Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

TIỂU LUẬN VỀ TRÀ ĐẠO CỦA NHẬT BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.34 KB, 24 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................2
CHƯƠNG I...................................................................................3
KHÁI QUÁT VỀ TRÀ ĐẠO VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN.....3
1. Khái quát về trà đạo........................................................................................3
2. Vai trò của trà đạo trong đời sống người dân Nhật......................................3
3. Lịch sử phát triển của trà đạo........................................................................4

CHƯƠNG II.................................................................................6
NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA TRÀ ĐẠO.........................6
1.Không gian thưởng trà :..................................................................................6
1.1 Trà thất :..........................................................................................................6
1.2 Trà viên :.........................................................................................................9
2. Dụng cụ pha trà :.............................................................................................9
3. Nội dung lễ trà:..............................................................................................12
3.1 Quy trình buổi trà:.........................................................................................12
3.2 Cách thức pha trà...........................................................................................13
3.3 Rót trà :..........................................................................................................16
3.4. Thưởng trà :..................................................................................................17
3.5 Những điều cần lưu ý trong lễ trà :................................................................17
4. Quy tắc trong nghệ thuật trà đạo.................................................................18
5. Lựa chọn trà :................................................................................................19
a. Loại trà hạ phẩm_bancha.................................................................................19
b. Loại trà trung bình_sencha..............................................................................19
6. Công dụng của trà :.......................................................................................20
7. Những lưu ý khi sử dụng trà :......................................................................21
CHƯƠNG III...............................................................................................22
TRÀ ĐẠO THỜI HỘI NHẬP...............................................................22
1. Trà đạo ngày nay cùng với những khó khăn hội nhập...............................22
2. “Trà đạo Việt”................................................................................................23
3. Từ Trà đạo đến kinh tế..................................................................................23



CHƯƠNG IV..............................................................................25
KẾT LUẬN VÀ GIẢI PHÁP....................................................25
1. Kết luận..........................................................................................................25
2. Giải pháp........................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................26

MỞ ĐẦU
1


Trong suốt tiến trình phát triển của lịch sử loài người, trà hiện hữu từ rất sớm và nhanh chóng trở
thành loại thức uống có ảnh hưởng, quyền lực lớn nhất trên hành tinh… và thậm chí, có thời kỳ từng
được ví von "trà là thức uống khiến cả thế giới phát cuồng".
Xét về khía cạnh lịch sử hay sinh học, các chuyên gia đều thống nhất trà có nguồn gốc từ khu vực châu
Á, chủ yếu là ở Tây Nam Trung Quốc và Bắc. Thời gian con người sử dụng trà chính xác từ bao giờ thì
không ai biết, tuy nhiên được ước chừng là dưới triều nhà Thương (1600 TCN - 1046 TCN).

Theo những tài liệu cổ của Trung Quốc, trà là do Thần Nông - một trong Tam Hoàng
của văn hóa Trung Hoa tìm ra. Truyền thuyết kể rằng, Thần Nông là người dạy nhân dân
làm ruộng và rất giỏi y thuật. Ông đi tới đâu cũng tìm kiếm, thử nếm các loại cây cỏ
trong tự nhiên để phân biệt đâu là thuốc chữa bệnh, đâu là thuốc độc.
Năm 2737 TCN, Thần Nông lần đầu tiên nếm thử lá trà cháy bị gió nóng thổi tới và rơi
vào vạc nước sôi của ông. Cũng từ đó, ông phát hiện ra tác dụng y học của trà và coi nó
là một loại thuốc rất tốt, có thể giải độc của 70 loại cây cỏ khác.
Do sự ảnh hưởng của truyền thuyết này, người Trung Hoa xưa ban đầu chỉ dùng trà phục vụ mục đích
chữa bệnh mà thôi. Xuyên suốt các triều đại nhà Tây Chu (1122 TCN – 249 TCN), nhà Tần (221 TCN –
206 TCN), nhà Hán (202 TCN - 220), trà chỉ được dùng cho tầng lớp hoàng gia, quý tộc và luôn được
coi là một biểu tượng tôn giáo truyền thống.
Tới thời nhà Đường (618 - 907), trà trở nên phổ biến và tất cả các tầng lớp người Trung Hoa sử dụng


CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ TRÀ ĐẠO VÀ LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN

1. Khái quát về trà đạo.
Chanoyu, chado hay sado (trà đạo Nhật Bản) là một nghi thức truyền thống để
giải trí trong một bầu không gian tĩnh lặng, mà cả người chủ lẫn khách đều
hướng đến sự thư giãn tinh thần và sự hòa hợp với thiên nhiên. Cha-no-yu (茶茶茶,
nước nóng dùng pha trà), là thuật ngữ thường được dùng để chỉ một nghi thức,
nghi lễ uống trà đơn lẻ, còn Sado hay Chado ( 茶 茶, phương cách thưởng trà) là
thuật ngữ đề cập đến việc nghiên cứu hay một học thuyết về Trà đạo.
Đặc biệt hơn, Cha-ji (茶茶, trà sự) là một nghi lễ trà đạo đầy đủ gồm Kaiseki (một
bữa ăn nhẹ), Usuicha (một lượt trà trà loãng) và Koicha (một lượt trà đặc), nghi
lễ này kéo dài trong vòng bốn tiếng đồng hồ. Trong Chakai ( 茶茶, trà hội) không
bao gồm một bữa ăn nhẹ. 2 Thường những buổi tiệc trà được tổ chức để nghênh
tiếp những vị khách quý, hoặc trong những dịp đặc biệt như: Hanami (ngắm hoa
anh đào nở), thưởng ngoạn những đêm trăng rằm… song đôi khi chỉ đơn giản chỉ
là dịp để họp mặt bạn bè người thân.
2


Người chủ trì buổi Trà đạo, thường là những nghệ nhân, rất am hiểu không chỉ là
về Trà đạo, mà còn về những hình thức nghệ thuật khác, được gọi là Trà nhân
hay Trà Tượng. Trong bất kỳ trường hợp nào, Trà nhân luôn giữ cho tâm hồn
bình tĩnh và hướng dẫn cuộc đàm thoại bằng cách không bao giờ để mất sự hòa
hợp ở xung quanh. Màu áo mặc, kiểu áo cắt, sự cân đối của cơ thể, dáng điệu đi
đứng, tất cả đều thể hiện nhân cách của nghệ thuật gia, vì hễ người nào không tự
biết làm cho mình đẹp thì không có quyền tới gần cái đẹp.
2. Vai trò của trà đạo trong đời sống người dân Nhật
Trong Trà đạo, người dân Nhật nói riêng và những người yêu thích trà đạo của

Nhật nói chung nhận ra được nhiều sự giáo dục trong trà đạo, đó là đức tính giản
dị, sự hồn nhiên và tác phong chững chạc.Và chúng ta còn thấy được qua Trà
đạo,những đặc điểm đáng học tập của con người Nhật Bản, đó là sự ngăn nắp,
trọng kỉ luật và tuân thủ các quy chế xã hội. Có thể nói:
Trà đạo là một trong những nền tảng vun đắp tình cảm dân tộc trong tâm thức
người Nhật. Trà đối với người Nhật được coi trọng hơn là sự lý tưởng hóa dùng
món đồ uống, trà là một tôn giáo của thuật sống. Qua món đồ uống này, sự tinh
khiết và thanh tao được tôn thờ. Một nghi thức thiêng liêng mà chủ nhân với tân
khách nhân dịp đó cùng tiếp tay nhau để tạo nên cái hạnh phúc tối cao trên cõi
thế này. Trà thất được ví như khoảnh đất phì nhiêu trên sa mạc quạnh hiu buồn tẻ
của cõi đời mà khách lữ hành có thể gặp gỡ nhau ở đó để cùng nhau giải khát
trong nguồi suối chung của lòng ham chuộng thưởng thức nghệ thuật. Tính cách
đơn giản và hoàn toàn thoát ra khỏi lối bình phàm của trà đã làm cho nó thành
một nơi trú ẩn để tránh những nỗi buồn phiền của thế giới bên ngoài. Trà đạo bao
gồm tất cả các yếu tố mang tính triết học Nhật Bản, nét thẩm mỹ, và sự đan xen
giữa bốn nguyên tắc cơ bản: wa-sự hài hòa (giữa con người và thiên nhiên), keisự tôn kính (đối với người khác), sei-sự tinh khiết (của tâm hồn) và jaku-sự yên
tĩnh.
Trà đạo ngày càng phổ biến hơn ở Nhật Bản, rất nhiều cô gái trẻ dồn tâm sức học
tập trà đạo, tu nhân dưỡng tính để cuộc sống gia đình cũng như cuộc sống tinh
thần phong phú và đẹp đẽ hơn. Chính tinh thần của Chanoyu, thể hiện cái đẹp
của sự đơn giản và sự hài hòa với thiên nhiên, đã hun đúc nên truyền thống văn
hóa của Nhật Bản này. Hơn nữa, những nghi thức trong trà đạo đã cơ bản ảnh
hưởng rất nhiều đến phong cách của người Nhật.

3. Lịch sử phát triển của trà đạo.
Năm 801, hoà thượng Saicho mang hạt giống trà Trung Hoa về trồng ở Yeisan.
Năm 1191 vào thời kỳ Kamakura (1185-1333), hoà thượng Yeisaizenji (11411215) học trường Thiền Tông phương Nam, đời nhà Tống, sang Trung Hoa để
tham vấn học đạo. Khi trở về nước, ngài mang theo một số hạt trà về trồng trong
sân chùa tại Uji, phía nam Kyoto. Rồi sư YeiSai đã khuyến khích nông dân, phật
3



tử tại nhiều vùng khác nhau trồng trà. Cùng lúc, ông cũng tuyên truyền quảng bá
những lợi ích về mặt y học của trà. Thực ra vào thời đó, ở Nhật Bản cũng đã có
cây trà hoang mọc rải rác nhiều nơi nhưng chất lượng kém nên không được dùng
đến còn trà từ những hạt giống do nhà sư YeiSai mang về được người Nhật gọi
là: ‘Trà chính gốc”.
Từ thế kỷ XII, trà được sử dụng rộng rãi trong giới quý tộc, văn hóa uống trà giai
đoạn đó giống như những trò chơi xa xỉ và các người quý tộc rất thích dụng cụ
uống trà Trung Quốc. Giai cấp thống trị xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ, đã quy định
một số quy tắc cho một buổi tiệc trà.
Ngoài ra, họ còn tổ chức những cuộc thi đoán tên trà, trà đạo Nhật Bản dần dà có
màu sắc của một nghệ thuật. Thế kỷ XIV, một nhà sư tên là Murata Juko đưa văn
hóa uống trà lên tầm nghệ thuật. Với tư cách là một nhà sư, ông rất coi trọng
cuộc sống tinh thần, ông tìm thấy vẻ đẹp giản dị trong văn hóa uống trà hòa cùng
với tinh thần Thiền - Zen trong Phật Giáo. Tuy nhiên, trà vẫn còn chưa được
nhiều người dân biết đến.
Thế kỷ thứ XV, nghi lễ uống trà được thiết lập dưới sự chủ trì của Tướng quân
samurai Ashikaga – Voshinasa, thời Shogun. Từ đó, Trà Đạo 1 được thiết lập ở
Nhật Bản. Trà đạo đã có quy phạm độc lập và tồn tại hàng thế kỷ.
Vào cuối thế kỉ XVI, Trà Đạo đã được Trà sư Senno Soyeki, thường gọi là Rikyu
hoàn thiện. Chính Senno Rikyu là người đầu tiên làm một cuộc cải cách về
phương tiện uống trà, các trà cụ quý hiếm đắt tiền của Trung Hoa nhập nội đã
được ông bỏ đi và thay vào đó là những ấm, chén, bình, nồi bình dân. Việc sử
dụng trà cụ Nhật Bản bình dân đã dấy lên một một phong trào sáng tạo trong mỹ
nghệ gốm sứ và thúc đẩy khả năng tăng trưởng sôi sục, cung cấp trà cụ cho người
dân thường. Người dân bắt đầu nhiệt liệt hưởng ứng Trà đạo. Sau khi nghiên cứu
phong tục tập quán uống trà đã sáng lập Trà Đạo Nhật Bản, ra mắt tại chùa Kinh
sơn tự, Senno Rikyu (1552- 1591) duyệt buổi nghi lễ theo phong cách wabi (có
nghĩa là thô sơ, đơn giản), “ tĩnh lặng”, “ không có trang trí gì ”; làm cho nhân

dân ưa thích. Các chủ nhân phòng trà wabi ưa thích nhất những trà cụ đơn giản,
mẫu mã thô sơ.
Đến đầu thế kỉ XIX, tức là cuối thời kì Edo (1603-1868), văn hóa Trà Nhật đã
thực sự phát triển rộng khắp, việc uống trà đã thực sự phổ biến trong mọi tầng
lớp nhân dân. Mặc dù trà có nguồn gốc từ Trung Quốc thế nhưng với những nét
rất riêng trong đời sống sinh hoạt và tâm linh của mình, người Nhật Bản đã nâng
việc uống trà lên một tầm cao mới, biến nó trở thành nghệ thuật Trà đạo. Gọi là
"nghệ thuật", bởi lẽ việc uống trà của người Nhật thực sự mang tính nghệ thuật
rất cao, đồng thời cũng mang phong cách sống của người dân đất nước hoa anh
đào. Trà đạo theo tiếng Nhật gọi là Chanoyu.

CHƯƠNG II
4


NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG CỦA TRÀ ĐẠO
1.Không gian thưởng trà :
Tất cả đại trà tượng đều là những nhà tu Thiền Tông và cố đem truyền tinh thần
Thiền Tông vào những sự vật thện hữu ở đời. Vì thế, Trà Thất cũng như tất cả
các đồ dùng cần thiết cho trà thang, đều phản ánh rất nhiều giáo lý của Thiền.
Yêu cầu về không gian thưởng trà của Chanoyu rất cao. Để có thể tiến hành
những nghi thức Trà đạo đúng nghĩa, Chanoyu yêu cầu phải có một không gian
thanh tịnh và hoài hòa với cảnh sắc thiên nhiên. Đáp ứng những tiêu chuẩn đó mà
dần hình thành hai không gian thưởng trà chính, đó là trà viên và trà thất.

1.1 Trà thất :
Là một căn phòng nhỏ
dành riêng cho việc uống
trà, nó còn được gọi là
"nhà không". Nó có kích

thước rất nhỏ, nhỏ hơn cả
những nhà Nhật bé nhỏ
nhất. Kích thước của Trà
Thất chính thống là bốn
chiếc chiếu rưỡi, hoặc
mười bộ vuông, thường
làm bằng tre hoặc tatami.
Kích thước này được ấn
định theo một đoạn trong
Sutra of Vikramadytia_Duy Ma Kinh. Đối với những gia đình bình thường, trà
thất được đặt liền ngay ở trong nhà chứ
không được đặt riêng ở một nơi, được
gọi là Kakoi
Đối với các gia đình khá giả, trà thất
được xây trong vườn riêng của nhà, gọi
là Sukiya cùng với hai phòng khác. Một
phòng nối liền với trà thất, Midsuya, là
nơi đặt than, bộ đồ trà và vòi nước.
Phòng còn lại là nơi nghỉ ngơi của
khách, phải cách hai phòng kia một
khoảng nhất định.
Trà thất làm ta nghĩ đến cái vô thường và trống rỗng của mọi sự. Không có một
vẻ gì là chắc chắn hay cân đối trong lối kiến trúc, vì đối với Thiền, sự cân đối là
chết, là thiếu tự nhiên, nó quá toàn bích không còn chỗ nào cho sự phát triển và
đổi thay. Điều thiết yếu là ngôi Trà thất phải hòa nhịp với cảnh vật chung quanh,
tự nhiên như cây cối và những tảng đá. Vật liệu dùng để xây cất cũng cố ý làm ra
5


vẻ thanh bần. Tuy nhiên, tất cả những kiểu cách ấy là cả một sự dụng tâm thâm

thúy về mỹ thuật, và những bộ phận nhỏ nhặt còn được làm kỹ lưỡng tỷ mỷ có lẽ
hơn cả những đền đài dinh thự nguy nga tráng lệ nhất.
Thường khi khách đến, họ không được
đến trực tiếp ngay trà thất mà được đưa
qua một dãy phòng dẫn để đến
machiai_trì hợp, phòng đợi. Ở đây, sau
khi được phục vụ một tách nước nóng,
khách được đưa ra lối đi trong vườn nối
liền trì hợp với trà thất. Roji có ý định
dùng để cắt đứt hết mọi liên lạc với thế
giới bên ngoài, và để gây cho khách có
một cảm giác lâng lâng, thư thái sẵn sàng
đón nhận những thú vui hoàn toàn của
duy mỹ chủ nghĩa trong Trà thất. Vườn
trong khuôn viên của phòng trà mang nét
độc đáo riêng biệt của trà đạo. Những lối
mòn yên tĩnh tạo cho khách cảm giác thanh bình yên ả. Mỗi một thứ trong vườn
đều mang một biểu tượng riêng. Một vài cây thông tượng trưng cho sự trường
thọ. Những cây tre thẳng đứng thể hiện cho sức mạnh và sự phục hồi. Một vài
tảng đá xếp thẳng hàng làm cho người xem liên tưởng đến hình ảnh của một thác
nước. Trên đường dẫn đến trà thất trong vườn, có một tảng đá lớn, mặt tảng đá
được khoét thành một cái chén đựng đầy nước từ một cành tre rót xuống, gọi là
Tsukubai. Ở đây người ta "rửa tay" trước khi vào ngôi nhà nằm ở cuối con
đường.
Chỗ đi vào trà thất là một cửa thấp được che bằng rèm, ai cũng phải cúi mình
cung kính bước vào phòng, trượng trưng cho sự khiêm tốn và để xóa đi rào cản
sang hèn trong xã hội, người võ sĩ thì phải để lại bên ngoài cây kiếm dài thể hiện
không khí hòa bình. Trái ngược với người Tây phương, trong nhà thường biến
thành một bảo tàng viện, Trà thất phải hoàn toàn trống rỗng, ngoại trừ một vài
thứ có thể tân thời trưng bày để thỏa mãn thị hiếu thẩm mỹ của chủ nhà, nhưng

phải hòa hợp và tăng thêm giá trị vẻ đẹp cho chủ đề.
Không gian bên trong của Trà thất luôn dành cho Tokonoma một vị trị trang
trọng. Tokonoma chính là một góc phòng được trang trí và hơi thụt vào trong so
với vách tường. Nó là một trong những nhân tố thiết yếu tạo nên phòng khách
chính của một căn nhà. Tokonoma thường được bày trí bởi một bức Kakejiku,
một bình hoa hay lọ hoa cắm theo phong cách Chabana và một lư trầm hương.
- Chabana là phong cách cắm hoa đơn giản mà thanh lịch của Trà đạo, có nguồn
gốc sâu xa từ việc nghi thức hóa Ikebana. Phong cách của chabana là không có
bất kỳ qui tắc chính thức nào để trở thành chuẩn mực cho nghệ thuật cắm hoa
trong trà thất. Hoa thể hiện tình cảm của chủ nhà trong một buổi tiệc trà, khi cắm
hoa cho một bữa tiệc trà, đầu tiên chủ nhà phải chọn hoa và lọ tương ứng. Hoa
trong phòng trà gợi được cho người ngắm cảm giác như đang đứng giữa khu
vườn tự nhiên.

6


Hoa không được hái bừa bãi, mà phải thận trọng kén từng cành từng ngọn, vừa
hái vừa suy nghĩ tới việc phối hợp như thế nào,
để không hái quá số hoa tối cần. Hoa thường
không được cắm cầu kỳ, màu sắc rực rỡ mà chỉ
là những cành hoa nhánh cỏ được lấy ngay trong
vườn, cắm vào những lọ hoa bằng gỗ hoặc bằng
tre treo lơ lửng trên tường. Thoạt nhìn vào tưởng
rất đơn sơ nhưng càng ngắm kỹ mới cảm nhận
hết những nét tinh tế về thẩm mỹ của chủ nhà.
Có rất nhiều trường phái cắm hoa, nhưng không
một lối cắm hoa nào không bao hàm ba nguyên
lý, Nguyên Lý Chỉ Đạo là “Thiên”, Nguyên Lý 9 Tòng Thuộc là “Địa”, Nguyên
Lý Điều Hòa là “nhân”. Cắm hoa không theo ba nguyên lý này đều bị coi là vô

vị, không có sinh khí.
Chabana - Kakejiku có thể hiểu chỉ là một tấm vải
trống trơn, nó có thể cuộn vào cất đi, hoặc mở ra để
treo trên vách tường tokonoma. Lúc thì gắn vào
Kakejiku một bức tranh nhỏ, lúc khác một bức thư
pháp hoặc là sự kết hợp cả tranh và chữ (thư họa).
Những nội dung khi xuất hiện trên Kakejiku thường
mang ý nghĩa sâu xa. 10 Kakejiku Khi bước vào một
Trà thất, người ta thường quỳ và ngắm Tokonoma
một lát, cũng để thưởng thức các vật được trưng bày.
Theo tinh thần ThiềnZen chỉ khi chúng ta chú tâm
đến những chi tiết nhỏ bé trong cuộc sống thì mới
thấy vẻ đẹp trong những điều giản dị. Trong
Tokonoma, các đạo cụ được xếp rất gọn gàng, hòa
hợp theo phong thủy và không bao giờ được đặt ở
chính giữa, lọ hoa, lư trầm hay bất kì thứ gì, vì sợ
rằng nó sẽ chia Tokonoma thành hai khoảng đều nhau. Một gia đình truyền thống
Nhật có nhiều cuộn giấy và các vật dụng khác mà họ trưng bày ở tokonoma tùy
từng mùa hoặc ngày lễ gần nhất. Trong Trà thất, các đồ vật được lựa chọn một
cách cẩn thận để không có một màu sắc hay một kiểu nào trùng nhau, giống
nhau. Nếu đã bày một bông hoa tươi thì không thể bày thêm một bức họa hoa.
Nếu đã dùng ấm đun nước hình tròn, thì bình đựng nước phải là hình có góc. Một
chén men đen không được đi đôi với một hộp trà sơn đen. Phòng trà không có
ghế ngồi mà chỉ có chiếc bàn thấp, có chiều cao độ khoảng 30 cm. Người uống
trà phải xếp bằng trên “Tọa cụ”, đây là loại nệm ngồi mà những người tọa thiền
thường sử dụng. Trên bàn trà được đặt một lư đốt trầm bằng gốm đỏ, một cái đèn
giấy kiểu Nhật chỉ đủ tỏa ánh sáng vừa đủ cho bàn trà. “Trà cụ” được bày ra trên
bàn gồm có: Ấm, chén, bình đựng trà, bình chuyên, bình hãm trà, bếp lò than, nồi
châm trà, gáo pha trà, đồ gạt trà…
1.2 Trà viên :


7


Là một khu vườn được thiết
kế phù hợp với việc ngắm
hoa, và thưởng thức trà. Trà
viên đòi hỏi bố cục khu vườn
phải tinh tế, làm cho khu
vườn vẫn giữ được nét tự
nhiên. Trà viên là nơi bạn có
thể đắm chìm trong cảnh sắc
thiên nhiên thơ mộng bên ly
trà ấm nồng. Trong Trà viên,
mọi người thường ngồi trên
thảm cỏ trong vườn để
thưởng thức trà. Hoa, Lư
Trầm thường được đặt ở
giữa chỗ ngồi họp nhóm của những người tham gia. Trong vườn thì có các loài
cây như: Hoa anh đào, hoa mai, hoa mơ, tùng, liễu. Những loài cây này dễ tạo
cảm hứng thi phú cho người xem trong quá trình đàm Đạo, đối ẩm. Bên
cạnh đó là các hòn non bộ, những tảng đá lớn, chậu nước cũng được sắp xếp theo
bố cục chặt chẽ, thể hiện sự cân đối Âm – Dương trong phong thủy. Trà viên
thường không phổ biến bởi tính cầu kỳ của nó đòi hỏi cách bày trí khu vườn thật
khéo, làm sao cho khu vườn vẫn còn được nét tự nhiên để người tham gia Trà
Đạo không có cảm giác bị rơi vào một cảnh giả do bàn tay con người tạo ra.

2. Dụng cụ pha trà :
Trà cụ, Dogu, một tiệc trà cơ bản nhất cũng cần đến rất nhiều loại dụng cụ khác
nhau. Liệt kê danh sách đầy đủ về các dụng cụ uống trà có thể viết thành một

cuốn sách dày hàng vài trăm trang. Dưới đây là một số Dogu cần thiết:
- Mizusasi: bình đựng nước. Mizusasi chứa nước sạch được bày biện trong
dougu-tatami, khi pha trà, nước trong Mizusasi được cho vào ấm đun nước để
giữ nước nóng ở nhiệt độ nhất định.
-

Kama: nồi đun nước. Quai xách rời sẽ
tháo ra khi vào buổi trà đạo. Nước từ ấm sẽ được lấy ra bằng Hishaku để rót vào
bát.

8


- Lò đun: chỉ được đem ra sau khi chủ nhà chào khách. Gồm hai loại: furo đem
theo được, và ro được gắn cố định vào nền nhà để giữ ấm vào mùa đông.
- Tetsubin: ấm đun nước. Thường bằng gang, bên trong lòng Tetsubin có tráng
một lớp men như loại 'nonstick' để nước đun không bị ngái mùi kim loại. Kích
thước của Tetsubin khá đa dạng. Tùy theo số người uống mà dung tích Tetsubin
lớn nhỏ khác nhau.
- Bình pha trà: thường bằng đất nung màu đen hay nâu có cán cầm (khác với
loại có quai, tuy nhiên đây cũng không phải là điều bắt buộc) . Bình pha trà cũng
có khi bằng kim khí rất nặng màu đen, có quai sách. Thường bình pha trà có
dung tích khoảng 200 ml. Bình này được dùng trong pha trà lá.
- Natsume và Chaire: hộp đựng trà. Làm từ gỗ sơn mài, cũng mang những nét
đặc trưng riêng của từng trà nhân giống như bát vậy. Nasume là một phong cách
hộp trà được đặt tên theo một loại quả, quả táo ta. Thân hộp ngắn, nắp bằng, đáy
hình tròn, thường được làm bằng chất liệu sơn mài hay gỗ thô. Nasume Chaire
Chaire thì thân thường cao và mỏng (nhưng hình dáng thì rất đa dạng) và có nắp
bằng ngà voi, mặt dưới nắp bằng vàng lá. Thân hộp Cha-ire thường bằng chất
liệu sứ, và thường được bảo quản bằng những chiếc túi vải lụa. Trà trước khi cho

vào Natsume và Chaire phải được lọc cẩn thận để không vón cục ảnh hưởng đến
hương vị. Trà trong natsume và Chaire được trình bày theo hình núi Phú Sỹ, vốn
là biểu tượng của Nhật bản.
- Kensui: Chậu đựng nước rửa khi pha trà, có thể làm bằng các chất liệu như tre,
gốm… Trong phòng trà luôn nằm ở vị trí sau để đảm bảo sạch sẽ.
- Chasen: cây đánh trà. Dùng để đánh tan trà với nước sôi. Được làm bằng tre
một cách công phu và cũng là một dụng cụ đặc trưng cho cách pha trà bát, hay
trà bột. Chasen mới và các tua tre phải đều, thì bát trà pha ra mới ngon, đều và
đẹp mắt. Có hai loại Chasen mỏng và dày, được dùng trong tiệc trà loãng hay trà
đặc. Những Chasen cũ hay bị hỏng không đơn thuần sẽ bị bỏ đi. Mỗi năm một
lần vào khoảng tháng Năm, người ta lại tổ chức lễ rước những Chasen này lên
đền rồi thực hiện nghi lễ hoả táng được gọi là chasen koyō, để thể hiện sự tôn
kính đối với những vật được sử dụng trong trà đạo.
- Chasaku: thìa trà. Chiếc muỗng tre dài, một đầu uốn cong để múc trà, dùng để
múc trà từ hộp ra bát. Những thìa lớn hơn được dùng để múc trà cho vào hộp trà
ở Thuỷ toà- mizuya hay còn gọi là khu chuẩn bị. Giữa cán chasaku là khấc tre, và
9


người cầm chasaku không được cầm quá khấc này, để đảm bảo tính vệ sinh của
trà. Cũng là một nét đặc trưng trong tính lễ nghi của Trà đạo. Những màu và
phong cách Chasaku khác nhau đực sử dụng trong các dòng phái trà đạo khác
nhau (Omotesenke và Urasenke). - Futaoki: Đi kèm shaku là futaoki, là dụng cụ
kê nắp kama khi mở.
- Hishaku: gáo. Một chiếc gáo bằng trúc có một mấu nhỏ ở gần giữa cán tay cầm
dài để chuyên nước tinh khiết từ bình đựng nước vào ấm kim loại và chuyên
nước từ ấm kim loại ra các bát trong những hội trà khác nhau. Những kiểu gáo
khác nhau được dùng trong những buổi trà đạo khác nhau và những mùa khác
nhau. Loại gáo lớn hơn được các vị khách dùng trong nghi thức tẩy uế trước khi
bước vào phòng trà. Các quy tắc sử dụng hishaku đã tạo ra những nét hấp dẫn rất

đặc trưng cho kiểu pha trà này, từ cách cầm dụng cụ, cách di chuyển đến tiếng
nước róc rách chẩy từ shaku xuống bát trà. Hishaku - Tana: những chiếc giá.
Tana rất đa dạng về kích cỡ, kiểu dáng, đặc trưng và chất liệu, mỗi loại Tana đều
có một tên riêng. Chúng được đặt trước mặt gia chủ trong phòng trà, một loạt các
trà cụ khác nhau được bày bên trên hoặc sắp xếp trong những chiếc giá đó.
Chúng cũng được sử dụng theo nhiều cách khác nhau trong n Daisu Kikou Daisu
được dùng trong những dịp đặc biệt như là lễ trà đầu năm mới. Kikkou (mai rùa)
có ba ngăn kệ. Hình dạng của ngăn thứ 2 là hình vỏ trai vào mùa xuân và sẽ được
thay bằng hình trăng lưỡi liềm vào mùa thu.
- Chakin: khăn lau. Là một mảnh vải lanh, hoặc vải gai hình tam giác, được dùng
trong nghi thức lau bát trà. Những kiểu khác nhau được sử dụng cho tuần trà
khác nhau (trà loãng, trà đặc). Chakin luôn phải sạch và ẩm, nhưng không được
ướt, và phải là màu trắng.
- Fukusa: Fukusa mà một mảnh lụa hình vuông dùng trong nghi thức lau muỗng
trà và Natsume hay Cha-ire, và cũng dùng để lót tay khi cầm ấm hay nắp ấm cho
khỏi nóng. Fukusa đôi khi được những người khách dùng để bảo vệ trà cụ khi họ
nếm trà (Fukusa là một loại đặc biệt còn được gọi là kobukusa hay “fukusa nhỏ”.
Chúng được thêu dày hơn với nhiều mẫu hình, và thông thường màu sắc thì tưới
sáng hơn loại fukusa thông thường)
- Chawan: bát trà. Có thể nói là thứ đặc trưng và giành được sự yêu quý và quan
trọng nhất của Trà đạo. Chawan được làm bằng men, công phu, tỉ mỉ và mỗi
Chawan có những họa tiết độc đáo riêng. Vì thế mà trong khi làm một buổi tiệc
trà, không có hai Chawan giống nhau. Các nghê nhân làm Chawan cũng đưa chủ
đề thiên nhiên, thời tiết vào trong tác phầm của mình, vậy nên có thể dùng
Chawan phù hợp cho 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông.
Mùa xuân: chawan có những hoa văn mùa xuân như hoa anh đào.
Mùa hạ: là mùa nóng nên chawan có độ cao thấp hơn, miệng rộng hơn chawan
mùa xuân để dễ thoát hơi nóng.
Mùa thu: chawan có hình dạng giống chawan mùa xuân, có hoa văn đặc trưng
cho mùa thu như lá phong, lá momizi.

Mùa đông: là mùa lạnh nên chawan có độ dày và cao hơn các chawan mùa khác
để giữ nóng lâu hơn. Màu sắc của men cũng mang gam màu lạnh. Chawan được
10


các trà nhân yêu quý như chính bản thân họ vậy. Bởi vậy, việc một Chawan có
giá trị bằng một căn nhà đối với người hiểu về bát, cũng không có gì là lạ. Được
ưa thích không phải là những Chawan tròn vẹn bóng bẩy kiểu Trung quốc, mà là
những chiếc thô sơ giản dị, và hơn nữa, là được làm bằng tay. Chawan thậm chí
lại không tròn, phù hợp với lý tưởng của trà đạo là “ tìm kiếm sự toàn vẹn trong
cái bất toàn” Những Chawan bị vỡ thường được gắn lại rất tỉ mỉ bằng một hợp
chất sơn mài và các thành phần khoáng chất tự nhiên khác. Vàng cám đựơc dùng
để che khoảng màu tối của sơn mài, và đôi khi một số đồ án phụ cũng được 19
tạo ra bằng những hợp chất. Những chiếc bát được hàn gắn như thế thường được
đem sử dụng chủ yếu vào tháng 11, khi những người tổ chức trà đạo bắt đầu sử
dụng ro, hay lò sưởi, một cách thể hiện và ca tụng Wabi hay sự giản dị, mộc mạc.
- Để thưởng thức trà lá thì có thêm loại tách nhỏ. Thường cỡ khoảng 70ml đến
100 ml. Hình tròn, hay hình ống , đôi khi có hình dạng méo mó . Thường màu
đậm hay nhiều màu in hình hoa trái hay viết những chữ Nhật bản dạng chữ thảo.
Tuy nhiên màu sắc không diêm dúa với màu đỏ gay gắt như trên các đồ sứ của
Trung Hoa. Ly tách uống trà của Nhật bản có màu thanh thoát, êm dịu. Tách
uống trà có thể có nắp hoặc không, nhưng phải có một đĩa nhỏ đễ đỡ tách uống
trà.
* Tất cả mọi Dogu được bảo quản rất cẩn thận. Sau mỗi lần sử dụng, chúng đựơc
cọ rửa sạch sẽ trước khi cất đi. Một vài trong số các Dogu chỉ được cầm vào khi
tay đã đeo găng.

3. Nội dung lễ trà:
3.1 Quy trình buổi trà:
- Chủ nhà sẽ chọn ngày để tổ chức uống trà, gửi thư mời và người được mời sẽ

viết thư trả lời có nhận lời mời hay không. Một buổi uống trà thường là một
nhóm nhỏ, và không vượt quá 4 người. Cho nên những người được mời thường
là những người rất thân thiết với chủ nhà.
- Thời gian tổ chức được chia ra làm 4 loại: trà sáng (7h sáng), sau ăn cơm (8h
sáng), giữa trưa (12h trưa) và câu chuyện buổi tối (6h tối).
- Lúc đến nơi, những người khách chào lẫn nhau. Họ được phục vụ nước nóng
trong khi chờ đợi trên một chiếc ghế băng ngoài vườn. Và gia chủ sẽ bước ra
chào các vị khách mới đến.
- Khi đến, khách sẽ được tiếp nước nóng ở ngoài vườn, sau đó tẩy trần ở Roji.

11


- Khách tự thỏa thuận vấn đề phân chia ngôi thứ, rồi từng người lặng lẽ tiến
vào chỗ ngồi của mình. Sau khi khách đã yên vị, trong phòng hoàn toàn im
lặng, không một tiếng động nào khác ngoài tiếng nước sôi reo trong ấm sắt.
Toàn bộ nghi thức Chanoyu cổ truyền cần từ 3-4 tiếng, gồm 4 giai đoạn:
♦ Hoài thạch: Sau khi những người khách đã an vị, chủ nhà sẽ mời khách
dùng điểm tâm, thường là bánh. Trong các buổi tiệc trà lớn khách được phục vụ
một bữa ăn nhẹ như soup hoặc một ít cơm và cá kho. Bữa ăn này thường kéo
dài hơn một tiềng đồng hồ mặc dầu đây chỉ là phần khởi đầu của buổi tiệc trà.
Trong các buổi tiệc trà nhỏ, khách thường chỉ đến để ngắm cảnh khu vườn, nói
chuyện và thưởng thức một bát trà xanh trong khoảng thời gian một tiếng đồng
hồ. Chủ nhà mời khách lui về vườn hoặc Machiai ngồi nghỉ trong khi chuẩn bị
lễ trà.
♦ Trung lập: Nếu trà được dọn ra vào ban ngày, sẽ có một tiếng cồng; còn ban
đêm sẽ có một tiếng chuông. Thường thì người ta sẽ đánh cồng hoặc rung
chuông từ 5 tới 7 lần, để triệu tập các vị khách trở lại khu nhà trà. Trước khi
vào phòng uống trà khách lại rửa tay và súc miệng như lần trước. Lần này căn
phòng đã thay đổi, với hoa trên tường và các cửa sổ trên mái nhà được mở. Đây

là lúc uống trà thực sự. Trà được pha rất đậm và khách uống chung bằng một
chiếc tách.
♦ Ngự tòa nhập: Khách sẽ được dâng trà đặc.
♦ Dùng trà loãng: Trà này để tráng miệng và một cách biểu trưng, để chuẩn bị
cho những vị khách rời khỏi thế giới tâm linh của lễ trà và bước lại vào thế giới
vật chất. Đôi khi người ta sẽ đề cập chủ đề hút thuốc ở đây nhưng hiếm khi có
ai hút thuốc trong phòng. Ngày nay có rất nhiều cuộc thưởng trà, và người ta đã
đơn giản hóa nó đến mức chỉ còn bước cuối cùng.
3.2 Cách thức pha trà
Trà là một tác phẩm nghệ thuật và cần phải có tay của một bậc thầy giỏi, gọi là
trà tượng hoặc trà nhân, mới có thể phát huy được hết tất cả tính chất cao quý của
nó. Có trà ngon và trà xấu, không có một phương pháp riêng nào để chế tạo được
thứ trà tuyệt hảo
3.2.1. Chuẩn bị
12


Pha trà là một nghệ thuật đòi hỏi tính kiên nhẫn và sự nhận biết tinh tế về kĩ
thuật pha và loại trà. Vì thế trong Chanoyu yêu cầu phải có những đạo cụ dùng
trong việc pha chế và thưởng trà riêng biệt. Cụ thể là:
- Trà: tùy theo hệ phái nào mà trà được sử dụng có sự khác biệt.
- Matcha: trà bột. Người ta hái những lá trà non đem đi rữa sạch, phơi ráo nước
và xay nhuyễn thành bột. Vì thế trà có màu xanh tươi và độ ẩm nhất định chứ
không khô như các loại trà lá. Khi uống, bột trà được đánh tan với nưới sôi. Trà
nguyên lá: chỉ lấy nước tinh chất từ lá trà. Lá trà được phơi khô, pha chế trong
bình trà, lấy tinh chất, bỏ xác. Thường sử dụng loại trà cho nước màu vàng tươi
hay màu xanh nhẹ. Việc hái trà được thực hiện vào đầu tháng 5, loại trà hái vào
thời điểm này được gọi là Ichibancha ( nghĩa là “Trà nhất”), loại trà hái vào cuối
tháng 6, gọi là Nibancha (nghĩa là “Trà nhì”), loại trà hái cuối mùa vào cuối
tháng 7, gọi là Sanbancha (nghĩa là "Trà ba”). Theo chuyên môn thì càng vào đầu

mùa, thành phần trà có nhiều axit amin nên có vị thanh. Khi trà về cuối vụ nó có
nhiều tanin nên sẽ bị vị chát.
- Phụ liệu : Ngoài nguyên liệu chính là trà bột hay trà lá, người pha chế còn cho
thêm một số thảo dược, các loại củ quả phơi khô, đậu để làm 21 tăng thêm hương
vị cho chén trà, hay quan trọng hơn là mang tính trị liệu, rất có lợi cho sức khỏe,
giúp người bệnh mau hồi phục thể chất lẫn tinh thần.
- Nước pha trà: thường là nước suối, nước giếng, nước mưa, hay nước đã qua
khâu tinh lọc. Để tăng thêm hương vị cho trà, nước suối phải là nước lấy ở nơi
cách xa thác; nước giếng phải là nước lấy ở giếng tinh khiết; nước mưa phải
được cất trong nhiều năm. Theo quan điểm của người Nhật thì nước thạch tuyền,
nước lấy từ các khe suối chảy ra vào lúc sáng sớm, là loại nước tốt nhất dùng để
pha trà, vì đây là loại nước tinh khiết nhất. Nước để pha trà phải đạt tiêu chuẩn
không vẩn đục, không màu, không mùi và không vị. Nước ở độ pH5 là tốt nhất.
- Làm ấm dụng cụ: Ấm pha trà và tách uống trà được tráng bằng nước sôi trong
bình thủy để làm ấm dụng cụ , sau đó dùng khăn lau khô trước khi sử dụng. Cho trà vào ấm pha trà: Thường với loại trà ngon cỡ trung bình người ta
thuờng tính cho mỗi một người khách khoảng một muỗng cà phê trà xanh. Tuy
nhiên nếu dưới 3 người khách, nên cho hơn một tí để tránh quá nhạt. Dĩ nhiên
với những người ghiền trà, thích uống đậm lại là vấn đề khác.
- Bánh ngọt: Khi uống trà xanh Nhật bản (cũng như uống trà bột trong lễ dâng
trà) người Nhật phải ăn một vài loại bánh ngọt để làm gia tăng hương vị của trà,
thường làm bằng đậu hay bột khoai, bột gạo ... Chúng ta có thể thay thế bằng các
bánh ngọt khác của Âu Mỹ như bánh ngọt, chocolate... nhưng vẫn không phải là
hoàn hảo lắm. Ở Việt Nam có loại bánh đậu xanh được coi là rất thích hợp cho
việc uống trà xanh.
3.2.2. Pha trà:

13





×