Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

tiểu luận tình huống chuyên viên xử lý XUNG đột GIỮA GIÁO vier6n và học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.64 KB, 17 trang )

PhầnI. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Giới thiệu về khoá bồi dưỡng kiến thức lớp chuyên viên.
Khóa học bồi dưỡng kiến thức dành cho chuyên viên nhằm cung cấp cho
người học những kiến thức cơ bản, giúp người học nâng cao năng lực cho công
chức, viên chức nhà nước trong đơn vị hành chính.
Khóa học cung cấp cho người học kiến thức cơ bản về nhà nước, cơ chế tổ
chức và nội dung quản lý hành chính nhà nước, từ đó giúp người học ý thức được
những chức trách, nhiệm vụ của mình trong quá trình nâng cao chất lượng trong
công tác.
Khóa học chú trọng đến việc hình thành các kỹ năng nhận thức và vận dụng
những kiến thức vào việc bồi dưỡng nhân cách cho công chức, viên chức làm việc
tại các cơ quan hành chính Nhà nước; đồng thời góp phần hình thành các kỹ năng
về quản lý con người, quản lý tài sản... Các kỹ năng chủ yếu được hình thành thông
qua các nội dung của môn học có sự lồng ghép của giảng viên.
2. Trình bày lý do mà cá nhân quyết định tham dự khoá bồi dưỡng;
Trường học là đơn vị hành chính sự nghiệp, nằm trong nền hành chính quốc
gia. Là một giáo viên kiêm tổ trưởng chuyên môm của trường, bản thân mới được
bồi dưỡng kiến thức về quản lý giáo dục; Vốn hiểu biết về Nhà nước và quản lý
hành chính nhà nước còn còn hạn chế. Tôi quyết định tham gia lớp bồi dưỡng
chuyên viên k22 do Bộ Nội Vụ đào tạo để nâng cao kiến thức và năng lực của
mình; từ đó vận dụng vào thực tiễn công tác tại đơn vị.
3. Giới thiệu về cấu trúc nội dung, chương trình khoá bồi dưỡng;
Nội dung chương trình khóa bồi dưỡng về Quản lý hành chính Nhà nước
dành cho chuyên viên gồm 3 phần :
Phần I: Nhà nước và Pháp luật
Phần II : Hành chính nhà nước và công nghệ hành chính
Phần III : Quản lý Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực.
4. Cấu trúc, nội dung của Tiểu luận tình huống giáo dục.


Để đóng góp một số kinh nghiệm của mình cho lĩnh vực Giáo dục đồng thời ứng


dụng kiến thức đã học trong khóa học này nhằm hoàn thành tiểu luận do các
thầy cô giáo giao cho được tốt hơn tôi chọn tình huống “Xử lý xung đột giữa
giáo viên và phụ huynh học sinh từ việc xử phạt học sinh”. Đây là một tình
huống đã xẩy ra mà tôi đã chứng kiến và có thực 100 phần trăm.
Hoàn thành được đề tài này là do sự giảng dạy nhiệt tình của các Thầy, cô giáo. Tôi
xin chân thành cảm ơn tất cả các Thầy, cô đã tận tình giảng dạy.
Do thời gian hạn hẹp và bận nhiều công việc, kiến thức bản thân còn hạn chế
vì vậy tiểu luận này chắc chắn sẽ có thiếu sót về cả nội dung và hình thức. Tôi
rất mong được sự góp ý của Thầy, cô giáo, đồng nghiệp và bạn đọc.
I. Mô tả tình huống :
Tình huống tôi sắp kể đây là có thật và tôi trực tiếp chứng kiến tại trường
Mầm Non huyện Thanh Oai, Hà Nội.
Việc thế này, vào khoảng 9h sáng thứ 6 ngày cuối tuần của tuần thứ nhất
tháng 9 năm 2014, cả trường đang diễn ra hoạt động học bình thường thì có một
phụ huynh học sinh tên Trần Thị T là bà của học sinh Nguyễn Vũ P lớp 3 tuổi C1
đến trường la lối om sòm, chửi cô Nguyễn Thị Hồng G (Giáo viên chủ nhiệm lớp
3c1). Bà T đòi gặp Ban Giám hiệu. Bà ta khiếu nại cô Nguyễn Thị Hồng G dạy lớp
cháu bà ta học đã bắt cóc. Bà Trần Thị T yêu cầu Ban Giám hiệu phải kiểm điểm và
xử lý kỷ luật cô Nguyễn Thị Hồng G vì thiếu trách nhiệm để con chị đi ra khỏi
trường như vậy là không đúng, vì vậy bà T khóc lóc và đòi đền cháu.
Lúc này là đang hoạt động học bình thường, Cô Nguyễn Thị Hồng G đang
dạy học sinh trên lớp, hơn nữa nhà trường cũng chỉ nắm được thông tin từ phía phụ
huynh học sinh, chưa chao đổi được với giáo viên chủ nhiệm lớp vì vậy cô phó
Hiệu trưởng nhà trường đã mời bà Trần Thị T vào văn phòng trao đổi và uống
nước(nhằm nắm thêm tình hình và xoa dịu bức xúc bà T). Đồng thời cử một số cô ở
các lớp đi tìm cháu trong đó có tôi. Sau khi tìm hiểu hỏi thăm thì tôi nhận được
một thông tin khoảng 9h kém 20 có một cháu trai bước ra khỏi cổng và có một
người đàn ông khoảng chừng 32 tuổi tên là D dắt đi khỏi và gửi cháu vào nhà bà họ



cháu, sau đó báo cho bà cháu biết và ngay lập tức bà cháu đến trường lu loa lên, khi
nhận được thông tin đó ngay lập tức tôi về báo cáo lại với cô phó Hiệu Trưởng.
Trong khi đó bà T vẫn khóc lóc đòi cháu và bắt nhà trường phải sử lí cô giáo. Hiệu
trưởng hứa sẽ tìm hiểu thêm vụ việc và xử lý thấu tình đạt lý sự cố đã xảy ra. Tôi
về khoảng 20 phút sau thì bà họ của cháu lai cháu đến và khóc lóc chửi bới nhà
trường là trông nom như thế ah chúng mày về hết đi hôm nay tao phải cho mấy con
ở cái lớp này phải thôi việc, nếu như hôm nay mất cháu bà thật thì chúng mày sẽ
thế nào. Và bà đòi đuổi việc ba cô giáo đã để cháu chốn về. Thật sự là một tổ
trưởng và là một giáo viên đứng lớp đã 13 măm cũng có đôi chút kinh nghiệm tôi
tiếp cận bà họ của cháu là mẹ của bạn học tôi, đầu tiên tôi xoa dịu bằng những lời
nhẹ nhàng “ Bác hãy nể mặt con là bạn của thuận cũng như con của bác, không
mừng gì hơn là đã thấy cháu đó là cái mừng lớn của gia đình và của chúng con, bác
hãy nể mặt con và từ từ nói chuyện, Hiệu trưởng trường con sẽ giải quyết thỏa đáng
cho bác, và rót một cốc nước mời bác ấy uống với vẻ mặt thân thiện và mong thông
cảm, lúc đầu bà vẫn nhẩy lên nói mày không phải bênh để tao cho chúng nó một
chận, nhưng sau đó có sự tác động của tôi bà cũng ngồi cùng ban giám hiệu, tiếp
sau đó tôi tiếp cận đến các bà hàng xóm của cháu bé mà tôi biết nhờ các bà tác
động đến bà và mẹ của cháu bé để họ chấn tĩnh lại và vào phòng BGH để giải
quyết. Đồng thời Hiệu trưởng trường hứa sẽ sử lí thỏa đáng nên bà T bớt giận và ra
về hẹn giải quyết vụ việc vào buổi chiều, không yêu cầu gặp ngay cô Nguyễn Thị
Hồng G nữa.
Ngay sau đó buổi họp đột xuất được triệu tập các cô giáo của lớp đó và đại
diện mỗi lớp một cô lên đại diên họp và cho ý kiến. Hiệu trưởng đã mời cô Nguyễn
Thị Hồng G và 2 cô giáo khác đến tại văn phòng để tìm hiểu vụ việc. Qua trao đổi,
cô Nguyễn Thị Hồng G xác nhận là do cháu mới đến và vừa đầu năm học nên cô đã
chưa nắm vững được tính cách của cháu và từ hôm đi học do cháu chưa quen nên
khóc suốt các cô giáo phải thay nhau giỗ dành sự việc dẫn đến cháu chốn về có thể
là do các cô sơ xểnh khi phải chuẩn bị bài cho các con hoạt động nên nhãng đi vì
lớp của cháu sát cạnh cổng nên cháu lẻn ra ngoài khi gv không để ý. Như vậy nhà
trường phải sớm giải quyết vấn đề trên để bà T không lại trường la lối làm mất uy



tín giáo viên và nhà trường. Các giáo viên đưa ra ý kiến dù đó là việc không mong
muốn nhưng cô giáo để trẻ chốn ra khỏi cổng sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường, tuy
nhiên cháu chốn ra ngoài là do chú của cháu đến nghé xem cháu có khóc không và
cháu nhìn thấy chạy ra là chú dắt đi luôn và gửi đến nhà bà họ của cháu, nhưng vấn
đề ở là cô giáo đã sơ sểnh để cháu chốn ra mà không biết. Nên hội đồng đưa ra
quyết định tạm đình chỉ ba cô giáo một tuần để cảnh cáo và xoa dịu phụ huynh.
Cuộc tiếp đón phụ huynh vào buổi chiều ngay ngày hôm đó có gia đình phụ
huynh, có 3 cô giáo. Hiệu trưởng đứng lên ý kiến và xin lỗi gia đình phụ huynh vì
đã để sảy ra vụ việc như trên một phần vì lúc đó mở cửa trường cho người hợp
đồng sữa của trường vào và không khóa của nên cháu đã chốn được ra ngoài. Vì
vậy nhà trường sẽ nhận lỗi là phải sát sao hơn và tạm đình chỉ ba cô giáo tạm nghỉ
trong một tháng. Lúc đó đại diện bên phụ huynh là bố của cháu p đứng lên có ý
kiến. Vụ việc sảy ra cũng là do một phần của gia đình lẽ ra đã gửi con là phải tin
tưởng cô giáo chứ không thể thập thò ngấp nghé để con ngóng chông và các bà
cũng không nên làm quá lên như vậy. Và bố của cháu bé đứng lên trực tiếp xin cho
ba cô giáo không phải đình chỉ việc để không ảnh hưởng đến danh dự của các cô và
bố cháu có nói đây là một bài học của các cô giáo cần phải rút kinh nghiệm và cả
gia đình tôi cũng vậy. Qua tình huống trên đó cũng là bài học cho tôi để mình sẽ
phải luôn luôn đề cao trách nhiệm trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.
II. Phân tích tình huống:
Vụ việc diễn ra đã chứa đựng mâu thuẫn giữa giáo viên và phụ huynh học
sinh. Mâu thuẫn có thể tăng thêm nếu giải quyết tình huống không khẩn trương và
triệt để
Qua tìm hiểu, Hiệu trưởng nhà trường được biết bà Trần Thị T vừa mới li dị
chồng, nhà bà cũng ở gần trường, chính vì bức xúc trong gia đình nên mới có
những hành vi như vậy. Gia đình cô Nguyễn Thị Hồng G cũng có một số lục đục
gần đây nên trong các ngày lên lớp Cô G cũng hay cáu gắtvà lơ đãng trong công



việc. Bản thân em P cũng hay khóc và cũng đã nhiều lần chốn ra khỏi lớp nhưng
được cô giáo phát hiện và đưa về lớp.
Trước việc này Hiệu trưởng trao đổi với các P.Hiệu trưởng, Tổ trưởng
chuyên môn là tôi và đưa ra nhận định.
- Cách quản lí trẻ của Cô G là chưa đủ trách nhiệm, dựa vào các căn cứ sau đây:
+ Quyết định số 16 /2008/QĐ-BGDĐT ngày 16 tháng 4 năm 2008 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc quy định đạo đức Nhà giáo: Điều 4 có nêu Nhà
giáo phải “Tâm huyết với nghề nghiệp, có ý thức giữ gìn danh dự, lương tâm nhà
giáo; có tinh thần đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ đồng nghiệp trong cuộc sống và
trong công tác; có lòng nhân ái, bao dung, độ lượng đối xử hoà nhã với người học,
đồng nghiệp; sẵn sàng giúp đỡ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của
người học, đồng nghiệp và cộng đồng”.
Với quy tắc đã nêu trên đây chúng ta hy vọng rằng công tác chăm sóc giáo dục học
sinh sẽ có những bước chuyển biến mới. Tuy nhiên việc chăm sóc giáo dục trẻ
không chỉ dựa vào nhà trường mà gia đình phải cực kì quan tâm đến con em mình
để việc chăm sóc giáo dục nhân cách cho trẻ được phát triển một cách toàn diện và
không dẫn đến những tình huống tương tự mà tôi vừa nêu trên, bởi vậy giáo dục là
cả một quá trình và không thể chỉ thực hiện bởi giáo viên chủ nhiệm, BGH và các
tổ chức đoàn thể trong trường. Chính vì vậy chỉ có sự gắn kết của các bậc phụ
huynh, các tổ chức xã hội cùng quan tâm ủng hộ nhà trường mới có thể tin tưởng
đạt được kết quả tích cực và bền vững.
Nói về quy tắc 2T:
Chính tâm huyết và trách nhiệm sẽ giúp cho giáo viên có được năng lực “cảm hóa”
những học sinh “chưa ngoan” chưa quen trường lớp nói riêng. Đó là năng lực gây
ảnh hưởng trực tiếp của mình đến với học sinh về mặt tình cảm và ý chí. Tâm huyết
và trách nhiệm nằm trong nhân cách của mỗi cô giáo. Giáo viên chủ nhiệm phải
dùng lòng nhân ái lòng yêu thương của mình để tác động vào các con



Có thể nói rằng chỉ có người giáo viên nào luôn ý thức sẽ cống hiến và dành tâm
huyết cả cuộc đời mình cho sự nghiệp đào tạo và giáo dục thế hệ trẻ, lấy việc hy
sinh phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ đào tạo con người làm hạnh phúc cao cả của
đời mình thì mới có thể thực hiện được chức năng “người kỹ sư tâm hồn” một cách
xứng đáng.
Nhiệm vụ quan trọng của một cô giáo là làm thế nào để học sinh nhận được
sự yêu thương chăm sóc như một người mẹ thứ hai của mình. Khi đến lớp cô giáo
phải là người bạn, người anh, người chị, người mẹ, người cha.
Về phía phụ huynh học sinh (Bà T) xử sự như vậy là không đúng, quá nóng
nảy và xúc phạm đến giáo viên, thiếu thiện chí trong việc phối hợp với giáo viên
trong giáo dục học sinh, ngoài ra còn có ý dấu cháu để thử các cô sau đó đến bắt
đền nhà trường đó là hành vi không đúng, không phối hợp với giáo viên và nhà
trường để có cách chăm sóc giáo dục con một cách tốt nhất. Nên đã có những phản
ứng thái quá.
Qua phân tích, Lãnh đạo nhà trường xác định nguyên nhân, hậu quả của vụ
việc trên:
- Nguyên nhân khách quan:
Các văn bản quy định của Bộ Giáo dục về quy chế chuyên môn giáo nắm chưa rõ
ràng, vì vậy giáo viên vẫn chưa hiểu được hậu quả của nó.
-Nguyên nhân chủ quan:
Sự kém hiểu biết về các quy định của phụ huynh học sinh và giáo viên về các quy
định của pháp luật, của ngành Giáo dục đối với việc chăm sóc giáo dục trẻ.
- Hậu quả của vụ việc:
Tình huống xẩy ra, tuy chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng đã làm
phát sinh mâu thuẫn, giữa giáo viên với phụ huynh học sinh, làm mất uy tín của
nhà trường, mất uy tín của giáo viên, giảm sút lòng tin của nhân dân, gây bất bình
trong nhân dân và ảnh hưởng đến kỷ cương nhà trường.


Tóm lại: Cách quản lớp của cô G đối với học sinh như vậy là chưa có trách

nhiệm, tuy nhiên hậu quả chưa nghiêm trọng, có thể khắc phục được. Về phía phụ
huynh học sinh xử sự như vậy là không đúng, quá nóng nảy và xúc phạm đến giáo
viên, thiếu thiện chí trong việc phối hợp với giáo viên trong giáo dục học sinh.
Tình huống đã nêu là tình huống QLNN đồng thời là Tình huống giáo dục vì vấn
đề đã xẩy ra, trong đời sống nhà trường, lớp học, trong gia đình, ngoài cộng đồng
và xã hội.
Những yêu cầu mang tính định hướng cho việc giải quyết tình huống giáo
dục:
-

Đặt lợi ích của các con lên hàng đầu như Bác Hồ của chúng ta đã nói“vì lợi

ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người „
-

Người Quản lý Giáo dục phải khách quan, công bằng khi giải quyết vấn đề/

tình huống.
III. Xử lý tình huống:
Để xử lý tình huống QLNN nói chung và tình huống Quản lý Giáo dục nói
riêng phải qua các bước sau:


Hình 1: Sơ đồ các bước giải quyết tình huống về Giáo dục
1/ Xác định mục tiêu xử lý tình huống:
Qua thu thập thông tin, nhận dạng vấn đề, Ban Giám Hiệu. Tổ chuyên môn
và giáo viên chủ nhiệm thống nhất phải giải quyết mâu thuẫn đã phát sinh (mâu
thuẫn giữa giáo viên và bà Trần Thị T), không để bà T đến trường chửi mắng giáo
viên làm mất uy tín giáo viên và nhà trường, ảnh hưởng đến tính trang nghiêm của
nhà trường, đồng thời phải làm cho giáo viên thấy được sai sót trong cách quản lí,

chăm sóc giáo dục trẻ và tìm cách khắc phục. Đồng thời yêu cầu giáo viên chủ
nhiệm có biện pháp đối với cháu P. Mục tiêu tốt nhất cần đạt chủ yếu là hòa giải, để
các bên liên quan nhận ra thiếu sót, có hướng khắc phục để công tác, học tập tốt
hơn. Nếu không đạt được mục tiêu này mới tiến hành xem xét kỷ luật, kiểm điểm.
2. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống:
2.1. Xây dựng các phương án:
Chủ trương chung để giải quyết tình huống nêu trên là vừa đảm bảo đúng
các quy định hiện hành vừa giải quyết nhẹ nhàng, êm thấm mà vẫn đạt được mục


tiêu đề ra là giải quyết mâu thuẫn đã phát sinh (mâu thuẫn giữa giáo viên và bà
Trần Thị T), không để bà T đến trường chửi mắng giáo viên làm mất uy tín giáo
viên và nhà trường, ảnh hưởng đến tính trang nghiêm của nhà trường, đồng thời
phải làm cho giáo viên thấy được sai sót trong cách quản học sinh và tìm cách
khắc phục. Đồng thời yêu cầu giáo viên chủ nhiệm có biện pháp chăm sóc giáo dục
đối với cháu P. Mục tiêu tốt nhất cần đạt chủ yếu là hòa giải, để các bên liên quan
nhận ra thiếu sót, có hướng khắc phục để công tác chăm sóc giáo dục trẻ được tốt
hơn.
Nhà trường đã đưa ra 3 phương án như sau:
* Phương án 1:
+Mục tiêu của phương án:
Giải quyết mâu thuẫn giữa cô G và bà T ,giữ uy tín cho giáo viên và nhà trường.
+ Nội dung của phương án:
Nhà trường yêu cầu cô Nguyễn Thị Hồng G gặp trực tiếp gđ em P để giải quyết.
+ Ưu điểm của Phương án 1:
Giải quyết nhanh gọn, người trong cuộc trực tiếp đối thoại, mâu thuẫn được giải
quyết tận gốc.
Hạn chế của Phương án 1:
Không có người chủ trì giải quyết, bước đầu Cô G và bà T không đồng cảm
với nhau nên khó tìm được tiếng nói chung, khó nhượng bộ nhau để giải quyết

*Phương án 2:
+ Mục tiêu của phương án:
Giải quyết mâu thuẫn giữa Cô G và bà T; giữ uy tín giáo viên và nhà trường; đề
cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm lớp trong việc phối hợp giữa nhà trường
và gia đình trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, qua giải quyết vụ việc giáo viên
chủ nhiệm thấy rõ tầm quan trọng của mình trong việc chăm sóc giáo dục trẻ từ


đó tinh thần trách nhiệm được nâng cao. Mục tiêu cần đạt là các bên có liên
quan trong vụ việc nhận ra thiếu sót của mình để sửa chữa tiến tới sự cộng tác
tốt hơn giữa nhà trường và phụ huynh học sinh.
+ Nội dung của Phương án 2:
Nhà trường giao cho giáo viên chủ động mời, Bà T. Giáo viên chủ nhiệm đóng
vai trò để giải quyết tình huống.
Ưu điểm của Phương án 2:
 Đề cao vai trò của GVCN lớp đồng thời giảm bớt áp lực công việc cho BGH;
 Không tạo sức ép tâm lý lên giáo viên, giải quyết vụ việc nhẹ nhàng;
 Gợi lòng vị tha, tinh thần phối hợp của phụ huynh học sinh với nhà trường;
 Giải quyết có lý, có tình;
 Giáo viên yên tâm công tác và nâng cao ý thức chấp hành các quy định của nhà
nước.
 Chăm sóc giáo dục trẻ được tốt hơn.
+ Hạn chế của Phương án 2:
 Phụ thuộc nhiều vào uy tín, khả năng hòa giải của GVCN lớp
* Phương án 3:
+Mục tiêu của phương án:
Dựa trên các văn bản pháp lý về xử phạt nhà trường có hình thức cảnh cáo , nhắc
nhở đối với giáo viên lớp 3C1 trước toàn trường để làm gương cho những giáo
viên khác nhằm giữ uy tín giáo viên và nhà trường. Làm cho GV trong trường
có ý thức tốt hơn nữa trong việc chấp hành kỷ cương nề nếp

+ Nội dung của phương án:
Tiến hành họp xét kỷ luật cô Nguyễn Thị Hồng G và đề nghị chính quyền địa
phương (ấp hoặc xã) họp kiểm điểm bà Trần Thị T vì có hành vi xúc phạm


giáo viên và làm mất trật tự trường học. Phân định rành mạch thiếu sót, khuyết
điểm của từng người (Cô G, bà T, bà họ em P) trong tình huống đã nêu và đề ra
hình thức xử lý thích đáng đối với từng người trong vụ việc
+ Ưu điểm của phương án 3:
Giải quyết đúng trình tự khi hòa giải không thành.
+ Hạn chế của phương án 3:
 Phức tạp, mất nhiều thời gian công sức, tạo căng thẳng giữa GV với phụ
huynh và gây không khí căng thẳng trong trường. Ảnh hưởng mối quan hệ tốt đẹp
giữa nhà trường với cha, mẹ học sinh.
 Đôi lúc khó thực hiện trong trường hợp bà T ngang bướng , không nhận
khuyết điểm và tiếp tục chửa bới giáo viên, chính quyền địa phương không quan
tâm đúng mức để giải quyết vấn đề. Hậu quả có thể tiến triển xấu.
2.3. Phương án lựa chọn:
Chọn Phương án 2
Qua phân tích điểm mạnh, điểm yếu, tính khả thi của từng phương án, lãnh
đạo nhà trường quyết định chọn Phương án 2, tức là Hiệu trưởng Nhà trường sau
khi tư vấn và giao cho tổ trưởng chuyên môn mời cô G và bà T và em P đến trường
để giải quyết vụ việc. Tổ trưởng chuyên môn đóng vai trò trung gian, cầu nối để
giải quyết tình huống.
Trong giải quyết sự việc phải đạt được mục tiêu đề ra là: Giải quyết mâu
thuẫn giữa Cô G và bà T, giữ uy tín giáo viên và nhà trường; đề cao vai trò của giáo
viên chủ nhiệm lớp trong việc phối hợp giữa nhà trường và gia đình trong việc giáo
dục học sinh, qua giải quyết vụ việc tổ trưởng chuyên môn thấy rõ tầm quan trọng
của mình trong việc giáo dục học sinh từ đó tinh thần trách nhiệm được nâng cao.
Mục tiêu cần đạt là các bên có liên quan trong vụ việc nhận ra thiếu sót của mình

để sửa chữa tiến tới sự cộng tác tốt hơn giữa nhà trường và phụ huynh học sinh.
Không yêu cầu chính quyền địa phương kiểm điểm bà T và cô G.


2.2. Lập kế hoạch và tổ chức thực hiện Phương án 2
+ Các bước thực hiện phương án:
Bước 1: Hiệu trưởng giao cho tổ trưởng sinh hoạt lại các quy định về quy chế
chuyên môn cho toàn thể giáo viên nói chung và cho cô G nói riêng.
Giáo viên vi phạm nội quy, quy chế, quy định trong trường có nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân do giáo viên còn chủ quan trong việc
chăm sóc giáo dục trẻ, Phòng Giáo Dục cũng vừa tập huấn cho tất cả giáo viên
trong huyện về thưc hiên quy chế nuôi dạy trẻ.
Bước 2: Nhận định tình hình
Giáo viên chủ nhiệm báo cáo tình hình lớp, báo cáo vụ việc nêu trên cho
Hiệu trưởng vào chiều cuối tuần (thứ 6). Hiệu trưởng và GVCN: nhận định bà T
đến trường chửi bới là có bức xúc thực sự, đành rằng phản ứng của chị T là quá
đáng. Cô G quản trẻ như vậy là chưa đúng. Hiệu trưởng và GVCN cũng thống
nhất giải quyết các bước tiếp theo
Bước 3: Ban Giám hiệu và tổ trưởng trực tiếp gặp bà T (nhà bà T gần trường) trao
đổi tình hình của em P, đề nghị bà cần thông cảm với giáo viên, nói rõ chủ
trương quan điểm của nhà trường, của ngành GD về việc giáo dục đạo đức học
sinh và hẹn bà T ngày giờ lại trường để giải quyết công việc.
Được Hiệu trưởng nhà trường góp ý, cô G là có sơ xuất, mặt khác em P cũng có lỗi,
bà T cũng nóng nảy thành thử có ứng xử không tốt… bà T suy nghĩ lại và vui
vẻ nhận lời dự họp với tổ trưởng và Cô G để hòa giải.
Bước 4: Giáo viên chủ nhiệm lớp 6C tổ chức họp giải quyết vụ việc.
Tổ trưởng chủ trì cuộc họp (bà T, cô G ) để giải quyết vụ việc và báo cáo kết quả
cho BGH.
- Tổ trưởng tuyên bố lý do họp, tuyên bố mình được Hiệu trưởng ủy quyền giải
quyết vụ việc.



- Tổ trưởng thông báo vắn tắt diễn biến vụ việc, đồng thời nói rõ những vấn đề mà
bàT, cô G đã nhận thấy thiếu sót, những vấn đề mà bà T và cô G yêu cầu phía
bên kia nên thực hiện :
Về phía bà T tự thấy mình nóng nảy, do hoàn cảnh gia đình có nhiều vấn đề,
không xem xét kỹ sự việc thành thử có sụ hành xử không đúng với cô G và nhà
trường và mong cô G bỏ qua. Bà T cũng đề nghị, cô giáo quan tâm hơn nữa tới em
P.
Cô C nhận mình đã quá lơ là trong việc chăm sóc giáo dục học sinh.
Bà T và cô G cùng trao đổi, hai bên đều thống nhất như nhận định như tổ
trưởng trao đổi và xin lỗi nhau, đề nghị hai bên bỏ qua lỗi cho nhau.
IV. Kiến nghị:
- Đối với các trường Sư phạm cần chú ý hơn trong việc rèm luyện kỹ năng
chăm sóc giáo dục trẻ, quy chế nuôi dạy trẻ, cho sinh viên của mình.
- Đối với các trường học, hiệu trưởng cần triển khai đầy đủ các văn bản của
cấp trên liên quan đến quy chế nuôi dạy trẻ
- Về phía giáo viên, tuy hiện nay, giáo viên luôn chịu áp lực từ nhiều phía
như yêu cầu chất lượng dạy và... Ai cũng hiểu tức giận, căng thẳng có thể làm
chúng ta có những hành vi nóng giận nhất thời và gây hậu quả tai hại. Để hạn chế
tình trạng căng thẳng trên, giáo viên nên tự rèn luyện bản thân với chế độ ăn uống,
ngủ nghỉ phù hợp, Các cô có thể giảm căng thẳng bằng việc trau dồi khả năng hài
hước, tinh thần lạc quan bằng cách đọc những câu chuyện tiếu lâm…Đặc biệt là
giáo viên phải có tình thương yêu học sinh thì mới tận tâm với nghề được.
V.- Kết luận :
Hiện nay, ở nhiều trường học, đa số trường đã thực hiện tốt việc chăm sóc
giáo dục trẻ, tuy nhiên vẫn còn nhiều trường, nhiều giáo viên, vẫn chưa đặt tâm
huyết với nghề với công việc. Về phía phụ huynh học sinh, nhiều người đã coi
trọng Truyền thống tôn sư trọng đạo, phối hợp tốt với nhà trường và giáo viên để



giáo dục học sinh. Một số ít Phụ huynh học sinh thiếu tôn trọng thầy, cô giáo do
thiếu hiểu biết.
Việc cô Nguyễn Thị Hồng G, Trường mầm non huyện thanh oai đã lơ là
trong việc quản lí trẻ là không đúng, vi phạm quy chế của ngành. Việc bà Trần Thị
T lại trường chửi bới giáo viên là hành động sai và cần phê phán.
Trước tình huống đã diễn ra như trên, nhà trường đã chọn phương án giải
quyết đã nêu là có tình, có lý giải quyết khá trọn vẹn vấn đề. Những người trong
cuộc đều hài lòng. Giáo viên và phụ huynh học sinh đều nhận ra sai sót và cùng
mong hai phía thông cảm cho nhau, uy tín giáo viên, kỷ luật kỷ cương nhà trường
được giữ vững, phụ huynh nhận thức được thiếu sót và có hướng khắc phục tốt.
Về phía nhà trường cũng cần tuyên truyền trong nhân dân, trong Ban đại
diện cha mẹ học sinh để họ thấy được vai trò, nhiệm vụ của họ trong việc tham gia
giáo dục học sinh.
Với tiểu luận này, người viết mong muốn góp một ý kiến nhỏ trong việc
giáo dục học sinh để chia sẻ với các bạn đồng nghiệp.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Đảng Cộng Sản Việt Nam - Nghị quyết 2, Ban Chấp hành Trung Ương Đảng
Khoá VIII.NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.

2.

Đảng Cộng Sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.

3.


Đảng Cộng Sản Việt Nam - Nghị quyết 6, Ban Chấp hành Trung Ương Đảng
Khoá IX.NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.

4.

Điều lệ trường Phổ thông có nhiều cấp học (Ban hành kèm theo Thông tư
số: 12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo)

5.

Chính phủ - Nghị quyết 90/CP ngày 21/8/1987 của Chính phủ về Phướng và
chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá.

6.

Chỉ thị số 40 Ban Chấp hành Trung ương, Ngày 15 tháng 6 năm 2004 về
việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.

7.

Hà Nhật Thăng (Chủ biên)– Công tác Giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ
thông. NXB Giáo dục năm 1998

8.

Hà Quý Tình – Nguôn nhân lực Việt Nam, thực trạng và giải pháp. Tạp chí
Cộng sản, số 7, tháng 4/1999.


9.

Học viện Hành chính Quốc gia - Quản lý nhà nước trong các lĩnh vục xã
hội. NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997.

10.

Học viện Hành chính Quốc gia - Quản lý nhà nước nguồn nhân lục. NXB
Giáo dục, Hà Nội, 1997.

11.

Hồ Chí Minh - Về vấn đề giáo dục. NXB Giáo dục, Hà Nội,1990.

12.

Luật giáo dục. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.

13.

Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 được Quốc hội Nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày
15/6/2004


14.

GS-TS Nguyễn Duy Quý – Phát triển con người, tạo nguồn nhân lực, tạo
nguôn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước. Tạp
chí Công sản số 19, tháng 10/1998.


15.

GS-TS Phạm Minh Hạc - Muời năm đổi mới giáo dục đào tạo. NXB Giáo
dục, Hà Nội, 1997.

16.

GS-TS Phạm Minh Hạc (Tổng chủ biên) – Xã hội hoá công tác giáo dục.
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1997.

17.

Quyết định số 16 /2008/QĐ-BGDĐT ngày 16 tháng 4 năm 2008 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc quy định đạo đức Nhà giáo.

18.

Thủ tướng Chính phủ - Chỉ thị số 18/2001/CT – TTg ngày 27/8/2001 về một
số biện pháp cấp bách xây dựng đội ngũ nhà giáo của hệ thống giáo dục
quốc dân. Công báo tháng 12/2001.

19.

Thủ tướng chính phủ - Quyết định số 201/2001/QĐ – TTg ngày 28/12/2001
về việc phê duyệt “Chiến lược phát triển giáo dục 2001 – 2010”. Công báo
tháng 12/2001.

20.


Tài liệu học tập lớp bồi dưỡng kiến thức Chuyên viên chính

21.

Thông tư số 08/TT ngày 21/3/1988 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT hướng dẫn
về việc khen thưởng và thi hành kỷ luật học sinh của các trường phổ thông

22.

/>option=com_content&view=article&id=125:nam-quy-tac-giao-duc-hocsinh-chua-ngoan&catid=56:tin-giao-duc&Itemid=142

23.

/>



×