Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Quy định pháp luật việt nam về bán hàng đa cấp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.96 KB, 41 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA LUẬT KINH TẾ

TRẦM THỊ DIỄM PHƯƠNG

ĐỀ TÀI: “QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP”

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

TP. HỒ CHÍ MINH, NGÀY 17 THÁNG 03 NĂM 2015


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA LUẬT KINH TẾ

TRẦM THỊ DIỄM PHƯƠNG

ĐỀ TÀI: “QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT
NAM VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP”

BÁO CÁO THỰC TẬP TỐT NGHIỆP

Người hướng dẫn khoa học:

TP. HỒ CHÍ MINH, NGÀY 17 THÁNG 03 NĂM 2015


Mục lục



5

A. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:

Bán hàng đa cấp là một phương thức kinh doanh xuất hiện ở Việt Nam từ những
năm đầu thế kỷ 21, và đây cũng là loại hình kinh doanh được xem là có triển vọng
nhất trong thế kỷ 21. Kinh doanh đa cấp đã không còn xa lạ với người dân Việt
Nam, đây là hoạt động bán hàng trực tiếp đến tay người tiêu dùng, do đó tiết kiệm
được nhiều chi phí trung gian, khoản tiền này được dùng vào việc nâng cao chất
lượng sản phẩm và trả thưởng cho người tham gia bán hàng đa cấp, so với hình thức
kinh doanh truyền thống thì loại hình kinh doanh này có nhiều ưu điểm vượt trội,
tuy nhiên bên cạnh đó cũng tiềm ẩn không ít rủi ro.
Dù xuất hiện ở Việt Nam chỉ hơn 10 năm nhưng loại hình kinh doanh này có tốc
độ phát triển rất nhanh, hiện nay đã thu hút hơn 1 triệu ngưới tham gia 1. Không thể
phủ nhận những lợi ích mà hình thức kinh doanh này mang lại, tuy nhiên, bên cạnh
đó cũng còn tồn tại không ít khó khăn, rất nhiều doanh nghiệp núp bóng dưới hình
thức bán hàng đa cấp để lừa gạt, chiếm đoạt tài sản của người dân làm thiệt hại lớn
cho nhiều người và cho xã hội. Pháp luật Việt Nam không ngừng đổi mới và hoàn
thiện các văn bản pháp lý trong lĩnh vực này nhằm siết chặt quản lý hoạt động bán
hàng đa cấp, điển hình là Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 42/2014/NĐ-CP
ngày 14/5/2014 về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp. Tuy nhiên, trên thực tế khi
áp dụng vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc.
Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận, kết hợp với việc liên hệ thực tiễn hoạt động
bán hàng đa cấp, đề tài “Quy định của pháp luật Việt Nam về bán hàng đa cấp” sẽ
tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật trong hoạt động bán hàng đa
cấp, và những bất cập còn tồn tại trên thực tế, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm
góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật bán hàng đa cấp ở Việt Nam.
2. Tổng quan đề tài:


Bán hàng đa cấp đã không còn xa lạ với người dân Việt Nam, tuy nhiên người
dân chúng ta vẫn chưa thật sự hiểu sâu về loại hình kinh doanh này, Không thể phủ
nhận những lợi ích mà hình thức kinh doanh này mang lại, tuy nhiên bên cạnh đó
vẫn còn tồn tại rất nhiều khó khăn. Sau hàng loạt các vụ việc lừa đảo, chiếm đoạt tài
sản của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp bất chính làm xáo trộn đến đời sống kinh
1 Theo số liệu thống kê của Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương. />

6

tế - xã hội, pháp luật Việt Nam đã bắt đầu có sự quan tâm về loại hình kinh doanh
này bằng cách đưa ra hàng loạt các quy định nhằm siết chặt hoạt động bán hàng đa
cấp, tuy nhiên trên thực tế vẫn còn tồn tại rất nhiều khó khăn, vướng mắc, cần giải
quyết tốt trong thời gian sắp tới, để loại hình kinh doanh này ngày càng phát triển
hơn nữa.
3. Mục tiêu, đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài:

Mục tiêu nghiên cứu đề tài là thực trạng hoạt động bán hàng đa cấp ở Việt Nam,
cũng như những quy định Pháp luật của nước ta trong lĩnh vực này, Qua đó đưa ra
một số kiến nghị, đề xuất về mặt quản lý để hoạt động kinh doanh này ngày càng đi
vào quy củ và phát huy những lợi thế của nó.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thực trạng bán hàng đa cấp và các quy định
của Pháp luật về bán hàng đa cấp ở Việt Nam thông qua các văn bản quy phạm pháp
luật.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tập trung vào thực trạng của hoạt động bán
hàng đa cấp ở Việt Nam, quy định của pháp luật hiện hành trong lĩnh vực này. Cụ
thể việc nghiên cứu sẽ tập trung vào các văn bản quy phạm pháp luật, các đề tài
nghiên cứu khoa học, các thông tin về lĩnh vực này trên báo, đài và các trang thông
tin đại chúng khác.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài:


Nghiên cứu, tổng hợp các nội dung về bán hàng đa cấp trên các bài viết, bài báo,
các trang mạng thông tin truyền thông.
Nghiên cứu, phân tích, đối chiếu, đánh giá các quy định Pháp luật về bán hàng
đa cấp ở Việt Nam.
So sánh, đối chiếu với các quy định trên thế giới.
5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài

Qua tìm hiểu, phân tích, đánh giá về hoạt động bán hàng đa cấp, tác giả cũng có
đưa ra một số ý kiến đề xuất nhằm góp phần làm hoàn chỉnh quy định pháp luật Việt
Nam trong lĩnh vực này, và đây cũng có thể được sử dụng như một tài liệu tham
khảo cho những ai muốn tìm hiểu về hoạt đông bán hàng đa cấp.
6. Bố cục


7

Phần mở đầu
Chương 1: Giới thiệu về loại hình kinh doanh đa cấp
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về hình thức kinh doanh đa cấp
Chương 3: Thực tiễn hoạt động bán hàng đa cấp trên thị trường Việt Nam
Phần kết luận.


8

B.

PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU VỀ BÁN HÀNG ĐA CẤP
1.1. Khái niệm và đặc điểm
1.1.1. Khái niệm
Từ góc độ Kinh tế: Kinh doanh tiếp thị mạng lưới (tiếng Anh: Multi-level
Marketing Tiếp thị đa cấp) hoặc Kinh doanh theo mạng (Network Marketing) hay
Bán hàng đa cấp chính thống (tên gọi thông dụng tại Việt Nam) là thuật ngữ chung
dùng để chỉ một phương thức marketing sản phẩm. Đây là hoạt động kinh doanh/
bán hàng trực tiếp đến tay người tiêu dùng, họ có thể trực tiếp đến mua hàng tại
công ty (hoặc qua một nhà phân phối duy nhất) mà không phải thông qua các đại lý
hay cửa hàng bán lẻ. Nhờ vậy, hình thức này tiết kiệm rất nhiều chi phí từ tiền sân
bãi, kho chứa, vận chuyển hàng hóa, khuyến mại, quảng cáo và các chương trình
tiếp thị khác. Số tiền này thay vào đó, được dùng để trả thưởng cho nhà phân phối
và nâng cấp, cải tiến sản phẩm (do đó chất lượng sản phẩm của ngành hàng bán
hàng trực tiếp thường cao và liên tục được nâng cấp). Đây là phương thức tiếp thị
tận dụng chính thói quen của người tiêu dùng: khi sử dụng sản phẩm, dịch vụ tốt
thường chia sẻ cho người thân, bạn bè và những người xung quanh. Nhà phân phối
có vai trò như những đại lý. Họ dùng những kết quả sử dụng của bản thân và những
người quen biết để thu hút khách hàng. Qua việc làm đó họ đem về lượng khách
hàng cho công ty và bản thân họ. Ngoài ra họ còn có thể tìm kiếm những đối tác
khác để có thể trở thành nhà phân phối cùng làm việc với mình, việc này được quản
lý bằng mã số. Khi đó, mã số của một nhà phân phối mới được kết nối với mã số
của người bảo trợ (tiếng Anh: Sponsor) của anh ta.2
Từ góc độ Pháp luật: Kinh doanh theo phương thức đa cấp là hình thức kinh
doanh thông qua mạng lưới người tham gia gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau,
trong đó, người tham gia được hưởng hoa hồng, tiền thưởng và các lợi ích kinh tế
khác từ hoạt động kinh doanh của mình và của mạng lưới do mình xây dựng. 3

2 />3 Theo quy định tại Khoản 2, Điều 3 Nghị định Số 42/2014/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 14 tháng 05 năm
2014 về Quản lý hoạt động bán hàng đa cấp



9

Hình 1. Sơ đồ mạng lưới kinh doanh đa cấp.
1.1.2. Đặc điểm
Là hoạt động bán hàng trực tiếp đến tay người tiêu dùng không phải thông qua
bất kỳ trung gian nào như các đại lý hay cửa hàng bán lẻ.
Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người tham
gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau.
Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi
ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia bán
hàng đa cấp cấp dưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được doanh nghiệp bán
hàng đa cấp chấp thuận.
So với loại hình kinh doanh truyền thống thì bán hàng đa cấp rất linh hoạt về
thời gian và địa điểm bán hàng.
Kinh doanh chủ yếu là các sản phẩm chăm sóc về sắc đẹp và sức khỏe con
người. Dòng thực phẩm chức năng chiếm khoảng 90%.
Đề cao hoạt động đội nhóm, có sự chia sẽ và giúp đỡ nhau giữa những người
trong cùng mạng lưới.
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển bán hàng đa cấp trên thế giới và Việt
Nam.
1.2.1. Trên thế giới4
Kinh doanh theo mạng gắn liền với tên tuổi của nhà hóa học người Mỹ Karl
Renborg (1887-1973). Ông là người đầu tiên đã ứng dụng ý tưởng tiếp thị mạng
lưới vào trong cuộc sống.
4 />

10

Giữa những năm 1920-1930, Karl Renborg lần đầu tiên chế tạo ra những sản

phẩm dinh dưỡng bằng phương pháp cạo sắt từ những chiếc đinh gỉ trộn thêm vào
khẩu phần ăn và các loại rau cỏ khác nhau.
Năm 1927, Karl Renborg về Mỹ và bắt đầu chế biến các chất bổ sung dinh
dưỡng khác nhau dựa trên cỏ linh lăng là một loại cỏ có chứa rất nhiều vitamin,
khoáng chất, đạm và nhiều vi chất có ích khác. Theo đó ông đã đưa ra một ý tưởng
kinh doanh, mà sau này đã phát triển thành một ngành kinh doanh tiên tiến. Ông
Renborg đề nghị các bạn của ông giới thiệu chất bổ sung dinh dưỡng này cho người
quen của họ, nếu người quen của họ mua sản phẩm thì ông hứa sẽ trả hoa hồng, nhờ
đó mà thông tin về các chất bổ sung dinh dưỡng có lợi bắt đầu được truyền bá rộng
rãi. Doanh thu bán hàng của công ty tăng vượt quá sức tưởng tượng.
Năm 1934, ông sáng lập ra công ty Vitamins California và nhờ phương pháp
phân phối mới này, khi người tiêu dùng cũng trở thành người phân phối sản phẩm,
công ty của ông đã nhanh chóng đạt doanh số 7 triệu USD mà không mất một đồng
quảng cáo. Sự độc đáo ở chỗ nhờ tiết kiệm được chi phí quảng cáo và các khâu
trung gian (đại lý, bán lẻ, kho bãi…) nên những người tham gia vào hệ thống của
ông có thể nhận được thù lao cao hơn và lợi nhuận được sử dụng trong việc chế
biến và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nên giá trị sản phẩm cũng ngày được nâng
cao hơn.
Cuối năm 1939 đầu 1940, Renborg đổi tên công ty thành Nutrilite Products theo
tên sản phẩm và vẫn giữ nguyên phương pháp tiêu thụ.
Năm 1940 là năm khởi đầu của kinh doanh đa cấp và Renborg được coi là ông
tổ của ngành kinh doanh này.
Sau đó hàng loạt các công ty kinh doanh theo phương thức này cũng lần lượt ra
đời, có thể kể đến là Amway, Lô hội,…
Tuy nhiên vào đầu thập niên 1970, việc bán hàng đa cấp lại chịu sức ép từ nhiều
phía khác nhau. Năm 1975, trong hội đồng liên bang Hoa Kỳ có những người phản
đối kinh doanh đa cấp và quy kết nó với cái gọi là "hình tháp ảo" - một hình thức
kinh doanh bất hợp pháp. Đây là đòn đánh đầu tiên của chính phủ vào kinh doanh
đa cấp
Bộ luật đầu tiên về kinh doanh đa cấp đã ra đời tại Mỹ. Từ năm 1940 đến 1979

chỉ có khoảng 30 công ty kinh doanh theo mạng ra đời tại Mỹ.


11

Từ năm 1990, nhờ sự tiến bộ vượt bậc của công nghệ và truyền thông, kinh
doanh theo mạng mang màu sắc mới, các nhà phân phối có thể đơn giản hoá công
việc của mình nhờ vào điện thoại, internet....Do đó bất kỳ ai cũng có thể sử dụng
thời gian nhàn rỗi của mình để tham gia công việc và làm việc ở bất cứ đâu. Đây là
thời kỳ phát triển và bùng nổ của Kinh doanh đa cấp.
1.2.2. Việt Nam
Kinh doanh đa cấp bắt đầu bước chân vào thị trường Việt Nam từ những năm
đầu thế kỷ 21. Mặc dù đây là ngành nghề kinh doanh còn mới nhưng thu hút được
rất nhiều sự quan tâm và có tốc độ phát triển rất nhanh5.
Đến thời điểm cuối năm 2004, tại Việt Nam đã có khoảng 20 Công ty bán hàng
đa cấp phân phối sản phẩm chủ yếu về ngành chăm sóc sức khoẻ và sắc đẹp. 6 Bắt
đầu xuất nhiều công ty lừa đảo, bán hàng đa cấp bất chính làm cho dư luận lên tiếng
phản đối kinh doanh đa cấp.
Trước những dư luận, phản đối kịch liệt của người dân về loại hình kinh doanh
này. Pháp luật Việt Nam bắt đầu có sự điều chỉnh về lĩnh vực này. Ngày 01-072005, luật Cạnh tranh có hiệu lực thi hành trong đó có những điều khoản quy định
về bán hàng đa cấp, đây là văn bản pháp lý đầu tiên của Việt Nam điều chỉnh về bán
hàng đa cấp, tiếp sau đó là hàng loạt các văn bản pháp lý khác được ban hành.
Năm 2006, 2007 được xem là giai đoạn phục hồi của kinh doanh đa cấp tại Việt
Nam, khi mà hàng loạt các công ty tăng dần doanh số sau giai đoạn bị báo chí và dư
luận đánh tơi tả. 7
Năm 2010, Bán hàng đa cấp đạt lợi nhuận 2.799 tỷ đồng, tăng gấp 4 lần so với
614 tỷ đồng của 4 năm trước đó.
Năm 2011 kinh doanh đa cấp bùng nổ mạnh mẽ và tạo thành một làn sóng tại
Việt Nam, trở thành một trong những kênh phân phối sản phẩm chính thức, bên
5 Theo ông Bạch Văn Mừng, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh, trên thế giới, tốc độ tăng trưởng trung bình

về doanh thu và số lượng người tham gia bán hàng đa cấp chỉ đạt 10-15%. Trong khi đó, tại Việt Nam, tốc độ
đến 120-150%, cá biệt có doanh nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng 200%. Theo bài viết “Kinh doanh đa cấp, thật
và ảo”. Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam. />6 />7 />

12

cạnh các phương thức phân phối khác như: bán hàng qua đại lý, bán hàng theo
catalog, bán hàng qua truyền hình...
Tính đến tháng 6/2013, theo báo cáo của Bộ Công Thương, nước Việt Nam đã
có 88 doanh nghiệp được cấp giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp8.
Doanh thu của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp không ngừng tăng qua các
năm.

Hình 2. Biểu đồ thể hiện doanh thu bán hàng đa cấp qua các năm.9
Trên thế giới có hơn 30.000 công ty phân phối hàng theo mô hình bán hàng đa
cấp. Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam đã và đang đón tiếp khá nhiều doanh
nghiệp bán hàng đa cấp quốc tế đến tìm hiểu tình hình kinh doanh đa cấp tại Việt
Nam. Những chuyến viếng thăm này hứa hẹn, việc đầu tư vào thị trường Việt Nam
của các doanh nghiệp bán hàng đa cấp quốc tế sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới.
1.3. Các mô hình trả thưởng trong bán hàng đa cấp10
1.3.1. Mô hình nhị phân - Mô hình ma trận
Mô hình nhị phân là một dạng của mô hình ma trận và là mô hình ma trận dạng
đơn giản nhất. Mô hình nhị phân cho phép mỗi nhà phân phối được và chỉ được
tuyển mộ thêm 2 nhà phân phối thuộc tầng 1 và bắt buộc 2 nhánh của mình phải
luôn phát triển đồng đều (nếu không thực hiện được điều này thì nhà phân phối sẽ
không được chi trả hoa hồng hoặc chỉ hưởng ở nhánh yếu hơn).
Mô hình ma trận được nâng cấp từ mô hình nhị phân, nhà phân phối sẽ được
tuyển nhiều hơn con số 2 người. Tùy theo chính sách quy định, sơ đồ hạn chế độ
lớn và số người trong mức một của bạn. Ví dụ, sơ đồ 3x6 cho phép bạn tuyển vào 3
người ở mức một và giới hạn mức 6 là mức chi trả hoa hồng cuối cùng.


8 Theo báo cáo của Hiệp hội bán hàng đa cấp. - Xây
dựng hành lang pháp lý cho bán hàng đa cấp VTV9.
9 Theo báo cáo của Hiệp hội bán hàng đa cấp. - Xây
dựng hành lang pháp lý cho bán hàng đa cấp VTV9.
10 />

13

Mô hình sẽ không bền vững vì nhiều lý do: Nếu giả sử chúng ta tham gia vào 2
dạng mô hình này, và chúng ta đã bảo trợ đủ số người tối đa vào thế hệ thứ nhất của
mình. Nếu bây giờ có một người bạn thân của chúng ta cũng muốn tham gia vào
doanh nghiệp, nếu chúng ta vẫn muốn cho bạn mình tham gia, thì buộc lòng phải
đặt người đó vào những vị trí thấp hơn ở những thế hệ dưới. Hơn nữa, tốc độ phát
triển đội nhóm của người tầng dưới sẽ luôn chậm hơn những người tuyến trên.
Chính vì những lý do trên mà mô hình ma trận (và nhị phân) bị quy kết vào
“hình tháp ảo” và bị cấm (hoặc kiểm tra hoạt động rất gắt gao) tại các nước trên thế
giới.
- Tính đơn giản: Mô hình ma trận cho phép tạo ra tính đơn giản trong công việc.
Trong sơ đồ ma trận, chúng ta chỉ cần chăm lo, chịu hoàn toàn trách nhiệm đào tạo
cho những người ở mức một của chúng ta và có thể ngồi ở nhà để người đỡ đầu
tuyển người cho mạng lưới của chúng ta. Sơ đồ ma trận rất đơn giản để giải thích
cho những người mới. Mô hình ma trận thích hợp để sử dụng phân phối các sản
phẩm đặc thù mà tính xoay vòng sản phẩm nhỏ hoặc không có, để tránh sự bão hòa
của thị trường.
- Hiệu ứng con đỉa: Mô hình ma trận thu hút những người không muốn làm việc
nhiều và/hoặc thiếu kiến thức trong lĩnh vực kinh doanh theo mạng. Các kế hoạch
ma trận theo kiểu phân chia các khoản hoa hồng có khuynh hướng khá “xã hội”.
Ban thưởng cho những nhà phân phối tích cực ít hơn các nhà phân phối lười biếng.
Các nhà phân phối xuất sắc nhận được sự đền đáp ít hơn so với thời gian và sức lực

mà mình bỏ ra, bởi vì phần lớn các khoản hoa hồng bị người ta hút mất như những
con đỉa, mạng lưới của họ đầy rẫy những kẻ ranh mãnh và lười biếng.
- Sự giới hạn: Mô hình ma trận hạn chế quy mô tổ chức. Chẳng hạn, trong ma
trận 3x4, chúng ta không bao giờ có thể có quá 120 người trong mạng lưới tầng
dưới.
- Biến thể: Một số chính sách của mô hình ma trận (hay nhị phân) cho phép
tuyển vào số lượng không hạn chế (để bù bắp sự thiếu hụt do có thành viên nghỉ
việc hoặc làm việc không hiệu quả), tuy nhiên, quá trình làm việc vẫn chỉ dựa trên
một số người nhất định, khi có 3 người trong mạng lưới, chúng ta sẽ là thành viên
cấp một, khi giúp cho ba người này đạt cấp một, chúng ta sẽ đạt cấp hai. Điều này
làm cho tính thống nhất (đoàn kết) của đội nhóm bị hạn chế.


14

1.3.2. Mô hình đều tầng (Sơ đồ một cấp)
Mô hình đều tầng cho phép nhà phân phối tuyển không giới hạn nhà phân phối
tuyến dưới, tức là không phải tuyển với số lượng tuyến dưới bắt buộc, có thể là một
người, hai người, ba người hay bao nhiêu người tùy thích. Nhà phân phối được
hưởng hoa hồng hay phần trăm hoa hồng từ đội nhóm của mình là như nhau đối với
cùng một thế hệ, các thế hệ có thể có mức phần trăm giống hoặc khác nhau. Để bảo
đảm tính công bằng giữa người vào trước và vào sau nên mô hình đều tầng chỉ cho
phép hưởng tối đa ba thế hệ, bốn thế hệ hay năm thế hệ (tùy theo chính sách của
mỗi công ty). Thêm một điều nữa là nếu cho hưởng tối đa các thế hệ thì xảy ra tình
trạng: tiền dùng để chi trả hoa hồng cho nhà phân phối sẽ lớn hơn giá trị sản phẩm
(giả sử cứ ở mỗi thế hệ công ty sẽ chi trả cho nhà phân phối 5% thì tới thế hệ thứ 10
đã có 50% dùng để chi trả hoa hồng, và để đến thế hệ 20 con số đã lên tới 100%) vì
thế người tham gia chỉ được hưởng đến một mức nhất định nào đó.
Vì mô hình này không có sự thoát ly cho nên kế hoạch một cấp chi trả cho
chúng ta một số ít mức. Về mặt lý thuyết, chúng ta có thể bổ sung sự thiếu sót này

bằng cách tuyển mộ một số lượng lớn người vào mức một của chúng ta. Nhưng,
mặc dù các sơ đồ một cấp không giới hạn số lượng người được chúng ta đỡ đầu, thì
vẫn có sự hạn chế cơ học về tính hiệu quả của việc đỡ đầu. Do sự hạn chế mức chi
trả nên có thể những người ở mức trên sẽ không cần chăm sóc, giúp đỡ những tầng
mình không được hưởng hoa hồng (nếu chính sách quy định chỉ cho hưởng đến tầng
5 thì chăm sóc tầng 6, tầng 7 sẽ không mang lại lợi ích gì) và như thế không mang
tính nhân bản và bền vững.
1.3.3. Mô hình bậc thang ly khai
Bậc thang ly khai là mô hình tiên tiến nhất hiện nay. Nó cho phép mỗi nhà phân
phối được tuyển tuyến dưới với số lượng tùy thích (cũng giống như mô hình đều
tầng). Ngoài hệ thống thế hệ, bậc thang ly khai còn tạo ra một hệ thống cấp bậc. Ở
mỗi cấp bậc, nhà phân phối được hưởng hoa hồng cá nhân khác nhau, là hoa hồng
đội nhóm cũng khác nhau tùy vào cấp bậc của nhà phân phối tuyến dưới. Vì thế, mô
hình cho phép nhà phân phối hưởng không giới hạn thế hệ mà vẫn bảo đảm được
tính công bằng.
Đặc trưng của Bậc thang ly khai là hệ thống được quản lý theo hệ thống cấp bậc,
tức là phần trăm (%) hoa hồng sẽ được phân chia theo hệ thống cấp bậc. Mỗi cấp
bậc sẽ có mức hoa hồng riêng và hoa hồng khối lượng (giá trị thặng dư) sẽ được
tính dựa trên số dư từ % hoa hồng cao trừ đi % hoa hồng thấp hơn. Ví dụ, A tham
gia vào mạng lưới và hiện giờ anh đang ở cấp bậc, mà tại đó anh nhận được 12%,


15

và trong đội nhóm của anh có B hiện đang hưởng mức 5%, như vậy, A sẽ nhận được
7% giá trị hàng hóa do B tiêu thụ được, và cho dù B ở bất cứ tầng nào trong hệ
thống A vẫn nhận được giá trị 7% (miễn là giữa hai người không có người có cấp
bậc cao hơn B). Như vậy, hệ thống sẽ luôn bảo đảm rằng nó tồn tại và công bằng.
Khi các nhà phân phối trong mạng lưới tầng dưới của chúng ta đạt đến trạng thái
vượt cấp nhất định thì họ sẽ “bứt ra” khỏi nhóm của chúng ta. Chúng ta sẽ không

còn nhận được các khoản hoa hồng trực tiếp từ các sản phẩm của họ hay là mạng
lưới của họ bán nữa. Tuy nhiên chúng ta vẫn sẽ tiếp tục nhận được một khoản lợi
tức hoa hồng nhỏ từ khối lượng của nhóm các nhà phân phối đã tách ra và từ mạng
lưới của họ. Nên nhớ rằng, phần trăm hoa hồng nhỏ nhưng từ một mạng lưới lớn.
Ưu điểm: Trong số các sơ đồ kinh doanh thì sơ đồ bậc thang bảo đảm khả năng
đạt được phúc lợi lớn nhất. Vấn đề ở chỗ là các đặc trưng thoát ly cho phép chúng ta
xây dựng tổ chức lớn hơn và lấy ra được các khoản hoa hồng từ nhiều cấp hơn các
sơ đồ kiểu khác.
Mô hình này cho phép chúng ta nhận được các khoản hoa hồng ở nhiều mức hơn
bất kỳ sơ đồ nào khác. Nếu như nhà phân phối có một tổ chức 6 mức của mình thì
điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ nhận được các khoản hoa hồng từ số hàng hóa bán
được ở mức thứ 12 của chúng ta. Mô hình này cho phép thu về các khoản thu nhập
từ mức thứ 20, độ sâu này trong các mô hình khác không thể đạt tới.
Bậc thang ly khai đem đến một độ rộng không hạn chế. Chúng ta có thể bảo trợ
vào tầng 1 của mình bao nhiêu người tùy khả năng của chúng ta. Những người do
chúng ta bảo trợ cũng có thể bảo trợ như thế. Do đó, Chúng ta có thể mở rộng mãi
mãi khi xây dựng mạng lưới tầng dưới rộng lớn của mình, có khi lên tới hàng chục
nghìn nhà phân phối.
1.4. Vai trò của bán hàng đa cấp
Phía doanh nghiệp: Doanh nghiệp không cần bỏ ra 1 khoản tiền lớn cho quảng
cáo và chi phí cho nhiều khâu trung gian là các đại lý và cửa hàng bán lẻ, chi phí
vận chuyển như trong mô hình kinh doanh truyền thống, Khoản tiền tiết kiệm từ các
chi phí trung gian có thể dùng để nâng cao chất lượng sản phẩm, uy tín công ty
được tăng cao, sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường cũng ngày càng
vững mạnh. Doanh nghiệp có một lượng khách hàng lớn đồng thời là nhà phân phối
sản phẩm của mình và như vậy nhiều khách hàng của công ty có thêm thu nhập để
có điều kiện sử dụng sản phẩm, điều này góp phần làm tăng doanh số của công ty
(kích cầu).



16

Người tham gia bán hàng đa cấp: không cần đầu tư nhiều vốn, làm việc tự do,
không cần kinh nghiệm, trình độ học vấn vì sẽ được đào tạo, phù hợp cho mọi lứa
tuổi, mọi tầng lớp trong xã hội. Người tham gia ban hàng đa cấp còn có nhiều cơ
hội mở rộng quan hệ, được nhiều người giúp đỡ, hỗ trợ, và có thể hưởng nhiều lợi
ích (tùy thuộc vào chính sách của công ty).
Xã hội: Hình thức kinh doanh này là một trong những phương pháp kích cầu rất
mạnh, tạo nhiều công ăn việc làm cho xã hội, nhà nước có thêm nguồn thu thuế lớn
từ các doanh nghiệp bán hàng đa cấp (tính đến hết năm 2013, các doanh nghiệp bán
hàng đa cấp đã đóng góp vào ngân sách nhà nước hơn 1000 tỷ đồng 11). Người tiêu
dùng trong nước được tiếp cận với hàng hóa chất lượng mà giá cả phải chăng.
Kết luận chương 1:
Bán hàng đa cấp với những ưu điểm vượt trội so với kinh doanh truyền thống,
do đó, dù mới xuất hiện ở Việt Nam trong những năm gần đây nhưng lại có tốc độ
phát triển rất nhanh, và hứa hẹn trong thời gian tới nó sẽ còn tiếp tục phát triển hơn
nữa. Do đặc thù của loại hình kinh doanh này khá phức tạp, nên nhiều người chưa
hiểu đúng về bán hàng đa cấp, chưa có cái nhìn khách quan. Hơn thế nữa, trong thời
gian qua, có nhiều doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở của pháp luật trong việc quản lý
hoạt động bán hàng đa cấp, lợi dụng danh nghĩa là doanh nghiệp bán hàng đa cấp,
để thực hiện những hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản của người dân làm cho
người dân mất lòng tin vào bán hàng đa cấp, ảnh hưởng uy tín đến những doanh
nghiệp bán hàng đa cấp chân chính. Mặt khác, lại có nhiều người tin tưởng vào
những doanh nghiệp bán hàng đa cấp một cách mù quáng, nhẹ dạ tin vào những lời
chào "mật ngọt chết ruồi" đầy hấp dẫn của nhân viên bán hàng đa cấp mà nhiều
người trở thành nạn nhân của các công ty lừa đảo12.
Để tránh những trường hợp trên xảy ra, chúng ta cần trang bị cho mình những
kiến thức cần thiết để bảo vệ bản thân và những người xung quanh. Hơn nữa, các
quy định pháp luật phải chặt chẽ hơn nữa nhằm bảo vệ tốt quyền lợi của người tiêu
dùng, cũng như những doanh nghiệp bán hàng đa cấp chân chính, các nhà làm luật

cần dự phòng được những tình huống xấu có thể xãy ra, có thể tham khảo kinh
nghiệm của các nước phát triển trong lĩnh vực này, nhằm tránh sự lạc hậu, lỗi thời
của pháp luật. Ngoài ra cần có biện pháp xử lý mạnh những doanh nghiệp bán hàng
11 Theo số liệu thống liệu thống kê từ Cục Quản Lý Cạnh Tranh- Bộ Công Thương.
/>12 />

17

đa cấp bất chính vừa mục đích xử phạt vừa răn đe các doanh nghiệp khác, để bán
hàng đa cấp được phát triển lành mạnh ở thị trường Việt Nam.

CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BÁN
HÀNG ĐA CẤP
2.1. Sự ra đời của pháp luật trong lĩnh vực quản lý hoạt động kinh doanh
đa cấp.
Kinh doanh đa cấp bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ năm 2000 13, tuy nhiên thời
điểm này, ở Việt Nam chưa có bất kì một văn bản pháp luật nào điều chỉnh về lĩnh
vực này.
Đến thời điểm cuối năm 2004, tại Việt Nam đã có khoảng 20 Công ty bán hàng
đa cấp phân phối sản phẩm chủ yếu về ngành chăm sóc sức khoẻ và sắc đẹp. Để hoà
nhập với xu hướng chung của thế giới cũng như đáp ứng tình hình thực tế tại Việt
Nam hành lang pháp lý về kinh doanh theo mạng đã dần hình thành:
Ngày 01-07-2005, luật Cạnh tranh có hiệu lực thi hành trong đó có những điều
khoản quy định về bán hàng đa cấp.
Ngày 24-08-2005, Nghị định 110/2005/NĐ-CP của chính phủ về Quản lý hoạt
động bán hàng đa cấp được ban hành phần nào đã tạo ra một hành lang pháp lý để
13 />

18


bảo vệ các công ty và nhà phân phối chân chính. Tuy nhiên, nghị định vẫn còn
nhiều kẽ hở khiến cho một số công ty lợi dụng.
Ngày 08-11-2005, Bộ thương mại ban hành thông tư hướng dẫn một số nội dung
tại Nghị định 110/2005/NĐ-CP về quản lý bán hàng đa cấp.
Năm 2008, trong bối cảnh thế giới lâm vào khủng hoảng kinh tế, đại gia làng
công nghệ là FPT cũng đã nhảy vào bán hàng đa cấp với sự ra đời của FPT Network
(FN), thành viên của FPT Telecom với kỳ vọng hình thức kinh doanh này sẽ giúp
FPT Telecom tiết giảm những chi phí quản lý, chi phí quảng cáo, giảm thiểu những
rủi ro và tạo ra sự đột phá trong việc kinh doanh14.
Đầu tháng 10, năm 2009, Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam được thành lập.
Hiệp hội được thành lập và bổ nhiệm bà Trương Thị Nhi (Tổng giám đốc công ty
TNHH TM Lô Hội, nhà đại diện tại Việt Nam của tập đoàn Forever Living Products
Hoa Kỳ) là chủ tịch nhiệm kỳ 2009-2014.
Ngày 31 tháng 03 năm 2010, Hiệp hội bán hàng đa cấp Việt Nam (Vietnam
MLMA) chính thức ra mắt tại Hà Nội.
Bán hàng đa cấp đã phát triển một cách bùng nổ, mặc dù pháp luật Việt Nam đã
có sự điều chỉnh tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập. Do đó, Ngày 14 tháng
5 năm 2014, Chính phủ ban hành nghị định 42/2014/NĐ-CP, bao gồm các quy định
về hoạt động bán hàng đa cấp và quản lý hoạt động bán hàng đa cấp. Nghị định này
có hiệu lực từ 1 tháng 7 năm 2014 thay thế nghị định 110/2005/NĐ-CP của Chính
phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp, với nhiều quy định tiến bộ nhằm góp
phần thúc đẩy quản lý trong hoạt động bán hàng đa cấp.
Ngày 30 tháng 07 năm 2014, Thông tư 24/2014/TT-BCT của Bộ Công thương
được ban hành nhằm hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Nghị định
42/2014/NĐ-CP.
Để tránh trường hợp lạc hậu luật pháp phải liên tục được cập nhật và hoàn thiện
để bắt kịp thời đại. Trong năm vừa qua với sự ra đời của những văn bản pháp luật
trong lĩnh vực này, đã mang lại luồng gió mới cho hoạt động bán hàng đa cấp, giúp
thị trường Việt Nam sàng lọc những doanh nghiệp làm ăn bất chính, góp phần bảo
vệ tốt lợi ích của tiêu dùng.

14 />

19

2.2. Thủ tục đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp
2.2.1. Điều kiện đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp:
Tổ chức đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp phải đáp ứng các điều kiện sau:15
Là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam theo quy định của pháp luật, có
đăng ký kinh doanh ngành bán lẻ theo phương thức đa cấp.
Vốn pháp định của doanh nghiệp đăng ký kinh doanh ngành bán lẻ theo phương
thức đa cấp là 10 tỷ đồng. Ngoài ra doanh nghiệp bán hàng đa cấp phải ký quỹ một
khoản tiền tương đương 5% vốn điều lệ nhưng không thấp hơn 5 tỷ đồng (năm tỷ
đồng) tại một ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính, đây là
những quy định mới của Nghị định số 42/2014/NĐ-CP, xuất phát từ thực tiễn hoạt
động bán hàng đa cấp đã gây ra những bất bình cho cộng đồng xã hội thời gian qua,
do có những doanh nghiệp kinh doanh theo phương thức bán hàng đa cấp biến
tướng, lừa đảo; Nghị định số 42/2014/NĐ-CP đã đưa ra cơ chế sàng lọc cơ bản từ
khâu gia nhập thị trường bằng cách tăng vốn pháp định và số tiền ký quỹ bằng cách
này có thể đảm bảo khả năng tài chính của doanh nghiệp trong việc xây dựng cơ sở
vật chất, tổ chức mạng lưới một cách bền vững và hiệu quả, và bảo vệ lợi ích cho
người tham gia bán hàng đa cấp.
Hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp phù hợp với nội dung ghi trong
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đầu tư.
Có đủ điều kiện kinh doanh hoặc được cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh
doanh theo quy định của pháp luật trong trường hợp kinh doanh hàng hóa kinh
doanh có điều kiện.
Có Quy tắc hoạt động, Chương trình trả thưởng, Chương trình đào tạo cơ bản
không trái quy định của pháp luật.
Thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, chủ sở hữu doanh nghiệp tư
nhân, thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, cổ đông sáng lập đối với

công ty cổ phần, người đại diện theo pháp luật đối với công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần phải là những cá nhân chưa từng giữ một trong các chức vụ nêu
trên tại doanh nghiệp bán hàng đa cấp đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt
động bán hàng đa cấp theo quy định pháp luật.

15 Điều 7 Nghị định 42/2014/NĐ-CP, quy định về điều kiện đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp.


20

2.2.2. Trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng
đa cấp
Cục Quản lý cạnh tranh có trách nhiệm tiếp nhận, thẩm định và cấp Giấy chứng
nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp cho doanh nghiệp đăng ký hoạt động bán
hàng đa cấp. Trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa
cấp phải qua các bước như tiếp nhận hồ sơ, thẩm định hồ sơ, và cuối cùng là cấp
giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp 16. Về thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp đã có sự đổi mới, theo quy định
trước kia thẩm quyền này thuộc về Sở Thương mại hoặc Sở Thương mại – Du
lịch17, nhưng nay thuộc về Cục Quản lý cạnh tranh. Việc chuyển giao thẩm quyền
như vậy là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì, các cơ quan cạnh tranh có trách nhiệm trong
việc nhận diện các hình thức bán hàng đa cấp bất chính, kiểm tra về nội dung các
chương trình bán hàng, chương trình đào tạo người tham gia nhờ vậy có thể ngăn
chặn được các doanh nghiệp bán hàng đa cấp bất chính ngay từ đầu làm giảm được
thiệt hại cho xã hội.
2.2.3. Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp
Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp có hiệu lực trong vòng 5
năm kể từ ngày ký18. Trước đây, theo quy định của Nghị định số 110/2005/NĐ-CP,
các doanh nghiệp bán hàng đa cấp được tạo điều kiện hoạt động tự do, tuy nhiên,
nhiều doanh nghiệp trong ngành đã lợi dụng kẽ hở của pháp luật để thực hiện nhiều

hành vi vi phạm, ảnh hưởng xấu đến người tham gia và người tiêu dùng. Do đó, cần
phải thắt chặt quản lý với loại hình kinh doanh này thông qua việc quy định thời
hạn giấy phép. Nghị định số 42/2014/NĐ-CP đã quy định thêm hiệu lực của Giấy
chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp là 5 năm và có thể được gia hạn 19.
Việc đưa ra quy định này giúp cơ quan quản lý có thể rà soát các điều kiện hoạt
động của doanh nghiệp trong ngành (vốn pháp định, ký quỹ, hàng hóa, mô hình trả
thưởng…) để đảm bảo các doanh nghiệp sau khi đăng ký kinh doanh có tiến hành
hoạt động và tuân thủ các quy định của pháp luật. Sau thời gian này, doanh nghiệp
16 Chi tiết các bước được thực hiện theo quy định tại Điều 3 thông tư số 24/2014/TT-BCT của Bộ Công
thương, ngày 30/7/2014 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày
14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.
17 Quy định tại điều 16 Nghị định Số: 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005của Chính phủ Về quản lý hoạt động
bán hàng đa cấp
18 Theo quy định tại khoản 1, điều 9, Nghị định số 42/2014/NĐ-CP.
19 Theo quy định tại khoản 1, điều 12, Nghị định số 42/2014/NĐ-CP.


21

có trách nhiệm thực hiện thủ tục gia hạn Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán
hàng đa cấp để có thể tiếp tục hoạt động bán hàng đa cấp.
2.2.4. Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp
Pháp luật bán hàng đa cấp đã liệt kê các đối tượng bị thu hồi Giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp bao gồm: a) Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp, Giấy chứng nhận đầu tư bị thu hồi hoặc hết hiệu lực; b) Hồ sơ đề nghị cấp
Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp có thông tin gian dối; c)
Doanh nghiệp bị xử phạt về một số hành vi vi phạm theo quy định trong quá trình
tổ chức hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật; d) Doanh nghiệp
không triển khai hoạt động bán hàng đa cấp trong thời hạn 12 tháng liên tục kể từ
ngày được cấp Giấy Chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp; đ) Doanh

nghiệp không đáp ứng đầy đủ các điều kiện đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp
theo quy định; e) Doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động bán hàng đa cấp quá 12
tháng liên tục; g) Doanh nghiệp giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật.20
Cơ quan có trách nhiệm thu hồi giấy đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp là Cục
Quản lý cạnh tranh21. Trong trường hợp bị thu hồi giấy đăng ký hoạt động bán hàng
đa cấp, doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán
hàng đa cấp tại Cục Quản lý cạnh tranh; doanh nghiệp bán hàng đa cấp phải đình
chỉ ngay việc bán hàng đa cấp, đình chỉ việc tuyển dụng người tham gia mới và phải
thực hiện trách nhiệm đối với người tham gia theo quy định của pháp luật hoặc bồi
thường cho người tiêu dùng, người tham gia đối với các vụ việc phát sinh từ những
giao kết trước ngày bị thu hồi giấy đăng ký tổ chức bán hàng đa cấp. Ngoài ra Cục
Quản lý cạnh tranh còn có trách nhiệm thông báo cho các Sở Công Thương trên
toàn quốc và công bố trên trang thông tin điện tử của Cục Quản lý cạnh tranh về
việc thu hồi giấy đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp.
2.2.5. Tạm ngừng, chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp
Doanh nghiệp bán hàng đa cấp được phép tạm ngừng hoạt động bán hàng đa cấp
trong thời hạn không quá 12 tháng liên tục 22. Khi tạm ngừng hoạt động bán hàng đa
cấp, doanh nghiệp bán hàng đa cấp phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ theo quy
20 Theo quy định tại khoản 1, điều 14 Nghị định số 42/2014/NĐ-CP
21 Theo quy định tại điều 14 Nghị định số 42/2014/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp, Điều 3
Thông tư số 24/2014/TT-BCT ngày 30/7/2014 của Bộ Công thương Quy định chi tiết thi hành một số điều
của Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày 14 tháng 5 năm 2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng
đa cấp
22 Theo quy định tại khoản 1, điều 15 Nghị định số 42/2014/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.


22

định tại Khoản 2 Điều 15 Nghị định số 42/2014/NĐ-CP. Khi tiếp tục hoạt động bán
hàng đa cấp sau thời gian tạm ngừng, doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo bằng văn

bản tới Bộ Công Thương, Sở Công Thương nơi doanh nghiệp có hoạt động bán
hàng đa cấp.
Các doanh nghiệp chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp trong các trường hợp
sau: a) Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp hết hiệu lực; b)
Doanh nghiệp tự nguyện chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp; c) Giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi theo quy định
pháp luật.23
Khi chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp, doanh nghiệp phải thông báo bằng
văn bản tới Bộ Công Thương, Sở Công Thương nơi doanh nghiệp có hoạt động,
người tham gia bán hàng đa cấp và niêm yết công khai tại trụ sở chính, đảm bảo các
quyền lợi của người tham gia theo quy định của pháp luật về quản lý hoạt động bán
hàng đa cấp;
2.3. Điều kiện về người tham gia bán hàng đa cấp
Nghị định 42/2014/NĐ-CP mới ban hành trong năm vừa qua đã có nhiều quy
định đổi mới, trong đó có những quy định về điều kiện để được tham gia bán hàng
đa cấp. Pháp luật đã bắt đầu siết chặt quản lý đối với những người muốn tham gia
bán hàng đa cấp, tránh trường hợp nhiều người lợi dụng hình thức kinh doanh này
thực hiện các hành vi lừa đảo. Theo quy định của Nghị định mới, Sau khi ký hợp
đồng tham gia bán hàng đa cấp, doanh nghiệp bán hàng đa cấp có trách nhiệm đào
tạo và cấp chứng chỉ cho người tham gia bán hàng đa cấp sau khi hoàn thành
Chương trình đào tạo cơ bản được quy định pháp luật. Chỉ những người được cấp
Chứng chỉ Đào tạo viên mới được thực hiện đào tạo người tham gia bán hàng đa
cấp và chỉ những người được cấp thẻ thành viên mới được tham gia bán hàng đa
cấp24. Một số doanh nghiệp bán hàng đa cấp tỏ ra lo lắng về quy định này, tuy
nhiên cũng có nhiều doanh nghiệp đồng tình với những quy định trên, theo ông
How Kam Chiong, Tổng giám đốc Công ty TNHH Amway Việt Nam “Nghị định
mới là một thách thức với doanh nghiệp vì quá trình đào tạo phải đáp ứng các yêu
cầu của cơ quan quản lý. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội giúp doanh nghiệp huấn
luyện lại các đào tạo viên để họ được nâng cao kiến thức về các quy định của ngành
23 Theo quy định tại khoản 1, điều 15 Nghị định số 42/2014/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.

24 Quy định chi tiết tại Điều 20, 21 Nghị định 42/2014/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng
đa cấp.


23

cũng như các quy định của pháp luật. Tất cả doanh nghiệp và những người tham gia
kinh doanh ngành bán hàng đa cấp sẽ phải có trách nhiệm hơn và tuân thủ luật pháp
trong quá trình tham gia hoạt động để tạo được niềm tin với cộng đồng về ngành
nghề này.25
2.4. Các Hành vi bị cấm trong hoạt động bán hàng đa cấp
Nhằm bảo vệ tốt cho quyền lợi của người tiêu dùng và các doanh nghiệp, cá
nhân bán hàng đa cấp chân chính, Pháp luật Việt Nam đã đưa ra những quy định cụ
thể, như một thước đo chuẩn mực để các doanh nghiệp, cá nhân tham gia bán hàng
đa cấp có thể tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với pháp luật và cũng
giúp người tiêu dùng có thể nhận diện được các hành vi kinh doanh bất chính. Các
hành vi kinh doanh đa cấp bị nghiêm cấm được cụ thể hóa tại Điều 5 Nghị định
42/2014/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp
Về phía các doanh nghiệp, Pháp luật nghiêm cấm các doanh nghiệp có các hành
vi thuộc trong những nhóm sau:
- Bán hàng đa cấp nhằm chiếm dụng vốn của người tham gia. Các hành vi bán
hàng đa cấp bất chính được thực hiện nhằm chiếm dụng vốn của người tham gia bao
gồm:
Yêu cầu người muốn tham gia bán hàng đa cấp phải đặt cọc hay đóng một khoản
tiền nhất định, yêu cầu người tham gia bán hàng đa cấp phải trả thêm một khoản
tiền dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền duy trì, phát triển hoặc mở rộng mạng
lưới bán hàng đa cấp của mình. Việc doanh nghiệp đặt ra những điều kiện, tiêu
chuẩn như trên để tuyển dụng người tham gia bán hàng đa cấp là hoàn toàn không
phù hợp. Pháp luật Việt Nam hoàn toàn không nghiêm cấm việc doanh nghiệp đưa
ra những tiêu chuẩn của riêng mình để tuyển dụng những người tham gia vào hệ

thống, doanh nghiệp có thể dựa vào các điều kiện như trình độ học vấn, kinh
nghiệm, khả năng tiếp thị sản phẩm,…vì những điều kiện này là cần thiết trong
công việc. Tuy nhiên việc doanh nghiệp buộc người tham gia bán hàng phải đặt cọc,
hay đóng một khoản tiền nhất định, hay phải mua một lượng hàng hóa nhất định để
đủ tiêu chuẩn tham gia vào hệ thống bán hàng là không hợp lý 26. Bản chất của bán
25 Dẫn từ lời phát biểu của Ông How Kam Chiong, Tổng giám đốc Công ty TNHH Amway Việt Nam trong
buổi tọa đàm "Hành lang pháp lý trong ngành bán hàng đa cấp" diễn ra ngày 25/7 tại Khánh Hòa.
/>26 Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn (2010), Giáo trình Luật Cạnh tranh, Đại học kinh tế
- Luật, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh – Trang 194.


24

hàng đa cấp là người tham gia được hưởng lợi từ kết quả tiếp thị sản phẩm, bán
hàng của mình, chỉ khi họ có hoạt động tiếp thị và bán hàng thì mới đem lại lợi ích
vật chất, còn khi mới gia nhập vào mạng lưới, họ chưa có quyền lợi nào, nên không
thể ràng buộc trách nhiệm vật chất với người tham gia bán hàng đa cấp ngay thời
điểm mới gia nhập vào hệ thống được. Ngoài ra việc đặt cọc là phải đi kèm với việc
thực hiện một hoặc một số nghĩa vụ. Do đó, nếu đặt cọc là một điều kiện để tham
gia mạng lưới bán hàng đa cấp là trái với bản chất của việc đặt cọc hay của nghĩa vụ
trả tiền trong các thương vụ.
Yêu cầu người tham gia hội nghị, hội thảo, khóa đào tạo phải trả tiền hoặc phí
dưới bất kỳ hình thức nào, trừ chi phí hợp lý để mua tài liệu đào tạo.Việc tham gia
các khóa đào tạo, hay các hội thảo nhằm giúp người tham gia bán hàng đa cấp nâng
cao kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn, đặc thù của mô hình kinh doanh đa cấp là
các thành viên hoạt động đội nhóm giúp nhau cùng phát triển, các thành viên chia
sẽ kinh nghiệm cho nhau. Do đó không một doanh nghiệp nào được phép mở các
hội nghị, hội thảo các khóa đào tạo và kiếm lợi từ các hoạt động đó, càng không
được ép buộc người tham gia bán hàng đa cấp phải trả những chi phí không cần
thiết phục vụ cho việc đào tạo.

Thu phí cấp, đổi thẻ thành viên;
Từ chối chi trả không có lý do chính đáng các khoản hoa hồng, tiền thưởng hay
các lợi ích kinh tế khác mà người tham gia bán hàng đa cấp có quyền hưởng. Hoa
hồng, tiền thưởng, hay các lợi ích kinh tế khác mà người tham gia được hưởng là
những khoản thu có được của người tham gia, do người tham gia bỏ công sức tạo
lập được. Vì vậy họ có quyền được nhận các khoản hoa hồng hay tiền thưởng hoặc
các lợi ích kinh tế hợp pháp đó. Bất kỳ một hành vi từ chối chi trả của Doanh
nghiệp mà không có căn cứ cụ thể, rõ ràng đã thể hiện rõ mục đích chiếm dụng vốn
của doanh nghiệp thông qua việc không hoàn trả các khoản lợi chính đáng của
người tham gia. Do đó, để bảo vệ quyền lợi cho người tham gia, hành vi này được
pháp luật cấm doanh nghiệp thực hiện.
Thí dụ về chiến lược chiếm dụng vốn trong bán hàng đa cấp là vụ việc của công
ty TNHH Thế giới mới. Theo phương thức kinh doanh của công ty Thế giới mới (là
công ty chuyên phân phối não bạch kim Melatonin và tải xoắn Spirulina với tên gọi
là “thực phẩm bổ dưỡng”), những người muốn tham gia vào hệ thống kinh doanh đa
cấp phải đặt một khoản tiền cọc với sự phân biệt giữa các vùng miền trên cả nước
(tùy theo mức độ hấp dẫn và phát triển của thị trường) mới có quyền tham gia.


25

Những người tham gia ở các tỉnh phía nam phải đặt 240 USD, còn phía bắc 120
USD tiền đặt cóc mới được cấp giấy ủy quyền làm đại lý trong một năm cùng với 3
hộp thực phẩm bổ dưỡng đi tiếp thị, mở rộng thị trường của doanh nghiệp. Hợp
đồng được thực hiện theo 9 đợt, mỗi đợt kéo dài 10 ngày. Sau 6 kỳ nộp tiền, người
tham gia sẽ được thưởng ở kỳ thứ bảy 33 USD, nếu giới thiệu được hai đại lý mới
sẽ được thưởng 36 USD, số tiền thưởng mỗi năm sẽ tăng lên theo số đại lý mới và
doanh thu do bán sản phẩm. Nếu hoàn thành các chỉ tiêu do công ty đề ra, ngoài
việc nhận lại tiền đặt cọc người tham gia được nhận thêm ít nhất 135 USD. Trong
vòng 2 tháng kể từ ngày ký hợp đồng, nếu không tiêu thụ được sản phẩm người

tham gia sẽ được công ty hoàn trả lại 120 USD ban đầu dưới dạng “ kinh phí quãng
cáo theo định kỳ” và được hưởng 3 sản phẩm do công ty giao ban đầu. Sau đó công
ty sẽ chấm dứt hợp đồng. Với những thông tin hấp dẫn đó, công ty Thế giới mới đã
thiết lập được một hệ thống đại lý theo kiểu bán hàng đa cấp với hơn 4000 người
tham gia và số tiền đặt cọc thu về là rất lớn (trong vòng 4 tháng hoạt động). Sau đó
với lý do các chuyên gia Trung Quốc bỏ trốn, công ty Thế giới mới đã chấm dứt
hoạt động bán hàng đa cấp của nó. Để những người tham gia muốn đặt cọc hoặc trả
một khoản tiền nhất định, doanh nghiệp bán hàng đa cấp thường đưa ra những lời
mời chào hấp dẫn về thu nhập trong tương lai. Nếu bình tĩnh trước sự hấp dẫn của
đồng tiền, doanh nghiệp không thể kham nổi với chi phí thưởng quá lớn dành cho
người tham gia. Từ đó có thể thấy trước khả năng lừa đảo để chiếm đoạt số tiền đặt
cọc là rất cao.27
- Các hành vi tổ chức bán hàng, tìm kiếm lợi nhuận từ việc dồn hàng cho người
tham gia:
Việc dồn hàng cho người tham gia được thực hiện thông qua các hành vi: ép
người người muốn tham gia bán hàng đa cấp phải mua một số lượng hàng hóa dưới
bất kỳ hình thức nào để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp hoặc
doanh nghiệp bán hàng đa cấp không cam kết cho người tham gia bán hàng đa cấp
trả lại hàng hóa và nhận lại khoản tiền đã chuyển cho doanh nghiệp 28; Cản trở người
tham gia bán hàng đa cấp trả lại hàng hóa. Các doanh nghiệp bán hàng đa cấp bất
chính thường yêu cầu người tham gia phải bán được một lượng hàng hóa nhất định
mỗi tháng là điều kiện để duy trì quyền tham gia mạng lưới, hoặc phải bán được
27 Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn (2010), Giáo trình Luật Cạnh tranh, Đại học kinh tế
- Luật, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh – trang 195.
28 Được quy định chi tiết tại điều Điều 26 Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính Phủ về
quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.


×