pháp điều tra (anket)
Sử dụng phiếu điều tra với giáo viên, thông qua câu trả lời nhằm tìm hiểu thực
trạng nhận thức của GV về việc hình thành BTKT cho trẻ 3-4 tuổi, về vai trò, ý
nghĩa, tìm hiểu phương pháp GV sử dụng để tổ chức hoạt động thực hành, trải
nghiệm.
b. Phương pháp quan sát.
Quan sát hoạt động hình thành BTKT cho trẻ 3-4 tuổi ở trường mầm non nhằm
xác định cách thức tổ chức hoạt động của GV đồng thời điều tra được mức độ phát
triển BTKT của trẻ.
c. Phương pháp đàm thoại.
Tiến hành trao đổi trò chuyện với GVMN và trẻ nhằm tìm hiểu nhận thức, cách
thức tổ chức, những thuận lợi và khó khăn mà giáo viên gặp phải trong quá trình
giáo viên tổ chức hoạt động thực hành, trải nghiệm với sự hình thành BTKT cho
trẻ 3-4 tuổi ở trường mầm non.
d. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
Tổng kết kinh nghiệm của GV về cách thức tổ chức các hoạt động thực hành,
trải nghiệm với sự hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ ở độ tuổi
3-4 tuổi ở trường mầm non.
e. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
Nghiên cứu, phân tích sản phẩm hoạt động, kết quả thực hiện các bài kiểm tra
trên trẻ và giáo án của GV.
f. Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
Sử dụng phương pháp thực nghiệm sư phạm nhằm kiểm chứng hiệu quả của
hoạt động thực hành, trải nghiệm với sự hình thành BTKT cho trẻ 3-4 tuổi và kiểm

nghiệm tính đúng đắn của giả thuyết khoa học đề ra.
7.3 Phương pháp xử lí số liệu.
Sử dụng thống kê toán học để xử lí số liệu thu thập được.
8. Cấu trúc khóa luận tốt nghiệp.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục, khóa
luận được chia làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của hoạt động thực hành, trải nghiệm với sự hình
thành biểu tượng kích thước cho trẻ ở độ tuổi trẻ 3-4 tuổi.

3


Chương 2: Thực trạng và xây dựng một số hoạt động thực hành, trải nghiệm
với sự hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ ở độ tuổi trẻ 3-4 tuổi.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm với một số hoạt động thực hành, trải
nghiệm với sự hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ ở độ tuổi trẻ 3-4 tuổi.

4


PHẦN 2
NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG THỰC HÀNH, TRẢI
NGHIỆM VỚI SỰ HÌNH THÀNH BIỂU TƯỢNG KÍCH THƯỚC CHO TRẺ
Ở ĐỘ TUỔI 3-4 TUỔI.
1.1. Sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Giáo dục mầm non là mắt xích đầu tiên trong hệ thống Giáo dục Quốc dân.
Theo quyết định 161/2002 QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ về một số chính sách
phát triển GDMN ra ngày 15/11/2002 đã đề ra mục tiêu phát triển chung của
GDMN “Nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ trước 6 tuổi, tạo cho trẻ sự

phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ thẩm mĩ…hình thành ở trẻ cơ sở
đầu tiên của nhân cách con người mới Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: thông minh,
ham hiểu biết, thích khám phá tìm tòi có một số kĩ năng như quan sát, phân tích,
tổng hợp và suy luận tạo cho trẻ nhiều cơ may trên con đường học hành cũng như
cuộc sống của chúng”. Hình thành biểu tượng toán học cho trẻ mầm non là một nội
dung quan trọng góp phần thực hiện mục tiêu GDMN. Hiệu quả của việc hình
thành các biểu tượng toán học cho trẻ mầm non không chỉ phụ thuộc vào việc xây
dựng hệ thống các biểu tượng cần hình thành cho trẻ mà còn phụ thuộc vào
phương pháp, cách tổ chức các hoạt động cho trẻ làm quen với toán ở các trường
mầm non.
Việc hướng dẫn tổ chức các hoạt động hình thành biểu tượng toán học sơ đẳng
phải được tiến hành ngay từ lứa tuổi mẫu giáo bởi đó là cơ hội vàng để hình thành
ở trẻ những khả năng tìm tòi, quan sát, khám phá…tăng cường phát triển tư duy
ngôn ngữ. Có thể nói đó là phương tiện hữu hiệu truyền truyền thụ kinh nghiệm
lịch sử loài người đến với trẻ em đồng thời đóng vai trò chủ đạo trong việc phát
triển của trẻ.
Hình thành BTKT là một trong những nội dung quan trọng cần hình thành
cho trẻ ở lứa tuổi mầm non. Trong chương trình giáo dục mầm non việc hình thành
biểu tượng toán học sơ đẳng cho trẻ mầm non được một số nhà khoa học trong và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu.
1.1.1 Các công trình nghiên cứu ngoài nước.
Thế kỉ XVII − XIX các nhà giáo dục J.A.Komensky, J.H.Pestalozzi
K.D.Usinxki, L.N.Tolxtoi…trong công trình nghiên cứu của mình đã đề cập đến
vấn đề, nội dung và phương pháp dạy trẻ học tính toán và hình thành biểu tượng về
kích thước. Các nhà giáo dục xuất phát từ nhu cầu thực tiễn đều cho rằng nhất thiết

5


phải cho trẻ lĩnh hội toán học trong tương lai, họ đưa ra các ý kiến riêng lẻ về nội

dung và phương pháp dạy phương pháp dạy toán cho trẻ trong giáo dục.
Các nhà giáo dục như L.E.Jurova, T.V.Jauruntaeva, L.A.Verger, họ cho rằng
các trò chơi giáo dục và các bài học của trẻ mầm non thật sự hứng thú hành động
với đồ vật, đồ chơi. Trẻ so sánh thiết lập mối liên hệ và quan hệ kích thước giữa
chúng với nhau, trẻ học cách sử dụng mối quan hệ kích thước (không bằng nhau, to
hơn nhỏ hơn…) và lập những bài toán đơn giản.
Trong công trình nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của A.V.Gapôrôdest và
AD.Usôva đã khẳng định vai trò của việc rèn luyện ở trẻ những phương thức khảo
sát về hình thức đồ vật như màu sắc, kích thước có ý nghĩa quan trọng đối với sự
phát triển tư duy của trẻ.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước.
Tác giả Nguyễn Thanh Sơn − Trịnh Minh Loan − Đào Như Trang cuốn “Toán
và phương pháp hình thành biểu tượng toán cho trẻ mầm non” đã đề cập đến vấn
đề, nội dung và phương pháp hình thành biểu tượng toán học, xuất bản năm 1994
[1]. Thạc sĩ Trịnh Minh Loan trong cuốn “Hình thành các biểu tượng ban đầu về
toán cho trẻ mầm non” ở các lứa tuổi.
Tiến sĩ Đỗ Minh Liên trong giáo trình “Phương pháp hình thành biểu tượng
toán học sơ đẳng cho trẻ mầm non” [4] và Đinh Thị Nhung trong cuốn “Toán và
phương pháp hình thành các biểu tượng toán học cho trẻ mầm non” [2] đã chỉ ra
đặc điểm phát triển biểu tượng kích thước cho trẻ, cấu trúc, nội dung, chương trình,
biện pháp, cách lập kế hoạch hình thành các biểu tượng cho trẻ mầm non ở các lứa
tuổi khác nhau.
Tác giả Đinh Thị Thu trong luận văn Thạc sĩ Khoa học Giáo dục “Một số biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ 4 – 5 tuổi
theo hướng tích hợp” đã chỉ ra một số biện pháp hình thành biểu tượng kích thước
cho trẻ 4 – 5 tuổi được tích hợp theo chủ đề với các biện pháp như kích thích trí tò
mò, hứng thú của trẻ vào hoạt động, cung cấp làm giàu vốn hiểu biết về các biểu
tượng kích thước cho trẻ qua các hoạt động hàng ngày, sử dụng bài tập luyện tập…
[8].
Nhìn chung các nhà tâm lí – giáo dục trong và ngoài nước tập trung nghiên cứu

những vấn đề khái quát mang tính lí luận về nội dung, hình thức, phương pháp
hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Để góp phần
làm phong phú lí luận và thực tiễn các biện pháp hình thành biểu tượng kích thước
cho trẻ mầm non tôi đi vào nghiên cứu mức độ hình thành BTKT của trẻ 3-4 tuổi

6


thông qua hoạt động “Biện pháp thực hành, trải nghiệm hình thành biểu tượng kích
thước cho trẻ 3-4 tuổi ở trường mầm non.”
1.2. Cơ sở lí luận của hoạt động thực hành, trải nghiệm với sự hình thành biểu
tượng kích thước cho trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi ở trường mầm non.
1.2.1. Một số khái niệm.
1.2.1.1. Khái niệm biểu tượng.
Theo từ điển Tiếng Việt của tập thể cán bộ ngôn ngữ học biên soạn, Hoàng
Phi làm chủ biên biểu tượng được hiểu như sau:
Thứ nhất: Biểu tượng là hình ảnh tượng trưng.
Thứ hai: Biểu tượng là hình thức của nhận thức cao hơn cảm giác cho ta hình
ảnh của sự vật cần giữ lại trong đầu óc khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã
chấm dứt.
Dựa vào cơ sở sinh lí học có thể khẳng định biểu tượng được hình thành khi
sự vật hiện tượng trước đây tác động vào giác quan tạo ra những đường thần kinh
liên hệ tạm thời để lại những dấu vết trong vỏ não. Do đó biểu tượng được xây
dựng dựa trên cơ sở tri giác. Nếu không có tri giác biểu tượng không thể hình
thành được.
Theo quan điểm của các nhà tâm lý học “Biểu tượng là hình ảnh của sự vật,
hiện tượng nảy sinh ra trong óc khi sự vật và hiện tượng ấy không còn tác động
vào giác quan của ta như trước”.
1.2.1.2. Khái niệm kích thước
Kích thước là một trong những khái niệm cơ bản của toán học. Kích thước là

khái niệm chung, tổng quát biểu thị độ lớn của các đại lượng, trực tiếp hơn là mỗi
loại kích thước cụ thể liên quan đến phương pháp xác định cách so sánh các tính
chất thích ứng của sự vật.
Theo từ điển Hán – Việt do Hoàng Phê làm chủ biên, kích thước được hiểu
như sau: Kích thước là khái niệm chỉ toàn thể nói chung những đại lượng (Chiều
dài, chiều rộng, chiều cao…) xác định độ lớn của một vật.
1.2.1.3. Khái niệm về biểu tượng kích thước.
Biểu tượng kích thước là hình ảnh chỉ những đại lượng (Chiều dài, chiều rộng,
chiều cao…) của đối tượng được lưu lại và tái hiện trong óc của ta khi các đại
lượng của đối tượng đó không còn được ta tri giác trực tiếp, không còn tác động
trực tiếp vào giác quan của ta như trước.
1.2.1.4. Khái niệm thực hành, trải nghiệm.
Theo từ điển Tiếng Việt :
Thực hành: Là áp dụng lý thuyết vào thực tế.

7


Trải nghiệm: Theo nghĩa chung nhất là bất kì một trạng thái có màu sắc xúc
cảm nào được chủ thể cảm nhận, trải qua đọng lại thành bộ phận (cùng với tri giác,
ý thức) trong đời sống tâm lí của từng người. Theo nghĩa hẹp hơn, chuyên biệt hơn
của tâm lí học là những tín hiệu bên trong nhờ đó nghĩa của các sự kiện đang diễn
ra đối với cá nhân được ý thức, chuyển thành ý riêng của cá nhân, góp phần lựa
chọn tự giác các động cơ cần thiết, điều chỉnh hành vi của cá nhân. Theo Carl
Rogers thì chỉ có một cách học dựa trên sự khám phá của bản thân hoặc tự lĩnh hội
thì mới giúp con người thay đổi căn bản hành vi của mình. Bản chất của nó chính
là trải nghiệm.
Vậy Giáo dục trải nghiệm là học tập qua kinh nghiệm dựa trên các hoạt động
có hướng dẫn. Là hình thức học tập gắn liền mới các hoạt động của sự chuẩn bị
ban đầu và có phản hồi, trong đó đề cao kinh nghiệm chủ quan của người học. Như

vậy trong hình thức học tập này thì giáo viên chỉ đóng vai trò của người hướng dẫn
và thúc đẩy trực tiếp việc trải nghiệm của trẻ, đảm bảo quá trình trẻ tìm hiểu, khám
phá và lĩnh hội kiến thức có ý nghĩa và lâu dài.
Thực hành trải nghiệm là trẻ được tham gia hoạt động, được trực tiếp thao
tác với đồ vật dựa trên sự hướng dẫn của người lớn.
Như vậy, tổng hợp các khái niệm trên chúng tôi xây dựng khái niệm “ Biện
pháp thực hành, trải nghiệm hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ ở độ tuổi 34 tuổi ở trường mầm non” là cách tổ chức, sắp xếp, bố trí có chủ đích của giáo
viên cho trẻ được trực tiếp hoạt động nhằm hình thành biểu tượng kích thước cho
trẻ độ tuổi 3-4 tuổi.
1.2.2. Vai trò của việc tổ chức thực hành, trải nghiệm trong hoạt động.
Theo quy luật của việc tổ chức cho trẻ thực hành, trải nghiệm sẽ giúp trẻ kiểm
nghiệm lại kiến thức mà trẻ đã thu được thông qua hai phương pháp trực quan và
dùng lời.
• Phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của trẻ.
• Thông qua việc thực hành, trải nghiệm trẻ được tích cực hoạt động tìm tòi,
khám phá từ đó giúp trẻ phát triển tư duy, ngôn ngữ, phát triển nhận thức
cho trẻ.
• Góp phần tích cực vào việc giáo dục mối quan hệ tốt cho trẻ trong các hoạt
động thực hành, trải nghiệm trẻ được chơi được thể hiện mình trẻ biết
nhường nhịn, chia sẻ, giúp đỡ nhau.
1.2.3. Đặc điểm phát triển các quá trình nhận thức của trẻ 3-4 tuổi liên quan
đến việc hình thành biểu tượng kích thước.
1.2.3.1. Đặc điểm phát triển tri giác.

8


Tri giác là cấp độ đầu tiên của quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính
bên ngoài của sự vật [5]. Trẻ 3-4 tuổi đã làm chủ được tri giác của mình, dưới sự
hướng dẫn bằng lời của người lớn trẻ đã biết quan sát nhất là những đồ vật quen

thuộc.
Trẻ tự tổ chức được quá trình tri giác của mình. Trong quan sát trẻ rất tò mò,
ham hiểu biết, hay đặt câu hỏi.... Tính đứng đắn trong việc phân biệt màu sắc, kích
thước cao hơn... Tri giác của trẻ còn mang tính tự kỷ. Sự phát triển tri giác thể hiện
ở tính đúng đắn về khối lượng vật thể mà trẻ gọi tên và tri giác được, ở tính ý nghĩa
và sự tổ chức lại các phương thức tri giác do vốn kinh nghiệm của trẻ tăng dần. Vì
vậy trong tổ chức hoạt động thực hành, trải nghiệm GV cần chuẩn đồ dùng đồ chơi
phong phú, màu sắc bắt mắt thu hút đứa trẻ tham gia hoạt động và cần cung cấp
chính xác các biểu tượng kích thước cho trẻ.
1.2.3.2. Đặc điểm phát triển ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là quá trình mỗi cá nhân sử dụng một thứ tiếng nào đó để giao tiếp.
Nói cách khác ngôn ngữ là giao tiếp bằng tiếng nói [5].
Trẻ 3-4 tuổi vốn từ tăng nhanh, nói nhiều, nói câu dài và câu phức tạp hơn.
Thích hát đọc được bài thơ ngắn, hiểu gần hết các từ nói được, hoàn thiện ngữ
pháp và nâng cao khả năng sử dụng ngôn ngữ của mình hơn nữa . Trẻ thích giao
tiếp, có thể nhận diện màu sắc và hò lên thích thú. Thậm chí, một số từ của bé sử
dụng lúc này có thể không có nghĩa hoặc khiến người đối diện không hiểu. Trả lời
được một số câu hỏi của người lớn, vẫn còn phát âm sai nhiều từ. Sử dụng trò chơi
để kích hoạt ngôn ngữ cho trẻ.
1.2.3.3. Đặc điểm phát triển tư duy.
Tư duy là hoạt động nhận thức nhằm phản ánh những thuộc tính, bản chất,
những mối quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng, phản ánh một cách gián
tiếp và khái quát những điều mà trước đó ta chưa biết [5].
Trẻ 3-4 tuổi đang chuyển từ tư duy trực quan hành động sang tư duy trực
quan hình ảnh nhưng còn mờ nhạt. Do hoạt động với đồ vật lâu dần thành hình ảnh
biểu tượng trong đầu, là cơ sở của hoạt động tư duy ở bình diện bên trong, nhưng
biểu tượng vẫn còn nghèo nàn. Trẻ biết sử dụng các biểu tượng trong đầu nhưng
phải sử dựng nhiều lần hoạt động để giải quyết vấn để. Vì vậy GV cần cung cấp
cho trẻ những BTKT một cách phong phú, đa dạng được hệ thống hóa và chính xác
hóa, tổ chức trò chơi phù hợp cho trẻ.

1.2.3.4.Đặc điểm phát triển xúc cảm tình cảm.
Trẻ lứa tuổi 3-4 tuổi cảm xúc phát triển rất mạnh, trẻ đã phát triển tất cả các
sắc thái xúc cảm, trẻ phản ứng với những người xung quanh, các sự kiện vui, buồn,

9


hờn giận.... đặc biệt trẻ phản ứng xúc cảm qua lời nói, sự vận động và điệu bộ,
hành vi của trẻ.
1.2.3.5. Đặc điểm phát triển chú ý.
Trẻ 3-4 tuổi khả năng chú ý của trẻ tăng lên, trẻ có khả năng phân phối chú ý
vào hai hay nhiều đối tượng, tính bền vững của chú ý cũng phát triển, đặc biệt
trong trò chơi, trẻ bắt đầu vào mẫu giáo có thể tập trung chú ý vào trò chơi 30-50
phút. Trẻ đã hình thành chú ý có chủ đích. Để giúp trẻ phát triển khả năng chú ý,
người lớn nên nôi cuốn các em vào những dạng hoạt động mới và dùng những
phương tiện nhất định để tổ chức sự chú ý của trẻ.
1.2.4. Đặc điểm phát triển biểu tượng kích thước của trẻ độ tuổi 3-4 tuổi.
Kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lí học, giáo dục học cho thấy rằng, trẻ
nhỏ sớm nhận biết được kích thước của các vật có ở xung quanh. Những kinh
nghiệm tri giác để xác định kích thước của các vật thể được tích lũy dần dần ở trẻ
nhỏ trong quá trình trẻ thao tác với đồ vật, đồ chơi có kích thước khác nhau. Trẻ
lên một tuổi sự tri giác kích thước của trẻ mới bắt đầu được ổn định và trẻ càng lớn
thì sự tri giác kích thước càng trở nên bền vững. Trẻ 3-4 tuổi có thể nhận biết về
một chiều kích thước của một vật và trẻ có thể làm đúng theo yêu cầu của người
lớn.
Ví dụ: Trẻ có thể nhận biết đúng một là người lớn hay trẻ con. Hoặc biết đem
đến một quả bóng to, một cái thước dài cho cô.
Khi lên 3 tuổi trẻ có khả năng lựa chọn các vật theo chiều dài, chiều rộng,
chiều cao đúng hơn nếu sự khác biệt đó là rõ rệt. Trẻ cũng thường xuyên phân biệt
đúng các chiều đo cụ thể của các vật khi trực tiếp so sánh sự khác biệt về các chiều

của vật. Trẻ thường dễ dàng phân tách dấu hiệu cần so sánh khi nó nổi bật hơn so
với dấu hiệu khác.
Việc tổ chức cho trẻ thực hành, trải nghiệm so sánh từng thông số cụ thể
không chỉ giúp trẻ nắm được đặc điểm kích thước của vật mà còn giúp trẻ nắm
được các mối quan hệ không bằng nhau và diễn đạt kết quả so sánh với việc sử
dụng các từ như: to hơn, nhỏ hơn.
1.2.5. Nội dung hình thành biểu tượng kích thước kích thước cho trẻ độ tuổi 34 tuổi.
- Trẻ lứa tuổi 3-4 tuổi được thao tác với các đồ vật có kích thước to – nhỏ khác
nhau.
- Trẻ 3-4 tuổi bước đầu được làm quen và nhận biết được sự khác nhau về kích
thước, gọi tên, phân biệt kích thước to – nhỏ, dài – ngắn, cao – thấp của các vật.
- Nhận biết sự khác nhau về trọng lượng nặng – nhẹ của các vật.

10


Kết luận chương 1.
Toán học có vai trò rất quan trọng đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ 3-4
tuổi nói riêng, việc hình thành những biểu tượng toán sơ đẳng cho trẻ là một nội
dung, nhiệm vụ quan trọng của trường mầm non, của các nhà giáo dục, đã được
một số nhà tâm lí giáo dục trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Nó góp phần
không nhỏ vào việc giáo dục nhận thức, trí tuệ sự phát triển toàn diện nhân cách
của trẻ cũng như tiền đề vững chắc cho việc học tập ở lứa tuổi tiếp theo.
Thực hành, trải nghiệm là hình thức tổ chức giúp trẻ tích cực hoạt động, lĩnh
hội các biểu tượng kích thước toán học, giáo viên có thể tổ chức các hoạt động cá
nhân, theo nhóm nhỏ, nhóm vừa, nhóm lớn cho phù hợp với đặc điểm nhận thức
của trẻ, phù hợp với đặc điểm của nội dung hoạt động hình thành biểu tượng kích
thước cho trẻ.

11



Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ XÂY DỰNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP
HÌNH THÀNH BIỂU TƯỢNG KÍCH THƯỚC CHO TRẺ ĐỘ TUỔI 3-4
TUỔI Ở TRƯỜNG MẦM NON.
2.1. Vài nét về khách thể điều tra.
Điều tra tiến hành trên 20 GVMN đang trực tiếp giảng dạy tại các lớp mẫu
giáo trẻ 3-4 tuổi (Huyện Thanh Oai) và trường MN Bích Hòa (Huyện Thanh Oai).
Đặc điểm trường MN điều tra.
• Về cơ sở vật chất:
+ Cả 2 trường đều có cơ sở vật chất khang trang sạch đẹp, sân trường rộng
rãi. Các trường đều có khu vui chơi và hoạt động với các đồ chơi ngoài trời, có đủ
cây xanh thoáng đãng. Và có đầy đủ các phòng học, các phòng chức năng các khu
nhà bếp thực hiện quy trình bếp ăn một chiều sạch sẽ.
+ Mỗi lớp học ở các trường đều có đầy đủ các trang thiết bị máy tính, máy
chiếu phục vụ cho công tác dạy và học của cô và trẻ. Ngoài ra còn có phòng năng
khiếu đảm bảo chất lượng giáo dục cho trẻ.
• Đội ngũ giáo viên, công nhân viên tại các trường:
+ Đội ngũ giáo viên, công nhân viên trong tường đều là những người có
trình độ, có kinh nghiệm trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ.
+ Các giáo viên thường xuyên được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để
nâng cao chất lượng đội ngũ một cách đồng bộ, mỗi giáo viên tự xây dựng cho
mình kế hoạch chăm sóc – nuôi dạy cho trẻ phù hợp với lứa tuổi và khả năng của
từng trẻ, luôn khám phá những phương pháp dạy học tích cực, luôn học hỏi và tích
lũy cho mình những kinh nghiệm, kiến thức cho bản thân. Và luôn tôn trọng, đồng
cảm với trẻ, kích thích, lôi cuốn trẻ vào các hoạt động tạo điều kiện để các cháu
phát huy hết khả năng của mình.
• Về trình độ chuyên môn: Tất cả các GVMN đều có trình độ từ trung cấp
sư phạm mầm non đến đại học sư phạm mầm non.
+ Đại học sư phạm MN: 9 giáo viên.

+ Cao đẳng sư phạm MN: 4 giáo viên.
+ Trung cấp sư phạm MN: 7 giáo viên.
+ Sơ cấp sư phạm MN: 0
+ Chưa qua đào tạo: 0
• Về thâm niên công tác:
+ Dưới 5 năm: 11 giáo viên.
+ Từ 10 - 15 năm: 7 giáo viên.

12


+ Trên 15 năm: 2 giáo viên.
Tuy nhiên bên cạnh đó các trường học có số lượng trẻ trong lớp còn khá đông
trong khi số lượng phòng học còn hạn chế, diện tích, phòng học còn khá chật hẹp
nên ảnh hưởng chưa tốt tới chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ được toàn diện.
2.1.1. Thời gian điều tra.
Từ 20/3/2018 – 01/05/2018.
2.1.2. Nội dung điều tra:
- Nhận thức của GVMN về vai trò của hoạt động thực hành, trải nghiệm trong
việc hình thành BTKT.
- Thực trạng về mức độ tổ chức thực hành, trải nghiệm trong việc hình thành
BTKT cho trẻ 3-4 tuổi.
- Thực trạng về các hình thức tổ chức thực hành, trải nghiệm hình thành
BTKT cho trẻ 3-4 tuổi.
- Mức độ hình thành BTKT của trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi.
2.1.3. Phương pháp điều tra.
- Phiếu trưng cầu ý kiến của giáo viên.
- Trao đổi, trò chuyện với GVMN về việc tổ chức các hoạt động thực, hành
trải nghiệm hình thành BTKT cho trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi.
- Dự giờ, quan sát các hình thức GV tổ chức thực hành, trải nghiệm trong hoạt

động.
- Dùng toán thống kê để xử lí kết quả thu được.
- Nghiên cứu sản phẩm của giáo viên và của trẻ.
2.2. Kết quả điều tra.
2.2.1. Nhận thức của giáo viên về vai trò của việc hình thành biểu tượng kích
thước cho trẻ 3-4 tuổi.
Để tìm hiểu được vấn đề này tôi đã sử dụng câu hỏi điều tra sau:
“Theo chị, việc hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ 3-4 tuổi có vai trò
như thế nào?”
a. Rất cần thiết.
b. Cần thiết.
c. Không cần thiết.
Kết quả thu được như sau:

13


Bảng 1: Vai trò của việc hình thành biểu tượng kích thước cho
trẻ nhà trẻ.
Kết quả
Ý kiến
a
b
c
Số phiếu
15
5
0
%
75

25
0
Từ bảng số liệu trên cho ta thấy, 100% các giáo viên trong các trường mầm
non đều nhận thức được tầm quan trọng của việc hình thành biểu tượng kích thước
cho trẻ 3-4 tuổi là rất cần thiết và cần thiết (75% GV cho rằng rất cần thiết và 25%
giáo viên cho rằng cần thiết). Không GV nào cho rằng việc hình thành BTKT cho
trẻ 3-4 tuổi là không cần thiết. Trong toán học việc hình thành các biểu tượng kích
thước là một nội dung rất quan trọng và rất cần thiết. Đặc biệt đối với lứa tuổi 3-4
tuổi bởi đó là giai đoạn trẻ lĩnh hội được nhanh nhất và nhớ được lâu nhất. Vì vậy
GV cần nhận thức đúng đắn và đưa ra những biện pháp giáo dục cho phù hợp.
2.2.2. Nhận thức của giáo viên về vai trò của hoạt động thực hành, trải nghiệm
trong việc hình thành biểu tượng kích thước.
Cùng với sự tìm hiểu về nhận thức của GV về vai trò của việc hình thành biểu
tượng kích thước cho trẻ 3-4 tuổi, tôi cũng đã tìm hiểu về nhận thức của họ về vai
trò của hoạt động thực hành, trải nghiệm trong việc hình thành BTKT. Để tìm hiểu
rõ tôi đã sử dụng câu hỏi điều tra như sau:
“Chị đánh giá như thế nào về vai trò của vai trò của hoạt động thực, hành trải
nghiệm trong việc hình thành biểu tượng kích thước?”
a. Rất quan trọng
b. Quan trọng
c. Không quan trọng
Kết quả cho thấy:
Bảng 2. Thực trạng mức độ nhận thức của GVMN về vai trò của thực hành,
trải nghiệm trong việc hình thành biểu tượng kích thước.
Kết quả
Ý kiến
a
b
c
Số phiếu

18
2
0
%
90
10
0
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy rằng 100% giáo viên đều cho rằng việc tổ
chức cho trẻ thực hành, trải nghiệm có vai trò rất quan trọng và quan trọng trong
việc hình thành BTKT cho trẻ 3-4 tuổi (90% GVMN cho rằng thực hành, trải

14


nghiệm có vai trò rất quan trọng và 10% GVMN cho rằng thực hành, trải nghiệm
có vai trò quan trọng). Từ đó cho thấy, hầu hết các giáo viên đã nhận thức đúng
đắn về vai trò của thực hành trải, nghiệm trong việc hình thành biểu tượng kích
thước.
2.2.3. Thực trạng về mức độ tổ chức thực hành, trải nghiệm trong việc hình
thành biểu tượng kích thước cho trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi.
Thực hành, trải nghiệm là hoạt động quan trọng trong việc hình thành những
biểu tượng kích thước cho trẻ mầm non, đặc biệt rất quan trọng đối với trẻ 3-4 tuổi.
Tuy nhiên để tìm hiểu về mức độ GV tổ chức thực hành, trải nghiệm cho trẻ, tôi đã
sử dụng câu hỏi điều tra như sau:
“Mức độ chị tổ chức thực hành trải nghiệm trong các hoạt động như thế nào?”
a. Thường xuyên.
b. Thỉnh thoảng
c. Không thường xuyên.
Bảng 3: Thực trạng mức độ tổ chức thực hành trải, nghiệm trong việc hình
thành biểu tượng kích thước cho trẻ.

Kết quả
Ý kiến
a
b
c
Số phiếu
8
9
3
%
40
45
15
Như vậy ta có thể thấy hầu hết các giáo viên đều có tổ chức thực hành, trải
nghiệm trong hoạt động nhằm hình thành BTKT cho trẻ nhưng ở mức độ chưa
cao. Có 40% GV thường xuyên tổ chức, 45% GV thỉnh thoảng tổ chức và 15% GV
không thường xuyên tổ chức thực hành, trải nghiệm trong hoạt động. Và khi hỏi tới
nguyên nhân tại sao các GV thỉnh thoảng và không thường xuyên tổ chức thì đa số
các giáo viên nói là do lớp đông nên việc tổ chức cho trẻ được thực hành, trải
nghiệm còn gặp nhiều khó khăn cả về thời gian và vật chất. Trên thực tế cho thấy
chương trình giáo dục mầm non đổi mới dạy trẻ ở mọi lúc, mọi nơi, trẻ học mà
chơi, chơi mà học nên việc tổ chức cho trẻ được thực thực hành, trải nghiệm nhằm
hình thành biểu tượng kích thước được lồng ghép vào rất nhiều hình thức: thông
qua các hoạt động hàng ngày, thông qua hoạt động vui chơi, thông qua các hoạt
động có chủ đích… từ đó trẻ có thể học được rất nhiều kinh nghiệm của người lớn.
2.2.4. Thực trạng hình thức tổ chức thực hành, trải nghiệm nhằm hình thành
biểu tượng kích thước.
Để tìm hiểu thực trạng này tôi đã sử dụng câu hỏi điều tra như sau:

15



“Chị đã tổ chức việc hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ dưới hình thức
nào? (Đánh dấu từ quan trọng nhất đến ít quan trọng)”

1.
2.
3.
4.
5.

Hình thức tổ chức
Sinh hoạt hàng ngày.
Hoạt động học có chủ đích.
Dạo chơi tham quan.
Hoạt động vui chơi.
Các hình thức khác.

STT

Kết quả thu được như sau.
Bảng 4. Thực trạng hình thức tổ chức hoạt động hình thành biểu tượng kích
thước.
Kết quả
Ý kiến
1
2
3
4
5

Số phiếu
15
18
3
8
0
%
75
90
15
40
0
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy hình thức tổ chức hình thành biểu tượng kích
thước cho trẻ ở các trường MN trên rất đa dạng, phong phú. Trong đó có 75% GV
chọn hình thức tổ chức hoạt động hình thành BTKT cho trẻ thông qua các hoạt động
hàng ngày ở trường là quan trọng nhất, tiếp đến là 90% GV sử dụng hình thức thông
qua tiết học có chủ đích, 40% GV sử dụng hình thức thông qua hoạt động vui chơi và
15% GV sử dụng hình thức thông qua hoạt động dạo chơi tham quan.
Mỗi hình thức đều có đặc thù riêng, theo bảng số liệu trên thì ta thấy rõ các
giáo viên đã có sự tích hợp, lồng ghép hoặc thay đổi hình thức với nhau để trẻ
không bị nhàm chán. Từ đó tạo thêm hứng thú giúp trẻ hăng hái tham gia hoạt
động hơn và điều quan trọng giúp trẻ hình thành và tích lũy được biểu tượng kích
thước tuy mới chỉ ở dạng sơ khai.
Bảng 5. Mục đích sử dụng thực hành, trải nghiệm trong hoạt động.
Kết quả
Ý kiến
1
2
3
4

Số phiếu
18
20
15
2
%
90
100
75
10
Qua bảng số liệu trên ta thấy có 100% GV cho rằng mục đích của thực hành,
trải nghiệm trong hoạt động là để phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, có 90%
giáo viên cho rằng mục đích của thực hành, trải nghiệm còn để kích thích trí tò mò

16


của trẻ khi tham gia hoạt động và 75% ý kiến cho rằng thực hành, trải nghiệm sẽ
gây được hứng thú thu hút trẻ tham gia hoạt động hơn. Nhìn chung tất cả các GV
đều cho rằng mục đích của việc tổ chức thực hành, trải nghiệm là để thu hút trẻ
tham gia hoạt động, phát triển năng lực trí tuệ và kích thích trí tò mò của trẻ, ngoài
ra có một số ý kiến GV cho rằng ngoài những mục đích nêu trên thực hành, trải
nghiệm còn làm giàu vốn từ, hình thành và phát triển khả năng giao tiếp của trẻ.
2.2.5. Thực trạng về những thuận lợi, khó khăn trong quá trình tổ chức thực
hành, trải nghiệm nhằm hình thành biểu tượng kích thước cho trẻ.
Để tìm hiểu thực trạng về những thuận lợi cũng như khó khăn mà GV
thường gặp trong quá trình tổ chức cho trẻ thực hành, trải nghiệm tôi đã tiến hành
quan sát, trò chuyện với các GV và sử dụng câu hỏi điều tra sau:
“Trong quá trình tổ chức thực hành trải nghiệm nhằm hình thành biểu tượng kích
thước cho trẻ chị thường gặp những thuận lợi cũng như khó khăn gì?”

Kết quả cụ thể như sau:
• Thuận lợi.
- Được sự quan tâm của Ban Giám Hiệu luôn chỉ đạo sát sao với công tác
chuyên môn. Luôn có đầu tư và bồi bưỡng cho chuyên môn.
- Trẻ luôn mạnh dạn, ham học hỏi và thích khám phá tìm hiểu mọi thứ xung
quanh bé.
- GV trong trường đều đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn, nhiệt tình, tâm huyết
với nghề.
• Khó khăn.
- Diện tích phòng học còn chật hẹp.
- Sĩ số trẻ trong lớp đông nên giáo viên chưa bao quát hết được tất cả các trẻ
trong lớp.
- Đồ dùng đồ chơi còn hạn hẹp.
- Sự nhận thức của trẻ chưa đồng đều.
Những nguyên nhân trên ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tổ chức cho trẻ
thực hành, trải nghiệm nhằm hình thành biểu tượng kích thước. Chính vì vậy cần
sự quan tâm hơn nữa của các cấp quản lý để đưa ra những biện pháp khắc phục
khó khăn để giúp trẻ phát triển toàn diện.
2.3. Xây dựng một số biện pháp thực hành, trải nghiệm hình thành biểu tượng
kích thước cho trẻ 3-4 tuổi.
2.3.1. Đảm bảo tính mục đích.
Các biện pháp tổ chức thực hành, trải nghiệm với sự hình thành biểu tượng
kích thước phải hướng tới mục tiêu chung của giáo dục mầm non “hình thành ở trẻ

17


những chức năng tâm lí, những cơ sở ban đầu của nhân cách, năng lực làm người
của trẻ và chuẩn bị cho trẻ vào phổ thông có hiệu quả.”
2.3.2. Các biện pháp phải tạo điều kiện cho trẻ được trực tiếp hoạt động trải

nhiệm, khám phá.
Hoạt động cá nhân là một trong nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển
nhân cách của trẻ. Giáo viên cần tạo ra môi trường hoạt động đa dạng, hấp dẫn đồ
dùng đồ chơi… tạo cơ hội cho trẻ trải nghiệm, trẻ phải được tích cực khám phá
bằng các giác quan khác nhau (nghe, nhìn, sờ…), khi trẻ nhận thức được cũng có
nghĩa là những biểu tượng về kích thước của trẻ được hình thành.
2.3.3. Các biện pháp cần phải góp phần thực hiện nội dung hình thành biểu
tượng kích thước cho trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi.
Theo chương trình GDMN nội dung hình thành BTKT là nội dung quan trọng
nhằm phát triển nhận thức, giáo dục trí tuệ và góp phần phát triển toàn diện nhân
cách cho trẻ mầm non. Mỗi nội dung dạy trẻ làm quen với BTKT đều có biện pháp
chung, vì vậy khi xây dựng hoạt động thực hành, trải nghiệm nhằm hình thành
BTKT cho trẻ 3-4 tuổi phải góp phần thực hiện nội dung này:
- Trẻ lứa tuổi 3-4 tuổi được thao tác với các vật có kích thước to nhỏ khác
nhau.
- Trẻ 3-4 tuổi bước đầu làm quen và nhận biết được sự khác nhau về kích
thước, gọi tên kích thước to – nhỏ, dài – ngắn, cao thấp của các vật.
2.3.4. Các hoat động phải phù hợp với đặc điểm nhận thức, đặc điểm phát triển
các biểu tượng kích thước cho trẻ 3-4 tuổi.
Trẻ 3-4 tuổi nhận thức của trẻ về mọi vật xung quanh mới chỉ đơn giản, gần
gữi với cuộc sống hàng ngày của mình. Để tích lũy kinh nghiệm cảm nhận kích
thước cho trẻ, GV cần thường xuyên tổ chức cho trẻ hoạt động với đồ vật. Trong
đó GV cho trẻ ngắm, nhìn, sờ, mó, vận dụng tất cả các giác quan để thao tác với đồ
vật. Khi trẻ được trải nghiệm, được thao tác với vật GV cần hướng trẻ chú ý tới độ
lớn và sử dụng các từ to – nhỏ, dài – ngắn, cao – thấp… để diễn đạt độ lớn của
chúng một cách hệ thống, đầy đủ, chính xác.
2.4. Đề xuất một số biện pháp tổ chức thực hành, trải nghiệm với sự hình
thành biểu tượng kích thước cho trẻ ở độ tuổi 3-4 tuổi.
Các hoạt động cho trẻ làm quen với các biểu tượng toán học ở trường MN
không chỉ được thực hiện thông qua các giờ học có chủ đích mà còn có thể thực

hiện thông qua các hoạt động khác nhau: hoạt động góc, hoạt động nhận biết,hoạt
động khám phá, hoạt động vui chơi, hoạt động tham quan, sinh hoạt hàng ngày…
bởi vậy các biện pháp tổ chức thực hành, trải nghiệm với sự hình thành biểu tượng

18


kích thước cho trẻ rất phong phú và việc áp dụng các biện pháp này là rất quan
trọng và cần thiết. Bởi để nhận biết các đối tượng, thấy rõ hơn những đặc điểm, mô
tả lại những đặc điểm, nói lên cảm xúc của mình khi được tiếp xúc, được hoạt
động với đối tượng… nhờ đó hình thành những BTKT cho trẻ đa dạng và tích cực.
2.4.1. Biện pháp 1: Tạo môi trường thực hành, trải nghiệm phong phú, đa
dạng để cho trẻ tích cực tham gia vào hoạt động.
Tạo môi trường phong phú, đa dạng để trẻ tích cực tham gia vào hoạt động
nhằm kích thích trẻ khám phá, tìm hiểu các đối tượng.
• Mục đích, ý nghĩa.
Trẻ em luôn thích hoạt động, đam mê, khám phá mọi thứ xung quanh, tất cả
mọi thứ đều trở nên hấp dẫn, mới lạ trước đôi mắt trẻ. Vì thế tạo khoảng không
gian chơi, được hoạt động là điều cần thiết.
Giúp trẻ thoải mái khi tham gia hoạt động, môi trường hoạt động tốt giúp trẻ
cảm nhận được đây là nơi an toàn thuộc về trẻ, để trẻ cảm thấy tự tin làm nhiều
thứ và làm độc lập.
Tạo cho trẻ cơ hội để lựa chọn hoạt động mà trẻ thích, là cơ hội để trẻ bộc lộ
khả năng của mình.

Yêu cầu.
Tạo môi trường giáo dục cho trẻ đa dạng hấp dẫn, đảm bảo tính thẩm mĩ, tính
giáo dục, an toàn có sức lôi cuốn trẻ.
Môi trường thường xuyên thay đổi, làm mơi đồ dùng đồ chơi đồ dùng học tập
phù hợp với nội dung.


Nội dung.
Môi trường trong lớp: Sử dụng không gian lớp có sẵn, giáo viên tổ chức cho
trẻ hoạt động thực hành, trải nghiệm với sự hình thành biểu tượng kích thước ở
lớp học sao cho phù hợp với từng nội dung cụ thể nhằm tạo điều kiện cho trẻ
tham gia vào hoạt động dễ dàng.
Không gian trong lớp phải thoáng mát, đồ dùng đồ chơi bố trí thuận tiện, dễ
nhìn thấy, dễ dàng đi lại.
Về tâm lí : Cô đóng vai trò là thang đỡ là điểm tựa, là ngưới tổ chức, hợp tác
cùng trẻ trong hoạt động còn trẻ là chủ thể tích cực tham gia hoạt động nhận
thức, do đó GV phải tạo nên bầu không khí tự tin, phấn khởi cho trẻ bằng sự
quan tâm, chia sẻ, ủng hộ tinh thần trẻ, giúp trẻ mạnh dạn tự tin khi tham gia
hoạt động. Tạo điều kiện cho tất cả các trẻ đều được tham gia hoạt động.
• Tiến hành.
GV tạo môi trường hoạt động đa dạng, tận dụng không gian sẵn có lớp học,
sân trường để tổ chức thực hành, trải nghiệm trong hoạt động.

19


×