Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TL lich su tu tuong chinh tri NHO GIÁO NGUYÊN THUỶ (SƠ KỲ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.53 KB, 26 trang )

ĐỀ TÀI: KHAI THÁC, LIÊN HỆ, VẬN DỤNG NHỮNG GIÁ TRỊ VỀ
MẶT LÝ LUẬN CỦA NHO GIÁO NGUYÊN THUỶ (SƠ KỲ)
TRONG QUẢN LÝ VÀ XÂY DỰNG Ở ĐẤT NƯỚC TA HIỆN NAY


LỜI MỞ ĐẦU
Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, trong đời sống dân tộc ta, những giá trị
đạo đức phổ biến được xã hội thừa nhận với nội dung cụ thể về “cải thiện,
lương tâm, lòng yêu nước thương nòi, lòng hiếu thảo, tình bạn, tình đồng chí
cao thượng, tình yêu chung thuỷ…” đã trở thành nét đẹp của đạo đức truyền
thống Việt Nam, cốt cách Việt Nam. Qua bao tháng năm, các thế hệ người
Việt Nam luôn sống theo các quy tắc đạo đức “thương người như thể thương
thân”, “nhiễu điều phủ lấy giá gương”, “bầu ơi thương lấy bí cùng”, “lá lành
đùm lá rách”, “chị ngã em nâng”… để tạo nên biết bao hình mẫu về phẩm giá
đạo đức Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Sức mạnh
của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó có vai trò to lớn
của những giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam.
Những năm gần đây, không ít giá trị bị xói mòn, suy giảm nghiêm trọng.
Chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, tệ nạn xã hội,
tệ tham nhũng, buôn lậu… có triều hướng phát triển. sự suy giảm giá trị đạo đức
xã hội thực sự trở thành một trong những vấn đề nổi cộm trong đời sống.
Điều đáng lo ngại nhất là tệ tham nhũng diễn ra ở nhiều ngành, nhiều
cấp, từ Trung Ương đến địa phương và thậm chí ở ngay các cơ quan thực thi
pháp luật. Tệ tham nhũng có sức phá hoại lớn đối với toàn bộ các giá trị đạo
đức xã hội. Tệ tham nhũng làm tha hoá đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm cho quần
chúng nhân dân, đặc biệt là thế hệ trẻ mất niềm tìn, dao động về lý tưởng và ít
nhiều bị tiêm nhiễm ý thức phản đạo đức. Điều đáng nói là trước tình hình đó,
công tác xây dựng Đảng, công tác đấu tranh chống lại các hiện tượng tiêu cực
trong Đảng và trong bộ máy Nhà nước còn thiếu những biện pháp hữu hiệu.
Đứng trước thực trạng đó, Nho giáo với chủ trương coi trộng đạo đức,
coi việc hoàn thiện nhân cách đạo đức của mỗi người là điều kiện để xây


dựng và hoàn thiện xã hội lý tưởng, Nho giáo đã góp phần tạo dựng cho con
người lối sống có trách nhiệm với gia đình, đất nước, với cả chính mình và đặc


biệt coi trọng trật tự, kỷ cương một lối sống mà “Phú quý bất năng dâm, bần
tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất ”. Nho giáo đã tạo ra một cộng đồng xã
hội có tôn ti trật tự, hoà mục từ trong gia đình đến Nhà nước, thiên hạ.
Do vậy, việc khai thác, liên hệ, vận dụng những giá trị lý luận của Nho
giáo nguyên thuỷ (sơ kỳ) có một ý nghĩa nhất định trong quản lý và xây dựng
đất nước ta hiện nay, trong việc nhận thức con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội
và sác định những mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, nhất là mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, có văn hoá,
có trật tự, kỷ cương.


NỘI DUNG
1. Học thuyết của Nho giáo
1.1 Nho giáo là gì?
Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo. Ông qua đời cách đây khoảng
hai nghìn năm trăm năm, nhưng ông không thể ngờ rằng vào lúc giao thời
giữa thế kỷ 20 - 21 này loài người lại sốt sắng quan tâm đến học thuyết của
ông đến như vậy. Học thuyết của ông đã hành trình xuyên suốt lịch sử Trung
Hoa và ảnh hưởng đến nhiều nước trên thế giới đặc biệt là các nước ở Châu
Á, hình thành khu vực văn hoá Khổng giáo.
Nội dung cơ bản của Nho giáo đề cập đến các vấn đề chính trị, đạo đức
của con người, xã hội.
Về đạo đức: cơ bản Nho giáo cổ trung đại đều theo xu hướng bàn về
bản tính thiện ở con người. Con người sống ở đời cần năm đức: nhân, lễ,
nghĩa, trí, tín; trong đó nhân là gốc.
Về đạo quản lý xã hội, Nho giáo chủ trương một đường lối quản lý đó

là “Đức trị”.
1.2 Học thuyết của Nho giáo
Khổng tử đã viết: “Cai trị dân mà dùng đạo đức, đưa dân vào khuôn
phép mà dùng lễ thì dân sẽ biết liêm sỉ là thực lòng quy phục. Hơn nữa, bề
trên mà biết trọng lễ thì dân không ai dám không tôn kính, bề trên trọng nghĩa
thì dân không ai dám không phục tùng, bề trên trọng tín thì dân không ai dám
không ăn ở hết lòng”.
Đức trị hiểu theo khía cạnh:
Chủ trương làm cho xã hội có trật tự, Khổng Tử cho rằng trước hết phải
thực hiện “chính danh”. Chính danh có nghĩa là một vật trong thực tại cần
phải cho phù hợp với cái danh mà nó mang. Nói cách khác, mỗi cái danh bao
hàm trong đó một số điều kiện tạo nên bản chất loại sự việc mà danh liên
quan đến. Theo nguyên tắc này, bản thân nhà vua phong kiến cũng bị rằng


buộc trong những quy định lễ nghĩa, mà một trong số đó là yêu cầu phải yêu
dân như con. Như vậy, trong xã hội, mỗi cái danh dều bao hàm một số trách
nhiệm và bổn phận mà mỗi các nhân mang cái danh ấy phải có trách nhiệm và
bổn phận phù hợp với cái danh ấy.
Còn theo nguyên tắc nhân trị, Khổng Tử nói: “Người không có nhân thì
lễ mà làm gì? Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?” Nhân trị hay lễ trị
trong xã hội phong kiến tức là nhà vua phải cảm hoá dân chúng bằng tình
người, bằng lòng yêu thương mà coi trong con người chứ không phải bằng
gông cùm và đòn roi.
“Lễ” hiểu theo nghĩa rộng là những nghi thức, quy chế, kỉ cương, trật
tự, tôn ti của cuộc sống chung trong cộng đồng xã hội và cả lối cư xử hàng
ngày. Với nghĩa này, lễ là cơ sở của xã hội có tổ chức, đảm bảo cho phân định
trên dưới rõ ràng, không bị xáo trộn, đồng thời nhằm ngăn ngừa những hành
vi tình cảm cá nhân thái quá.
“Lễ” được hiểu theo nghĩa một đức trong “ngũ thường” thì là sự thực

hành theo đúng những giáo huấn, kỷ cương, nghi thức do Nho giáo đề ra cho
những quan hệ “tam cương”, “ngũ luận”, “thất giáo” và cho cả sự thờ cúng thần
linh. Đã là người thì phải học lễ, biết lễ và có lễ. Con người học lễ từ tuổi trẻ thơ.
Lễ với những cách biểu hiện trên là cơ sở, là công cụ chính trị, vũ khí
của một phương pháp trị nước, trị dân lâu dời của Nho giáo. Phương pháp ấy
gọi là “Lễ trị”. Lễ có thể đưa mọi hoạt động vào nề nếp, có thể ngăn chặn mọi
lỗi khi sắp sảy ra. Vì vậy, những điều quy định về lễ vốn được ra đời rất sớm,
nhiều và tỉ mỉ hơn những điều về pháp luật.
Tư tưởng đức trị của Khổng Tử được thể hiện qua các đặc điểm:
- Mục đích tối cao của sự cai trị là để yên bách tính, giúp trăm họ sung
túc, đầy đủ.
- Người nắm chính sự phải yên dân bằng cách ban ân huệ cho dân, coi
sự giàu có của dân chúng là quan trọng nhất.
- Người cai trị càn trung thành, cần mẫn.


- Người cai trị cần liêm khiết, chí công vô tư.
Từ quan điểm Đức trị như vậy, nhà vua phong kiến có bổn phận phải
luôn tự rền luyện đạo đức: phải thân dân và thương yêu dân chúng.
2. Đặc chưng của xã hội lý tưởng theo quan niệm của Nho giáo
Giống như bất kỳ một học thuyết chính trị - xã hội nào khác, Nho giáo
cũng đưa ra quan niệm về một xã hội lý tưởng với tất cả những đặc điểm căn
bản của nó và các biện pháp để mtạo lập duy trì cái xã hội ấy.
Nhìn lại lịch sử hình thành và phát triển của Nho giáo, có thể khẳng
định rằng quan niệm của Nho giáo về mẫu hình của một xã hội lý tưởng, đặc
điểm cơ bản của nó, cùng con đường và các giải pháp để xây dựng, duy trì cái
xã hội ấy là dựa trên cơ sở mà các nhà Nho giáo đã vạch ra và lý giải nhưng
nguyên nhân dẫn tới tình trạng xã hội rối loạn, lộn xộn: “Vua chẳng ra vua, tôi
chẳng ra tôi, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, ở trong tình cảnh hỗn loạn
như thế, dầu ta có lúa đầy kho, có chắc được ngồi yên mà ăn chăng?”.

2.1 Xã hội ổn định, trật tự, kỷ cương
Trước một xã hội rối loạn bởi chiến tranh, bởi những mâu thuẫn và xung
đột giai cấp, với chức năng là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, Nho giáo
mong ước có một xã hội ổn định, thái bình, đại đồng, mọi người đều sống hoà
mục, thân ái, bình đẳng. Mơ ước về một xã hội như vậy, trong Luận ngữ,
Khổng Tử nói: “Vua chư hầu có nước, quan đại phu có nhà, hai hạng ấy chẳng
lo sợ cho nước nhà mình ít người, mà lo sợ rằng: tình hình và phép tắc chẳng
được đồng đều, chẳng lo sợ cho nước mình nghèo khổ, mà lo sợ chẳng được an
ninh. Là hễ đồng đều chẳng nghèo khổ, người hoà thì dân số không ít, có an
ninh thì nước nhà không nghiêng ngả”. Xã hội lý tưởng được các nhà Nho nêu
lên còn là một xã hội mà ở đó, có vua thánh, tôi hiền, mọi cái đều là của chung,
mọi người đều có quyền lợi, có sản nghiệp riêng và đều được chăm sóc.
Trong thiên Lễ vận, sách Lễ ký, Khổng Tử nói: Sự thực hiện của đạo
lớn là, thiên hạ là của chung, tuyển chọn người hiền tài và cử chỉ người tài
năng, nói điều tín và tu sửa hoà mục. Cho nên người ta không chỉ nên tôn


kính cha mẹ mình, không chỉ thương yêu con cái mình, còn khiến cho người
già được sống chọn đời, người trai tráng được sử dụng, trẻ thơ được lớn lên,
người không vợ, người không chồng, trẻ mồ côi, người không con, người tàn
tật, tất cả đều được chăm sóc.
Đúng là các nhà Nho đã tìm ra một nguyên nhân của tình trạng xã hội
rối loạn là “cha không ra cha, con không ra con”, tức là họ coi một trong
những nguồn gốc làm cho xã hội rối loạn là sự rối loạn từ trong gia đình. Do
đó, các nhà Nho đều cho rằng muốn cho xã hội có trật tự, kỷ cương, thì trước
hết về cơ bản phải là gia đình phải có trật tự, kỷ cương, sao cho “cha ra cha,
con ra con, vợ ra vợ, chồng ra chồng”. Các nhà Nho chủ trương giáo dục, giáo
hoá mọi người trong xã hội theo những nguyên lý đạo đức Chính danh, Tam
cương, Ngũ thường, trước hết và chủ yếu là nhằm mục đích trên. Cho nên
cũng hiểu tại sao Nho giáo chú trọng, đề cao giáo dục, giáo hoá với phương

châm “Hữu giáo vô loại”, “Phú nhi hậu giáo”, coi giáo dục, giáo hoá là biện
pháp căn bản nhất để duy trì trật tự, kỷ cương trong gia đình - tiền đề và điều
kiện bảo đảm trật tự, kỷ cương, ổn định xã hội.
Khi đưa ra quan niệm về một xã hội lý tưởng, cũng tất yếu, trong học
thuyết của mình, các nhà nho đều mong muốn rằng trong xã hội đó, bằng mọi
cách, phải duy trì được nguyên tắc: giai cấp địa chủ phong kiến mãi mãi là
giai cấp “cai trị người” và được người phụng dưỡng, còn các giai cấp, tầng
lớp khác mãi mãi “bị người cai trị” và phải nuôi dưỡng người. Đôi khi, trước
một thực trạng xã hội mà trong đó, mâu thuẫn giữa các giai cấp và mâu thuẫn
trong nội bộ giai cấp thống trị diễn ra gay gắt, hầu như không thể điều hoà
được, cũng như tình trạng rối loạn xã hội hầu như không chấm dứt, các nhà
Nho phải viện tới “ý trời”, “Mệnh trời”. Theo đó, cái trật tự đẳng cấp, phân vị
ấy là do trời sắp đặt, là ý trời không thể đảo ngược được. Và những hành vi
hành động nào làm nguy hại đến trật tự đó là “có tội với trời và dù có cầu đảo
thì trời cũng không tha thứ” (Khổng Tử). Như vậy, dù nho giáo có đưa ra
quan niệm về một xã hội đại đồng lý tưởng thì chẳng qua cũng chỉ nhằm tô


vẽ, bảo vệ sự tồn tại vĩnh viễn của chế độ phong kiến cũng như quyền lợi và
địa vị thống trị của giai cấp địa chủ phong kiến, nhằm duy trì vĩnh viễn sự bất
công, bất bình đẳng. Xét đến cùng, quan niệm của Nho giáo về một xã hội lý
tưởng - thái bình, ổn định, có trật tự, kỷ cương… là hết sức nghiệt ngã, hết
sức hình thức và thù địch với cuộc sống, với con người, với nhân dân, là cản
trở và đi ngược lại xu thế phát triển tất yếu của lịch sử.
2.2 Xã hội kết hợp hài hoà đời sống vật chất và tinh thần
Xã hội lý tưởng trong quan niệm của các nhà Nho là xã hội mà trong đó
mọi người phải có đời sống đạo đức và đời sống vật chất tương đối đầy đủ. Có
những ý kiến khẳng định Nho giáo chủ trương một xã hội nghèo, một xã hội
mà trong đó, mọi người đều “an bần lạc đạo”, vui với cảnh nghèo. Cũng đã có
ý kiến khẳng định Nho giáo đối lập lợi ích vật chất với đạo đức, coi thường

việc làm giàu và Nho giáo chưa bao giờ là động lực của phát triển kinh tế. Hai
loại ý kiến này đều đưa vào rất nhiều câu chữ trong các sách kinh điển của Nho
giáo để luận chứng cho sự khẳng định của mình. Song vấn đề không hoàn toàn
như vậy. Trong toàn bộ học thuyết của mình, các nhà Nho, từ người sáng lập ra
Nho giáo là Khổng Tử trở đi không hoàn toàn đối lập lợi ích vật chất với đạo
đức, không coi thường việc làm giàu, không phủ nhận vai trò tích cực của sự
phát triển kinh tế với sự hoàn thiện con người và sự ổn định xã hội.
Đúng là Nho giáo coi Nhân, Nghĩa, Lễ Trí, Tín là những phẩm chất đạo
đức cao cả mà mọi người cần tu dưỡng để tự hoàn thiện mình, song nó cũng
bàn về những vấn đề đạo đức trong sự thống nhất, gắn liền với Lợi (vật chất).
Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử không phản đối việc làm giàu, cũng không
coi việc làm giầu là xấu, nếu “sự giàu” ấy không trái đạo. Ông nói rằng:
“Giàu với sang, ai lại chẳng muốn? Nhưng nếu chẳng phải đạo mà được giàu
sang, thì người quân tử chẳng thèm. Nghèo với hèn, ai mà chẳng ghét? Nhưng
nếu muốn chúng nó đến với mình mà mình chẳng lỗi đạo thì người quân tử
chẳng từ bỏ”. Ông còn nói thêm: “Như nước nhà yên trị mà mình chịu bần
cùng, đê tiện, đó là sự xấu hổ. Còn như nước nhà loạn lạc mà mình hưởng


phần giầu có, sang trọng, đó là điều đáng xấu hổ”. Cho nên theo ông, “Nếu ai
thấy món lợi bèn nhớ đến điều nghĩa mà chẳng dám phạm… người như vậy
cũng đáng gọi là bậc thánh nhân được rồi”. Đúng là Khổng Tử coi cánh giầu
sang như “đám mây nổi” nhưng chỉ khi cảnh giàu sang ấy do hành vi bất
nghĩa mà có được, và nếu giàu sang mà bất nghĩa, trái đạo thì ông khuyên mọi
người cùng ông thà “ăn cơm thô, uống nước lã, sống trong cảnh đơn bạc” còn
hơn! Khổng Tử cũng không chủ trương vứt bỏ hoàn toàn vật lợi, mà chỉ chủ
trương bỏ cái vật lợi nhỏ bé trước mắt (ở Khổng Tử và các nhà Nho, so với
đạo đức, lợi ích vật chất chỉ là nhỏ bé, là cái lợi trước mắt) để được cái lợi lớn
hơn, lâu dài hơn. Không những thế, ở chương Tử Lộ, sách Luận Ngữ, Khổng
Tử còn khuyên nhà cầm quyền rằng khi dân đã đông thì phải giúp họ làm

giàu, khi dân đã giàu thì phải giáo hoá họ.
Mạnh Tử cũng nhận thức rõ vai trò của đời sống vật chất, lợi ích vật
chất đối với đời sống đạo đức, đối với công việc giáo hoá con người. Từ tư
tưởng “dân vi bang bản”, “dân vi quý”, Mạnh Tử đã từng đòi hỏi nhà cầm
quyền phải làm cho dân có tài sản riêng (chế dân di sản), phải tạo sự nghiệp
cho dân. Bởi theo ông, dân “có hằng sản mới có hằng tâm”, dân có đời sống
vật chất đầy đủ thì họ mới thực hiện được đạo Hiếu, đạo Trung, mới học và
làm theo Lễ, Nghĩa. Ngoài ra, Mạnh Tử không chỉ nhận thức được vai trò của
đời sống vật chất đối với đời sống đạo đức, mà còn nhận thức được rằng kinh
tế là cơ sở, động lực của công việc giáo dục, giáo hoá. Ông nói: “Đấng minh
quân chế định điền sản mà chia cho dân cùng cày cấy cốt khiến cho họ trên đủ
phụng dưỡng mẹ cha, dưới đủ nuôi dưỡng vợ con, nhằm năm chúng mùa thì
mãi no đủ, phải năm thắt ngặt thì khỏi nạn chết đói. Được vậy rồi, nhà Vua mới
khiến dân làm việc thiện. Tự nhiên họ sẽ điều thiện một cách dễ dàng.”
Như vậy, Khổng Tử và Mạnh Tử không hoàn toàn coi thường Lợi,
không đối lập Nghĩa với Lợi, cũng như không coi thường và phủ nhận sự giàu
sang. Xét về thực chất, xã hội lý tưởng mà các ông đề xuất không phải là một


xã hội nghèo. Nghiên cứu Nho giáo, chúng ta thấy rằng, những tư tưởng trên
của Khổng Tử và Mạnh Tử được bổ sung và phát triển ở các nhà Nho sau này.
Từ những câu chữ trên của Khổng Tử, chúng ta thấy, rõ ràng ông không
chủ trương mọi người hãy “an bần lạc đạo”, rằng, nếu phải nghèo thì hãy
bằng lòng với nó chứ đừng dua bợ (đánh mất nhân cách). Và với ông, giàu
hay nghèo, điều đó không quan trọng mấy, cái quan trọng và cần thiết hơn là
vui với đạo, học và làm theo đạo, theo lễ nghĩa. Nếu được như vậy thì theo
ông, người nghèo không nên oán trách, ghét bỏ cảnh phận nghèo của mình
(Bần nhi vô oán). Tất nhiên, với một đầu óc thực tế, Khổng Tử đã nhận ra
rằng thật khó có người “nghèo mà vui được”, khó có ai lại không oán ghét
cảnh nghèo nàn. Ông nói: “Bần nhi vô oán, nan, phú nhi vô kiêu, dị” (Giàu có

mà không kiêu căng thì còn dễ chớ nghèo khổ mà chẳng sầu oán thì thật khó).
Song, như trên đã trình bày, cái điều đáng sợ của các nhà Nho không phải là
nghèo mà là xã hội không yên ổn.
Tóm lại, trong quan niệm của các nhà Nho, xã hội lý tưởng phải là xã
hội bảo đảm được sự kết hợp hài hoà giữa đời sống kinh tế và đời sống tinh
thần, đạo đức lành mạnh. Và theo họ, sự hài hoà ấy là một trong những yếu tố
cơ bản để giữ vững ổn định, trật tự của xã hội phong kiến.
2.3 Xã hội đề cao học tập, giáo dục
Xã hội lý tưởng phải là xã hội có giáo dục, mọi người phải được giáo
dục, giáo hoá và có đạo đức. Ở các nhà Nho, giáo dục, giáo hoá cũng là một
trong những biện pháp chính trị căn bản để xây dựng một xã hội ổn định, thái
bình, thịnh trị, có trật tự, kỷ cương, và tạo ra những con người có đạo đức,
những mẫu người lý tưởng. Chính vì vậy Nho giáo đặc biệt đề cao, coi trọng
giáo dục, giáo hoá. Nhận thức được vai trò của con người, của giáo dục, giáo
hoá mà ngay từ đầu Khổng Tử đưa ra chủ trương “Hữu giáo vô loại”, “Phú nhi
hậu giáo” với phương châm “Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Tất
nhiên, nội dung giáo dục, giáo hoá trước sau vẫn là những lời dạy của bậc
Thánh hiền trong Tứ thư, Ngũ kinh - những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức


của đạo làm vua, đạo làm bề tôi và đạo làm người. Hầu hết các nhà Nho đều
khẳng định vai trò quyết định của đạo đức đối với việc hoàn thiện con người và
ổn định, hoàn thiện xã hội. Khổng Tử đã từng nói: “Muốn dẫn dắt dân chúng,
nhà cầm quyền phải dùng đức hạnh, muốn trị dân, nhà cầm quyền phải dùng lễ
tiết, thì chẳng những dân biết xấu hổ họ lại còn cảm hoá mà trở nên tốt lành”.
Song, để làm cho dân có đức hạnh và tuân phục, để làm tròn trách
nhiệm là người “ thay trời trị dân”, “cha mẹ nuôi dân”, để xứng đáng với
cương vị là người giáo hoá, “dưỡng dân”, theo các nhà Nho, người cầm
quyền, kẻ cai trị trước hết là người phải được giáo dục, tự mình giáo hoá và
có đạo đức Khổng Tử nói: “Này, nếu người bề trên chuộng lễ, thì dân chẳng dám

bỏ niềm cung kính. Nếu người bề trên báo nghĩa, thì dân chẳng bội lẽ công
chính. Nếu người bề trên biết tín thật, thì dân chẳng dám sai ngoa trong tình giao
ước. Nếu nhà cầm quyền đủ lễ, nghĩa, tín như vậy, thì dân chúng từ bốn phương
xa sẽ sai con đến để phục dịch mình. Cần chi phải học nghề cày cấy”.
Các nhà Nho, tiêu biểu là Khổng Tử và Mạnh Tử, coi việc dân đủ ăn,
đủ mặc là công việc hàng đầu để trị nước, là một trong những tiền đề cho sự
ổn định của xã hội, cho việc giáo hoá thành công (có hằng sản mới có hằng
tâm). Nhưng các nhà Nho vẫn coi trọng công việc giáo dục, giáo hoá là nhiệm
vụ chính trị cơ bản nhất của nhà cầm quyền, coi việc dân có đủ đức quan
trọng hơn việc họ có đủ ăn, coi Nhân, Nghĩa cần thiết hơn là nước và lửa.
Khổng Tử đã từng khuyên nhà cầm quyền không chỉ giúp dân làm giàu, mà
điều chủ yếu và cơ bản là khi dân dẫ giàu thì phải giáo hoá họ. Còn Mạnh Tử
thì coi việc giáo hoá để dân có đạo đức là công việc quan trọng nhất của kế
sách giữ nước. Bởi lẽ như ông nói: “Thành quách chẳng hoàn bị, đồ kinh pháp
chẳng nhiều, chẳng phải là tai nạn trong nước vậy, ruộng nương chẳng mở
mang, của cải chúng tích tụ chẳng phải là sự nguy hại trong nước vậy là
Người trên không có lễ giáo, người dưới không có học thức, kẻ dân tàn tặc
đấy lên, nước mất đến nơi”. Tiếp tục tư tưởng này của Mạnh Tử, nhà tư tưởng
của chế độ phong kiến tập quyền Đặng Trọng Thư cũng nói: “Kìa muôn dân


chạy theo cái lợi, như nước chảy xuống chỗ thấp, nếu không lấy giáo hoá mà
ngăn chặn thì lại không thể giữ lại được. Thế cho nên, giáo hoá xây dựng
được thì gian tà đều ngừng lại và việc ngăn ngừa mới hoàn thành, giáo hoá
mà bị phế bỏ thì gian tà đua nhau mà nảy ra, hình phạt không kể xiết được,
việc ngăn ngừa bị hỏng. Các bậc vua đời xưa hiểu rõ điều đó, thế cho nên họ
cứ ngồi yên mà trị thiên hạ, không ai không coi việc giáo hoá là việc lớn”.
Nội dung giáo dục cuả Nho giáo, trước sau cũng chỉ là nguyên tắc,
chuẩn mực đạo đức cơ bản trong Tam cương, Ngũ thường. Nho giáo dùng
Tam cương, Ngũ thường để giáo hoá mọi suy nghĩ, hành động của con người

mới có đạo đức, xã hội mới ổn định, mới có trật tự, kỷ cương. Tất nhiên, xét
về tính chất giai cấp và mục đích chính trị, tư tưởng giáo dục, giáo hoá ở Nho
giáo là nhằm bảo vệ và duy trì sự tồn tại vĩnh viễn của chế độ phong kiến. Và
vì vậy, ở Nho giáo, giáo dục, giáo hoá còn là một phương tiện chính trị, một
biện pháp cai trị. Cho nên, không phải ngẫu nhiên, từ thời Tuân Tử về sau, các
chính quyền phong kiến đều rất coi trọng và khuyến khích giáo dục, khoa cử.
Đồng thời, với việc đề xuất chủ trương chọn người ra làm quan theo phương
trâm “Học nhi ưu tắc sĩ”, thì trên thực tế, Nho giáo đã đòi hỏi người cầm quyền
không chỉ người có đạo đức mà còn phải là người có tri thức Nho giáo.
Như vậy, trong quan niệm của các nhà Nho, việc giáo dục, giáo hoá để
làm cho tất cả mọi người trong xã hội đều có đạo đức đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo lập một xã hội lý tưởng.
Với chủ trương coi trọng giáo dục, giáo hoá đạo đức cho con người và
cùng với điều đó là nhà nước phong kiến đề cao, tôn vinh người học giỏi, áp
dụng chính sách chọn cử người hiền tài ra làm quan thông qua con đường học
tập, thi cử, Nho giáo đã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra một tầng lớp
chí thức trong xã hội cũng như một tầng lớp cai trị, cầm quyền có học. Đồng
thời, nó đã tạo ra một xã hội hết mực đề cao văn hoá, đề cao văn hiến, trọng
kẻ có học, kẻ làm văn chương, gây ra tâm lý hiếu học, tôn sư trọng đạo cho
đến mức sùng bái văn tự… Tuy nhiên, với nội dung giáo dục, thi cử chỉ giới


hạn ở những nguyên lý, chuẩn mực đạo đức trong Tứ thư, Ngũ kinh, với
phương châm học tập và thi cử chủ yếu là “thuật nhi bất tác”, với mục đích
giáo dục là đào tạo ra người làm quan để hưởng bổng lộc và hoàn thiện đạo
đức con người phù hợp vớí xã hội phong kiến, nên nền giáo dục, khoa cử của
Nho học - cũng là nền giáo dục trong xã hội phong kiến - không thể tránh để
lại những di hại, những hạn chế. Điều dễ nhận thấy là nền giáo dục đó đã tạo
ra một lớp người mà tri thức của họ chỉ thu hẹp ở những hiểu biết về đạo đức,
các quan hệ xã hội và cách ứng sử của con người trong các quan hệ xã hội đó.

3. Mô hình xã hội lý tưởng theo quan niệm của Nho giáo và việc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
3.1 Quản lý nhà nước bằng pháp luật kết hợp với giáo dục đạo đức
* Tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế của Việt Nam đang tăng trưởng với tốc độ nhanh, đời sống
nhân dân từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công về
mặt kinh tế, công cuộc đổi mới đang đặt ra cho Việt Nam nhiều vấn đề xã hội
đáng quan tâm, trong đó có vấn đề sự xuống cấp của đạo đức. Điều đó có liên
quan đến mặt trái của cơ chế thị trường, đến sự tác động tiêu cực của cơ chế
thị trường tới các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trước tình hình đó, một số người cho rằng, sự xuống cấp về đạo đức xã
hội bắt nguồn từ việc khuyến khích lợi ích cá nhân, rằng lợi ích cá nhân và
đạo đức xã hội là hai yếu tố không hoàn toàn không dung hợp với nhau.
Kể từ khi Việt Nam áp dụng cơ chế thị trường, những thay đổi to lớn
trong các quan hệ kinh tế đã tác động mạnh mẽ tới các lợi ích của con người.
Bởi lẽ lợi ích của con người được biểu hiện tập trung ở các quan hệ kinh tế.
Sự thay đổi của quan hệ kinh tế được thể hiện trên các lĩnh vực: sở hữu, phân
phối và quản lý. Trong lĩnh vực sơ hữu với đường lối đổi mới, từ chỗ chỉ có
hai hình thức toàn dân và tập thể, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương đa
dạng hoá các hình thức sở hữu trên cơ sở chế độ. Công hữu về các tư liệu sản
xuất chủ yếu, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.


Sự thay đổi trong lĩnh vực phân phối được thể hiện ở chỗ, nếu như
trước đây, Việt Nam chủ yếu chỉ sử dụng hình thức phân phối theo lao động
thì hiện nay, các hình thức phân phối ngày càng trở nên đa dạng hơn. Chính
sự đa dạng của các hình thức phân phối đã góp phần thực thiện công bằng xã
hội - một mục tiêu quan trọng của sự phát triển đất nước theo định hướng của
xã hội chủ nghĩa, đồng thời huy động được vốn đầu tư để phát triển sản xuất.
Trong lĩnh vực quản lý, cơ chế thị trường thay cho cơ chế kế hoạch

hoá, tập trung quan liêu bao cấp. Chính cơ chế đó đã cho phép các cơ sở sản
xuất, các doanh nghiệp có được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh.
Nói đến kinh tế thị trường là nói đến con người kinh tế và khi tiến hành
hoạt động kinh tế, con người chịu sự chi phối của lợi ích cá nhân. Lợi ích cá
nhân đã có vai trò đáng kể trong việc thúc đẩy con người hành động. Nhờ
việc theo đuổi các lợi ích cá nhân khác nhau mà hoạt động của con người
không những tạo ra những sản phẩm thoả mãn các nhu cầu cá nhân của mình,
góp phần làm giàu cho bản thân, mà còn góp phần xoá đói, giảm nghèo, làm
giàu cho xã hội.
Việt Nam mới chuyển sang kinh tế thị trường 15 năm, vì lợi ích cá nhân,
người ta sẵn sàng hy sinh lợi ích xã hội, bất chức luân thường đạo lý. Tình
trạng thương mại hoá đã thâm nhập sâu vào những lĩnh vực vốn xưa kia là
mảnh đất nuôi dưỡng những hành vi đạo đức, như giáo dục - đào tạo và y tế.
Kinh tế thị trường, thông qua lợi ích cá nhân, đã có tác động tiêu cực
tới đạo đức truyền thống. Những biểu hiện của sự tác động tiêu cực đó là:
Thứ nhất, xuất hiện thái độ coi thường đạo đức truyền thống, bất chấp
luân thường đạo lý, chạy theo lối sống xa hoa, truỵ lạc.
Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường là quá trình toàn cầu hoá,
quá trình này đang đưa lối sống phương Tây vào nước ta. Tuy nhiên, việc tiếp
cận lối sống ấy một cách thiếu định hướng đã dẫn đến việc xa dời lối sống
theo chuẩn mực đạo đức dân tộc. Các công nghệ thông tin hiện hiện đại đang
truyền bá khắp thế giới lối sống sùng bái vật chất, cá nhân, vị kỷ, thực dụng,


đua đòi, ăn chơi xa hoa, lãng phí, sống truỵ lạc, thác loạn, ưa dùng bạo lực…
Lối sống đó đang phần nào tác động đến một bộ phận nhân dân, đặc biệt là
tầng lớp thanh niên sống ở các đô thị lớn. Do bị kích động bởi việc tiếp xúc
với những thước phim hành động có tính bạo lực qua mạng Internet mà nhiều
thanh, thiếu niên đã có những hành động mang tính bạo lực, hung hãn, gây
nên những hậu quả đau lòng. Cùng với tâm lý sùng hàng ngoại, lối sống tự do

kiểu phương Tây cũng đang xâm nhập khá mạnh vào đời sống người Việt
Nam, đặc biệt là trong thanh niên và cả một bộ phận trong tầng lớp trí thức.
Một số nam nữ thanh niên ở các thành phố lớn muốn có tự do cá nhân cao,
không muốn lập gia đình sớm hoặc chủ trương sống độc thân suốt đời, nhưng lại
có quan niệm sống khá thoải mái trong quan hệ nam nữ, làm băng hoại những
nguyên tắc luân lý sơ đẳng, tạo nên lối sống xa lạ với truyền thống phương Đông
và dân tộc. Đó chính là biểu hiện của sự xuống cấp về lối sống của một bộ phận
thanh niên Việt Nam, là biểu hiện của quan niệm “lệch chuẩn”, đối lập với quan
niệm đạo đức truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam.
Như vậy, có thể nói, toàn cầu hoá đã gây ra ảnh hưởng không nhỏ tới
lối sống và những giá trị đạo đức của người Việt Nam. Những sản phẩm văn
hoá độc hại từ nước ngoài đưa vào nước ta đã tác động tiêu cực tới đời sống
tinh thần, văn hoá của một bộ phận nhân dân. Ảnh hưởng của lối sống thực
dụng đã làm xuất hiện tâm lý “chạy theo đồng tiền”, coi “tiền là trên hết”,
không cần biết đến đạo lý phải trái, đánh mất nhân cách và nhân tính. Không
ít trường hợp vì tiền và danh lợi mà chà đạp lên tình đồng chí, đồng nghiệp,
bạn bè, tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò. Tình trạng chạy chức, chạy
quyền, chạy tội, chạy án đã trở thành khá phổ biến. Nghị quyết Đại hội lần thứ
VIII của Đảng chỉ rõ: “Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn
hoá dân tộc, chạy theo lối sống thực dụng, cá nhân vị kỷ…đang gây hại đến
thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh dự
mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp”.


Lối sống thực dụng, vị kỷ đang dẫn đến thái độ bàng quan, thờ ơ với
công việc của cộng đồng và với những người xung quanh. Điều đó làm cho
mối dây liên kết giữa cá nhân và cộng đồng, giữa người và người trở nên
“lỏng lẻo”. Đây thực sự là nguy cơ của việc đẩy xa nhau giữa con người với
con người, đi ngược lại với truyền thống “tương thân, tương ái” của dân tộc.
Do đời sống kinh tế còn khó khăn, cộng với sự tác động của kinh tế thị

trường, nhiều lĩnh vực xã hội đã xuất hiện khuynh hướng “thương mại hoá”.
Ví như giáo dục, vốn trước đay thuộc lĩnh vực bao cấp của Nhà nước, đang có
khuynh hướng “thương mại hoá” với những biểu hiện như dạy thêm, học
thêm tràn lan, mua bằng, bán điểm, “đổi tình lấy điểm”, lạm thu, mở tràn lan
các lớp đào tạo tại chức, liên kết đào tạo với nước ngoài… nhằm mục đích thu
lợi, không đảm bảo chất lượng giáo dục. Điều này góp phần làm môi trường
sư phạm xuống cấp, đạo lý thầy trò suy thái, lối sống thiếu hoài bão, lý tưởng
xuất hiện trong một bộ phận học sinh, sinh viên, giáo viên.
Mặt khác, việc đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích xã hội, coi lợi ích cá
nhân là trên hết đã dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí ngày càng có cơ
hội gia tăng: “Tham nhũng, lãng phí làm tha hoá phẩm chất đạo đức, lối sống
của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, làm nảy sinh nhiều
vấn đề xã hội bức xúc, làm cho nhân dân lo lắng, bất bình và nguy hiểm hơn,
đó là làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ
phong kiến”. Tệ làm hàng giả, hàng kém chất lượng, gây ảnh hưởng đến sức
khoẻ, quyền lợi của người tiêu dùng không ngừng gia tăng.
Chúng ta cũng có thể nhận thấy sự suy thoái về đạo đức trong điều
kiện kinh tế thị trường thông qua một số dẫn chứng về tệ nạn xã hội và tội
phạm hình sự.
Bên cạnh đó, có nhiều vấn đề gây nhức nhối trong xã hội như ô nhiễm
môi trường, an toàn giao thông, vi phảm bản quyền…
Như vậy, có thể thấy, những hiện tượng tiêu cực diễn ra trong đời sống
xã hội Việt Nam như phân tích ở trên là biểu hiện của sự xa rời những chuẩn


mực đạo đức truyền thống, những chuẩn mực còn giá trị trong xã hội hiện đại.
Một khi những chuẩn mực đó không được giữ vững như là định hướng trong
hoạt động của con người thì sự suy thoái là điều không chánh khỏi. Vì vậy,
việc giữ vững định hướng chính trị và định hướng giá trị tinh thần trong thực
tiễn xây dựng đất nước, cũng như trong hoạt động thực tiễn đạo đức là yêu

cầu cấp thiết để góp phần ngăn chặn sự suy thoái và nguy cơ suy thoái đạo
đức, lối sống con người Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá.
Thứ hai, phản ứng của xã hội đối với các hành vi phi đạo đức cũng
giảm đi. Chẳng hạn, nếu như trước đây, những hành vi suy đồi về đạo đức
như rượu chè bê tha, trai gái đĩ điếm, ăn gian, nói dối, đã bị xã hội lên án
mạnh mẽ, thì ngay nay, sự phản ứng của xã hội cũng có mức độ.
Thứ ba, trong xã hội đã xuất hiện thứ đạo đức giả. Thực ra, bất cứ xã
hội nào cũng có hiện tượng đạo đức giả tồn tại. Tuy nhiên, trong những năm
gần đây, ở nước ta đã xuất hiện hiện tượng đạo đức giả được che đậy hết sức
tinh vi vừa qua chúng ta đã phát hiện ra không ít hiện tượng làm ăn phi pháp,
nhưng lại núp dưới danh nghĩa từ thiện, nhận nuôi dưỡng Mẹ Việt Nam anh
hùng xây nhà tình nghĩa, tài trợ cho các hoạt động thể dục, thể thao nhằm tạo
vỏ bọc, trốn tránh sự truy cứu của pháp luật.
Tất cả những biểu hiện trên đây đều bắt nguồn từ lối sống thực dụng,
chạy theo đồng tiền và lợi ích vật chất đơn thuần. Mọi mối quan hệ trong xã
hội đều được giải quyết chỉ dựa lên lợi ích kinh tế. Chính điều đó vừa là
nguyên nhân, vừa là hậu quả của những sự xung đột giữa các thế hệ, giữa các
thành viên trong gia đình, giữa những người có trình độ và hiểu biết về xã hội.
3.2 Nho giáo và việc khôi phục các giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị
trường
* Nho giáo với việc phát huy giá trị gia đình
Đứng trước những thách thức của nền kinh tế thị trường, mối quan hệ
gia đình trong xã hội Việt Nam không còn duy trì được tính bền vững, gắn bó
của nó. Chính điều này đã dẫn việc giới trẻ Việt Nam đang đánh mất phương


hướng, lý tưởng. Do vậy, không ít bộ phận đang đánh mất dần những giá trị
đạo đức truyền thống.
Việc xây dựng thành công gia đình mới có một ý nghĩa quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.

Bởi gia đình mới chính là nền tảng của sự ổn định xã hộ, tạo điều kiện cho sự
phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc, là nơi phòng chống có hiệu quả nhất mọi
tệ nạn xã hội đang làm phương hại đời sống tinh thần con người. Gia đình
mới còn là nơi có khả năng nhất trong việc bảo lưu giữ gìn những bản sắc
truyền thống văn hoá của dân tộc. Ngoài ra, đây còn là nơi cung cấp những
công dân mới có đức, có tài cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Đặc biệt,
trong điều kiện chúng ta tiến hành xây dựng một nền kinh tế thị trường cùng
với sự mở cửa hội nhập với thế giới thì gia đình mới càng đóng vai trò quan
trọng hơn bao giờ hết. Mô hình gia đình vợ chồng hoà thuận, cha từ con hiếu,
anh em thương yêu đùm bọc nhau chính là thành trì để ngăn cản sự xâm hại
những tư tưởng thực dụng, vị kỷ, lối sống gấp chỉ biết hôm nay mà không cần
biết ngày mai. Như vậy, có thể nói rằng, nếu loại bỏ những tư tưởng bảo thủ,
mất dân chủ thì việc kế thừa những giá trị luân lý tích cực của Nho giáo về
gia đình để xây dựng gia đình mới nhằm đáp ứng được sự phát triển đất nước
là điều nên làm. Gia đình mới chính là nơi kế thừa những tinh hoa của gia
đình cũ kết hợp với những chuẩn mực đạo đức mới của xã hội. Những tinh
hoa đó, trước hết, là tư tưởng vợ chồng hoà thuận, cha từ con hiếu, anh em
thương yêu đùm bọc lẫn nhau…của Nho giáo.
Những tư tưởng trên của Nho giáo, ở một mặt nào đó có thể nói rằng,
phù hợp với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội của chúng ta. Chúng ta cũng coi “Gia đình là tế bào xã hội, là cái nôi
nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng trong giáo dục nếp sống
và hình thành nhân cách”. Vì thế, Đảng ta đòi hỏi: các chính sách của nhà
nước phải chú ý tới xây dựng gia đình no ấm, hoà thuận, tiến bộ. Nâng cao ý
thức về nghĩa vụ gia đình đối với mọi tầng lớp. Với tính cách tế bào xã hội,


vườn ươm các nhân tài của đất nước, nơi nuôi dưỡng những công dân mới
cho tương lai, gia đình có vai trò quan trọng trong việc xây dựng thành công
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự tốt xấu của mỗi

gia đình đều có sự ảnh hưởng tới sự ổn định của xã hội, tới sự chuyển đổi nền
kinh tế từ kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà
chúng ta đang tiến hành.
3.3 Nho giáo và mối quan hệ kinh tế xã hội
Khác với các học thuyết triết học Phương Tây, triết học phương Đông
nói chung và đặc biệt là Nho giáo nói riêng, luôn xem xét con người trong
tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Ở Nho giáo, chúng ta thấy, không tồn tại
một con người cá nhân, một cái tôi tách khỏi xã hội. Chính việc nhìn nhận
con người trong các mối quan hệ xã hội đã giúp Nho giáo đề ra được những
giải pháp bình ổn xã hội.
Theo quan niệm Nho giáo, mọi người trong xã hội đều bị trói buộc bởi
năm mối quan hệ tự nhiên. Đó là quan hệ cha - con, vợ - chồng, anh - em, vua
- tôi, bạn - bè. Năm mối quan hệ này phản ánh hai mặt của cuộc sống hiện
thực là quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong xã hội phong kiến, các quan
hệ xã hội thì được duy trì bởi chế độ chính trị đẳng cấp. Đi cùng với các mối
quan hệ đó là những yêu cầu giao tiếp bắt buộc mà mỗi thành viên trong xã
hội phải thực hiện.
Tương ứng với mỗi quan hệ, Nho giáo đặt ra những yêu cầu mang tính
quy phạm đạo đức và được pháp luật ngầm bảo trợ. Tất cả những mối quan hệ
trên và các phương thức ứng xử xã hội tương ứng với nó, theo Nho giáo, là
cái trời đã định sẵn cho con người. đã là gia đình thì phải có vợ - chồng, cha con, anh - em. Trong quan hệ xã hội, Nho giáo đòi hỏi trước hết phải có lòng
trung thành trong quan hệ vua tôi và trên dưới. Người dưới phục vụ người
trên phải lấy chữ trung làm đầu. Kẻ trên đối sử với kẻ dưới phải lấy chữ nhân
làm đầu, phải biết giữ lễ và phải lòng tín thật. Xét chung trong mọi mối quan
hệ, Nho giáo yêu cầu mỗi cá nhân phải lấy mình mốc mà yêu cầu đối với


người. Cái gì mình muốn thì cũng làm hết lòng cho người khác và ngược lại,
cái gì mình ghét thì cũng đừng đem lại cho người khác.
Bên cạnh đó, Nho giáo còn quan niệm rằng, mọi sự bất ổn trong xã hội

đều có nguyên nhân từ việc ứng xử không tốt các mối quan hệ xã hội. Để đảm
bảo sự ứng xử được đúng, Nho giáo yêu cầu mỗi người phải làm tốt vai trò
của mình. Vai trò đó được sác định bởi danh phận của mỗi người do xã hội
quy định. Đó là phận làm vua, phận làm tôi, phận làm cha, phận làm con…
Danh phận của mỗi người quy định cách ứng xử của họ. Cách ứng xử theo
danh phận Nho giáo gọi là lễ. Theo Nho giáo, nếu trong xã hội mỗi người đều
làm tốt bổn phận của mình thì xã hội sẽ thái bình. Nếu xã hội thái bình thì mọi
người ai cũng được an cư lạc nghiệp. Khi đó tất cả những người già cả, trẻ
nhỏ và những người cô quả sẽ được mọi thành viên trong xã hội quan tâm
giúp đỡ. Cảnh tranh giành và chém giết nhau vì cái lợi sẽ không còn.
Thực tế những lý tưởng nhân đạo, khát vọng hoà bình của Nho giáo
cũng là lý tưởng và khát vọng của chúng ta hiện nay. Mặc dù bị hạn chế do
lịch sử, song một số tư tưởng cũng như biện pháp mà Nho giáo đề ra cho đến
nay vẫn còn nguyên giá trị. Nếu như các giá trị của Nho giáo được phát huy,
mối quan hệ giữa con người với con người và con người với tự nhiên sẽ thân
thiện hơn. Các tệ nạn xã hội, mọi thảm hoạ chiến tranh, nạn khủng bố trên
phạm vi toàn thế giới sẽ bị đẩy lùi; môi trường tự nhiên được bảo vệ. Nhờ đó,
mà xã hội trở nên văn minh, lịch sự hơn.
Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển nền sản xuất hàng hoá, khối lượng
tiền và uy lực của đồng tiền cũng tăng lên. Và, một khi uy lực đồng tiền càng
lớn và khả năng phá hoại những mối quan tinh thần, đạo đức giữa người và
người càng mạnh. Hiện tượng hàng giả, hàng “rởm”, hàng kém phẩm chất
ngày một gia tăng.
Mặt khác, trong nền kinh tế hàng hoá, cạnh tranh là tất yếu. Nhưng xuất
phát từ quan niệm đạo đức khác nhau dẫn đến phương thức cạnh tranh, kể cả


mục đích cạnh tranh khác nhau. Có cạnh tranh dẫn đến huỷ hoại con người,
huỷ hoại môi trường, tàn phá sản xuất, cạnh tranh theo “luật rừng”.
Xuất phát từ thực tế đó, rất cần những doanh nhân có đủ những phẩm

cách đạo đức “Nhân, Trí, Dũng”. Có như vậy mới đóng góp được cho sự phát
triển của đất nước, góp phần xoá đói giảm nghèo.
3.4 Nho giáo và việc tu dưỡng nhân cách của cán bộ
Ngay từ sau khi giành được độc lập, với tầm nhìn xa, trông rộng, Bác Hồ
đã cảnh báo những nguy cơ và chỉ ra những căn bệnh của cán bộ, đảng viên chủ
nghĩa cá nhân gây ra, trong đó rất đáng chú ý những căn bệnh quan liêu, lười
biếng, kiêu ngạo, hiếu danh, “hữa danh vô thực”, xu nịnh a dua, kéo bè kéo
cánh, mất dân chủ, lạm dụng quyền lực để nhũng nhiễu dân, dìm người tài…
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quyền chủ
động của cán bộ quản lý được nâng cao. Bên cạnh những cán bộ lãnh đạo
quản lý phát huy được vai trò của mình, năng động sáng tạo, còn không ít
người lợi dụng quá trình chuyển đổi cơ chế, lợi dụng sơ hở của chính sách,
làm giàu bất chính. Không chỉ lẻ tẻ ở một vài cá nhân riêng biệt, mà có tính
chất tập đoàn, móc nối thành từng chuỗi, từng mạch rất rộng. Sự tha hoá đạo
đức không chỉ biểu hiện ở việc móc nối kiếm tiền làm giàu bất chính, mà còn
là ở thái độ vô trách nhiệm trong tiêu tiền và mục đích hưởng lạc, gây bất
công lớn trong xã hội, quần chúng bất bình.
Nho giáo với thuyết chính danh quan niệm rằng mỗi người trong xã hội
đều phải có bổn phận, trách nhiệm phù hợp với cái danh ấy. Đội ngũ lãnh đạo,
cần quyền phải luôn tu dưỡng nhân cách, yêu thương nhân dân, lấy dân làm
gốc. Do vậy, trước tình hình suy đồi đạo đức của một bộ phận cán bộ, Nho
giáo với những quan niệm về đạo đức của nó có thể làm minh bạch, trong
sạch cán bộ. Thông qua dư luận xã hội, những người có chức quyền tự cảm
thấy xấu hổ, lạc lõng giữa quần chúng, đứng về phía đối lập với cái đẹp. Bản
chất của vấn đề là “đức trị”, tức là tăng cường giáo dục đạo đức. Nhưng bên
cạnh đó chỉ có giáo dục đạo đức không thôi thì không thể tiêu diệt được tham


nhũng. Cần kết hợp “đức trị” với “pháp trị”. Rất cần “pháp trị” với ý nghĩa là
tính khoa học, minh bạch của bộ máy trong điều kiện nhà nước pháp quyền;

mặt khác phải nghiêm minh và công bằng về pháp luật.
3.5 Nho giáo và công tác giáo dục
Nho giáo rất coi trọng xã hội có giáo dục. Ngày nay cũng vậy, để đáp
ứng nhu cầu cần phát triển kinh tế thị trường và toàn cầu hoá, giáo dục trở
thành mục tiêu bức thiết ở phạm vi rộng, đối với mọi tầng lớp.
Tuy nhiên, trước hết cần xác định mục tiêu của giáo dục là gì? Trước
hết phải là thành nhân, sau đó mới đến thành tài. Trong hai mục tiêu này,
thành nhân phải là mục tiêu chính của phần lớn các công tác giáo dục của xã
hội. Chúng ta lớn lên với những chữ Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Chữ Nhân
đứng đầu. Hiểu cách thoáng thì Nghĩa, Lễ, Trí là kiến thức và nguyên tắc sống
để thành nhân. Trí để biết sống thế nào là đúng. Lễ để biết cách sống thế nào
để làm giàu cái tình, cái Nghĩa. Cái Nghĩa tạo nên cái Tín. Cái Tín là điều kiện
cần để các mối quan hệ xã hội đạt hiệu quả tối ưu, từ tình cảm cá nhân đến kinh
tế, chính trị. Như vậy, biết sống đúng vai trò xã hội của mình để được chữ Tín
thì mới được cái nhân tính tốt. Mẫu số chung trong tất cả các điều kiện để sống
đúng là tính trung thực. Sống trung thực là một giá trị đạo đức bất di bất dịch.
Sống không trung thực, thì ở bất cứ văn hoá nào cũng đều không đúng lễ, sinh
ra bất nghĩa, bất tín, bất nhân. Một chính sách giáo dục có trọng tâm Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín sẽ có tác động cạnh tranh tích cực với môi trường xã hội
tiêu cực và phải là điểm khởi động để cải thiện môi trường xã hội.
Thứ hai, giáo dục là để thành tài. Khi một người đã có văn hóa, biết tôn
trọng sự thật và muốn tìm sự thật thì người ấy đã có một tinh thần khoa học,
biết nhìn nhận phân tích vấn đề, có một sự chuẩn bị tốt để phát triển bản thân.
Thành nhân là đã giải quyết được phần lớn mục đích thành tài.
Rõ ràng, những tư tưởng của Nho giáo về giáo dục rất hữu ích đối với
việc đào tạo con người phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong thời đại mà thế giới đang từng bước chuyển dần sang nền kinh tế tri


thức. Dĩ nhiên, chúng ta tiếp thu ở Nho học cái tinh thần học, cái chí học và

phần nào cái ý nghĩa của việc học, còn cái phương pháp học và nội dung học
thì chắc chắn phải thay đổi. Thời đại đòi hỏi phải thay đổi và không thể không
thay đổi cả nội dung lẫn phương pháp học. Chắc chắn là cái sự siêng năng, cần
cù, miệt mài, chăm chỉ của cha ông ta và của cả thế hệ hôm nay để có được một
học vấn cao cũng có sự kế thừa cả những tinh hoa của việc học của Nho giáo.


KẾT LUẬN
Sự phát triển lịch sử loài người cho thấy, pháp luật chỉ ra đời khi trong
xã hội đã có sự xuất hiện của chế độ tư hữu, giai cấp và nhà nước. Trong khi
đó, đời sống đạo đức của xã hội lại được bắt đầu ngay từ khi loài người bước
vào lịch sử của mình và ban đầu, nó được biểu hiện thông qua phong tục, tập
quán nguyên thuỷ. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra dự báo rằng, pháp luật sẽ
mất đi cùng với sự xoá bỏ xã hội có giai cấp. Đến lúc đó, đạo đức sẽ “ngự trị”
hoàn toàn, nó thay thế luật pháp để điều hoà các hành vi, hoạt động của con
người. Có thể nói rằng, phạm vi điều chỉnh của đạo đức rộng hơn so với pháp
luật. Trách nhiệm đạo đức được biểu hiện thông qua dư luận xã hội. Dư luận xã
hội không chỉ lên án những hành vi phản đạo đức, mà còn cổ vũ, khuyến khích
những hành vi tích cực biểu hiện nếp sống văn hoá, văn minh của xã hội hiện
đại. Dựa vào đặc tính này có thể đưa ra một kết luận rằng, xét dưới góc độ chuẩn
mực xã hội, pháp luật là đạo đức tối thiểu, còn đạo đức là pháp luật tối đa.
Nghị quyết Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Tăng
cường giáo dục pháp luật nâng cao hiểu biết và ý thức tôn trọng pháp luật,
sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi
hành một cách nghiêm minh, thống nhất và công bằng”.
Nói pháp trị là nói phương thức, công cụ; nói pháp quyền là tính chất, bản
chất của xã hội. Như vậy trong pháp quyền đã ngầm có pháp trị. Quan niệm hiện
nay của Việt Nam về nhà nước pháp quyền như sau: Nhà nước được làm nhiều
điều mà pháp luật cho phép, dân được làm điều mà pháp luật không cấm.
Nhưng một nhà nước pháp quyền không đơn thuần chỉ có luật, ở đó

pháp trị phải kết hợp với đức trị. Có đức trị thì mới củng cố được pháp luật.
Pháp luật của chúng ta vì lợi ích của số đông, của xã hội. Pháp luật và đạo
đức không chỉ khác biệt nhau mà chúng còn bổ sung cho nhau, chuyển hoá
cho nhau. Sự lạnh lùng của pháp luật làm cho ai đó phải chùn bước, uốn nắn
lại hành vi của mình. Sự điều chính đó ban đầu chưa thể gọi là đạo đức, vì nó
diễn ra một cách bắt buộc. Nhưng đến một nào đó con người ý thức được rằng


nếu không tự giác, sự tự điều chỉnh. Như vậy ở đây giữa pháp luật và đạo đức
có sự chuyển hoá cho nhau: hành vi không vi phạm pháp luật đã trở thành
hành vi đạo đức.
Mặc dù, quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng có những điểm hạn
chế, song có thể khẳng định rằng: Khai thác, liên hệ, vận dụng những giá trị
lý luận của Nho giáo nguyên thuỷ (sơ kỳ) có một ý nghĩa nhất định trong
quản lý và xây dựng đất nước ta hiện nay, trong việc nhận thức con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội và sác định những mục tiêu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhất là mục tiêu xây dựng một xã hội
dân giàu, nước mạnh, có văn hoá, có trật tự, kỷ cương.


×