Tổng quan về Ngân hàng và
các dịch vụ Ngân hàng
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng năm …..
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng năm …..
Dẫn nhập:
Trong những năm gần đây,kinh tế Việt Nam đã có nhiều khởi sắc với tốc độ tăng
trưởng GDP cao và ổn định.Đóng góp vào kết quả đó,không thể không kể đến vai trò của
Thị trường chứng khoán.Mặc dù còn non trẻ,Thị trường chứng khoán đã từng bước khẳng
định vị thế,tầm quan trọng của mình,là sản phẩm của nền kinh tế thị trường hiện
đại.Bên cạnh đó,sự phối hợp giữa Thị trường chứng khoán và các trung
gian tài chính đặc biệt là ngân hàng thương mại ngày càng khăng khít và
chặt chẽ.Vậy thì vai trò của Ngân hàng thương mại trên Thị trường
chứng khoán là gì?Nhóm chúng tôi muốn tìm hiểu,nghiên cứu và đưa ra
một cái nhìn đầy đủ,chính xác và khách quan nhất về vấn đề này.
Bài viết gồm những phần chính sau đây:
1.Tổng quan về NHTM ………………………………………………………………..2
2.Tổng quan về TTCK…………………………………………………………………14
3.Hoạt động của NHTM trên TTCK……………………………………………………24
4.Vai trò của NHTM trên TTCK……………………………………………………….37
5.Giải pháp nâng cao vai trò NHTM trên TTCK……………………………………….47
Thành viên của nhóm:
1,Thái Bá Anh
2,Nguyễn Thùy Trang
3,Vũ Huy Hoàng
4,Lê Anh Dũng
5,Dương Nữ Kiều Oanh
6,Trịnh Anh Pháp
7,Lê Thanh Hải
8,Trịnh Tuấn Anh
9,Hoàng Quốc Dũng
10,Nguyễn Thùy Linh
11,
Tổng quan về Ngân hàng và các dịch vụ Ngân hàng
Tài liệu sẽ trình bày vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế, kết quả nghiên cứu những xu
hướng trong hoạt động ngân hàng như: cạnh tranh, thay đổi công nghệ, quá trình hợp
nhất ngân hàng, toàn cầu hóa, và cùng các nhà quản lý ngân hàng tìm kiếm giải pháp tồn
tại và tiếp tục phát triển.
Ngân hàng là gì?
Ngân hàng là 1 loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối
với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Vậy mà vẫn có sự nhầm lẫn trong việc định
nghĩa ngân hàng là gì? Rõ ràng, các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng (các
dịch vụ) mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ không chỉ chức năng của
các ngân hàng đang thay đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính sách của ngân
hàng cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là, rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả các
công ty kinh doanh chứng khoán, công tymôi giới chứng khoán, quĩ tương hỗ và công ty
bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân
hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng
cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi giới
chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quĩ tương hỗ và thực hiện nhiều
dịch vụ mới khác.
Một ví dụ điển hình về nỗ lực của các tổ chức tài chính trong việc cung cấp dịch vụ ngân
hàng được ghi nhận vào những năm 1980 khi rất nhiều công ty bảo hiểm và kinh doanh
chứng khoán lớn, bao gồm cả Merrill Lynch và Dreyfus Corporation, Prudential nhảy vào
lĩnh vực ngân hàng bằng cách thành lập cái mà họ gọi là “các ngân hàng phi ngân hàng”.
Họ nhận thức được rằng, theo pháp luật nước Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài
khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yêu cầu (như bằng cách viết séc hay
bằng việc rút tiền điện tử) và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương
mại sẽ được xem là một ngân hàng. Merrill Lynch và các tổ chức phi ngân hàng khác nhận
định rằng họ có thể né tránh những quy định này và sẽ có thể cung cấp dịch vụ ngân hàng
khác cho công chúng. Tuy nhiên, Cục Dự trữ liên bang (Fed), không muốn thấy sự xâm
phạm vào lĩnh vực ngân hàng của các “ngân hàng giả”, đã đưa ra quyết định rằng: việc cho
vay đối với cá nhân và hộ gia đình cũng là một trong những hoạt động ngân hàng tiêu
biểu để phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính khác. Điều đó đưa Merrill Lynch và
các tổ chức tương tự trở thành các ngân hàng thực thụ và phải tuân theo qui định chặt chẽ
của Chính phủ.
Sau đó các công ty kinh doanh và môi giới chứng khoán hàng đầu đã kiện lên tòa liên
bang, buộc tội Fed đã vượt quá quyền hạn. Năm 1984, tòa án liên bang công nhận này và
buộc Fed phải cho phép tồn tại hình thức “các ngân hàng phi ngân hàng” và cho họ tham
gia bảo hiểm tiền gửi liên bang. Chỉ trong vòng vài tuần sau phán quyết này, hàng tá đơn
xin thành lập “ngân hàng phi ngân hàng” đã được nộp . E.F. Hutton, J.C.Penney và Sears
Roebuck là những công ty cung cấp dịch vụ tài chính hàng đầu được tổ chức dưới dạng
ngân hàng phi ngân hàng. Hơn thế, các công ty sở hữu ngân hàng lớn của Citicorp và
Chase Manhattan cũng thành lập các “ngân hàng phi ngân hàng” của riêng họ bởi vì với
loại ngân hàng này họ có thể mở rộng chi nhánh tự do qua biên giới bang. Năm 1987,
Quốc hội hạn chế sự bành chướng của các “ngân hàng phi ngân hàng” bằng cách ràng buộc
các công ty sở hữu ngân hàng phi ngân hàng vào những quy định tương tự như các tổ chức
ngân hàng truyền thống. Cuối cùng, Quốc hội đã “bắn phát súng cuối cùng” trong việc đưa
ra một định nghĩa mang tính pháp lý về ngân hàng: ngân hàng được định nghĩa như một
công ty là thành viên của Công ty Bảo hiểm tiền gửi Liên bang. Đây thật là một sự thay
đổi thông minh vì theo luật hiện hành của Mỹ, người ta không các định ngân hàng trên cơ
sở những hoạt động của nó mà trên cơ sở cơ quan chính phủ nào sẽ bảo hiểm cho tiền gửi
của nó.
Dòng nước đã bị vẩn đục. Vào năm 1991, chính quyền của tổng thống George Bush đề
nghị cho phép các ngân hàng với vốn tự có thích hợp sẽ được quyền cung cấp hàng loạt
những dịch vụ mới và được phép liên kết với các công ty môi giới và kinh doanh chứng
khoán, các công ty đầu tư (các quĩ tương hỗ); cho phép công ty công nghiệp sở hữu các
công ty cung cấp dịch vụ tài chính ( những công ty này có thể điều hành nganhangf và các
công ty bảo hiểm); cho phép các công ty ngân hàng đầu tư vào những ngành công nghiệp
phi tài chính trên cơ sở một số điều kiện ràng buộc. Do đó, các hàng rào pháp lý có tính
lịch sử ở Hoa kỳ phân tách hoạt động ngân hàng với các hoạt động kinh doanh khác – điều
đã tồn tại qua nhiều thế hệ - đang bị tấn công và có thể sẽ sớm đưa đến một sự thay đổi lớn
lao trong việc định nghĩa ngân hàng là gì và nó cung cấp những dịch vụ gì.
Kết qủa của tất cả những thay đổi về pháp lý dẫn đến tình trạng có sự nhầm lẫn trong công
chúng khi phân biệt ngân hàng với một số tổ chức tài chính khác. Cách tiếp cận thận trọng
nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng
cung cấp. Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục và dịch vụ tài
chính đa hạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện
nhiều chức nằng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Sự đa hạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc chúng được gọi là
các “Bách hóa tài chính” (financial department stores) và người ta bắt đầu thấy xuất hiện
các khẩu hiệu quản cáo tương tự như: Ngân hàng của bạn – Một tổ chức tài chính cung cấp
đầy đủ dịch vụ (Your Bank – a full service Financial institution) (xem Sơ đồ 1 - 1)
Sơ đồ 1 – 1. Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay:
Các dịch vụ ngân hàng:
Ngân hàng là loại hình tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực tạo lập và cung cấp các dịch
vụ quản lý cho công chúng, đồng thời nó cũng thực hiện nhiều vai trò khác trong nền kinh
tế (xem bảng 1-1). Thành công của ngân hàng hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực trong
việc xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một
cách có hiệu quả và bán chúng tại một mức giá cạnh tranh. Vậy ngày nay xã hội đòi hỏi
những dịch vụ gì từ phía các ngân hàng? Trong phần này, chúng tôi sẽ giới thiệu tổng
quân về danh mục dịch vụ mà ngân hàng cung cấp.
Các dịch vụ truyền thông của ngân hàng:
Thực hiện trao đổi ngoại tệ. Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng
đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng đứng ra mua, bán một loại
tiền này, chẳng hạn USD lấy một lại tiền khác, chẳng hạn Franc hay Pesos và hưởng phí
dịch vụ. Sự trao đổi đó là rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ sẽ cảm thấy thuận tiện
và thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc gia hay thành phố họ đến. Trong thị
trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực
hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình
độ chuyên môn cao.
Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại. Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã
chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương những
người bán các khoản nợ (khoản phải thu) của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt.
Đó là bược chuyển tiếp từ chiết thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách
hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và thiết bị sản xuất.
Nhận tiền gửi. Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm
kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn quan trọng là
các khoản tiền gửi tiết kiệm gửi tiết kiệm của khách hàng – một quỹ sinhlợi được gửi tại
ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng
mức lãi suất tương đối cao. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn các
ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16% một năm để thu hút các khoản tiết kiệm nhằm mục
đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất
tiết kiệm.
Bảo quản vật có giá trị: Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc
lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Một điều hấp hẫn
là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận về các tài sản đang
được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền – đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín
dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có giá trị cho khách hàng thường do phòng “Bảo
quản” của ngân hàng thực hiện.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ. Trong thời kỳ Trung Cổ và vào những năm đầu
cách mạng Công nghiệp, khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng
đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ Âu – Mỹ. Thông thường, ngân hàng
đượccấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ
lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được. Các ngân hàng đã cam
kết cho Chính phủ Mỹ vay trong thời kỳ chiến tranh. Ngân hàng Bank of North America
được Quốc hội cho phép thành lập năm 1781, ngân hàng này được thành lập để tài trợ cho
cuộc đấu tranh xóa bỏ sự đô hộ của nước Anh và đưa Mỹ trở thành quốc gia có chủ quyền.
Cũng như vậy, trong thời kỳ nội chiến, Quốc hội đã lập ra một hệ thống ngân hàng liên
bang mới, chấp nhận các ngân hàng quốc gia ở mọi tiểu bang miễn là các ngân hàng này
phải lập Quỹ phục vụ chiến tranh.
Cung cấp các tìa khoản giao dịch. Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu và Châu Mỹ
đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một dịch vụ mới, quan
trong nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand
deposit) – một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua
hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khỏan tiền gửi mới này được xem là một trong
những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể
hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh trở nên dễ dàng hơn,
nhanh chóng hơn và an toàn hơn.
Cung cấp dịch vụ ủy thác. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện việc quản lý tài
sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại. Theo đó ngân
hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô họ quản lý. Chức năng quản lý tài
sản này được gọi là dịch vụ ủy thác (trust service). Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả
hai loại: dịch vụ ủy thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình; và ủy thác thương mại cho
các doanh nghiệp.
Thông qua phòng Ủy thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các khoản tiền để cho
con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khỏan tiền đó cho đến khi khách hàng cần.
Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai trò là người được ủy thác trong di chúc
quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản
có giá, đầu tư có hiệu quả, và đảm bảo cho người thừa kế hợp pháp việc nhận được khoản
thừa kế. Tron gphòng ủy thác thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng
khoán và kế hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò như
những người đại lý cho các công ty trong hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Điều
này đòi hỏi phòng ủy thác trả lãi hoặc cổ tức cho chứng khoán của công ty, thu hồi các
chứng khoán khi đến hạn bằng cách thanh toán toàn bộ cho người nắm giữ chứng khoán.
Những dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây
Cho vay tiêu dùng. Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với
cá nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô
rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời
thấp. Đầu thế ký này, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều hơn vào tiền gửi của khách hàng để
tài trợ cho những món vay thương mại lớn. Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành
giật tiền gửi và cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một
khách hàng trung thành tiềm năng. Cho tới những năm 1920 và 1930, nhiều ngân hàng lớn
do Citicorp và Bank of America dẫn đầu đã thành lập những phòng tín dụng tiêu dùng lớn
mạnh. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những
loại hình tín dụng có mức tăng trưởng nhanh nhất. Mặc dầu vậy, tốc độ tăng trưởng này
gần đây đã chậm lại do cạnh tranh về tín dụng tiêu dùng ngày càng trở nên gay gắt trong
khi nền kinh tế đã phát triển chậm lại. Tuy nhiên, người tiêu dùng vẫn tiếp tục là nguồn
vốn chủ yếu của ngân hàng và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất.
Tư vấn tài chính: Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động
tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp nhiều
dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân
đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho các khách hàng kinh
doanh của họ.
Quản lý tiền mặt. Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà
họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong những ví dụ nổi
bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho
một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng
khoản sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Trong khi các ngân hàng có khuynh hướng chuyên môn hóa vào dịch vụ quản lý tiền mặt
cho các tổ chức, hiện nay có một xu hường đang gia tăng về việc cung cấp các dịch vụ
tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ khuynh hướng này đang lan rộng là do các công ty
môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cũng cấp cho người tiêu dùng tài khoản
môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan. Một ví dụ là tài khoản quản lý tièn mặt
của Merrill Lynch, cho phép khách hàng của nó mua và bán chứng khoán, di chuyển vốn
trong nhiều quĩ tương hỗ, viết séc, và sử dụng thẻ tín dụng cho khoản vay tức thời.
Dịch vụ thuê mua thiết bị. Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh
quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong
đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu các qui định yêu cầu khách
hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê (mà cuối cùng sẽ đủ để trang trải
chi phí mua thiết bị) đồng thời phải chịu chi phí sửa chữa và thuế. Năm 1987, quốc hội Mỹ
đã bỏ phiếu cho phép ngân hàng quốc gia sở hữu ít nhất một số tài sản cho thuê sau khi
hợp đồng thuê mua đã hết hạn. Điều đó có lợi cho các ngân hàng cũng như khách hàng bởi
vì bới tư cách là một người chủ thực sự của tài sản cho thuê, ngân hàng có thể khấu hao
chúng nhằm làm tăng lợi ích về thuế.
Cho vay tài trợ dự án. Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho
chi phí xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong
loại hình tín dùng này nói chung là cao nên chúng thường được thực hiện qua một công ty
đầu tư, là thành viên của công sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà thầu, là
thành viên của công ty sở hữu ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để
chia sẻ rủi ro. Những ví dụ nổi bật về loại hình công ty đầu tư này là Bankers Trust
Venture Capital anh Citicorp Venture,Inc
Bán các dịch vụ bảo hiểm. Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm tín dụng
cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hòan trả trong trường hợp khách hàng vay vốn bị
chết hay bị tàn phế. Trong khi các quy định ở Mỹ cấm ngân hàng thương mại trực tiếp bán
các dịch vụ bảo hiểm, nhiều ngân hàng hi vọng có thể đưa ra các hợp đồng bảo hiểm cá
nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm tổn thất tài sản như ôtô hay nhà cửa trong tương
lai. Hiện nay, ngân hàng thường bảo hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc
các thỏa thuận đại lý kinh doanh độc quyền theo đó một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một
văn phòng đại lý tại hành lang của ngân hàng và ngân hàng sẽ nhận một phần thu nhập từ
các dịch vụ ở đó. Một số bang như Delawake và South Dakota đã cho phép ngân hàng
cung cấp các dịch vụ bảo hiểm được quy định trên toàn quốc. Những ngân hàng hoạt động
trên toàn quốc nếu được phép sẽ có thể cung cấp các dịchvụ về bảo hiểm thông qua các chi
nhánh riêng biệt, những quy mô đầu tư của nó chỉ được giới hạn ở mực 10% tổng số vốn
chủ sở hữu. Gần đây, Citicorp đã thông báo kế hoạch sáp nhập với công ty bảo hiểm
Travelers tromg một số nỗ lực nhằm đưa ra các dịch vụ bảo hiêm đa dạng hơn.
Cung cấp các kế hoạch hưu trí: Phòng ủy thác ngân hàng rất năng động trong việc quản
lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và
phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân hàng cũng bán các kế
hoạch tiền gửi hưu trí (được biết như IRAS và Keogle) cho các cá nhân và giữ nguồn tiền
gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến.
Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán. Trên thị trường tài chính hiện nay,
nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hóa tài chính” thực sự, cung cấp đủ
các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là
một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng
khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác
mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các
ngân hàng mua lại một công ty môi giới đang hoạt động (ví dụ Bank of America mua
Robertson Stephens Co.) hoặc thành lập các liên doanh với một công ty môi giới.
Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp. Do ngân hàng cung cấp các tài khoản tiền gửi
truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử dụng cái gọi là
sản phẩm đầu tư (investment products) đặc biệt là các tài khoản của quỹ tương hỗ và hợp
đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp triển vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi dài
hạn cam kết thanh toán một khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày
nhất định trong tương lai ( chẳng hạn ngày nghỉ hưu). Ngược lại, quỹ tương hỗ bao gồm
các chương trình đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào việc mua cổ
phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ (ví dụ: Tối đa hóa thu
nhập hay đạt được sự tăng giá trị vốn). Trong khi quá trình phát triển của các kế hoạch trợ
cấp diễn ra khá chậm do những vụ kiện tụng bởi các đối thủ cạnh tranh chống lại sự mở
rộng của ngân hàng sang lĩnh vực dịch vụ mới này thì việc cung cấp cổ phiếu trong quỹ
vốn ngân hàng quản lý chiếm 15% tổng giá trị tài sản của quỹ tương hỗ trong những năm
90. Một vài ngân hàng đã tổ chức những chi nhánh đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ này (ví
dụ: Citicorp’s Investment Services) hoặc liên doanh với các nhà kinh doanh và môi giới
chứng khoán. Gần đây, hoạt động cung cấp nghiệp vụ quỹ tương hỗ của ngân hàng đã có
nhiều giảm sút do mức thu nhập không còn cao như trước, do những qui định nghiêm ngắt
hơn và đồng thời do sự thay đổi trong quan điểm đầu tư của công chúng.
Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn. Ngân hàng ngày nay đang
theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và
dịch vụ ngân hàng bán buôn cho các tập đoàn lớn. Những dịch vụ này bao gồm xác định
mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại Công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng (ví dụ:
bảo lãnh phát hành chứng khoán), cung cấp công cụ Marketing chiến lược, các dịch vụ hạn
chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các ngân hàng cũng dấn sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ
trợ các khoản nợ do chính phủ và công ty phát hành để những khách hàng này có thể vay
vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do hay từ các tổ chức cho vay khác.
Ở Mỹ, các dịch vụ ngân hàng đầu tư (như bảo lãnh phát hành chứng khoán) liên quan tới
việc mua bán cổ phiếu mới và nợ do ngân hàng thương mại thực hiện thay mặt cho các
công ty đã bị cấm sau khi Quốc hội thông qua các Đạo luật Glass-Steagall năm 1933. Tuy
nhiên, trước áp lực lớn từ các công ty ngân hàng trong nước hàng đầu, và do thành công
của các đối thủ cạnh tranh nước ngoài, vào những năm 80 Cục lữu trữ liên bang đã bắt đầu
nới lỏng các quy định đối với việc ngân hàng kinh doanh chứng khoán do khách hàng của
chúng phát hành. Thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành, ngân hàng đã tạo cho các công
ty một kênh huy động vốn mới bên cạnh hình thức cho vay vốn truyền thống. Nhiều công
ty đã đánh giá rất cao nghiệp vụ này của ngân hàng, hơn cả hình thức cho vay truyền thống
bởi vì nó cung cấp cho họ một nguồn vốn dài hạn với chi phí thấp hơn. Cho tới cuối những
năm 90, Cục dự trữ Liên bang Mỹ đã cấp cho hơn 40 ngân hàng đặc quyền cung cấp dịch
vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán. Trên thực tế, điều này cho phép nhân viên tín dụng
ngân hàng cộng tác chặt chẽ với giới kinh doanh chứng khoán trong quá trình tìm nguồn tài
trợ cho khách hàng. Năm 1996, Cục quản lý tiền tệ Mỹ ra quy định mới cho phép các ngân
hàng có giấy phép hoạt động trên toàn quốc có thể cung cấp dịch vụ bảo lãnh phát hành
nếu như dịch vụ này được thực hiện thông qua các công ty con, với điều kiện ngân hàng
không được đầu tư quá 10% vốn cổ phần vòa một công ty. Một sự nới lỏng hơn nữa trong
lĩnh vực kinh doanh chứng khoán và như vậy, ngân hàng có thể cung cấp toàn bộ dịch vụ
tài trợ và tư vấn quản lý đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán. Một ví vụ gần đây là
sự kiện ngân hàng NationBank mua Mortgetary Security Inc., Bank America mua công ty
Robertson Stephens và ngân hàng Banker Trust of New York mua công ty Alex Brow.
Sự thuận tiện: Tổng hợp tất cả các dịch vụ ngân hàng. Rõ ràng là không phải tất cả mọi
ngân hàng đều cung cấp nhiều dịch vụ tài chính như danh mục dịch vụ mà chúng tôi đã
miêu tả ở trên, nhưng quả thật danh mục dịch vụ ngân hàng đang tăng lên nhanh chóng.
Nhiều loại hình tín dụng và tài khỏan tiền gửi mới đang được phát triển, các loại dịch vụ
mới như giao dịch qua Internet và thẻ thông minh (Smart) đang được mở rộng và các dịch
vụ mới (như bảo hiểm và kinh doanh chứng khoán) được tung ra hàng năm. Nhìn chung,
dạnh mục các dịch vụ đầy ấn tượng do ngân hàng cung cấp tạo ra sự thuận lợi rất lớn hơn
cho khách hàng. Khách hàng có thể hoàn toàn thỏa mãn tất cả các nhu cầu dịch vụ tài chính
của mình thông qua một ngân hàng và tại một địa điểm. Thực sự ngân hàng đã trở thành
“bách hóa tài chính” ở kỷ nguyên hiện đại, công việc hợp nhất các dịch vụ ngân hàng, bảo
hiểm, môi giới chứng khoán… dưới một mái nhà chính là xu hướng mà người ta thường
gọi là Universal Banking ở Mỹ, Canada và Anh, là Allginanz ở Đức, và là Bancassurance ở
Pháp.
Các khuynh hướng ảnh hưởng tới hoạt động ngân hàng
Sự gia tăng nhanh chóng trong danh mục dịch vụ. Như chúng ta đã thấy ở phần trước,
các ngân hàng đang mở rộng danh mục dịch vụ tài chính mà họ cung cấp cho khách hàng.
Qúa trình mở rộng danh mục dịch vụ đã tăng tốc trong những năm gần đây dười áp lực
cạnh tranh gia tăng từ các tổ chức tài chính khác, từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của
khách hàng, và từ sự thay đổi công nghệ. Nó cũng làm tăng chi phí của ngân hàng và dẫn
đến rủi ro phá sản cao hơn. Các dịch vụ mới đã có ảnh hưởng tốt đến ngành công nghiệp
này thông qua việc tạo ra những nguồn thu mới cho ngân hàng – các khoản lệ phí của dịch
vụ không phải lãi, một bộ phận có xu hướng tăng trưởng nhanh hơn so với các nguồn thu
truyền thống từ lãi cho vay.
Sự gia tăng cạnh tranh. Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở
lên quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục dịch vụ. Các
ngân hàng địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư
vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu
trí, dịch vụ tư vấn cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là những dịch vụ đang
phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín dụng, các
công ty kinh doanh chứng khoán như Merrill Lynch, các công ty tài chính như GE Capital
và các tổ chức bảo hiểm như Prudential. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy
tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai.
Phi quản lý hóa. Cạnh tranh và quá trình mở rộng dịch vụ ngân hàng cũng được thúc đẩy
bởi sự nới lỏng các quy định – giảm bớt sức mạnh kiểm soát của Chính phủ. Điều này bắt
đầu từ hai thập kỷ trước, xu hướng nới lỏng các quy định đã được bắt đầu với việc Chính
phủ nâng lãi suất trần đối với tiền gửi tiết kiệm nhằm cố gắng giúp công chúng một mức
thu nhập khá hơn từ khoản tiết kiệm của mình. Cũng lúc đó, nhiều loại tài khoản tiền gửi
mới được phát triển giúp cho công chúng có thể hưởng lãi trên các tài khoản giao dịch.
Gần như đồng thời, các dịch vụ mà những đối thủ chính của ngân hàng như hiệp hội tín
dụng và cho vay cũng được mở rộng nhanh chóng và do đó khả năng cạnh tranh với ngân
hàng của những tổ chức này cũng được củng cố. Các quốc gia hàng đầu như Australia,
Canada, Anh quốc và Nhật Bản gần đây đã tham gia vào trào lưu phi quản lý hóa, nới rộng
giới hạn pháp lý cho ngân hàng, cho người kinh doanh chứng khoán và cho các công ty
dịch vụ tài chính khác. Chi phí và rủi ro tổn thất theo đó cũng tăng lên.
Sự gia tăng chi phí vốn: Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm tăng
chi phí trung bình thực tế của tài khoản tiền gửi – nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Với
sự nới lỏng các luật lệ, ngân hàng buộc phải trả lãi do thị trường cạnh tranh quyết định cho
phần lớn tiền gửi. Đồng thời, Chính phủ yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu
nhiều hơn – một nguồn vốn đắt đỏ - để tài trợ cho các tài sản của mình. Điều đó buộc họ
phải tìm cách cắt giảm các chi phí hoạt động khác như giảm số nhân công, thay thế các
thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại. Các ngân hàng cũng buộc phải tìm
các nguồn vốn mới như chứng khoán hóa một số tài sản, theo đó một số khoản cho vay của
ngân hàng được tập hợp lại và đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán; các chứng khoán được
đảm bảo bằng các món vay được bán trên thị trường mở nhằm huy đọng vốn mới một cách
rẻ hơn và đáng tin cậy hơn. Hoạt động này cũng có thể tạo ra một khoản thu phí không nhỏ
cho ngân hàng, lớn hơn so với các nguồn vốn truyền thống (như tiền gửi).
Sự gia tăng các nguồn vốn nhạy cảm với lãi suất. Các qui đinj của Chính phủ đối với
công nghiệp ngân hàng tạo cho khách hàng khả năng nhận được mực thu nhập cao hơn từ
tiền gửi, nhưng chỉ có công chúng mới làm cho các cơ hội đó trở thành hiện thực. Và công
chúng đã làm việc đó. Hàng tỷ USD trước đây được gửi trong các tài khoản tiết kiệm thu
nhập thấp và các tài khoản giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã được chuyển sang các tài
khoản có mức thu nhập cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ thu nhập thay đổi thoe điều kiện
thị trường. Ngân hàng đã phát hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với những khách hàng có
giáo dục hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các khoản tiền gửi “trung thành” của họ có thể dễ
tăng cường khả năng cạnh tranh trên phương diện thu nhập trả cho công chúng gửi tiền và
nhạy cảm hơi với ý thích thay đổi của xã hội về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm.
Cách mạng trong công nghệ ngân hàng. Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều
năm gần đây các ngân hàng đã và đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động
và điện tử thay thế cho hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong công việc
nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các
máy rút tiền tự động ATM, ở Mỹ có hơn 100.000 chiếc, cho phép khách hàng truy nhập tài
khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ; Máy thanh toán tiền POS được lắp đặt ở các bách hóa và
trung tâm bán hàng thay thế cho các phương tiện thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng giấy;
và hệ thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn
thế giới.
Do đó, ngân hàng đang trở thành ngành sử dụng nhiều vốn và chi phí cố định; sử dụng ít
lao động và chi phí biến đổi. Nhiều chuyên gia tin rằng các tòa nhà ngân hàng và các cuộc
mít tinh gặp mặt trực tiếp giữa các nhà ngân hàng và khach shàng cuối cùng sẽ trở thành
những di tích của quá khứ và bị thay thế bởi các cuộc liên quan và giao tiếp điện tử. Sản
xuất và cung cấp dịch vụ sẽ hoàn toàn tự động. Những bước đị đó sẽ giảm đáng kể chi phí
nhân công hóa ngân hàng và gây ra tình trạng mất việc làm khi máy móc thay thế người lao
động. Tuy nhiên, những kinh nghiệp gần đây gợi ý rằng một ngành ngân hàng hoàn toàn tự
động có thể vẫn còn là điều xa vời. Một tỷ lệ lớn khách hàng vẫn ưa chuộng các dịch vụ
của con người và những cơ hội để nhận được sự tư vấn cá nhân về các vấn đề tài chính.
Sự củng cố và mở rộng hoạt động về mặt địa lý. Sử dụng có hiệu quả quá trình tự động
hóa và những đổi mới công gnhệ đòi hỏi các hoạt động ngân hàng phải có qui mô lớn. Vì
vậy, ngân hàng cần pahỉ mở rộng cơ sở khách hàng bằng cách vươn tới các thị trường mới,
xa hơn và gia tăng số lượng tài khoản. Kết quả là hoạt động mở chi nhánh ngân hàng diễn
ra. Mô hình công ty sở hữu ngân hàng mua lại các ngân hàng nhỏ và đưa chúng trở thành
bộ phận của các tổ chức ngân hàng mua lại các ngân hàng nỏi và đưau chúng trở thành bộ
phận của các tổ chức ngân hàng đa trụ sở đã ngày càng phổ biến. Nhiều vụ đại hợp nhất đã
diễn ra như vụ hợp nhất giữa Chemical Bank và Chase Manhttan ở New York hay Bank of
America và Nations Bank. Số lượng các ngân hàng sở hữu độc lập và bắt đầu giảm và qui
mô trung bình của các công ty ngân hàng đã tăng đáng kể. Cùng lúc đó, số lượng các ngân
hàng nhỏ của Mỹ (tổng tài sản dưới 1 tỷ USD) đã giảm mạnh ít nhất là 1/3 kể từ giữa thập
kỷ 80, số lượng nhân viên giảm hơn 100.000 người trong cùng thời ký.
Hơn nữa, thập kỷ 80 và 90 đã mở ra một kỷ nguyên sự bành trướng “liên tiểu bang” trong
hệ thống ngân hàng Mỹ. Hơn 300 tổ chức ngân hàng đã vương ra khỏi thị trường tiểu bang,
thôn tính các ngân hàng nhỏ để trở thành những ngân hàng tầm cỡ quốc gia. Hiện nay ngân
hàng đang tìm mọi cách để đạt được sự đa dạng hóa và ngân hàng không còn muốn duy trì
mô hình ngân hàng cổ điển và nhấn mạnh vai trò của nó như là các tổ chức tài chính năng
động, đổi mới và hướng về khách hàng.
Với sự phát triển của tự động hóa, ngày càng nhiều ngân hàng mở chi nhánh ở những vùng
xa với các thiết bị viễn thông và máy rút tiền tự động – một phương pháp mở rộng qui mô
thị trường hơn là xây dựng các cơ sở vạt chất mới. Trong nhiều trường hợp, hệ thống thiết
bị vệ tinh cung cấp dịch vụ hữu hạn sẽ thay thế các văn phòng chi nhánh đa năng của ngân
hàng.
Quá trình toàn cầu hóa ngân hàng. Sự bành trướng địa lý và hợp nhất các ngân hàng đã
vượt ra khỏi ranh giới lãnh thổ một quốc gia đơn lể và lan rộng ra với quy mô toàn cầu.
Ngày nay, các ngân hàng lớn nhất thế giới cạnh tranh với nhau trên tất cả các lục địa. Vào
những năm 80, các ngân hàng Nhật, dẫn đầu là Dai_I Chi Kangyo Bank và Fuji Bank đã
phát triển nhanh hơn hầu hết các đối thủ cạnh tranh trên khắp thế giới. Các ngân hàng lớn
đặt trụ sở tại Pháp (dẫn đầu là Caisse Nationale de Credit Agricole), tại Đức (dẫn đầu là
Deutsche Bank) và tại Anh (dẫn đầu là Barclays PLC) cũng trở thành những đối thủ nặng
ký trên thị trường cho vay Chính phủ và cho vay công ty. Quá trình phi quản lý hóa đã giúp
tất cả các tổ chức này cạnh tranh hiệu quả hơn so với các ngân hàng Mỹ và nắm được thị
phần ngày càng tăng trên thị trường toàn cầu về dịch vụ ngân hàng. Ngày nay, Canada, Mỹ
và Mexico đã thực hiện Hiệp ước mậu dịch tư do Bắc Mỹ (NAFTA) điều mà cho phép
ngân hàng ở những nước này sở hữu và quản lý các chi nhánh ngân hàng ở nước kia và sức
mạnh dịch vụ của các chi nhánh loại này hoàn toàn so sánh được với những chi nhánh sở
hữu bởi các ngân hàng trong nước.
Rủi ro vỡ nợ gia tăng và sự yếu kém của hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Trong khi xu hướng
hợp nhất và bánh trướng về mặt địa lý đã giúp nhiều ngân hàng ít tổn thương trong điều
kiện kinh tế trong nước thì sự đẩy mạnh cạnh tranh giữa các ngân hàng và các tổ chức phi
ngân hàng kèm theo các khoản tín dụng có ván đề một nền kinh tế luôn biến động đã dẫn
tới sự phá sản ngân hàng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Xu hướng phi quản lý hóa trong
lĩnh vực tài chính đã mở ra cơ hội cho các nhà ngân hàng, nhưng cũng chỉ tạo ra một thị
trường tài chính xảo trá hơn, nơi mà sự phá sản, thôn tính và thành lý ngân hàng dễ xảy ra
hơn.
Phải chăng các ngân hàng đang chết?
Gần đây Mỹ, châu Âu và châu Á, hàng trăm ngân hàng và các tổ chức nhận tiền gửi đã sáp
nhập và sụp đổ. Người ta bắt đầu lo lắng cho tương lai của ngành công nghiệp ngân hàng.
Thậm chí, đối với các ngân hàng còn sống sót, có những bằng chứng cho thấy thị phần của
chúng trên thị trường dịch vụ tài chính bắt đầu suy giảm trong khi các công ty chứng
khoán, các công ty bảo hiểm, các quỹ tương hỗ và các công ty tài chính đã đạt được sự
tăng trưởng thị phần đáng kể. Gần đây, ngân hàng Dự trữ Liên bang St.Louis đã tính toán
rằng tỷ lệ tổng tài sản do ngân hàng và các tổ chức nhận tiền gửi nắm giữ so với tất cả các
trung gian tài chính giảm từ 56% năm 1982 xuống hơn 42% trong năm 1991 – một “sự co
rút tự nhiên” theo sau làn sóng phi quản lý hóa trong ngành công nghiệp này và với mtộ thị
trường tài chính phức tạp hơn. Một số nhà phân tích (ví dụ Beim đã tuyen bố rằng các ngân
hàng hiện nay đang “chết”.
Khi các thị trường ngày càng trở nên có hiệu quả với những tiến bộ gần đây trong công
nghệ, cùng với xu hướng các khách hàng lớn hơn tăng cường tìm kiếm những phương thức
vay nợ mới (như bán chứng khoán trên thị trường mở), các ngân hàng truyền thống ngày
càng trở nên ít cần thiết. Ít nhất thì cũng có quá nhiều ngân hàng - ở Mỹ có gần 9.000 – và
có quá nhiều nguồn lực được tập trung vào lĩnh vực ngân hàng. Người ta có thể phản đối
rằng rất nhiều những ngân hàng này đơn giản là đang nhận được sự bảo vệ và nâng đỡ của
Chính phủ dưới hình thức bảo hiểm tiền gửi và các khoản vay của Chính phủ với giá rẻ. Có
lẽ, sự sáp nhập và đổ vỡ ngân hàng toàn cầu gần đây chỉ đơn giản là dấu hiệu cho thấy
ngành công nghiệp ngân hàng đã “quá đông” và đang phải đương đầu về sự sa sút nhu cầu
đối với các dịch vụ truyền thống.
Rồi nữa, các ngân hàng cũng phải chịu gánh nặng từ những qui định của Chính phủ hơn
hầu hết các đối thủ cạnh tranh. Trong những năm 1990, một cuộc điều tra của Hiệp hội
ngân hàng Mỹ ABA đã ước tính rằng chi phí do tuân theo qui định của liên bang và cảu
tiểu bang lên tới 11 tỷ USD (khoảng 60% lợi nhuận hàng năm của ngành này). Sự sa sút
trong thị phần ngân hàng thị trường dịch vụ tài chính đã gây lo ngại cho các nhà hoạch
định chính sách và cho các khách hàng của ngân hàng. Trong đó có người lo sợ rằng tầm
quan trọng bị suy giảm của ngân hàng có thể:
• Làm giảm khả năng của Ngân hàng trung ương trong việc điều tiết sự tăng trưởng
của mức cung tiền tệ và trong việc đạt được các mục tiêu kinh tế quốc gia.
• Gây thiệt hại cho khách hàng (chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ và hộ gia đình) là
những người hầu hết dựa vào tiền vay và các dịch vụ tài chính khác của ngân hàng.
• Làm cho các dịch vụ ngân hàng kém thuận tiện cho khách hàng khi các chi nhánh
ngân hàng bị hợp nhất và đóng cửa.
Nhiều nhà kinh tế phản đối rằng những qui định đối với ngân hàng hiện nay là quá chặt chẽ
trong khi các qui định đối với đối thủ cạnh tranh của nó là quá ít thậm chí không có. Họ
cũng cho rằng tăng cường quá trình phi quản lý hóa là điều cần được thực hiện nếu muốn
các ngân hàng trở nên vững mạnh hơn. Rất nhiều ngân hàng, đặc biệt là những ngân hàng
lớn, đang cố gắng chống lại hay làm chậm lại quá trình giảm sút thị phần bằng cách: (1)
đưa ra dịch vụ mới (như bán cổ phiếu cho quĩ tương hỗ, bán hợp đồng bảo hiểm), (2) tính
phí sử dụng cao hơn cho các dịch vụ không mất tiền trước đây, (3) cung cấp nhiều dịch vụ
hơn qua các công ty con không bị điều tiết như ngân hàng hoặc (4) tham gia liên doanh với
các công ty độc lập (như Dean Witerr với National Bank) và nhằm tránh gánh nặng quy
định.
Rồi nữa, có những chuyên gia trong lĩnh vực này (như Kaufman và Mote) phản đối rằng sự
sa sút ngân hàng chỉ mang tính bề ngoài hơn là bản chất. Bản chất của ngành công nghiệp
ngân hàng đã thay đổi rất nhiều trong những năm gần đây với sự phát triển các dịch vụ
mới, không phải tất cả chúng đều được thể hiện trên bản cân đối kế toán. Đồng thời các
chuyên gia cũng cho rằng chúng ta cần phải phát triển các phương pháp đo lường qui mô
ngân hàng mới để xác định xem tầm quan trọng của ngân hàng có đang thực sự giảm sút
không. Cùng lúc, các chương trình hỗ trợ và trợ cấp của Chính phủ cho ngân hàng sẽ có
thể phải được đổi mới và cắt giảm. Dường như Bảo hiểm tiền gửi của Chính phủ đã đánh
lừa khách hàng rằng tất cả các ngân hàng đều an toàn và điều này có thể cho một ngân
hàng nào đó những thuật lợi không chính đáng trong hoạt động thu hút tiền của công
chúng. Những ngân hàng không lành mạnh phải được phép rời khỏi ngành sẽ không nhất
thiết phải tồn tại, hầu hết các ngân hàng có thể tăng khả năng cạnh tranh nếu chúng được
phép cung cấp nhiều dịch vụ hơn và bảo hiểm tiền gửi được định giá một cách chính xác
để phản ánh mức độ rủi ro của mỗi ngân hàng. Tóm lại, ngân hàng truyền thống có thể chết
nhưng nếu các ngân hàng được tự do hơn trong việc đáp ứng các nhu cầu thay đổi không
ngừng của công chúng về những dịch vụ mới, chúng không nhất thiết phải chết.
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
A. Những vấn đề cơ bản về chứng khoán
I. Khái niệm chứng khoán
Chứng khoán là các công cụ để huy động vốn trung và dài hạn, các giấy tờ có giá, có
khả năng chuyển đổi, chuyển nhượng nhằm xác nhận quyền sở hữu, quan hệ vay nợ giữa
người nắm giữ nó và chủ thể phát hành ra nó. Đối với mỗi loại chứng khoán thường có các
tính chất sau:
1. Tính thanh khoản (tính lỏng) của một chứng khoán là khả năng chuyển đổi giữa
chứng khoán đó sang tiền mặt. Tính lỏng của chứng khoán thể hiện qua việc chứng khoán
đó được mua bán, trao đổi trên thị trường.
2. Tính sinh lời: Thu nhập của nhà đầu tư được sinh ra từ việc tăng giá chứng khoán
trên thị trường, hay các khoản tiền lãi được trả hàng năm.
3. Tính rủi ro: Đây là đặc trưng cơ bản của chứng khoán.Trong quá trình trao đổi, mua
đi bán lại, giá của chứng khoán bị giảm hoặc mất hoàn toàn ta gọi là rủi ro.
II. phân loại chứng khoán
1. Cổ phiếu
Là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp đối với thu nhập và
tài sản của công ty cổ phần. Số vốn đóng góp để thành lập công ty được chia ra thành
nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ phiếu có
thể được phát hành dưới dạng chứng chỉ vật chất hoặc bút toán ghi sổ. Giá trị ban đầu ghi
trên cổ phiếu là mệnh giá của cổ phiếu. Mệnh giá là giá trị danh nghĩa. Số tiền nhận được
từ khoản góp vốn gọi là cổ tức.Giá cổ phiếu giao động qua các phiên giao dịch trên thị
trường chứng khoán và tách rời so với mệnh giá.Cổ phiếu được chia thành 2 loại:
a. Cổ phiếu thường: Là loại cổ phiếu không có kỳ hạn, tồn tại cùng với sự tồn tại của
công ty phát hành ra nó, nó không có lãi suất cố định, số lãi được chia vào cuối mỗi niên
độ quyết toán. Cổ đông nắm giữ cổ phiếu này có quyền bỏ phiếu, mua cổ phiếu mới, tham
gia vào đại hội cổ đông.
b. Cổ phiếu ưu đãi: Gồm 2 loại
* Cổ phiếu ưu đãi biểu quyết: Là cổ phiếu dành cho các cổ đông sáng lập. Cổ đông
nắm giữ loại cổ phiếu này phải nắm giữ trong một khoảng thời gian nhất định, không được
chuyển nhượng, trao đổi.
* Cổ phiếu ưu đãi tài chính: Tưong tự như cổ phiếu thường nhưng có một số hạn chế:
cổ đông nắm giữ cổ phiếu này không được tham gia bầu cử, ứng cử vào hội đồng quản trị,
ban kiểm soát của công ty. Nhưng họ được hưởng ưu đãi về tài chính theo mức cổ tức
riêng biệt, có tính cố định hàng năm.
2. Trái phiếu
Là loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành phải trả cho người nắm
giữ chứng khoán đó một khoản tiền xác định vào những thời hạn cụ thể và theo những điều
kiện nhất định. Đây là những chứng khoán nợ, được phát hành dưới dạng chứng chỉ vật
chất hoặc bút toán ghi sổ.Trái phiếu bao gồm các loại sau:
a. Trái phiếu vô danh: Loại này không ghi tên trái chủ trên cả chứng chỉ và sổ sách của
các tổ chức phát hành. Việc chuyển nhượng loại trái phiếu này rất dễ dàng nên nó thường
được giao dịch trên thị trường chứng khoán.
b. Trái phiếu ghi danh: Ghi tên, địa chỉ của trái chủ trên chứng chỉ và sổ sách của tổ
chức phát hành.Loại này ít được đem trao đổi trên thị trường.
c. Trái phiếu chính phủ: Là loại trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm bù đắp cho
thâm hụt ngân sách. Đây là loại chứng khoán mà các nhà đầu tư không ưa mạo hiểm rất ưa
thích vì nó hầu như không có rủi ro thanh toán.
d. Trái phiếu công trình:là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn xây dựng
các công trình cơ sở hạ tầng hay công trình phúc lợi công cộng.
e. Trái phiếu công ty: Do công ty phát hành để vay vốn trung và dài hạn. Khi công ty
bán trái phiếu thì công ty là người đi vay còn người mua là chủ nợ. Công ty phải cam kết
trả cả lãi và gốc cho trái chủ như ®· nªu trong hợp đồng.Nó bao gồm các loại: Trái phiếu
có đảm bảo, trái phiếu không có bảo đảm, trái phiếu có thể mua lại…
3. Chứng chỉ quỹ đầu tư
Là chứng khoán được phát hành bởi công ty quản lý quỹ để huy động vốn từ các nhà
đầu tư. Vốn được dùng để mua bán kinh doanh các loại chứng khoán khác để kiếm lời, sau
đó chia tiền lời đó cho các nhà đầu tư.Có thể phân loại chứng chỉ quỹ đầu tư thành:
a. Quỹ đầu tư chung: §ây là loại quỹ mà tất cả mọi người đều có thể tham gia.
b. Quỹ đầu tư riêng: Chỉ giới hạn ở một nhóm người nhất định.
c. Quỹ đầu tư dạng mở: Là quỹ đầu tư trong đó nhà đầu tư có quyền bán lại chứng chỉ
quỹ đầu tư cho quỹ phát hành chứng khoán liªn tôc ®Ó huy ®éng vèn và sẵn sàng mua lại
số chứng khoán mà nó ®· phát hành ra.
d. Quỹ đầu tư cổ phiếu: Quỹ chuyên đầu tư vào một loại cổ phiếu nhất định.
e. Quỹ đầu tư trái phiếu: Là quỹ để đầu tư vào một loại trái phiếu nào đó.
g. Quỹ đầu tư hỗn hợp: Loại quỹ đầu tư vào bất kì loại chứng khoán nào nếu thấy có
hiệu quả
Ngoài ra, còn có một số loại chứng khoán khác như: Giấy bảo đảm quyền mua cổ phiếu,
các hợp đồng kì hạn, chứng quyền…
B. Tổng quan về thị trường chứng khoán
I. Khái niệm thị trường chứng khoán
Trong nền kinh tế thị trường, xã hội của sản xuất được phân chia thành hai cực:
Một cực có vốn tìm nơi đầu tư và một cực cần vốn để đầu tư vào sản xuất và kinh doanh.
Trong những ngày đầu của sản xuất hàng hóa và lưu thông tiền tệ, hệ thống ngân
hàng sớm ra đời để huy động các nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi hình thành trong xã hội nhằm
tái phân phối cho nền kinh tế quốc dân theo nguyên tắc tín dụng. Như vậy, một kênh vốn
nối hai cực đó lại với nhau và phải thông qua các trung gian tài chính, trong đó chủ yếu là
hệ thống ngân hàng được gọi là kênh dẫn vốn gián tiếp. Khi xã hội của sản xuất và lưu
thông hàng hóa phát triển ở giai đoạn cao, ngày một hoàn thiện thì những người có vốn đã
có đủ điều kiện về môi trường pháp lý, môi trường tài chính v.v… để chuyển vốn của mình
trực tiếp đầu tư vào sản xuất không phải thông qua tầng lớp trung gian tài chính mà phải
thông qua thị trường chứng khoán – một thị trường dẫn vốn trực tiếp từ cực có vốn này
sang cực cần vốn kia theo nguyên tắc đầu tư. Kênh dẫn vốn đó được gọi là kênh dẫn vốn
trực tiếp.
Qua sự khảo sát giữa hai kênh dẫn vốn gián tiếp và trực tiếp thấy rằng, bên cạnh
những ưu điểm đem lại từ kênh dẫn vốn trực tiếp mà kênh gián tiếp không thể có được,
còn cho thấy thị trường chứng khoán đã tạo điều kiện dễ dang cho việc điều hòa vốn trong
nền kinh tế quốc dân thông qua việc mua bán chuyển nhượng vốn giữa các chủ thể của nền
kinh tế.
Chính vì lẽ đó, khi nền sản xuất hàng hóa phát triển ở giai đoạn cao đòi hỏi sự ra
đời thị trường chứng khoán quốc gia và trong điều kiện quốc tế hóa đời sống kinh tế và xã
hội nhưng ngày nay thì vấn đề toàn cầu hóa hoạt động thị trường chứng khoán của các
nước trở nên cấp thiết và sẽ phát triển.
Vậy thị trường chứng khoán là gì? Có nhiều khái niệm về thị trường chứng khoán
khác nhau, nhưng nhìn chung có thể dẫn ra một khái niệm có tính phổ biến: Thị trường
chứng khoán là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng, trao đổi
chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời.
Thị trường chứng khoán phải tồn tại ở một nơi mà ở nơi đó việc mua bán chứng
khoán được thực hiện. Trong quá trình phát triển và hoàn thiện thị trường chứng khoán ở
các nước có nền sản xuất và lưu thông hàng hóa lâu đời như Mỹ, Anh, Pháp, v.v… nơi đó
tồn tại dưới hai hình thức: Thị trường chứng khoán có tổ chức và Thị trường chứng khoán
phi tổ chức.
Hình thái điển hình của thị trường chứng khoán có tổ chức là Sở giao dịch chứng
khoán (Stock exchange). Mọi việc mua, bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán phải
tiến hành trong Sở giao dịch và thông qua các thành viên của Sở giao dịch theo quy chế
của Sở giao dịch chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán có thể là tổ chức sở hữu nhà
nước, là doanh nghiệp cổ phần hoặc một hiệp hội và đều có tư cách pháp nhân hoạt động
kinh doanh chứng khoán. Có thể dẫn ra những Sở giao dịch chứng khoán nổi tiếng của thế
giới như: NYSE (New York Stock exchange), TSE (Tokyo Stock exchange), LSE (London
Stock exchange )v.v…
Thị trường chứng khoán phi tổ chức là một thị trường không có hình thái tổ chức
tồn tại, nó có thể là bất cứ nơi nào mà tại đó người mua và người bán trực tiếp gặp nhau để
tiến hành giao dịch. Nơi đó có thể là tại quầy giao dịch ở các ngân hàng bất kỳ nào đó. Thị
trường hình thành như thế gọi là thị trường giao dịch qua quầy (Over-the-counter – OTC)
Ngày nay, nhờ vào thành quả của cách mạng tin học, hệ thống INTERNET đã gắn
kết các thành viên của thị trường lại với nhau, do đó việc trao đổi thông tin, tiến hành giao
dịch mua bán chứng khoán không phải đến tận quầy của các ngân hàng và có thể tiến hành
ngay trên bàn máy vi tính. Đây là một hình thái của thị trường chứng khoán phi tổ chức
bậc cao mới xuất hiện trong thập kỉ qua. Thị trường này chưa có tên chính thức, có người
gọi đó là thì trường thứ ba (Third Market)
II. Vai trò của thị trường chứng khoán trong phát triển kinh tế.
Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực với sự ra đời của tổ chức thương mại thế
giới (WTO), của liên minh Châu Âu, khối thị trường chung đòi hỏi các quốc gia phải thúc
đẩy phát triển kinh tế với tốc độ cao và hiệu quả cao. Thực tế phát triển kinh tế ở các quốc
gia trên thế giới đã khẳng định vai trò của thị trường chứng khoán trong phát triển kinh tế.
1. thứ nhất, thị trường chứng khoán với việc tạo ra các công cụ có tính thanh khoản
cao, có thể tích tụ, tập trung và phân phối vốn, chuyển thời hạn của vốn phù hợp với yêu
cầu phát triển kinh tế.
Ở Hàn Quốc, thị trường chứng khoán đã đóng vai trò không nhỏ trong sự tăng trưởng
kinh tế trong hơn ba mươi năm, cho tới thập kỷ 90 thị trường chứng khoán nước này đã lớn
mạnh và đứng hàng thứ 13 trên thế giới góp phần tạo mức tăng trưởng kinh tế đạt bình
quân 9% năm, thu nhập quốc dân bình quân đầu người năm 1995 là trên 10.000USD.
Yếu tố thông tin là yếu tố cạnh tranh trên thị trường sẽ đảm bảo cho việc phân phối
vốn một cách hiệu quả Trên thị trường chứng khoán, tất cả các thông tin được cập nhật và
được chuyển ti tới tất cả các nhà đầu tư để họ có thể phân tích và định giá cho các chứng
khoán.
Thị trường chứng khoán đã tạo ra một sự cạnh tranh có hiệu quả trên thị trưòng tài
chính, do đó các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính phải quan tâm tới hoạt
động tài chính của họ và làm giảm chi phí tài chính.
Việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán có thể làm tăng vốn tự có của các công ty
và giúp họ tránh các khoản vay có chi phí cao cũng như sự kiểm soát chặt chẽ của các ngân
hàng thương mại. Thị trường chứng khoán khuyến khích tính cạnh tranh của các công ty
trên thị trường.Sự tồn tại của các thị trường chứng khoán cũng là yếu tố quyÕt ®Þnh để thu