Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân tích và bình luận quy định pháp luật Việt Nam về thi hành và hủy phán quyết trọng tài.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.02 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
NỘI DUNG
I. Khái niệm phán quyết trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại (TTTM) là một phương thức giải quyết tranh chấp thương mại,
theo đó các bên tranh chấp thỏa thuận đưa tranh chấp ra trước một Hội đồng trọng tài vụ
việc hoặc Trung tâm trọng tài để giải quyết và được tiến hành theo trình tự thủ tục quy
định của pháp luật trọng tài thương mại.
Khi các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài về việc giải quyết tranh chấp, Trọng tài
sẽ thụ lý để giải quyết theo một trình tự, thủ tục mà pháp luật về TTTM quy định. Kết thúc
quá trình giải quyết tranh chấp (gọi là tố tụng trọng tài), TTTM sẽ đưa ra quyết định giải
quyết cuối cùng gọi là phán quyết. Phán quyết được hiểu là “ra một quyết định có giá trị
pháp lý ai cũng phải thực hiện” hay là “quyết định để mọi người phải tuân theo”. Có thể
hiểu rằng, phán quyết là kết quả cuối cùng của một trình tự, thủ tục pháp lý theo quy định
của pháp luật. Khi xảy ra tranh chấp, các bên có quyền lựa chọn phương thức giải quyết
khác nhau, đó có thể là Tòa án, Trọng tài hay thương lượng, hòa giải. Dù lựa chọn phương
thức giải quyết nào thì cuối cùng, điều mà các bên tranh chấp mong muốn nhận được là kết
quả giải quyết. Khoản 10 Điều 3 Luật TTTM năm 2010 quy định: “ Phán quyết trọng tài
là quyết định của Hội đồng TTTM giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng
trọng tài buộc các bên tranh chấp phải thực hiện”.
Phán quyết trọng tài thương mại (sau đây gọi tắt là Phán quyết trọng tài) mang một số
đặc điểm sau:
Một là, phán quyết Trọng tài là quyết định giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp và chấm
dứt tố tụng trọng tài của Hội đồng trọng tài.
Quá trình giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp của Hội đồng trọng tài được tính từ thời
điểm “Trung tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn” đối với trường hợp
tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài hoặc “tính từ khi bị đơn nhận được đơn
khởi kiện” đối với trường hợp tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc đến khi


Trọng tài họp phiên cuối cùng đưa ra quyết định về giải quyết tranh chấp. Quá trình đó
phải tuân theo một trình tự, thủ tục luật định. Kết thúc quá trình đó, một phán quyết sẽ
được đưa ra, phán quyết đó là chung thẩm. Sự khác biệt giữa phán quyết chung thẩm này
với các loại quyết định khác mà Hội đồng trọng tài có thể ban hành là ở chỗ nó “giải quyết
mọi vấn đề (hoặc vấn đề còn lại) đã đưa ra Trọng tài. Nó thông thường là kết quả của một
quá trình tranh luận thấu đáo của Hội đồng trọng tài…”, “nghĩa là nó giải quyết tận gốc
mọi vấn đề và nó có tính ràng buộc đối với các bên”.
Phán quyết Trọng tài không phải được trình bày một cách tùy tiện mà phải tuân theo
một quy định chung về hình thức văn bản cũng như nội dung theo quy định của Luật. Điều
2
61 Luật TTTM năm 2010 quy định rõ về nội dung và hình thức của phán quyết trọng tài,
cụ thể, phán quyết trọng tài phải được lập bằng văn bản và có các nội dung chủ yếu sau
đây: Ngày, tháng, năm và địa điểm ra phán quyết; Tên, địa chỉ của nguyên đơn và bị đơn;
Họ, tên, địa chỉ của Trọng tài viên; Tóm tắt đơn khởi kiện và các vấn đề tranh chấp; Căn
cứ để ra phán quyết, trừ khi các bên có thỏa thuận không cần nêu căn cứ trong phán quyết;
Kết quả giải quyết tranh chấp; Thời hạn thi hành phán quyết; Phân bổ chi phí trọng tài và
các chi phí khác có liên quan; Chữ ký của Trọng tài viên. Trên cơ sở quy định chung về nội
dung và hình thức Phán quyết Trọng tài, mỗi một Trung tâm Trọng tài hay một Hội đồng
Trọng tài vụ việc có thể có những cách luận giải, trình bày khác nhau nhưng bắt buộc phải
tuân theo quy định chung đó.
Khi phán quyết Trọng tài được đưa ra đồng nghĩa với việc vụ tranh chấp đã được giải
quyết toàn bộ và thủ tục trọng tài chấm dứt. Như vậy, có thể hiểu phán quyết của trọng tài
là sản phẩm cuối cùng của quá trình tố tụng trọng tài. Với ý nghĩa là phán quyết của một
cơ quan tài phán, phán quyết trọng tài kết thúc quá trình tố tụng. Về hình thức, phán quyết
trọng tài tạo ra một sự kiện pháp lý mà theo đó tranh chấp chấm dứt. Về nội dung, phán
quyết trọng tài đưa ra các kết luận khách quan về tranh chấp, quy định quyền và nghĩa vụ
mà các bên tham gia tranh chấp phải thực hiện.
Hai là, phán quyết trọng tài buộc các bên tranh chấp phải thực hiện
Một trong những nguyên tắc hoạt động cơ bản của TTTM là “Phán quyết trọng tài là
chung thẩm” (Khoản 5 Điều 4 Luật TTTM), có nghĩa là sau khi TTTM đưa ra phán quyết

thì các bên không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hoặc một Tòa án nào (trừ
trường hợp có đủ bằng chứng cho rằng phán quyết đó có vi phạm pháp luật thì có quyền
yêu cầu Tòa án có thẩm quyền hủy). Đây là một ưu thế xuất phát từ bản chất của TTTM.
Phán quyết của TTTM là do một chủ thể (Trọng tài viên hoặc Hội đồng trọng tài gồm
nhiều Trọng tài viên) được các bên thỏa thuận thành lập đưa ra, do đó các bên tranh chấp
phải có tránh nhiệm thi hành. Chính nhờ ưu thế này mà các nhà kinh doanh không bị kéo
vào vòng kiện tụng, tốn kém tiền bạc và thời gian như ở Tòa án.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm: Phán quyết TTTM là văn bản có
giá trị pháp lý của Hội đồng TTTM giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp thương mại giữa các
bên tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài buộc các bên tranh chấp phải thực hiện.
II. Thi hành phán quyết trọng tài thương mại
1.Khái niệm thi hành phán quyết Trọng tài
Khi một quyết định của cơ quan tài phán được ban hành, có hiệu lực theo quy định
của pháp luật thì những đối tượng chịu trách nhiệm thực hiện phải tự giác chấp hành. Phán
quyết Trọng tài là văn bản có giá trị pháp lý chung thẩm, các bên tranh chấp phải có nghĩa
3
vụ thi hành, không thể kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức, Tòa án nào và cũng không thể
bị cơ quan nào kháng nghị, do đó, không có lý do gì nó không được thi hành. Thi hành
phán quyết trọng tài là hành vi tự nguyện thực hiện phán quyết trọng tài của các bên tranh
chấp hoặc hành vi của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc các bên tranh chấp phải
thực hiện phán quyết theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
2. Nội dung của pháp luật về thi hành phán quyết TTTM
Thi hành phán quyết trọng tài được chia làm hai trường hợp:
Một là, bên phải thi hành phán quyết trọng tài tự nguyện thi hành phán quyết;
Hai là, bên phải thi hành phán quyết trọng tài không tự nguyện thi hành và cũng
không yêu cầu hủy phán quyết .
2.1 Trường hợp bên phải thi hành phán quyết tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài
Như đã phân tích trên, phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày
ban hành, các bên tranh chấp có nghĩa vụ thi hành. Khi nhận được phán quyết trọng tài, các
bên thỏa thuận thống nhất thi hành theo phán quyết, tức là các bên tự mình, không cần có

sự can thiệp của bất kỳ tổ chức, cá nhân, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nào, tự giác thi
hành phán quyết đó. Trong trường hợp này, các bên tranh chấp nhận thấy rằng phán quyết
trọng tài là hợp tình, hợp lý, phù hợp với nguyện vọng của các bên hoặc do bản thân họ
muốn tiếp tục duy trì quan hệ làm ăn lâu dài, hoặc đơn giản vì họ thấy rằng việc phản đối
phán quyết trọng tài là phi thực tế, tốn kém công sức, thời gian và tiền bạc… nên họ tự
nguyện thi hành phán quyết trọng tài. Hành động tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài
của các bên trong phán quyết không chỉ là mong muốn của các bên tranh chấp và các tổ
chức trọng tài mà cũng chính là chủ trương, là mong muốn của Đảng và Nhà nước trong
việc khuyến khích các tổ chức, cá nhân tự giác chấp hành pháp luật, hạn chế đến mức tối
đa phải áp dụng quyền lực Nhà nước, phù hợp với quy định “Nhà nước khuyến khích các
bên tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài” (Điều 32 Luật TTTTM).
2.2. Trường hợp bên phải thi hành phán quyết trọng tài không tự nguyện thi hành phán
quyết và cũng không yêu cầu hủy phán quyết
2.2.1 Thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài
Khoản 1 Điều 8 Luật TTTM quy định: “Cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành
phán quyết trọng tài là cơ quan THADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Hội
đồng trọng tài ra phán quyết”. Theo quy định đó thì cơ quan có thẩm quyền ra phán quyết
trọng tài là cơ quan THADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Hội đồng trọng tài
ra phán quyết. Điều 14 Luật THADS năm 2008 quy định cơ quan THADS cấp tỉnh có
nhiệm vụ hết sức quan trọng, thể hiện đặc thù của ngành THADS là “trực tiếp tổ chức thi
4
hành bản án, quyết định theo quy định tại Điều 35” của Luật THADS. Cụ thể đó là các
bản án, “quyết định của Trọng tài thương mại”.
2.2.2. Quyền yêu cầu thi hành phán quyết trọng tài thương mại
Điều 66 Luật Trọng tài thương mại quy định rõ bên được thi hành phán quyết trọng
tài thương mại có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán
quyết trọng tài nếu “hết thời hạn tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài mà bên phải thi
hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
theo quy đinh tại Điều 69 của Luật này”. Theo quy định đó thì có thể hiểu điều kiện để bên
được thi hành phán quyết trọng tài yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán

quyết trọng tài là: bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không
yêu cầu hủy phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật. Pháp luật quy định rõ phán
quyết trọng tài bị hủy nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
- Không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu:
Thỏa thuận trọng tài là “thỏa thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng trọng tài
tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh” (Khoản 2 Điều 3 Luật TTTM). Như vậy,
các bên có thể thỏa thuận trọng tài trước hoặc sau khi tranh chấp thương mại phát sinh.
Nếu không có thỏa thuận trọng tài thì tranh chấp thương mại đó không thể giải quyết bằng
phương thức trọng tài, và đương nhiên phán quyết trọng tài nếu có cũng sẽ bị hủy bỏ.
Ngoài ra, có một số trường hợp vẫn có thỏa thuận trọng tài nhưng thỏa thuận đó vẫn bị vô
hiệu.
- Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của
các bên tranh chấp hoặc trái với quy định của Luật TTTM;
- Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, trường hợp phán quyết
trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài thi nội dung đó bị
hủy bỏ;
- Chứng cứ do các bên cung cấp mà Hội đồng trọng tài có căn cứ vào đó để ra phán quyết là
giả mạo; Trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên tranh cháp
làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài;
- Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam (Điều 68 Luật
TTTM).
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một bên có
đủ căn cứ chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong
những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 68 của Luật TTTM thì có quyền làm đơn gửi
Tòa án có thẩm quyền yêu cầu hủy phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng
tài phải kèm theo tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là có
5
căn cứ và hợp pháp. Trường hợp gửi đơn quá hạn vì sự kiện bất khả kháng thì thời gian có
sự kiện bất khả kháng không được tính vào thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
(Điều 69 Luật TTTM).

Như vậy, hết thời hạn tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài mà người phải thi hành
phán quyết trọng tài không tự nguyện thi hành, đồng thời hết thời hạn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài mà không có bên nào làm đơn gửi Tòa án có thẩm quyền hủy phán quyết thì
bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan THADS cấp
tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết thi hành phán quyết trọng tài theo quy định của
pháp luật.
2.2.3 Thủ tục thi hành phán quyết trọng tài
Điều 67 Luật TTTM quy định: “phán quyết trọng tài được thi hành theo quy định của
pháp luật về thi hành án dân sự”. Trình tự thủ tục thi hành án dân sự được hiểu là các bước
THADS do cơ quan THADS có thẩm quyền thực hiện tính từ thời điểm cơ quan THADS
có thẩm quyền thụ lý đơn yêu cầu thi hành án và ra quyết định thi hành án theo đơn yêu
cầu của người được thi hành án đến khi thi hành xong toàn bộ nội dung bản án dân sự và
đưa hồ sơ thi hành án vào lưu trữ. Quá trình này được Chấp hành viên cơ quan THADS
cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết – người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi
hành các bản án, quyết định theo quy định của pháp luật – tổ chức thi hành. Trình tự thủ
tục thi hành án được tiến hành theo các bước sau:
* Đơn yêu cầu thi hành án
Hết thời hạn tự nguyện thi hành phán quyết trọng tài theo quy định tại Điều 66 Luật
TTTM, người được thi hành án (THA) có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan THADS có
thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài. Đơn yêu cầu thi hành án phải có các nội dung
chính sau:
- Họ, tên, địa chỉ của người yêu cầu;
- Tên cơ quan THADS nơi yêu cầu;
- Họ, tên, địa chỉ người được THA; người phải THA;
- Nội dung yêu cầu THA;
- Thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành của người phải THA (Điều 31 Luật
THADS).
Người làm đơn yêu cầu THA phải ghi rõ ngày, tháng, năm và ký tên hoặc điểm chỉ;
trường hợp là pháp nhân thì phải có chữ ký của người đại điện hợp pháp và đóng dấu của
pháp nhân. Người yêu cầu THA có quyền yêu cầu cơ quan THADS áp dụng biện pháp bảo

đảm thi hành án theo quy định tại Điều 66 Luật THADS nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy
hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Các biện pháp bảo đảm gồm: Phong tỏa tài khoản;
6
Tạm giữ tài sản, giấy tờ; Tạm dừng việc đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi
hiện trạng tài sản.
Kèm theo đơn yêu cầu THA phải có phán quyết Trọng tài được yêu cầu thi hành và
tài liệu khác có liên quan, nếu có, trong đó bắt buộc phải có thông tin về tài sản và điều
kiện THA của người phải THA. Một điểm mới của Luật THADS năm 2008 khác với Pháp
lệnh THADS năm 2004 là quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin về điều kiện THA thuộc
về người được THA. Theo quy định tại Điều 5, Nghị định số 58/NĐ-CP ngày 13/7/2009
của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của Luật THADS thì người được THA có
quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện THA của người phải
THA. Kết quả xác minh được công nhận và làm căn cứ để tổ chức việc THA, trừ trường
hợp Chấp hành viên thấy cần phải xác minh lại. Nếu người được THA không thể hoặc
không có điều kiện xác minh tài sản và điều kiện THA thì phải có đơn yêu cầu cơ quan
THADS xác minh và phải chịu chi phí. Việc yêu cầu này phải được lập thành văn bản và
phải ghi rõ các biện pháp đã được áp dụng nhưng không có kết quả, kèm theo tài liệu
chứng minh (Điều 44 Luật THADS).
Sau khi hoàn chỉnh nội dung và hình thức đơn yêu cầu THA và các tài liệu kèm theo,
người được THA tự mình hoặc ủy quyền cho người khác yêu cầu THA bằng một trong các
hình thức sau: nộp đơn hoặc trực tiếp trình bày bằng lời nói tại cơ quan THADS; Gửi qua
đường bưu điện (Điều 32 Luật THADS).
*Thụ lý hoặc từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án
Khi nhận đơn yêu cầu THA, cơ quan THADS phải kiểm tra cụ thể nội dung đơn và
các tài liệu kèm theo. Theo quy định của pháp luật, có hai trường hợp xảy ra khi cơ quan
THADS nhận đơn yêu cầu THA:
Một là, trong trường hợp nếu thấy đơn yêu cầu THA không có đầy đủ nội dung theo
quy định tại Điều 31 Luật THADS hoặc không ghi rõ thông tin về điều kiện THA nhưng
không yêu cầu cơ quan THADS xác minh thì cơ quan THADS thông báo để đương sự bổ
sung nội dung đơn yêu cầu THA trước khi ra quyết định THA (Điều 4 Luật THADS).

Hai là, trường hợp nếu thấy có căn cứ từ chối nhận đơn yêu cầu THA thì cơ quan
THADS sẽ không thụ lý đơn của người được THA. Các trường hợp từ chối nhận đơn yêu
cầu gồm: Người được THA không có quyền yêu cầu THA hoặc nội dung đơn yêu cầu
THA không liên quan đến nội dung của bản án, quyết định; Cơ quan THADS được yêu cầu
không có thẩm quyền thi hành bản án, quyết định; Hết thời hiệu yêu cầu thi hành bản án,
quyết định (Điều 34 Luật THADS).
7
Thời hiệu yêu cầu THA được quy định tại Điều 30 Luật THADS, theo đó “Trong thời
hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được THA, người
phải THA có quyền yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền ra quyết định thi hành án…;
Trường hợp người yêu cầu THA chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện
bất khả kháng mà không thể yêu cầu THA đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách
quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu THA”.
Cơ quan THADS từ chối nhận đơn yêu cầu THA phải thông báo bằng văn bản cho
người nộp đơn yêu cầu THA.
Như vậy, nếu xét thấy đơn yêu cầu của người được THA đầy đủ nội dung theo quy
định của pháp luật và không thuộc các trường hợp từ chối nhận đơn yêu cầu THA thì cơ
quan THADS sẽ thụ lý đơn yêu cầu THA và ra quyết định THA theo đơn yêu cầu của
người được THA.
*Ra quyết định thi hành án
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu THA, thủ trưởng
cơ quan THADS ra Quyết định THADS theo đơn yêu cầu (Điều 36 Luật THADS). Quyết
định THADS là văn bản do Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm quyền ban hành theo
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để thi hành một hoặc nhiều khoản của những bản án,
quyết định của Tòa án, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, TTTM… làm căn cứ để CHV
lập hồ sơ và tổ chức việc THA nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước, bảo vệ quyền lợi của
các bên đương sự tham gia vào việc THA. Việc ra quyết định THA được quy định cụ thể
tại Điều 36 Luật THADS và Điều 5 Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13/7/2009 của
Chính phủ. Quyết định THADS của cơ quan THADS được ban hành theo mẫu do Bộ Tư
pháp quy định.

Quyết định THA phải được gửi cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp (Điều 38 Luật
THADS), đồng thời Quyết định THA và các văn bản khác có liên quan đến việc THA phải
được thông báo cho các đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan để họ thực
hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Việc thông báo được thực hiện theo các hình thức:
Thông báo trực tiếp qua cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy định của pháp luât; Niêm
yết công khai (áp dụng trong trường hợp không rõ địa chỉ của người phải THA); Thông
báo trên các phương tiện thông tin đại chúng (Điều 39 Luật THADS).
*Tổ chức thi hành quyết định thi hành án
Quyết định THADS có hiệu lực kể từ ngày ký. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ
ngày ra Quyết định THA, Thủ trưởng cơ quan THADS phải phân công CHV tổ chức thi
hành Quyết định THA đó (Điều 36 Luật THADS).
8
Ngay sau khi nhận phân công của Thủ trưởng, CHV tiến hành các bước thi hành
Quyết định THADS. Trước hết, CHV thông báo cho người phải THA thời hạn tự nguyện
thi hành án là 15 ngày, kể từ ngày người phải THA nhận được hoặc được thông báo hợp lệ
quyết định THA. Như vậy, việc THA mặc dù đã có sự can thiệp của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền nhưng pháp luật về THADS vẫn quy định cho phép người phải THA có một
khoảng thời gian nhất định (15 ngày) để tự nguyện THA. Tuy nhiên, cũng tùy từng trường
hợp nếu xét thấy cần thiết hoặc có yêu cầu của người được THA, CHV có thể áp dụng
ngay các biện pháp bảo đảm THA nhằm ngăn chặn việc đương sự tẩu tán tài sản để trốn
tránh nghĩa vụ THA mặc dù có thể vẫn còn thời hạn tự nguyện thi hành án. CHV không
phải thông báo trước cho đương sự khi áp dụng biện pháp bảo đảm.
Cùng với việc gửi quyết định THA và thông báo thời gian tự nguyện thi hành cho
người phải THA, CHV thực hiện hoạt động xác minh THA. Xác minh THADS là quá trình
tìm kiếm thực tế cho thât người phải THA có điều kiện, khả năng THA hay không. Đây là
hoạt động quan trọng nhất và xuyên suốt nhất trong toàn bộ quá trình THADS và CHV
phải thực hiện. Việc xác minh phải được lập thành biên bản, có xác nhận của tổ trưởng tổ
dân phố, Ủy ban nhân dân, công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến hành xác minh.
Biên bản xác minh phải thể hiện đầy đủ kết quả xác minh.
Kết quả xác minh sẽ dẫn tới những hệ quả:

Thứ nhất, nếu qua xác minh cho thấy người phải THA không có điều kiện THA thì cơ
quan THADS ra quyết định trả đơn yêu cầu THA cho người được THA
Điều 51 Luật THADS quy định Thủ trưởng cơ quan THADS ra quyết định trả lại đơn
yêu cầu THA “nếu người phải THA không có tài sản để THA hoặc có tài sản nhưng giá trị
tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế THA hoặc tài sản đó theo quy định của
pháp luật không được xử lý để THA; Người phải THA không có thu nhập hoặc mức thu
nhập thấp, chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải THA và gia đình”
Khi đơn yêu cầu được trả cho người được THA thì việc THA đương nhiên kết thúc
(Điều 52 Luật THADS), hồ sơ THADS được đưa vào lưu trữ. Người được THA có quyền
yêu cầu THA trở lại đối với phán quyết Trọng tài kể từ ngày phát hiện người phải THA có
điều kiện THA (Điều 51 Luật THADS).
Thứ hai, nếu qua xác minh thấy rằng người phải THA có điều kiện để THA mà không
tự nguyện thi hành thì coq quan THADS sẽ tổ chức cưỡng chết thi hành theo quy định của
Luật THADS.
9
Thời hạn tự nguyện THA là 15 ngày, kể từ ngày người phải THA nhận được hoặc
được thông báo hợp lệ quyết định THA. Hết thời hạn trên người phải THA có điều kiện
THA mà không tự nguyện THA thì bị cưỡng chế thi hành.
Cưỡng chế THADS là việc CHV được giao nhiệm vụ sử dụng quyền năng mà pháp
luật trao cho để buộc người phải THA phải thực hiện nghĩa vụ của họ đối với người được
THA mà nghĩa vụ đó đã được ấn định trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Khi xác định sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế, CHV tuân theo một số nguyên tắc mang
tính xuyên suốt gồm:
Một là, nguyên tắc tương ứng, tức là “việc áp dụng biện pháp bảo đảm, cưỡng chế
THA phải tương ứng với nghĩa vụ của người phải THA và các chi phí cần thiết…” (Khoản
1 Điều 8 Nghị định 58/NĐ-CP ngày 17/3/2007).
Hai là, nguyên tắc chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế đã được pháp luật quy định.
Điều 71 Luật THADS quy định có 6 biện pháp cưỡng chế THADS, bao gồm: Khấu trừ tiền
trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải THA; Trừ vào thu nhập
của người phải THA; Kê biên, xử lý tài sản của người phải THA, kể cả tài sản đang do

người thứ ba giữ; Khai thác tài sản của người phải THA; Buộc chuyển giao vật, chuyển
giao quyền tài sản, giấy tờ; Buộc người phải THA thực hiện hoặc không được thực hiện
công việc nhất định.
Ba là, nguyên tắc không tổ chức cưỡng chế trong một số thời điểm nhất định
Nguyên tắc này được thể hiện rõ ràng trong khoản 2 Điều 8 Nghị định 58/NĐ-CP:
“Ngoài những trường hợp do Luật THADS quy định, cơ quan THADS không tổ chức
cưỡng chế THA có huy động lực lượng trong thời hạn 15 ngày trước và sau tết Nguyên
đán; các ngày truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải THA”.
Ngoài ra, mặc dù không có quy định như Bộ Tư pháp cũng đã có văn bản hướng dẫn và
CHV khi tổ chức cưỡng chế cũng cần lưu ý tránh những ngày diễn ra các sự kiện lớn hoặc
có tầm ảnh hưởng ở địa phương hoặc trên toàn quốc như ngày bầu cử đại biểu Quốc hội và
Hội đồng nhân dân các cấp, ngày Đại hội Đảng… để tổ chức cưỡng chế.
Bốn là, việc tổ chức cưỡng chế THA phải dựa trên những căn cứ nhất định được quy
định tại Điều 70 Luật THADS, đó là: “1.Bản án, quyết định; 2.Quyết định THA; 3.Quyết
định cưỡng chết THA, trừ trường hợp bản án, quyết định đã tuyên kê biên, phong tỏa tài
sản, tài khoản và trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của
Tòa án”.
Như vậy, trong trường hợp người phải THA có điều kiện THA mà không tự nguyện
thi hành thì sẽ bị cưỡng chế thi hành. Cưỡng chế THA là biện pháp thể hiện rõ nhất bản
10
chất của việc Nhà nước sử dụng quyền lực của mình mà cụ thể là thông qua hoạt động của
CHV cơ quan THADS để tác động đến người mà phải THA buộc họ phải thực hiện nghĩa
vụ của mình. Chính vì mục đích ý nghĩa và tầm quan trọng đó mà pháp luật cũng quy định
rất chặt chẽ về thẩm quyền, điều kiện và trình tự, thủ tục áp dụng và đòi hỏi CHV phải tuân
thủ triệt để các quy định đó.
*Kết thúc thi hành án
Quá trình THA được coi là đương nhiên kết thúc trong các trường hợp sau (Điều 52
Luật THADS):
- Đương sự đã thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của mình: Trường hợp này được hiểu là khi
đương sự, tức là người được THA đã thực hiện xong quyền của mình và người phải THA

thực hiện xong nghĩa vụ theo phán quyết trọng tài (có thể là tự nguyện thi hành hoặc bị
CHV cơ quan THADS cưỡng chế thi hành) thì việc THA kết thúc.
- Có quyết định đình chỉ thi hành án: Điều 50 Luật THADS năm 2008 quy định các trường
hợp Thủ trưởng cơ quan THADS phải ra quyết định đình chỉ THA.
- Có quyết định trả đơn thi hành án: Ngoài các trường hợp trả đơn như trên, thì quá trình
THA, sau khi việc kê biên, cưỡng chết tài sản THA xong mà “tài sản kê biên không bán
được mà người được THA không nhận để thi hành án” thì cơ quan THADS sẽ ra quyết
định trả đơn yêu cầu cho người được THA, khi đó việc THA đương nhiên cũng sẽ kết thúc.
Việc THA được coi là kết thúc hoàn toàn (xong hoàn toàn theo thuật ngữ chuyên
ngành THADS) khi hồ sơ THADS được duyệt (bởi Thẩm tra viên THADS) và đưa vào lưu
trữ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là hồ sơ đó sẽ mãi không được tái thi hành mà nó
có thể được tiếp tục được thi hành trở lại khi người được THA “phát hiện người phải THA
có điều kiện thi hành” và làm đơn yêu cầu cơ quan THADS tiếp tục THA.
III. Hủy phán quyết trọng tài thương mại
1. Căn cứ hủy phán quyết trọng tài
Theo Điều 68 Luật TTTM, hủy phán quyết trọng tài khi:
- Không có thoả thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu: trong trường hợp
tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của trọng tài; người xác
lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; người xác lập
thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự;
hình thức trọng tài không phù hợp; một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong
quá trình xác lập thoả thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô
hiệu; hoặc thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật.
11
Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận
của các bên hoặc trái với các quy định của Luật trọng tài thương mại.
- Vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài; trường hợp phán
quyết trọng tài có nội dung không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài thì nội dung đó
bị huỷ.
- Chứng cứ do các bên cung cấp mà hội đồng trọng tài căn cứ vào đó để ra phán quyết

là giả mạo; hoặc trọng tài viên nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác của một bên
tranh chấp làm ảnh hưởng đến tính khách quan, công bằng của phán quyết trọng tài.
- Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.
2. Nghĩa vụ chứng minh
Theo quy định của Khoản 3 Điều 68 Luật trọng tài thương mại năm 2010, ngoại trừ
trường hợp Tòa án chủ động xác minh, bên yêu cầu hủy phán quyết trọng tài có nghĩa vụ
chứng minh Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong các trường hợp phán
quyết phải bị hủy; Đối với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài do thuộc trường hợp trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, Tòa án có trách nhiệm chủ động xác minh
thu thập chứng cứ để quyết định hủy hay không hủy phán quyết trọng tài.
3. Thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được phán quyết trọng tài, nếu một bên có
đủ căn cứ để chứng minh được rằng Hội đồng trọng tài đã ra phán quyết thuộc một trong
những trường hợp bị hủy, thì có quyền làm đơn gửi Toà án có thẩm quyền yêu cầu huỷ
phán quyết trọng tài. Trường hợp gửi đơn quá hạn vì sự kiện bất khả kháng thì thời gian có
sự kiện bất khả kháng không được tính vào thời hạn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
(Điều 69 Luật trọng tài thương mại năm 2010). “Sự kiện bất khả kháng” theo Bộ luật Dân
sự là những sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể
khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép (Điều
161 Bộ luật Dân sự).
4. Tòa án có thẩm quyền
Tòa án có thẩm quyền hủy phán quyết trọng tài là Tòa án cấp tỉnh tại nơi các bên lựa
chọn hoặc tại nơi mà hội đồng trọng tài đã tuyên phán quyết (Điều 7 Luật trọng tài thương
mại).
5. Đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài phải có các nội dung chủ yếu sau đây:
12
- Ngày, tháng, năm làm đơn;
- Tên và địa chỉ của bên có yêu cầu; và
- Yêu cầu và căn cứ huỷ phán quyết trọng tài.

Kèm theo đơn yêu cầu phải có bản chính hoặc bản sao phán quyết trọng tài đã được
chứng thực hợp lệ; và bản chính hoặc bản sao thoả thuận trọng tài đã được chứng thực hợp
lệ. Giấy tờ kèm theo đơn yêu cầu bằng tiếng nước ngoài phải được dịch ra tiếng Việt và
bản dịch phải được chứng thực hợp lệ.
6. Sự có mặt của các đương sự
Phiên họp được tiến hành với sự có mặt của các bên tranh chấp, luật sư của các bên,
nếu có, kiểm sát viên viện kiểm sát cùng cấp (Khoản 3 Điều 71 Luật trọng tài thương mại
năm 2010).
Trong trường hợp có một bên yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài mà rút đơn hoặc đã
được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc rời phiên họp mà không
được hội đồng chấp thuận thì hội đồng ra quyết định đình chỉ việc xét đơn yêu cầu (Khoản
5 Điều 71 Luật trọng tài thương mại năm 2010).
Tuy nhiên, trường hợp có nhiều bên yêu cầu hội đồng xét đơn mà có một trong các
bên vắng mặt hoặc đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc
rời phiên họp mà không được hội đồng chấp thuận thì hội đồng vẫn tiến hành xét đơn như
bình thường (Khoản 3 Điều 71 Luật trọng tài thương mại năm 2010).
7. Thủ tục xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
Sau khi thụ lý đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài, toà án có thẩm quyền thông báo
ngay cho trung tâm trọng tài hoặc các trọng tài viên của hội đồng trọng tài vụ việc, các bên
tranh chấp và viện kiểm sát cùng cấp (Khoản 1 Điều 71 Luật trọng tài thương mại năm
2010).
Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý, Chánh án toà án chỉ định một hội
đồng xét đơn yêu cầu gồm ba thẩm phán, trong đó có một thẩm phán làm chủ tọa theo sự
phân công của Chánh án Tòa án.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được chỉ định, hội đồng xét đơn yêu cầu phải mở
phiên họp để xét đơn yêu cầu huỷ phán quyết trọng tài. Tòa án phải chuyển hồ sơ cho Viện
kiểm sát cùng cấp nghiên cứu trong thời hạn 07 ngày làm việc trước ngày mở phiên họp để
tham dự phiên họp của Tòa án xét đơn yêu cầu. Hết thời hạn này, Viện kiểm sát phải gửi
13
trả lại hồ sơ cho Tòa án để mở phiên họp xem xét đơn yêu cầu (Khoản 2 Điều 71 Luật

trọng tài thương mại năm 2010).
Khi xét đơn yêu cầu, hội đồng xét đơn yêu cầu căn cứ vào các quy định của Luật
trọng tài thương mại năm 2010 về căn cứ hủy phán quyết trọng tài (nêu ở trên) và các tài
liệu kèm theo để xem xét, quyết định; không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội
đồng trọng tài đã giải quyết. Sau khi xem xét đơn và các tài liệu kèm theo, nghe ý kiến của
những người được triệu tập, nếu có, kiểm sát viên trình bày ý kiến của Viện kiểm sát, hội
đồng thảo luận và quyết định theo đa số (Khoản 4 Điều 71 Luật trọng tài thương mại năm
2010).
Hội đồng xét đơn yêu cầu có quyền ra quyết định huỷ hoặc không huỷ phán quyết
trọng tài. Hội đồng cũng có thể đình chỉ việc xét đơn yêu cầu nếu bên yêu cầu được triệu
tập rút đơn hoặc đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc rời
phiên họp mà không được hội đồng chấp thuận (Khoản 5 Điều 71 Luật trọng tài thương
mại năm 2010). Quyết định của toà án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành
(Khoản 10 Điều 71 Luật trọng tài thương mại năm 2010).
Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định, Tòa án gửi quyết định cho
các bên, trung tâm trọng tài hoặc trọng tài viên trọng tài vụ việc và viện kiểm sát cùng cấp
(Khoản 6 Điều 71 Luật trọng tài thương mại năm 2010).
8. Tạm đình chỉ giải quyết đơn yêu cầu trong trường hợp trọng tài có sai sót về tố
tụng
Theo yêu cầu của một bên và xét thấy phù hợp, hội đồng xét đơn yêu cầu có thể tạm
đình chỉ việc xem xét giải quyết đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài trong thời hạn không
quá 60 ngày để tạo điều kiện cho Hội đồng trọng tài khắc phục sai sót tố tụng trọng tài theo
quan điểm của Hội đồng trọng tài nhằm loại bỏ căn cứ hủy bỏ phán quyết trọng tài. Hội
đồng trọng tài phải thông báo cho Tòa án biết về việc khắc phục sai sót tố tụng. Trường
hợp hội đồng trọng tài không tiến hành khắc phục sai sót tố tụng thì hội đồng tiếp tục xét
đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài (Khoản 7 Điều 71 Luật trọng tài thương mại năm
2010).
9. Hậu quả của việc hủy phán quyết trọng tài
Trường hợp hội đồng xét đơn yêu cầu ra quyết định hủy phán quyết trọng tài, các bên
có thể thỏa thuận lại để đưa vụ tranh chấp đó ra giải quyết tại trọng tài hoặc một bên có

quyền khởi kiện tại Tòa án. Ngược lại, trường hợp hội đồng xét đơn yêu cầu không hủy
phán quyết trọng tài thì phán quyết trọng tài được thi hành (Khoản 8 Điều 71 Luật trọng tài
thương mại năm 2010).
14
Trong mọi trường hợp, thời gian giải quyết tranh chấp tại trọng tài, thời gian tiến hành
thủ tục hủy phán quyết trọng tài tại Tòa án không tính vào thời hiệu khởi kiện (Khoản 9
Điều 71 Luật trọng tài thương mại năm 2010).
IV. Bình luận quy định của pháp luật Việt Nam về thi hành và hủy phán quyết
trọng tài
1. Bình luận quy định của pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài
Pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài ở Việt Nam hiện nay quy định phán quyết
trọng tài là chung thẩm và buộc các bên phải thi hành, nếu không tự nguyện thi hành thì
“cơ quan THADS tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi Hội đồng trọng tài ra phán
quyết” sẽ tổ chức thi hành phán quyết đó. Đây là một bước tiến lớn trong hoạt động thi
hành phán quyết trọng tài ở nước ta so với trước kia. Là sự hỗ trợ rất quan trọng và cần
thiết của Nhà nước đối với hoạt động thi hành phán quyết trọng tài.
Luật TTTM năm 2010 đã khắc phục được nhiều thiếu sót của Pháp lệnh trọng tài
thương mại năm 2003. Tuy nhiên, vẫn còn một số quy định vẫn còn hạn chế. Các quy định
về thi hành phán quyết của Tòa án cũng như TTTM còn nhiều vướng mắc làm ảnh hưởng
đến chất lượng hoạt động thi hành các phán quyết, khiến cho số lượng vụ việc không thi
hành được còn tồn đọng.
2. Bình luận quy định của pháp luật về hủy phán quyết trọng tài
Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 quy định: bên không đồng ý với quyết định
trọng tài có quyền làm đơn gửi Tòa án yêu cầu hủy quyết định trọng tài. Thủ tục hủy quyết
định trọng tài của Tòa án không phải là thủ tục xét xử lại vụ kiện, không giống như thủ tục
phúc thẩm trong tố tụng dân sự. Khi nhận được đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài đối
với vụ tranh chấp đã được trọng tài giải quyết, Tòa án có thẩm quyền không xét xử lại vụ
tranh chấp, mà chỉ đối chiếu với các trường hợp hủy quyết định trọng tài theo quy định tại
Điều 68 Luật TTTM để ra quyết định. Nếu như bên yêu cầu chứng minh được quyết định
trọng tài đã tuyên thuộc một trong các trường hợp quy định tại điểm a,b,c và d khoản 2

Điều 68 Luật TTTM thì Tòa án sẽ quyết định hủy quyết định trọng tài. Với trường hợp quy
định tại điểm đ khoản 2 Điều 68, thì Tòa án sẽ có trách nhiệm chủ động xác minh, thu thập
chứng cứ để quyết định hủy hay không hủy quyết định trọng tài.
Như vậy, quy định này góp phần khắc phục những sai phạm (nếu có) của Hội đồng
trọng tài khi giải quyết tranh chấp, làm cho vụ tranh chấp được giải quyết thực sự khách
quan, công bằng, đúng pháp luật.
Luật TTTM đã quy định một cách cụ thể về vấn đề hủy quyết định trọng tài. Khi xem
xét việc hủy phán quyết trọng tài, còn có sự tham gia của Viện kiểm sát với tư cách là cơ
quan giám sát hoạt động tố tụng của Tòa án trong việc hỗ trợ hoạt động trọng tài. Quyết
15
định của Tòa án là quyết định cuối cùng và có hiệu lực thi hành. Đây là một chế định quan
trọng của Luật TTTM nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự khi đưa ra
tranh chấp ra giải quyết tại Trọng tài.
Khác với Pháp lệnh TTTM năm 2003, thủ tục Tòa án xét xử đơn yêu cầu hủy phán
quyết trọng tài theo Luật TTTM năm 2010 chỉ có một cấp và có giá trị chung thẩm. Luật
quy định một Hội đồng gồm 3 Thẩm phán xem xét đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài
và quyết định của Hội đồng là chung thẩm có hiệu lực thi hành ngay là phù hợp (Điều 71).
Quy định này thay thế cho các quy định bất hợp lý tại các Điều 55, 56 của Pháp lệnh
TTTM năm 2003.
Luật TTTM năm 2010 quy định một phiên họp xét đơn phải có sự tham gia của 3
Thẩm phán, sự có mặt của các bên tranh chấp, luật sư của các bên (nếu có) à đại diện Viện
kiểm sát. Nhìn chung, sau khi qua một phiên họp giải quyết tranh chấp với sự tham gia của
các Trọng tài viên giàu kinh nghiệm thì quyết định của Trọng tài được xem xét yêu cầu
hủy bởi Tòa án như trên về cơ bản là đảm bảo được tính công bằng của phán quyết. Việc
quy định thêm một giai đoạn kháng cáo, kháng nghị nữa là không cần thiết. Ngoài ra các
bên tranh chấp cũng có thể lợi dụng quy định này để kéo dài thời gian gây khó khăn cho
việc thi hành phán quyết, gây bất lợi cho bên được thi hành phấn quyết trong vụ tranh
chấp. Như vậy, việc xét đơn chỉ có một cấp và quyết định của Hội đồng xét đơn yêu cầu là
quyết định chung thẩm là phù hợp, khắc phục được những thủ tục rườm rà không cần thiết
của giai đoạn kháng cáo, kháng nghị. Việc không quy định thủ tục kháng cáo, kháng nghị

đối với các phán quyết của Trọng tài đảm bảo cho thủ tục tố tụng trọng tài đơn giản, việc
giải quyết tranh chấp thương mại được nhanh gọn.
Việc có sự hỗ trợ của Tòa án hủy quyết định trọng tài đối với những phán quyết vi
phạm pháp luật của Trọng tài thương mại giúp cho các nhà kinh doanh yên tâm hơn khi lựa
chọn Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp, vì khi Trọng tài có sự vi phạm pháp
luật Tòa án sẽ đứng ra giúp đỡ họ. Quy định này góp phần hạn chế sự tùy tiện trong hoạt
động xét xử của Trọng tài viên, làm cho họ phải khách quan, vô tư trong khi giải quyết
tranh chấp.
16
KẾT LUẬN
Qua phần trình bày trên đây, ta có thể hiểu rõ phần nào về thi hành và hủy phán quyết
trọng tài. Để một phán quyết trọng tài đạt được tính hiệu lực chung thẩm, phán quyết trọng
tài phải là kết quả của một quá trình xét xử công minh, vô tư và phải tuân theo các nguyên
tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và phải được tuyên bố theo đúng thủ tục ra phán
quyết trọng tài mà pháp luật về Trong tài thương mại quy định. Việc áp dụng đúng quy
định của pháp luật về thi hành và hủy phán quyết trọng tài là những khâu quan trọng để
phán quyết trọng tài đạt được những mục đích như mong đợi, góp phần làm củng cố uy tín
cho phương pháp giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại.
17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Thương mại/ Trường Đại học Luật Hà Nội
2. Đặc san tuyên truyền pháp luật số 07/2013/ Hội đồng phối hợp phổ biến Giáo dục
pháp luật trung ương.
3. Pháp luật về thi hành phán quyết của Trọng tài thương mại ở Việt nam- một số vấn
đề lý luận và thực tiễn/ Nguyễn Mạnh Cường/ Luận văn thạc sĩ.
4. Cơ chế hỗ trợ của Tòa án đối với Trọng tài thương mại trong việc giải quyết các
tranh chấp/ Đặng Thảo Dung/ Khóa luận tốt nghiệp.
18

×