Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

bài tiểu luận về vấn đề tăng trưởng xanh ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.04 KB, 15 trang )

TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM

1


LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế thế giới đang phải đương đầu với ba cú sốc lớn làm thay đổi cơ bản về mặt cơ
cấu, là: khủng hoảng tài chính ngân hàng, khủng hoảng lương thực và khủng hoảng về
nguyên liệu, đặc biệt về năng lượng. Cùng với tình trạng nghèo đói không được cải thiện và
đang xấu đi là sự bất bình đẳng trong xã hội cũng ngày càng gia tăng. Tài nguyên, đặc biệt là
nguồn năng lượng và nước đang ngày càng trở nên khan hiếm, môi trường đang ngày càng bị
ô nhiễm. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu mà trước hết là sự nóng lên toàn cầu và nước biển
dâng đang là thách thức nghiêm trọng nhất đối với nhân loại trong thế kỷ 21. Thiên tai và các
hiện tượng khí hậu cực đoan như là hệ quả của biến đổi khí hậu đang hoành hành ngày càng
nhiều và khốc liệt ở khắp mọi nơi trên thế giới. Do vậy, phát triển bền vững là xu thế chung
mà toàn nhân loại đang nỗ lực hướng tới.
UNESCAP trình bày Tăng trưởng Xanh và Nền kinh tế Xanh như một mô hình phát
triển mới, trong đó phát triển kinh tế và bền vững môi trường củng cố lẫn nhau. Nó đòi hỏi
chiến lược tổng hợp hỗ trợ cho thay đổi về hệ thống theo cách tích hợp, bổ sung và củng cố
lẫn nhau (1). Trong những năm qua, phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta vẫn còn dựa nhiều
vào việc khai thác tài nguyên thiên nhiên; năng suất lao động còn thấp; công nghệ sản xuất
còn thải ra nhiều chất thải, gây ô nhiễm môi trường. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc tiếp tục
diễn ra, như: nghèo đói, thất nghiệp, tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự gia tăng, tệ tham
nhũng quan liêu tăng mạnh và tinh vi hơn. Môi trường tiếp tục bị xuống cấp trong khi các
thảm họa do thiên tai và những diễn biến về thay đổi khí hậu toàn cầu đang tăng nhanh, gây
nhiều thiệt hại về người và của và đang gây những áp lực cho phát triển bền vững đất nước.
Rừng bị tàn phá, đa dạng sinh học suy giảm. Tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt. An
ninh năng lượng và nguy cơ thiếu hụt năng lượng phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế của đất
nước đang hiện hữu. Theo các chuyên gia kinh tế và môi trường, để tiếp tục duy trì những
thành quả tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới đòi hỏi Việt Nam phải chuyển đổi mô hình
tăng trưởng hiện nay sang một mô hình mới hiệu quả hơn, mà tăng trưởng xanh được coi là


một mô hình thích hợp để Việt Nam lựa chọn. Là nước chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi
khí hậu, Việt Nam xác định phương thức tăng trưởng xanh là nỗ lực của Chính phủ trong quá
trình thực hiện cam kết với cộng đồng quốc tế cùng chung tay ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đồng thời, đó cũng là cơ hội nâng cao đời sống cho người dân thông qua việc tăng sức cạnh
2


tranh của nền kinh tế và góp phần thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và tiếp tục theo
đuổi thành công mục tiêu xóa đói giảm nghèo. Nhận thức được vấn đề đó, trong văn kiện của
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng và trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2001-2010 đã nêu :“ Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi
với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “Phát triển kinh tế - xã hội
gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo và
môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học”. Việt Nam đã xác định tăng trưởng xanh là
một nội dung quan trọng của phát triển bền vững, đảm bảo phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả,
bền vững và góp phần quan trọng thực hiện Chiến lược Quốc gia về biến đổi khí hậu.
Bài tiểu luận này sẽ trình này rõ hơn về vấn đề “Tăng trưởng xanh” cùng với thực
trạng và những giải pháp đảm bảo cho sự phát triển bền vững của Việt Nam.
I.

Cơ sở lý thuyết:
1. Khái niệm:
Khái niệm Tăng trưởng xanh được nhiều tổ chức định nghĩa như sau:
Theo Hàn Quốc : "Tăng trưởng xanh là sự tăng trưởng đạt được bằng cách tiết kiệm

và sử dụng các nguồn tài nguyên và năng lượng hiệu quả để giảm thiểu biến đổi khí hậu và
thiệt hại tới môi trường, tạo ra các động lực tăng trưởng mới thông qua nghiên cứu và phát
triển công nghệ xanh, tạo các cơ hội việc làm mới và đạt được sự hài hòa giữa phát triển kinh
tế và bảo vệ môi trường".
Chương trình Môi trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP) định nghĩa: “Tăng trưởng

xanh là định hướng mới thúc đẩy kinh tế phát triển theo những mô hình tiêu thụ và sản xuất
bền vững, nhằm đảm bảo nguồn vốn tự nhiên tiếp tục cung cấp những nguồn lực và dịch vụ
sinh thái mà đời sống của chúng ta phụ thuộc vào, cho thế hệ này cũng như cho những thế hệ
mai sau”.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD: “Tăng trưởng xanh là thúc đẩy
tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo rằng các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục
cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta. Để thực
hiện điều này, tăng trưởng xanh phải là nhân tố xúc tác trong việc đầu tư và đổi mới, là cơ sở

3


cho sự tăng trưởng bền vững và tăng cường tạo ra các cơ hội kinh tế mới”. “Tăng trưởng
xanh” là tăng trưởng giữ được vốn tự nhiên - OECD (2011).
Việt Nam định nghĩa về tăng trưởng xanh được nêu trong Dự thảo: “Tăng trưởng xanh
ở Việt Nam là sự tăng trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền
kinh tế nhằm tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế
thông qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng
hiện đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó
với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế một cách bền vững”.
Tăng trưởng xanh ở Việt nam là mô hình tăng trưởng dựa vào quá trình thay đổi các mô
hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế, nhằm khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh, tăng hiệu
quả kinh tế và khả năng cạnh tranh thông qua nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tiên tiến,
phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên,
giảm khí thải nhà kính, đối phó biến đổi khí hậu, góp phần giảm nạn đói nghèo, tạo động lực
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Tăng trưởng xanh được coi là một chương trình toàn
diện, tạo ra hướng tiếp cận mới trong tăng trưởng kinh tế, hướng tới phục hồi và bảo tồn hệ
sinh thái tự nhiên, nuôi dưỡng cuộc sống của con người và giảm thiểu tác động của biến đổi
khí hậu. Chính vì vậy nhiều quốc gia trên thế giới đang tiếp cận theo xu hướng mới này nhằm

hướng tới phát triển bền vững.
2. Tiêu chí đánh giá Tăng trưởng xanh:
Hiện nay, trên thế giới vẫn chưa có Bộ tiêu chí thống nhất để đánh giá thực hiện tăng
trưởng xanh. UNIDO và UNEP đã đề xuất Bộ tiêu chí đánh giá doanh nghiệp thực hiện tăng
trưởng xanh, chủ yếu áp dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ vào năm 2010. Bộ tiêu chí đánh giá
dựa trên các chỉ số tuyệt đối (định lượng), bao gồm các yếu tố đầu vào (sử dụng nguyên liệu,
năng lượng và nước), đầu ra là sản phẩm và các chất ô nhiễm (chất thải rắn, khí thải và nước
thải). Trong bối cảnh đó, một số địa phương ở Việt Nam (Bình Dương, Bình Định) đã đánh giá
phân loại doanh nghiệp dựa trên 3 nhóm tiêu chí định tính về doanh nghiệp xanh, trong đó chỉ
tập trung vào lĩnh vực bảo vệ môi trường, chưa bao gồm các yếu tố như công nghệ, tiết kiệm
năng lượng và chuyển đổi sản phẩm xanh. Các tiêu chí gồm: Tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi
trường, tuân thủ các quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường, tuân thủ thủ tục hồ sơ quản lý môi trường
4


và các vấn đề liên quan khác. Tuy nhiên, để phản ánh đúng hành động tăng trưởng của doanh
nghiệp, các tiêu chí cần bao quát về bảo vệ môi trường cũng như việc đổi mới công nghệ tiên
tiến, tiết kiệm tài nguyên và năng lượng, chuyển đổi sang sản xuất các sản phẩm xanh. Tiêu chí
về nhận thức và hành động của doanh nghiệp về bảo vệ môi trường được đánh giá quan trọng
nhất, tiếp theo là đổi mới công nghệ, tiêu dùng năng lượng và chuyển đổi sản phẩm.
Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD) có những tiêu chí đánh giá tăng trưởng
xanh nhưng chỉ đóng vai trò định hướng cho các nước trong việc tự xây dựng bộ chỉ tiêu cho
chính mình, bởi mỗi nước có trình độ phát triển kinh tế, điều kiện tự nhiên, môi trường, trình độ
dân trí khác nhau. Bên cạnh đó, trong từng giai đoạn của nền kinh tế, mỗi chỉ tiêu đánh giá tăng
trưởng xanh có mức tác động khác nhau đối với chính sách trong ngắn hạn, dài hạn của Chính
phủ. Chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam đã đề với 3 mục tiêu sau:
− Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch,
năng lượng tái tạo.
− Xanh hóa sản xuất. Thực hiện một chiến lược "công nghiệp hóa sạch" thông
qua rà soát, điều chỉnh những quy hoạch ngành hiện có, sử dụng tiết kiệm và

hiệu quả tài nguyên, khuyến khích phát triển công nghiệp xanh, nông nghiệp
xanh với cơ cấu ngành nghề, công nghệ, thiết bị bảo đảm nguyên tắc thân
thiện với môi trường, đầu tư phát triển vốn tự nhiên; tích cực ngăn ngừa và xử
lý ô nhiễm.
− Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.
Dựa trên cơ sở của các bộ chỉ tiêu đã hình thành trước đó ( Bộ chỉ tiêu của UNCDS, Bộ
chỉ tiêu trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2010, Bộ chỉ tiêu trong Chiến lược
toàn diện tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo, Bộ chỉ tiêu theo Agenda 21 của Việt Nam và Bộ
chỉ tiêu mà Tổng cục Thống kế dự kiến đề xuất.), bộ chỉ tiêu mới bao gồm 55 chỉ tiêu trong 4 lĩnh
vực: Kinh tế (14 chỉ tiêu), Xã hội (23 chỉ tiêu), Tài nguyên – Môi trường (13 chỉ tiêu), Thể chế (5
chỉ tiêu), trong đó có một số chỉ tiêu đặc thù riêng của Việt Nam như: chỉ tiêu về cơ cấu các
ngành kinh tế quốc dân; tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số lao động...

5


6


Chiến lược Tăng trưởng xanh của Việt Nam được xây dựng trên quan điểm sau:


Tăng trưởng xanh phải do con người và vì con người, phát triển hài hòa đời sống
xã hội với môi trường tự nhiên, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của mọi người dân.



Tăng trưởng xanh phải dựa trên việc tăng cường đầu tư vào bảo tồn, phát triển và
sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, cải thiện

nâng cao chất lượng môi trường, qua đó kích thích tăng trưởng kinh tế.



Tăng trưởng xanh phải dựa trên cơ sở khoa học và công nghệ xanh, hiện đại phù
hợp, nguồn nhân lực chất lượng cao, kết hợp giữa nội lực với mở rộng hợp tác
quốc tế.



Tăng trưởng xanh là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các Bộ,
ngành và địa phương; của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng
đồng dân cư và mọi người dân.

3. Mục tiêu:
 Mục tiêu chung:
Tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu vốn tự nhiên trở thành xu
hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng khả năng hấp thụ khí
nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội.
 Mục tiêu cụ thể:
Tái cấu trúc và hoàn thiện thể chế kinh tế theo hướng xanh hóa các ngành hiện có và
khuyến khích phát triển các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả năng lượng và tài nguyên với giá trị
gia tăng cao.
Nghiên cứu, ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ tiên tiến nhằm sử dụng hiệu quả hơn
tài nguyên thiên nhiên, giảm cường độ phát thải khí nhà kính, góp phần ứng phó hiệu quả với
biến đổi khí hậu.

7



Nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng lối sống thân thiện với môi trường thông qua tạo
nhiều việc làm từ các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ xanh, đầu tư vào vốn tự nhiên,
phát triển hạ tầng xanh.
Nhiệm vụ chiến lược: Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng
lượng sạch, năng lượng tái tạo theo những chỉ tiêu chủ yếu sau:
− Giai đoạn 2011 - 2020: Giảm cường độ phát thải khí nhà kính 8 - 10% so với mức
2010, giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 1 - 1,5% mỗi năm. Giảm lượng
phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 10% đến 20% so với
phương án phát triển bình thường. Trong đó mức tự nguyện khoảng 10%, 10%
còn lại mức phấn đấu khi có thêm hỗ trợ quốc tế.
− Định hướng đến năm 2030: Giảm mức phát thải khí nhà kính mỗi năm ít nhất 1,5
- 2%, giảm lượng phát thải khí nhà kính trong các hoạt động năng lượng từ 20%
đến 30% so với phương án phát triển bình thường. Trong đó mức tự nguyện
khoảng 20%, 10% còn lại là mức khi có thêm hỗ trợ quốc tế.
Xanh hóa sản xuất: thông qua quy hoạch, tái cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt hạn chế phát
triển những ngành kinh tế phát sinh chất thải lớn, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường. Sử dụng
tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên nước, tài nguyên đất và tài nguyên
khoáng sản. Thúc đẩy các ngành kinh tế xanh phát triển nhanh để làm giàu thêm nguồn vốn tự
nhiên của đất nước, tạo thêm việc làm và cải thiện chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển
kết cấu hạ tầng bền vững, đổi mới công nghệ, áp dụng phổ biến sản xuất sạch hơn.Giảm cường
độ phát thải khí nhà kính trên đơn vị GDP và tăng tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo. Cải thiện
hiệu suất và hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm mức tiêu hao năng lượng trong hoạt động sản
xuất, vận tải, thương mại. Thay đổi cơ cấu sử dụng nhiên liệu trong các ngành công nghiệp và
giao thông vận tải.
Đặt mục tiêu đến năm 2020: Giá trị sản phẩm ngành công nghệ cao, công nghệ xanh
trong GDP là 42 - 45%; tỷ lệ các cơ sở sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường là 80%,
áp dụng công nghệ sạch hơn 50%, đầu tư phát triển các ngành hỗ trợ bảo vệ môi trường và làm
giàu vốn tự nhiên phấn đấu đạt 3 - 4% GDP.
Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững
8





Đô thị hóa bền vững: Để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát triển hài hòa, nâng
cao chất lượng sống cho người dân, quy hoạch phát triển đô thị và quản lý quy
hoạch cần đạt được các tiêu chí về hiệu quả sinh thái và bảo đảm xã hội để: đô thị
là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế xanh và cạnh tranh; tăng cơ hội việc làm;
giảm nghèo; cải thiện chất lượng sống; tăng cường an ninh năng lượng; cải thiện
môi trường; tránh được các chi phí và rủi ro tương lai.

− Những chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2020 gồm: Tỷ lệ đô thị loại III có hệ thống thu
gom và xử lý nước thải đạt quy chuẩn quy định: 60%, với đô thị loại IV, loại V và
các làng nghề: 40%, cải thiện môi trường khu vực bị ô nhiễm nặng 100%, tỷ lệ
chất thải được thu gom, xử lý hợp tiêu chuẩn theo Quyết định số 2149/QĐ-TTg,
diện tích cây xanh đạt tương ứng tiêu chuẩn đô thị, tỷ trọng dịch vụ vận tải công
cộng ở đô thị lớn và vừa 35 - 45%, tỷ lệ đô thị lớn và vừa đạt tiêu chí đô thị xanh
phấn đấu đạt 50%.
II.

Thực trạng tăng trưởng xanh ở Việt Nam:
1. Thực trạng:
Trong thời gian qua, nhờ tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và do chính sách mở cửa

nền kinh tế mà nhân dân đã được cải thiện rõ rệt. Tuy vậy, nó vẫn gây nên một số khó khăn,
thách thức đối với Việt Nam trong chuyển đổi nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh là:
-

Một: Trình độ phát triển nói chung còn thấp, bị tụt hậu so với nhiều nước sau nhiều
năm chiến tranh ác liệt, kéo dài để lại những hậu quả không nhỏ, cần có thời gian và

nguồn lực lớn để khắc phục. Nhưng nếu biết cách tổ chức lại một cách có hệ thống và
khôn khéo thì Việt Nam hoàn toàn có cơ hội rút ngắn khoảng cách phát triển trong
thời gian không dài, bằng cách phi truyền thống

-

Hai: Hệ thống pháp luật đang phải tiếp tục xây dựng hoàn thiện nên chưa đồng bộ,
chưa thật phù hợp với xu thế toàn cầu hóa và hướng tới tăng trưởng xanh. Hệ thống tổ
chức, bộ máy quản lý còn chia cắt chưa phù hợp với sự phát triển trong liên kết của
đất nước trong quá trình hội nhập

9


-

Ba: Công nghệ sản xuất cũ, lạc hậu còn phổ biến, năng suất lao động thấp, sức cạnh
tranh không cao; công nghệ sản xuất năng lượng tái tạo chưa phát triển; trình độ khoa
học công nghệ, hiệu quả sử dụng các nguồn lực còn thấp.

-

Bốn: Tài nguyên thiên nhiên bị suy thoái nghiêm trọng do phương thức tăng trưởng
còn nặng theo chiều rộng, sử dụng năng lượng hóa thạch và nguyên liệu đầu vào,
trong khi trình độ sử dụng công nghệ mới để giảm tiêu hao vật chất còn thấp, việc
quản lý tài nguyên còn hạn chế.

-

Năm: Nhận thức và năng lực của toàn hệ thống (con người, cơ sở hạ tầng, tài chính

và thể chế...) còn thấp, những thói quen cũ trong sản xuất, đời sống và quản lý chậm
thay đổi, cần phải có những chuyển biến mang tính chiến lược hơn.
Nhiều ngành, địa phương, doanh nghiệp và người dân vẫn chủ yếu phát triển kinh tế

theo chiều rộng, chưa thấy được tác động tích cực và lâu dài của tăng trưởng xanh. Bên cạnh
trở ngại về nhận thức, trình độ công nghệ thấp cũng được xem là một trong những hạn chế,
kìm hãm tăng trưởng xanh ở nước ta.
Hiện có đến 95% doanh nghiệp trong nước không đủ khả năng tự nghiên cứu và đổi
mới công nghệ. Vì vậy, sẽ gặp nhiều thách thức nếu đi theo con đường tăng trưởng xanh .
2. Những nỗ lực thực hiện tăng trưởng xanh của Việt Nam:
Tại Việt Nam, Viện Tăng trưởng xanh Toàn cầu (GGGI) phối hợp với Chương
trình Định cư Con người Liên Hợp Quốc (UN-Habitat) đã có những khóa tập huấn cho
cán bộ ở Sở tài nguyên Môi trường Hồ Chí Minh, Viên Nghiên cứu Phát triển Kinh tế Xã hội
Đà Nẵng, Ủy ban Nhân dân tỉnh Quảng Nam để chia sẻ kiến thức về Tăng trưởng xanh nhằm
nhằm tăng cường năng lực cho lãnh đạo địa phương và tăng vai trò làm chủ của họ trong quá
trình lập kế hoạch, triển khai các chính sách và những chương trình phát triển cho thành phố.
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 1208/QĐ-TTg, ngày 21/07/2011 phê duyệt
Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia 2011 – 2030: Ưu tiên phát triển nguồn điện tái tạo.
Tăng cơ cấu điện tái tạo lên đạt 4,5% và 6,0% vào 2020 và 2030.
-

Giảm hệ số đàn hồi điện xuống 1,5 và 1,0 vào năm 2015 và 2020.


Điện gió: chiếm 0,7% và 2,4% vào 2020 và 2030.
10





Điện sinh khối: chiếm 0,6 và 1,1 vào 2020 và 2030.



Thủy điện: tăng gần gấp đôi công suất (17.400/9200MW) vào năm 2020.



Điện hạt nhân: chiếm 10,1% vào 2030.

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 1855/QĐ-TTg ngày 27/12/2007 phê duyệt
Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2050: Phấn đấu tăng tỷ lệ các nguồn năng lượng tái tạo lên khoảng 5% vào năm 2020 và
khoảng 11% vào năm 2050, và định hướng về việc thành lập quỹ phát triển năng lượng để hỗ
trợ đầu tư cho phát triển năng lượng mới và tái tạo
Tại Việt Nam, chương trình tăng trưởng xanh được cụ thể hóa qua việc ngày
25/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 1393/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc
gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050
Ngày 20/3/2014, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam chính thức có quyết định phê duyệt
Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014 - 2020. Kế hoạch hành
động bao gồm 4 chủ đề chính, 12 nhóm hoạt động và 66 nhiệm vụ cụ thể. Trong đó, 4 chủ đề
chính gồm: Xây dựng thể chế và kế hoạch tăng trưởng xanh tại địa phương; giảm cường độ
phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; thực hiện
xanh hóa sản xuất; thực hiện xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững
Chương trình giảm phát thải khí nhà kính thông qua nỗ lực hạn chế mất rừng và suy
thoái rừng tại Việt Nam của Liên Hiệp Quốc (UN-REDD) năm 2009 - 2012
Vận động được 5 triệu EUR từ Chính phủ Vương quốc Bỉ; 2 triệu USD từ Chính phủ
Hàn Quốc và 3,6 triệu USD là từ Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP)... Ngoài
ngân sách cho phát triển xanh lớn thì từ năm 1993 đến nay, Chính phủ đã chi khoảng 2 tỷ
USD vốn (Viện trợ Phát triển Chính thức) ODA cho các dự án và chương trình phát triển liên

quan đến tăng trưởng xanh. Bên cạnh đó, các tổ chức và các quỹ quốc tế đã cung cấp hỗ trợ
tài chính hoặc kỹ thuật như chương trình đang phát triển và giảm phát thải từ phá rừng và suy
thoái rừng, Quỹ bảo vệ Môi trường Việt Nam (VEPF) và Cơ chế phát triển sạch
(CDM)...

11


Theo báo cáo mới của Bộ Tài chính về nguồn lực cho bảo vệ môi trường, thu từ thuế
Bảo vệ môi trường đã tăng hơn 3 lần trong vòng 5 năm qua, lên khoảng 38.000 tỷ đồng trong
năm 2016. Trong khi đó, số chi tăng không đáng kể, từ 9.000 tỷ đồng lên 12.290 tỷ đồng và
tương đương khoảng 1% tổng chi ngân sách. Trong năm 2016, số thu cho mục đích bảo vệ
môi trường (chỉ tính từ nguồn thu thuế, chưa tính các khoản phí khác) so với chi tương ứng
đã cao gấp 3 lần và có xu hướng tăng trong những năm qua.
III.

Giải pháp:
Đất nước ta còn đang tích cực thực hiện những chính sách để kết hợp tăng trưởng

xanh với sự phát triển bền vững. Thực hiện tốt chính sách đó, chắc chắn sẽ đưa đất nước ta
ngày càng phát triển vững mạnh. Một trong những giải pháp thực hiện chiến lược tăng trưởng
xanh trong trên cả nước bao gồm:
1. Tuyên truyền, nâng cao nhận thức, khuyến khích hỗ trợ thực hiện.
2. Nâng cao hiệu suất và hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm mức tiêu hao năng lượng
trong hoạt động sản xuất, vận tải, thương mại.
3. Thay đổi cơ cấu nhiên liệu trong công nghiệp và giao thông vận tải.
4. Đẩy mạnh khai thác có hiệu quả và tăng tỷ trọng các nguồn năng lượng tái tạo,
năng lượng mới trong sản xuất và tiêu thụ năng lượng của quốc gia.
5. Giảm phát thải khí nhà kính thông qua phát triển nông nghiệp hữu cơ bền vững,
nâng cao tính cạnh tranh của sản xuất nông nghiệp.

6. Rà soát, điều chỉnh quy hoạch các ngành sản xuất, dần hạn chế những ngành kinh
tế phát sinh chất thải lớn, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, tạo điều kiện phát triển các
ngành sản xuất xanh mới.
7. Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên.
8. Thúc đẩy các ngành kinh tế xanh phát triển nhanh để tạo thêm việc làm, nâng thu
nhập, làm giàu thêm nguồn vốn tự nhiên.
9. Phát triển kết cấu hạ tầng bền vững chủ yếu gồm: Hạ tầng giao thông, năng lượng,
thủy lợi và các công trình xây dựng đô thị.
12


10. Đổi mới công nghệ, áp dụng phổ biến sản xuất sạch hơn.
11. Đô thị hóa bền vững.
12. Xây dựng nông thôn mới với lối sống hòa hợp với môi trường.
13. Thúc đẩy tiêu dùng bền vững và xây dựng lối sống xanh.
14. Huy động nguồn lực thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh.
15. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
16. Nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ, ban hành hệ thống tiêu chuẩn kinh
tế, kỹ thuật và thông tin dữ liệu về tăng trưởng xanh.
17. Hợp tác quốc tế.
Xây dựng nông thôn mới với lối sống hòa hợp với môi trường: Thực hiện các nội
dung của Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 và
trong những năm tiếp theo, kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển giáo
dục, y tế, văn hóa và thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội nhằm đảm bảo phát triển nông
thôn bền vững.
Thúc đẩy tiêu dùng bền vững và xây dựng lối sống xanh bằng cách thay đổi mô hình
và hành vi tiêu dùng theo hướng bền vững của cả ba khu vực tiêu dùng trong xã hội, bao
gồm: khu vực nhà nước, khu vực doanh nghiệp và khu vực dân cư.
Nâng cao năng lực, kiện toàn tổ chức, tăng cường năng lực dịch vụ tài chính, ngân
hàng hướng đến ưu tiên hỗ trợ cho vay ưu đãi đối với các dự án tăng trưởng xanh. Ban hành

hướng dẫn đầu tư công xanh và tăng cường vận động tài trợ, phối hợp các tổ chức trong nước
và quốc tế, nâng cao kiến thức, kinh nghiệm .
Ngoài ra, cần tăng cường thu hút, hình thành môi trường thuận lợi cho khu vực tư
nhân tham gia đầu tư vào tăng trưởng xanh dưới hình thức chuyển đổi công nghệ/dự án thí
điểm/nghiên cứu điển hình; tăng cường đầu tư theo mô hình hợp tác công - tư (PPP) khi
nguồn lực ngân sách nhà nước đầu tư cho lĩnh vực này còn hạn chế. Huy động vốn từ đầu tư
tư nhân dưới dạng FDI, chứng khoán, cho vay lại của nhà nước và ngân hàng thương mại.

13


Đầu tư của Chính phủ và ODA sẽ là chất xúc tác tạo điều kiện cho việc thúc đẩy gia tăng
nguồn vốn thực hiện tăng trưởng xanh.
Việt Nam hiện đang xây dựng Chiến lược Tăng trưởng xanh nhằm thúc đẩy quá trình
tái cơ cấu nền kinh tế để tiến tới việc sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải
khí nhà kính thông qua nghiên cứu và áp dụng công nghệ xanh, hiện đại phù hợp, phát triển
hệ thống cơ sở hạ tầng để nâng cao hiệu quả nền kinh tế, ứng phó với BĐKH, góp phần xóa
đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế một cách bền vững.

14


KẾT LUẬN
Biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên... đang ảnh hưởng tới sự ổn định môi trường sống
của loài người, khiến các quốc gia phải nghĩ tới việc phát triển bền vững. Trước xu hướng phát
triển bền vững trên cả ba trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường, Việt Nam đang triển khai Chiến
lược Quốc gia về Tăng trưởng xanh với nhiều kết quả đáng ghi nhận, đóng góp tích cực vào nỗ
lực của cộng đồng quốc tế trong ứng phó với biến đổi khí hậu. Tăng trưởng xanh, làm giàu vốn
tự nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững; giảm phát thải và tăng
khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và quan trọng trong phát triển kinh

tế - xã hội.

Tài liệu tham khảo và nguồn trích dẫn:
(1)UN and ADB, Green Growth, Resources and Resilience: Environmental Sustainability in Asia
and the Pacific (2012). Available from:
Report.pdf
N.T.T. Trang / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Tập 31, Số 5 (2015) 109-113
Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 23, tháng 12/2015
Báo cáo quốc gia tại hội nghị cấp cao liên hợp quốc về phát triển bề vững (RIO+20)
/> /> /> />
15



×