Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

tiểu luận tình huống chuyên viên công tác đánh giá cán bộ, công chức ở xã đa mi – thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.68 KB, 29 trang )

MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" được triển
khai sâu rộng trong toàn Đảng là cơ hội để mọi cán bộ đảng viên tự nhìn nhận lại việc làm
của mình. Công tác tổ chức cán bộ phải theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết
định; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và trách nhiệm cá nhân. Trong điều kiện cơ chế
kinh tế thị trường, hội nhập ngày càng sâu rộng vào các cơ cấu kinh tế quốc tế, cán bộ, đảng
viên chịu sự tác động của nhiều nhân tố mới phức tạp.
Sử dụng cán bộ thế nào? Theo Hồ Chí Minh, trước hết phải xác định đúng yêu cầu
của công việc, ''công việc yêu cầu cán bộ'' và khi bố trí, sử dụng phải tránh sự thiên vị cá
nhân. Dùng người là cả một khoa học và nghệ thuật, do đó, nếu bố trí đúng sẽ phát huy mặt
mạnh của cán bộ, thúc đẩy được phong trào và còn hạn chế được mặt yếu, mặt dở của họ.
Thực trạng hiện nay cho thế rằng, không ít cơ quan thực hiện chưa tốt công tác đánh
giá cán bộ, sử dụng cán bộ không đúng với sở trường cũng như là năng lực của từng cá
nhân. Hậu quả đó làm mất lòng tin trong nhân dân, làm kiềm hãm sự phát triển của địa
phương nói riêng và của đất nước nói chung. Trong thời gian làm nhiệm vụ giáo dục ở xã Đa
Mi, tôi thấy rằng công tác đáng giá cán bộ có nhiều chiều hướng tiến bộ, bên cạnh đó cũng
còn nhiều hạn chế cần được đưa ra làm rõ để khắc phục. Chính vì lí do đó nên tôi chọn đề
tài: Công tác đánh giá cán bộ, công chức ở xã Đa Mi – Thực trạng và giải pháp.
2. Mục đích, ý nghĩa, tác dụng của việc nghiên cứu đề tài.
Qua thực trạng địa phương nêu lên được những mặt mạnh, ưu điểm cần được duy trì
và phát huy, đồng thời có biện pháp khắc phục những tồn tại yếu kém trong công tác đánh
giá cán bộ, công chức; tạo niềm tin với Đảng, trong quần chúng nhân dân; thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội địa phương.
3. Giới hạn nội dung nghiên cứu.
a. Giới hạn: Cán bộ, công chức xã Đa Mi
b.. Nội dung nghiên cứu: Công tác đánh giá cán bộ, công chức.
4. Xác định tên và nội dung chính của đề tài.
p

1




Đây là đề tài viết về công tác đánh giá cán bộ, công chức ở xã Đa Mi – Thực trạng và
giải pháp. Đề tài này gồm có 3 phần chính:
Phần thứ nhất: Một số vấn đề chung về công tác đánh giá cán bộ, công chức
Phần thứ hai: Thực trạng về công tác đánh giá cán bộ, công chức ở xã Đa Mi
Phần thứ ba: Phương hướng và giải pháp
Cuối cùng là kiến nghị các cấp; kết luận; phụ lục và tài liệu tham khảo.
Qua tiểu luận này, tôi rất cảm ơn thầy Trần Nhật Nghĩa – Trưởng khoa Dân Vận
trường Chính trị tỉnh Bình Thuận đã hết lòng hướng dẫn, giúp đỡ; cảm ơn các đồng chí đảng
viên, thường trực Đảng ủy xã Đa Mi đã cho biết số liệu thông kê và tình hình Kinh tế - Xã
hội trong nhiều năm qua. Mong rằng những giải pháp của tôi giúp ích ít nhiều đối với sự
phát triển của địa phương.

Phần thứ nhất
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
1.1. Một số khái niệm cơ bản

p

2


1.1.1. Khái niệm cán bộ
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức
danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp
tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. (Trích trong điều 4 của luật cán bộ, công

chức).
Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của đoàn thể thi hành trong
nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được. Cán bộ là gốc
của mọi công việc, do vậy bất cứ việc gì muốn thành hay bại cũng là do cán bộ mà ra.
1.1.2. Khái niệm công chức
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ,
chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội
ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không
phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản
lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật. (Trích trong điều 4 của luật cán bộ, công chức).
1.1.3. Khái niệm Cán bộ xã, phường, thị trấn
Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam,
được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân
dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội. (Trích trong điều
4 của luật cán bộ, công chức).
1.1.4. Khái niệm công chức cấp xã

p

3


Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên
môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước. (Trích trong điều 4 của luật cán bộ, công chức).

1.1.5. Đánh giá cán bộ
Đánh giá cán bộ là khâu có ý nghĩa quyết định trong công tác cán bộ, là cơ sở để lựa
chọn, bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm và thực hiện chính sách cán bộ.
Đánh giá cán bộ là khâu quan trọng đầu tiên của công tác cán bộ, đó là việc làm khó,
rất nhạy cảm vì có ảnh hưởng đến tất cả các khâu khác của công tác cán bộ, có ý nghĩa quyết
định trong việc phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, đề bạt, khen
thưởng, kỷ luật và thực hiện các chế độ, chính sách đối với cán bộ cũng như giúp cán bộ
phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm, tiến bộ không ngừng trong việc nâng cao phẩm
chất chính trị, đạo đức cách mạng, năng lực và hiệu quả công tác của cán bộ.
1.1.6. Khái niệm tiêu chuẩn cán bộ
Tiêu chuẩn cán bộ là sự cụ thể hoá những yêu cầu khách quan của đường lối, nhiệm
vụ chính trị của Đảng thành những tiêu chí đòi hỏi đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước
cần phải có. Về phẩm chất chính trị đó là lòng trung thành với Tổ quốc và CNXH, là sự nhất
trí và quyết tâm thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, là sự vững vàng về lập trường,
quan điểm chính trị trước những tình huống khó khăn, phức tạp, ở những bước ngoặt của
cách mạng.
1.1.7. Khái niệm năng lực cán bộ
Năng lực của cán bộ là năng lực quán triệt tổ chức thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng, hoàn thành với hiệu quả cao nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao phó. Người
dám nghĩ, dám nói, dám làm thì tư duy độc lập, ý kiến sắc sảo.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác đánh giá cán bộ
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH; xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; thực hiện hội nhập sâu rộng vào đời sống
kinh tế quốc tế và đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ đối ngoại… Mặt khác, các
lực thù địch luôn dùng mọi thủ đoạn để đánh vào nền tảng tư tưởng của Đảng, vào
lĩnh, đường lối, vào nguyên tắc tổ chức của Đảng, vào đội ngũ cán bộ, đảng

p

thế


cương

viên… Do vậy,

4


nhận xét, đánh giá cán bộ chính xác là vấn đề cấp thiết, góp phần xây

dựng đội ngũ cán bộ

phát triển, xây dựng Đảng, Nhà nước Việt Nam vững mạnh.Theo Hồ Chủ Tịch – Người nói ''cán
bộ là gốc của công việc'', do đó Người yêu cầu ''phải
để có kế hoạch bồi dưỡng, huấn luyện, sử dụng
rất quan tâm đến vấn đề đánh giá cán bộ,
Đảng phải thường xuyên thực hành
Người viết: “Kinh nghiệm
những nhân tài mới,

biết rõ cán bộ” và ''hiểu biết cán bộ''

phù hợp. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh

Người cho rằng, để nhận xét được cán bộ tốt thì

đánh giá cán bộ và phải có phương pháp đánh giá đúng.

cho ta biết: mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy


một mặt khác thì những người hủ hoá cũng lòi ra’’. Để việc nhận xét,

đánh giá cán bộ được chính xác, từ đó phát hiện, sử dụng đúng người có đức, có tài, đồng thời
ngăn

ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất việc sử dụng, đề bạt những phần tử cơ hội, bất tài

cần phải có nguyên tắc, quy trình, quy chế chặt chẽ bảo đảm cho công tác đánh giá
cán bộ đạt độ chính xác cao nên:
Trước hết, cần nắm vững quan điểm của Đảng về tiêu chuẩn cán bộ.
Tiêu chuẩn cán bộ là sự cụ thể hoá những yêu cầu khách quan của đường lối, nhiệm
vụ chính trị của Đảng thành những tiêu chí đòi hỏi đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước
cần phải có. Về phẩm chất chính trị đó là lòng trung thành với Tổ quốc và CNXH, là sự nhất
trí và quyết tâm thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, là sự vững vàng về lập trường,
quan điểm chính trị trước những tình huống khó khăn, phức tạp, ở những bước ngoặt của
cách mạng. Năng lực của cán bộ là năng lực quán triệt tổ chức thực hiện đường lối, chính
sách của Đảng, hoàn thành với hiệu quả cao nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao phó.
Người dám nghĩ, dám nói, dám làm thì tư duy độc lập, ý kiến sắc sảo.
Đánh giá cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn hoá từng chức danh cán bộ chứ không chỉ qua
lời nói, viết lách, sự nhanh nhẹn bề ngoài hoặc nhìn vào bằng cấp, học hàm, học vị... Người
đánh giá cán bộ cần nắm vững đường lối, quan điểm, nhiệm vụ chính trị của Đảng mới có
thể nhận xét tư tưởng và hành động của cán bộ là đúng hay sai. Đảng ta ngày càng hoàn
thiện và cụ thể hoá đường lối, quan điểm, chủ trương trên các lĩnh vực công tác, điều đó

p

5


giúp cho cán bộ có phương hướng phấn đấu đúng đắn đồng thời cũng làm sáng tỏ căn cứ để

xem xét, đánh giá cán bộ được chính xác.
Thứ hai, đánh giá cán bộ phải khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển.
Nguyên tắc trên đòi hỏi khi xem xét con người không được phiến diện, hời hợt, chủ
quan cảm tính, không được định kiến, nhìn sự phát triển của cán bộ theo quan điểm “tĩnh”
bất biến. Người làm công tác cán bộ nếu chỉ nắm cán bộ qua các cuộc hội nghị, qua các báo
cáo và bài phát biểu mà không sâu sát công việc thực tế của họ thì sự đánh giá khó tránh
khỏi lầm lạc.
Xem xét con người cần phân biệt hiện tượng với bản chất, phải nhìn từ nhiều phía,
từ nhiều sự việc cụ thể để phân tích tìm ra đâu là mặt bản chất của người cán bộ, không thể
dừng lại ở những hiện tượng cụ thể, riêng rẽ, nhất thời. Vì vậy phải đánh giá cán bộ một
cách toàn diện, phân tích cụ thể tìm ra điểm chủ yếu, thứ yếu để sử dụng đúng cái mạnh, hạn
chế cái yếu của cán bộ. Cái mạnh và cái yếu hiện tại của cán bộ được hình thành trong quá
trình hoạt động lâu dài. Cần xem xét lý lịch cán bộ, tìm hiểu quá trình lịch sử của cán bộ
nhưng không thể chỉ đánh giá cán bộ qua đọc bản lý lịch khô cứng, định kiến với quá khứ
của cán bộ mà quan trọng hơn cả là đánh giá hoạt động hiện tại của cán bộ.
Thứ ba, có thái độ đúng, công tâm, vô tư.
Người lãnh đạo và người làm công tác cán bộ có tấm lòng trong sáng, vì lợi ích chung
của Đảng, của nhân dân thì nhìn người mới rõ. Nếu khác đi thì không thể vận dụng đúng đắn
tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá cán bộ, thậm chí còn cố tình xuyên tạc, đổi trắng thay
đen. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa địa phương, cục bộ, bè phái là những căn bệnh nguy
hiểm nhất trong công tác cán bộ cần phải lên án. Một khi đánh giá cán bộ qua lăng kính chủ
nghĩa cá nhân, cục bộ, bè phái thì sự nhìn nhận bị méo mó, yêu nên tốt ghét nên xấu, kẻ
khéo nịnh bợ, luồn lọt, cùng phe cánh thì được ưu ái trọng dụng, còn cán bộ có đức tài,
cương trực, thẳng thắn thì bị thành kiến, trù dập. Ở đảng bộ nào mà người lãnh đạo như vậy

p

6



thì bọn cơ hội và thoái hoá biến chất sẽ lộng hành, nội bộ mất đoàn kết, nhân dân mất lòng
tin, mọi nhiệm vụ chính trị bị bê trễ.
1.3. Chủ trương nội dung, nguyên tắc, quan điểm của Đảng ta về công tác đánh
giá cán bộ
Nghị quyết Trung ương III/khóa 8 và Nghị quyết số 05 –NQ/TU của Ban chấp hành
Đảng bộ tỉnh Bình Thuận khóa XI, khẳng định rằng: Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành
bại của cách mạng, gắn liền với vận

mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu

then chốt trong công tác xây dựng

Đảng. Trong công tác cán bộ phải thể chế hóa

thành các qui chế, quy trình, nhằm đảm bảo thống nhất nhận thức và cách tiến hành các hoạt
động công tác cán bộ trong phạm vi toàn quốc. Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu
của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn xa,
đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Cần làm tốt việc phát hiện, lựa chọn, rèn luyện,
đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Cần làm tốt công tác đánh giá cán bộ
hằng năm, trước hoặc sau kết thúc nhiệm kỳ, chuyển công tác, căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ,
hiệu quả công việc thực tế, có tính đến môi trường, điều kiện công tác, mức độ tín nhiệm của
nhân dân.
Đối với Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X thì cán bộ phải là người



phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, hết lòng phấn
đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao
động trước những khó khăn, thử thách; có năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao;




nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng; có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn trọng tập thể,
gắn bó với nhân dân. Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, chất lượng tốt, xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc
thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, chuyên gia trên
định hướng quy hoạch. Đặc biệt quan tâm xây

các lĩnh vực; bồi dưỡng nhân tài theo

dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao.

Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, bảo đảm thật sự dân chủ, khoa học, công minh.
Xây dựng và hoàn thiện chế độ bầu cử, cơ chế bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ; mở rộng
quyền đề cử và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án nhân sự để lựa chọn. Có cơ chế,

p

7


chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ xứng đáng
người có đức, có tài; thay thế kịp thời những người kém năng lực và kém phẩm chất, có
khuyết điểm nghiêm trọng. Khắc phục những biểu hiện cá nhân, cục bộ, không công tâm,
nể nang, tuỳ tiện trong công tác cán bộ. Cụ thể hoá và thể chế hoá nguyên tắc Đảng thống
nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm
của tổ chức và người đứng đầu của tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ.
Đồng thời phát huy dân chủ đi đôi với giữ gìn kỷ luật trong Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên
có quyền tham gia quyết định công việc của Đảng; quyền được thông tin, thảo luận, tranh
luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến trong tổ chức; khi Đảng đã có nghị quyết thì phải nói

và làm theo nghị quyết.
Lãnh đạo các cấp phải lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng viên và nhân dân.
Xây dựng quy chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể; có cơ chế để
nhân dân bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn, tham gia các công việc của Đảng;
khắc phục lối làm việc quan liêu, xa dân. Xử lý kiên quyết, kịp thời, công khai những người
tham nhũng, bất kể ở chức vụ nào, đương chức hay đã nghỉ hưu, tịch thu, sung công tài sản
có nguồn gốc từ tham nhũng; những người bao che cho tham nhũng, cố tình ngăn cản việc
chống tham nhũng hoặc lợi dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác,
gây mất đoàn kết nội bộ. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người tích cực đấu tranh
chống tham nhũng, tiêu cực. Biểu dương và nhân rộng những gương cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư.
Hoàn thiện cơ chế dân chủ, thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở; phát huy vai trò
của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân trong việc
giám sát cán bộ, công chức và cơ quan công quyền, phát hiện, đấu tranh với các hiện tượng
tham nhũng. Đẩy mạnh việc hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Các cấp uỷ và tổ
chức Đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể nhân dân, cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán
bộ cấp cao, phải trực tiếp tham gia và đi đầu trong việc phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Để đánh giá chính xác cán bộ, công chức xã cần thực hiện tốt 4 nguyên tắc sau:
Trước hết, cần nắm vững quan điểm của Đảng về tiêu chuẩn cán bộ.

p

8


Tiêu chuẩn cán bộ là sự cụ thể hoá những yêu cầu khách quan của đường lối,
nhiệm vụ chính trị của Đảng thành những tiêu chí đòi hỏi đội ngũ cán bộ của Đảng và
Nhà nước cần phải có. Về phẩm chất chính trị đó là lòng trung thành với Tổ quốc và
CNXH, là sự nhất trí và quyết tâm thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, là sự
vững vàng về lập trường, quan điểm chính trị trước những tình huống khó khăn, phức

tạp, ở những bước ngoặt của cách mạng. Năng lực của cán bộ là năng lực quán triệt tổ
chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, hoàn thành với hiệu quả cao nhiệm
được Đảng và Nhà nước giao phó. Người dám nghĩ, dám nói, dám làm thì tư duy

vụ

độc lập, ý

kiến sắc sảo.
Đánh giá cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn hoá từng chức danh cán bộ chứ không chỉ qua
lời nói, viết lách, sự nhanh nhẹn bề ngoài hoặc nhìn vào bằng cấp, học hàm, học vị... Người
đánh giá cán bộ cần nắm vững đường lối, quan điểm, nhiệm vụ chính trị của Đảng mới có
thể nhận xét tư tưởng và hành động của cán bộ là đúng hay sai. Đảng ta ngày càng hoàn
thiện và cụ thể hoá đường lối, quan điểm, chủ trương trên các lĩnh vực công tác, điều đó
giúp cho cán bộ có phương hướng phấn đấu đúng đắn đồng thời cũng làm sáng tỏ căn cứ để
xem xét, đánh giá cán bộ được chính xác.
Thứ hai, đánh giá cán bộ phải khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển.
Nguyên tắc trên đòi hỏi khi xem xét con người không được phiến diện, hời hợt, chủ
quan cảm tính, không được định kiến, nhìn sự phát triển của cán bộ theo quan điểm “tĩnh”
bất biến. Người làm công tác cán bộ nếu chỉ nắm cán bộ qua các cuộc hội nghị, qua các báo
cáo và bài phát biểu mà không sâu sát công việc thực tế của họ thì sự đánh giá khó tránh
khỏi lầm lạc. Xem xét con người cần phân biệt hiện tượng với bản chất, phải nhìn từ nhiều
phía, từ nhiều sự việc cụ thể để phân tích tìm ra đâu là mặt bản chất của người cán bộ, không
thể dừng lại ở những hiện tượng cụ thể, riêng rẽ, nhất thời. Vì vậy phải đánh giá cán bộ một
cách toàn diện, phân tích cụ thể tìm ra điểm chủ yếu, thứ yếu để sử dụng đúng cái mạnh, hạn
chế cái yếu của cán bộ. Cái mạnh và cái yếu hiện tại của cán bộ được hình thành trong quá
trình hoạt động lâu dài. Cần xem xét lý lịch cán bộ, tìm hiểu quá trình lịch sử của cán bộ

p


9


nhưng không thể chỉ đánh giá cán bộ qua đọc bản lý lịch khô cứng, định kiến với quá khứ
của cán bộ mà quan trọng hơn cả là đánh giá hoạt động hiện tại của cán bộ.
Thứ ba, có thái độ đúng, công tâm, vô tư.
Người lãnh đạo và người làm công tác cán bộ có tấm lòng trong sáng, vì lợi ích chung
của Đảng, của nhân dân thì nhìn người mới rõ. Nếu khác đi thì không thể vận dụng đúng đắn
tiêu chuẩn và phương pháp đánh giá cán bộ, thậm chí còn cố tình xuyên tạc, đổi trắng thay
đen. Chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa địa phương,

cục bộ, bè phái là những căn bệnh

nguy hiểm nhất trong công tác cán bộ cần phải lên án. Một khi đánh giá cán bộ qua lăng
kính chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bè phái thì sự nhìn nhận bị méo mó, yêu nên tốt ghét nên
xấu, kẻ khéo nịnh bợ, luồn lọt, cùng phe cánh thì được ưu ái trọng dụng, còn cán bộ có đức
tài, cương trực, thẳng thắn thì bị thành kiến, trù dập. Ở đảng bộ nào mà người lãnh đạo như
vậy thì bọn cơ hội và thoái hoá biến chất sẽ lộng hành, nội bộ mất đoàn kết, nhân dân mất
lòng

tin.
Thứ tư, các cấp ủy Đảng mà thường xuyên và trực tiếp là Ban thường vụ Huyện ủy,

Ban thường vụ Đảng ủy cấp cơ sở thống nhất quản lý công tác đánh giá cán bộ trong phạm
vi trách nhiệm được phân công.
Không những thực hiện đúng 4 nguyên tắc đánh giá cán bộ mà cần phải tuân thủ
theo 4 căn cứ và những nội dung của công tác đánh giá cán bộ, công chức. Bốn nguyên tắc
đó là:
Một là, Nghĩa vụ của cán bộ, công chức theo quy định của Luật cán bộ, công
chức;

Hai là, Chức trách, nhiệm vụ của cán bộ;
Ba là, Tiêu chí đánh giá đối với từng chức danh cán bộ;
Bốn là, Môi trường và điều kiện cán bộ thực hiện trong thời gian đánh giá.
Những nội dung đánh giá cán bộ như sau:
- Mức độ thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao

p

10


Thể hiện ở khối lượng, chất lượng, tiến độ, hiệu quả của công việc trong từng vị trí,
từng thời gian; tinh thần trách nhiệm trong công tác.
- Về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống
Nhận thức, tư tưởng chính trị; việc chấp hành chủ trương, đường lối và quy chế, quy
định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Việc giữ gìn đạo đức và lối sống lành mạnh; chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí
và những biểu hiện tiêu cực khác.
Tinh thần học tập nâng cao trình độ; tính trung thực, ý thức tổ chức kỷ luật; tinh thần
tự phê bình và phê bình.
Đoàn kết, quan hệ trong công tác; mối quan hệ, tinh thần và thái độ phục vụ nhân
dân.
- Chiều hướng và triển vọng phát triển.
1.4. Sự cần thiết của công tác Đánh giá và sử dụng cán bộ
Công tác đánh giá và sử dụng cán bộ hết sức quan trọng bởi lẽ cán bộ có vị trí chủ thể
của sự nghiệp cách mạng nước ta do Đảng lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ
là do Đảng, Nhà nước, đoàn thể phân công, và quyền lực của cán bộ cũng như nhiệm vụ của
người cán bộ là do nhân dân giao cho. Cán bộ là lực lượng tinh tuý nhất của xã hội, có vị trí
vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội và có vai trò cực kỳ quan trọng của hệ thống
chính trị nước ta.

Trong quá trình xây dựng Đảng, công tác cán bộ là một trong những công tác
chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai trò quyết định thành công tới toàn bộ
xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng. Khi nào, nơi nào làm tốt

công tác

khi đó, nơi đó, đơn vị đó sẽ có nhiều thuận lợi và giành được thắng lợi, và

công tác
cán bộ thì

ngược lại.

Để đi lên Chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững

p

11


mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác
động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu
xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng
suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên gắn với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin

của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu "diễn
biến hoà bình", gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" hòng
làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của
chủ nghĩa xã hội, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" có những diễn biến phức tạp.
Thực tế cho chúng ta thấy rằng, rất nhiều cán bộ thoái hóa biến chất, quan liêu, tham
nhũng, lãng phí rất nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà
nước. Và đó là khe hở đồng thời cũng là điểm tựa cho các thế lực thù địch tiếp tục thực
hiện âm mưu diễn biến hòa bình. Chính vì thế sự cần thiết trong công tác đánh giá và sử
dụng cán bộ là hết sức quan trọng trước giai đoạn phát triển đất nước hiện nay.

Phần thứ hai
THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC ĐÁNH GIÁ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
Ở XÃ ĐA MI
2.1. Đặc điểm tình hình.
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Đa Mi còn có tên gọi là Đạ Mí. Theo tiếng đồng bào K’ho, Raglay, Châu Ro... ở vùng
Nam Tây Nguyên, Đạ nghĩa là nơi có nước, có sông. Mí là tên riêng. Đồng bào gọi sông La
Ngà là Đạ La Ngà. Thời chống Pháp, Đa Mi thuộc tỉnh Đồng Nai Thượng – xứ sở của “rừng
thiêng nước độc”, sau thuộc huyện Di Linh (Lâm Đồng), nay thuộc tỉnh Bình Thuận.

p

12


Đa Mi là 1 trong 4 xã vùng cao ( Đông Tiến, Đông Giang, La Dạ, Đa Mi) thuộc
huyện Hàm Thuận Bắc. Xã Đa Mi được thành lập vào năm 2002, từ trung tâm Huyện đến
UBND xã Đa Mi khoảng 70 Km. Đa Mi cách thị trấn Lạc Tánh khoảng 40km, thành phố
Bảo Lộc tỉnh Lâm Đồng 50 km, có độ cao từ 600 - 850m so với mặt nước biển. Địa hình
trên 90% là đồi núi, khí hậu trong lành, mát mẻ quanh năm, nhiệt độ trung bình 26oC là nơi

lý tưởng để du lịch sinh thái nghỉ dưỡng. Nhất là sau khi có thủy điện Đa Mi (dự án xây
dựng Nhà máy thủy điện Hàm Thuận - Đa Mi đã hoàn thành năm 2001).
Tính đến năm 2011, xã Đa Mi có 4 thôn 29 tổ tự quản, đó là các thôn: Đaguri, Đatro,
La Dày, Đa Kim. Diện tích đất sản xuất hiện có 2307 ha, với hơn 3500 dân / 1062 hộ, phần
lớn là dân cư ở 54 tỉnh thành di cư đến và sinh sống tại đây, là một xã đặc thù vùng cao, chủ
yếu là kinh tế vườn, kinh tế trang trại.
2.1.2. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội liên quan đến đề tài.
2.1.2.1. Về kinh tế:
Là một xã đặc thù vùng cao, chủ yếu là kinh tế vườn, kinh tế trang trại; diện tích đất sản
xuất hiện có 2307 ha; trong đó trồng cây công nghiệp cà phê 1113 ha, chiếm tỷ lệ 48,24%
diện tích; cây chè 36 ha; cây điều : 720 ha; cây sầu riêng 374 ha. Ngoài ra thực hiện trồng
xen cây hàng năm, cây ngắn ngày như mì, bắp lai, rau đậu các loại để tăng thu nhập trong
từng hộ gia đình; trồng xen canh cây ca cao cùng các loại cây khác với diện tích 34 ha.
Phát triển kinh tế trang trại: có 32 hộ chiếm tỷ lệ 3% hộ gia đình toàn xã, nhìn chung có
phát triển nhưng hiệu quả chưa cao.
Trong dịch vụ thương mại: Đang tiếp tục vận động tạo điều kiện khuyến khích các hộ gia
đình, các doanh nghiệp đầu tư mở đại lý phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, và kinh doanh
hàng tiêu dùng, giải khát để phục vụ nhu cầu của nhân dân. Đến nay có 04 doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả và 57 hộ kinh doanh buôn bán chiếm tỷ lệ 5,74% số hộ.
Tuy nhiên, sản xuất phát triển còn chậm chưa phát huy đúng tiềm năng về đát đai, lao
động.
2.1.2.2. Về Chính trị - Xã hội
Đa Mi là xã mới thành lập được 09 năm, tính đến nay tình hình Chính trị - Xã hội
được giữ vững, đời sống đại bộ phận nhân dân tương đối ổn định, hệ thống Chính trị - Xã

p

13



hội được cũng cố, từng bước nâng dần hiệu quả hoạt động. Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân tộc được phát huy, niềm tin của cán bộ đảng viên và nhân dân đối với sự lãnh đạo của
Đảng được nâng lên khá cao. Tuy nhiên vẫn còn nhiều trường hợp tranh chấp đất đai canh
tác, nạn cờ bạc chưa được xử lí triệt để.
2.1.3. Sơ lược về đội ngũ cán bộ
Từ những năm 2002 – khi bắt đầu thành lập xã – đến năm 2009 số đảng viên của xã
Đa Mi rất ít chỉ thành lập được chi bộ, mãi đến năm 2010 Đảng ủy xã Đa Mi mới được
thành lập. Hiện nay có 05 chi bộ trực thuộc với tổng số đảng viên là 29 đồng chí. Đa số cán
bộ, Đại đa số cán bộ đảng viên không phải là người địa phương chủ yếu là tăng cường từ
đồng bằng chuyển lên, độ tuổi trung bình 36 tuổi, số cán bộ đảng giữ chức vụ chủ chốt tuổi
đời khá cao, riêng cán bộ trẻ phần lớn chưa qua đào tạo chuyên môn, chủ yếu là chuyên tu
dài hạn hoặc ngắn hạn. Thành phần cán bộ đảng viên nữ không là bao, số đảng viên là giáo
viên chiếm số lượng quá cao (12/29) so với đảng viên của toàn xã, phần lớn đã tốt nghiệp
THPT ( xem phụ lục 1).
2.1.4. Những thuận lợi và khó khăn
2.1.4.1. Thuận lợi
Được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của Huyện ủy Hàm Thuận Bắc, đặc biệt là
tổ kiểm tra 438 của Huyện ( 1tháng kiểm tra Đảng ủy 1 lần vào ngày 19 hằng tháng). Công
tác xây dựng Đảng, mặt trận, đoàn thể từng bước được củng cố; chủ trương chính sách của
Đảng, phát luật nhà nước có sự quan tâm thường xuyên truyên truyền rộng rãi trong quần
chúng nhân dân; đời sống vật chất và tinh thần của đa số nhân dân được nâng lên khá rõ rệt.
2.1.4.2. Khó khăn
Chính sách tiền lương quá thấp, không có chế độ thu hút, ưu đãi cho cán bộ - công
chức; việc đi lại vô cùng khó khăn; trình độ năng lực chuyên môn chưa đáp ứng yêu cầu của
công việc ở một bộ phận cán bộ - công chức; công tác kiểm tra giám sát thiếu thường xuyên;
đời sống của một số hộ gia đình còn nhiều khó khăn.
2.2. Ưu điểm và nguyên nhân
Từ cơ sở lý luận, với khả năng tìm tòi, học hỏi, tự nghiên cứu của bản thân tôi xin
phân tích, chứng minh nêu lên công tác đánh giá cán bộ, công chức của xã Đa Mi như sau:


p

14


2.2.1. Ưu điểm
Trong thời gian qua, xã Đa Mi đạt được một số kết quả khá rõ nét trên nhiều lĩnh vực,
cụ thể như:
2.2.1.1. Hệ thống chính trị dần dần được xây dựng và củng cố
Đối với HĐND: Thực hiện quyền của người đại biểu dân cử, tổ chức tiếp xúc cử tri
định kỳ theo luật định, lắng nghe ý kiến của cử tri, đề nghị các ngành chức năng giải quyết
thỏa đáng theo nguyện vọng của cử tri, và giải quyết những bức xúc của cử tri theo kiến nghị
đúng Pháp luật quy định. Việc tổ chức các kỳ họp HĐND được thực hiện theo Luật định,
xây dựng Nghị quyết để triển khai hàng năm. Vai trò giám sát của Hội đồng có thực hiện.
Đối với UBND xã: Luôn kiện toàn bộ máy lãnh đạo, thực hiện quyền quản lý điều
hành theo pháp luật quy định, chăm lo đời sống cho nhân dân, thực hiện cải cách thủ tục
hành chính theo cơ chế “01 cửa” và “01 cửa liên thông”, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân
dân trong việc giải quyết các thủ tục hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí, từng
bước nâng cao quản lý, điều hành tiếp nhận giải quyết đơn thư của công dân trong việc tranh
chấp, khiếu nại.
Vai trò của Mặt trận và các đoàn thể, hội quần chúng: Công tác tuyên truyền vận
động giáo dục các đoàn viên thực hiện, ý thức chấp hành pháp luật được nâng lên, thực hiện
tốt các đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở “ Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Tập trung quần chúng tham gia các phng trào của địa
phương góp phần giải quyết đời sống của nhân dân ổn định, các vấn đề bức xúc của xã hội
trong địa bàn dân cư được giải quyết. Tỷ lệ quần chúng tham gia vào các tổ chức hội đạt
93,7%, đối với các đoàn thể chính trị và hội quần chúng.
Về công tác xây dựng Đảng: Thường xuyên tổ chức học tập các chỉ thị, Nghị quyết
chủ trương của Đảng, Pháp luật của nhà nước. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh. Luôn phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng là hạt nhân gương mẫu thực hiện các

phong trào thi đua yêu nước ở địa phương. Từng bước nâng cao vai trò trách nhiệm thực
hiện nhiệm vụ ở mỗi Đảng viên, cán bộ, công chức, nhất là thực hiện tốt “Xây” và “Chống”,
phòng chống tham nhũng lãng phí. Đảng ủy thường xuyên rà soát, kiện toàn củng cố ban chỉ
đạo cuộc vận động, đồng thời thành lập ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng, lãng phí, xây

p

15


dựng quy chế làm việc, phân công trách nhiệm cho các thanh viên. Từng bước xây dựng
được các qui chế, quy ước thực hiện ở thôn. Công tác quy hoạch đào tạo bồi dưỡng bố trí
sắp xếp đội ngũ cán bộ ở xã có nhiều chuyển biến. Nhiều cán bộ, công chức được tham gia
học các lớp đào tạo chuyên môn nghiệp vụ ngắn hạn và dài hạn.
2.2.1.2. Tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai trong đánh giá
cán bộ
Quy trình đánh giá được đảng ủy xã Đa Mi thực hiện một cách nghiêm túc, thể hiện
được tính dân chủ tập trung trong toàn thể cán bộ, công chức xã. Công tác đánh giá thể hiện
rõ tính công khai minh bạch trước toàn thể đảng viên trong đảng ủy. Quần chúng nhân dân
từng bước nhận thức tốt hơn, mạnh dạn hơn trong việc đánh giá cán bộ qua những lần tiếp
xúc cử tri nơi cư trú.
2.2.1.3. Đánh giá cán bộ đã dựa trên kết quả nhiệm vụ được giao
Công tác tự kiểm điểm công việc mà cán bộ, công chức đang làm được thực hiện rõ
trong các lần họp giao ban, cá nhân tự giác đánh giá công việc mình đang làm, công khai
trước Đảng ủy. Hằng tháng họp tổ kiểm tra 438 của huyện Hàm Thuận Bắc, Đảng ủy đã
đánh giá rõ những việc làm được và chưa thực hiện còn tồn động, đồng thời cũng nêu lên
những nguyên nhân, giải pháp cần khắc phục. Qua đó là cơ sở minh chứng cho tinh thần
trách nhiệm, chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức phục trách nhiện vụ được giao.
Điều đó cho thấy rằng Đảng ủy đánh giá cán bộ trên cơ sở lấy kết quả hoàn thành công việc
làm thước đo.

2.2.1.4. Bước đầu xây dựng được qui chế, tiêu chuẩn đánh giá cán bộ
Căn cứ vào quy chế đánh giá cán bộ, công chức được ban hành kèm theo Quyết định
286 – QĐ/ TW, ngày 08 tháng 02 năm 2010 của Bộ Chính trị. Đảng ủy xã đã từng bước vận
dụng các nguyên tắc, căn cứ và nội dung đánh giá cán bộ, công chức để xây dựng quy chế,
tiêu chuẩn đánh giá cán bộ. Đặc biệt là cụ thể hóa tiêu chuẩn đối với từng chức danh, nhiệm
vụ được giao. Nhờ vậy mà việc đánh giá cán bộ đã tạm đi vào khuôn phép nền nếp, các chi
bộ, trên cơ sở đó cá nhân cán bộ đảng viên tự xây dựng chương trình hành động riêng cho
mình, ý thức được với tiêu chuẩn mà Đảng ủy đã đưa ra. Chính vì lẻ đó xếp loại chất lượng
cán bộ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ năm 2010 cao hơn 2 năm trước ( xem phụ lục 3).

p

16


2.2.1.5. Kinh tế, xã hội từng bước ổn định và đang phát triển
Nhờ sự nhận thức đúng đắn của công tác đánh giá cán bộ nên về lĩnh vực kinh
xã hội cũng có nhiều chuyển biến từng bước ổn định và đang phát triển, cụ

tế,

thể như:

a. Về lĩnh vực kinh tế: Kinh tế phát triển hàng năm, đời sống của nhân dân
ngày càng được cải thiện nâng lên. Người dân biết áp dụng khoa học – kỹ thuật vào trong
nông nghiệp, nhiều loại giống cây trồng mới đạt hiệu quả được nhân dân đưa vào đầu tư
canh tác với diện tích lớn, tập trung chủ yếu là các loại cây ăn quả, cây công nghiệp như sầu
riêng, bơ, ca cao, cà phê…; nhiều hộ gia đình mạnh dạn thành lập trang trại gia đình, mở
doanh nghiệp tư nhân đáp ứng nhu cầu của người dân địa phương; khu dịch lịch thác chín
tầng thuộc thôn Đaguri đang chuẩn bị hình thành. Chính vì thế mà hộ nghèo giảm dần, hộ

trung bình vươn lên làm ăn khấm khá hơn, đời sống nhân dân từng bước ổn định. Về chăn
nuôi, do địa hình núi và dốc, không có đồng cỏ nên người dân ở đây tập trung nuôi heo và cá
nước ngọt. Toàn xã có 3 mô hình nuôi heo đen, heo lai phát triển ổn định, nuôi ếch, và 24 hộ
nuôi cá nước ngọt chủ yếu ven hồ Hàm Thuận.Tuy nhiên hiệu quả chưa cao do thiếu nguồn
vốn, chưa nhân rộng được mô hình
b. Trên lĩnh vực giáo dục: Chỉ đạo triển khai tốt các biện pháp nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện trong việc “Dạy và Học”. Thực hiện cuộc vận động “ Hai không” với 4
nội dung của Bộ GD &ĐT “ Chống bệnh thành tích trong giáo dục và nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện”. Toàn xã có 4 trường học : THCS, Tiểu học I, tiểu học II, mẫu giáo.Về
xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị trong giảng dạy tương đối đầy đủ.Trường TH I, TH
II xây dựng kiên cố, Trường THCS còn sử dụng tạm của công ty lâm sản để giảng dạy.Đội
ngũ giáo viên các trương được điều động, tăng cường đảm bảo. Xã đã đạt chuẩn phổ cập
TH đúng độ tuổi và và giữ chuẩn phổ cập THCS.
c. Trên lĩnh vực y tế: Chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm, nhất là khám,
chữa bệnh cho nhân dân. Thực hiện cấp thẻ y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi đạt 100 %. BHYT tự
nguyện 12 %, phòng chống dịch bệnh được triển khai, thực hiện tốt các chương trình y tế
quốc gia, tiêm chủng mở rộng, tẩm mùng phóng chống sốt xuất huyết. sốt rét được tiến hành
thường xuyên.Không để xảy ra dịch bệnh lây từ người sang người. Đội ngũ cán bộ y tế xã đủ
để thực hiện nhiệm vụ. Có 01 bác sĩ phụ trách trạm, 04 y sĩ, đội ngũ công tác viên y tế thôn

p

17


bản được duy trì. Cơ sở hạ tầng được xây dựng để phục vụ nhân dân. Xã đã chuẩn quốc gia
về y tế.
d. Trên lĩnh vực ANQP: Thực hiện nhiệm vụ quân sự - quốc phòng. Hàng năm Đảng
ủy có Nghị quyết, chuyên đề tập trung công tác tuyển quân, giao quân đạt chỉ tiêu, huấn
luyện dân quân hàng năm đạt từ 80- 90%; xây dựng kế hoạch học tập kiến thức quốc phòng

cho từng đối tượng, duy trì trực chiến, trực sẵn sàng chiến đấu. Công tác phối hợp liên tịch
được duy trì, thành lập thôn đội các thôn, luôn rà soát thực hiện quân dự bị động viên. Trật
tự an toàn xã hội ổn định, đảm bảo các chức danh trong lực lượng công an xã. Triển khai
thực hiện mục tiêu “03 giảm” xuống địa bàn dân cư, mô hình “tự quản, tự phòng” được nhân
rộng, ý thức cảnh giác của cán bộ và nhân dân được nâng lên. Công tác phối hợp liên tịch
giữa công an và khối dân vận được duy trì, thực hiện theo quy chế phân công trách nhiệm
trong thành viên, phân công cảm hóa đối tượng, phát động nhân dân đấu tranh tố giác các
loại tội phạm, phát động phong trào “toàn dân bảo vệ ANTQ” ở địa bàn dân cư. Thành lập 4
đội dân phòng ở 4 thôn.

2.2.2. Nguyên nhân ưu điểm
Để đạt được những kết quả ấy mà Đảng ủy xã Đa Mi đạt được là nhờ một số
nguyên nhân sau:
Thứ nhất, được sự quan tâm chỉ đạo của Huyện ủy Hàm Thuận Bắc.
Thứ hai, tính linh động, sáng tạo, cụ thể hóa văn bản cấp trên của Đảng ủy xã
phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương.
Thứ ba, thực hiện đúng quy trình đánh giá cán bộ cũng như là vận dụng tốt những
nguyên tắc, nội dung đánh giá cán bộ, công chức.
Thứ tư, tinh thần đoàn kết, sự phối kết hợp chặt chẽ của các tổ chức, đoàn thể trong
Đảng ủy xã.
Thứ năm, sự đồng tình ủng hộ của quần chúng nhân dân.

p

18


2.3. Tồn tại, khuyết điểm và nguyên nhân
2.3.1. Tồn tại, khuyết điểm.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đánh giá cán bộ, công chức xã Đa Mi còn

một số tồn tại, khuyết điểm sau:
2.3.1.1. Công tác quy hoạch cán bộ tại địa phương chưa thực hiện tốt
Hiện nay, đa số cán bộ chủ chốt của xã Đa Mi chủ yếu là được tăng từ đồng bằng lên.
Từ khi tách xã tới nay đã có 05 đồng chí giữ chức vụ Chủ tịch xã, chức vụ công an xã thay
đổi 4 lần, tháng 09 năm 2011 mới được tăng cường 01 đồng chí công an Huyện lên làm
trưởng công an xã, một số chức danh khác mới được củng cố. Điều đó cho ta thấy rằng công
tác dự nguồn, quy hoạch cán bộ tại địa phương chưa được quan tâm đúng mức. Chính vì thế,
việc nắm bắt tình hình địa phương sẽ không kịp thời, thiếu có những quyết sách khả thi cho
việc phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, đây là khuyết điểm hết sức quan trọng quyết
định sự phát triển lâu dài ở địa phương.

2.3.1.2. Tinh thần tự phê bình và phê bình chưa cao
Công tác tự đánh giá của cán bộ, công chức chưa thật sự nghiêm túc. Một số đồng chí
thiếu mạnh dạn nêu lên những khiếm khuyết của bản thân; chưa thật sự gương mẫu dám nói,
dám làm và dám chịu trách nhiệm trước Đảng ủy và quần chúng nhân dân. Mặt khác do điều
kiện đặc thù của xã, cán bộ, công chức chủ yếu là được tăng cường không phải người địa
phương, thu nhập lại ít, công tác qúa xa nên công tác phê bình còn nhiều xê xoa, thiếu mạnh
dạn góp ý nhau. Nhìn chung tinh thần tự phê bình và phê bình chủ yếu nhắc nhở, động viên
thiếu biện pháp kiên quyết xử lý khắc phục.
2.3.1.3. Năng lực, trình độ chuyên môn, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển
của địa phương
Đa số cán bộ, công chức xã không qua đào tạo chuyên sâu. Cụ thể trong năm 2010,
2011 số lượng cán bộ, công chức theo học các lớp ngắn hạn, dài hạn như: trung cấp nông
nghiệp: 3 đồng chí; trung cấp quân sự: 2 đồng chí; trung cấp pháp lý:1 đồng chí; Trung cấp
an ninh:1 đồng chí; Đại học luật: 3 đồng chí; ĐH địa chính:1 đồng chí; ĐH hành chính:1

p

19



đồng chí; Đại học nông lâm:1 đồng chí; số cán bộ chuyên trách, công chức không chuyên
trách cấp xã đang bố trí so với định biên là 36 đồng chí. Trong đó chuyên trách: 10 đồng chí,
công chức: 8 đồng chí, đủ chuẩn 7/10 đồng chí đạt tỷ lệ 70%; không chuyên trách 26 đồng
chí; công chức 8 đồng chí, đủ 7/18 đồng chí đạt tỷ lệ 44%.
Qua thống kê cho ta thấy rằng, đội ngũ cán bộ, công chức hết sức trẻ hóa về chuyên
môn nghiệp vụ, kinh nghiệm, khả năng cọ sát công việc chưa nhiều, thực tiển hạn chế. Mặt
khác trình độ đạt chuẩn thì quá ít, cán bộ không chuyên trách chiếm số lượng quá nhiều.
Trong khi đó Đa Mi là một xã giàu tiềm năng, đang phát triển kinh tế vườn và du lịch đòi hỏi
phải có những cán bộ chuyên trách, đủ kinh nghiệm, có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng
mới đáp ứng nhiệm vụ phát triển kinh tế chính trị của địa phương hiện nay.
2.3.1.4. Thiếu sự kiểm tra, giám sát
Kiểm tra, giám sát là một nhiệm vụ hết sức quan trọng được ghi trong Điều 30 điều lệ
Đảng quy định. Qua kiểm tra, giám sát có kết luận và biện pháp chỉ đạo kịp thời sẽ giúp cho
các đồng chí đảng viên và chi bộ Đảng có vi phạm khắc phục sửa chữa khuyết điểm, có
hướng phấn đấu phù hợp. Đồng thời số đảng viên vi phạm phải xử lý kỷ luật để làm gương
trong Đảng.
Đa Mi là xã đất rộng người thưa với 2337ha đất sản xuất/1064 hộ; khoảng cách từ
UBND xã Đa Mi đến các thôn khá xa ( xem phụ lục). Như vậy việc thanh kiểm tra, giám sát
cán bộ, công chức là quá khó khăn. Mặt khác vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy
đảng chưa được nâng lên; việc kiểm tra chủ yếu là qua loa đại khái chưa đi vào chiều sâu.
Chính vì thế trong năm nay qua hiện tượng tranh chấp đất đai, san mặt bằng xây dựng trái
phép, lấn chiếm hành lang đường, phá rừng làm rẫy diễn ra khá phổ biến. Một số vụ việc
vướng mắc của người dân chưa được giải quyết, thủ tục cấp quyền sử dụng đất chưa được
thực hiện.
2.3.1.5. Chưa kiên quyết trong công tác đánh giá và sử dụng cán bộ
Người làm công tác tổ chức, cán bộ ngoài những tiêu chuẩn cán bộ theo Nghị quyết
Trung ương 3, khóa VIII, còn cần phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động
trước những khó khăn, thử thách; có quan điểm, chính kiến rõ ràng; có tính quyết đoán đối
với công việc; bản thân không tham nhũng, không nhận hối lộ và kiên quyết đấu tranh chống


p

20


tham nhũng; có ý chí khắc phục khó khăn, đứng vững trước những cám dỗ, sức ép trong
công việc, bảo vệ cái đúng, bảo vệ cán bộ tốt; dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và
mạnh dạn đổi mới, không trì trệ, bảo thủ. Trong công việc phải trung thực, khách quan, công
tâm, công khai, công bằng, dân chủ, không phân biệt thân sơ, sang hèn, không địa phương
cục bộ, không giấu giếm, bao che khuyết điểm hay thổi phồng ưu điểm; không xen tình cảm
riêng tư, động cơ cá nhân “yêu nên tốt, ghét nên xấu”, mà phải xem xét con người với đúng
bản chất, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể một cách biện chứng. Không báo cáo, phản ánh tình
hình sai sự thật, không lựa chiều theo lối “dĩ hòa vi quý”; khi nhận xét, đánh giá cán bộ
không được nói khác những điều mình biết, mình nghĩ và cho là đúng. Những nhận xét,
đánh giá về cán bộ phải luôn dựa trên những căn cứ pháp lý, theo tiêu chuẩn cán bộ của
Đảng, Nhà nước và căn cứ vào việc làm, hiệu quả công tác. Luôn gần gũi với mọi người,
giải quyết công việc trên cơ sở có lý, có tình.
Như vậy đối với những cán bộ, công chức làm việc trì trệ, cầm chừng chỉ biết hưởng
lợi, không hoàn thành nhiệm vụ thì Đảng ủy cần phải kiên quyết xử lí, không khoan nhượng,
kịp thời loại bỏ những phần tử xấu ra khỏi đội ngũ Đảng, tạo niềm tin với quần chúng nhân
dân.
2.3.2. Nguyên nhân khuyết điểm.
Từ những tồn tại, khuyết điểm nêu trên đó là do một số nguyên nhân sau:
Một là, chưa có chế độ tiền lương phù hợp đối với cán bộ, công chức vùng sâu, vùng
xa. Thiếu cán bộ tại chỗ; công tác tham mưu với cấp trên thiếu quyết liệt, thường xuyên.
Hai là, ý thức tự phê bình và phê bình của một số cán bộ, công chức chưa thể hiện
được vai trò, ý thức trách nhiệm của người đảng viên.
Ba là, trình độ quan điểm của cán bộ, công chức chưa ngang tầm với điều kiện phát
triển ở địa phương.

Bốn là, công tác kiểm tra giám sát còn chủ quan, lơ là, chưa thực hiện hết nhiệm vụ
trách nhiệm của cán bộ, công chức.
Năm là, tinh thần đấu tranh xây dựng Đảng, chính quyền của các đoàn thể chưa
mạnh, thiếu kiên quyết, còn nể nang, bao biện nhau.

p

21


Phần thứ ba
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
3.1. Phương hướng.
Từ thực trạng công tác đánh giá cán bộ, công chức ở xã Đa Mi, trong giai đoạn

tới

đây Đảng ủy xã cần thực hiện tốt một số phương hướng sau:
Thực hiện tốt công tác quán triệt, tuyên truyền, giáo dục các văn bản, chỉ thị,
chủ trương chính sách của Đảng trong đội ngũ cán bộ - công chức; thực hiện có kết
quả các nguyên tắc, quy trình cũng như nội dung đánh giá cán bộ - công chức;

thường

xuyên gần gũi, lắng nghe ý kiến của quần chúng nhân dân, kịp thời xây dựng

kế

hoạch,


chương trình hành động cụ thể phù hợp với tiền năng sẵn có ở địa phương;

thường

xuyên

tham mưu, tranh thủ sự giúp đỡ của Huyện ủy xây dựng đội ngũ vừa

hồng vừa chuyên cho

địa phương.
3.2. Giải pháp.
Là cán bộ đang công tác tại xã Đa Mi, qua nghiên cứu thấy được những khó
khăn của địa phương, bản thân mạnh dạn đưa ra một số giải pháp như sau:
3.2.1. Thực hiện tốt công tác dự nguồn quy hoạch cán bộ, chăm lo đội ngũ
cán bộ trẻ, nữ
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và
của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Quy hoạch cán bộ là quá trình
thực hiện đồng bộ các chủ trương, biện pháp tạo nguồn để xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức , đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trên cơ sở dự

báo nhu cầu cán bộ

nhằm đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị trong thòi gian

nhất định. Tầm quan

trọng, vai trò của công tác quy hoạch cán bộ đã được Đảng ta khẳng định trong nghị quyết


p

22


Trung ương 3 khóa VIII về “ Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước”
( năm 1997). Trong đó, Đảng ta nhấn mạnh: “ Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu
của công tác cán bộ, bảo đảm cho công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn xa,
đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và lâu dài”. Có làm tốt quy hoạch cán bộ mới từng bước
nâng cáo chất lượng, số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ, đảm bảo tính liên tục, kế thừa và phát
triển , tránh tình trạng hẫng hụt, bị động, chắp vá hiện nay. Cần tăng cường công tác quy
hoạch cán bộ lãnh đạo và quản lý. Đặc biệt quan tâm tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý trẻ
có thành tích xuất sắc, những cán bộ xuất thân từ công nhân, con em công nông, gia đình có
công với cách mạng, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ, quan trọng nhất là con em ở tại chỗ
( người địa phương). Công tác quy hoạch phải đảm bảo tính kế thừa và liên tục trong đội ngũ
cán bộ. Để thực hiện tốt công tác quy hoạch cán bộ để đáp ứng yêu cầu của xã Đa Mi hiện
nay cần quan tâm thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của các cấp ủy Đảng, đặc biệt
người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải đích thân chỉ đạo và chịu trách nhiệm về quy hoạch
cán bộ, phải thực sự dân chủ, sâu sát và công tâm trong công tác quy hoạch. Ngoài ra cần
thực hiện đúng nguyên tắc bảo đảm vai trò lãnh đạo tập trung cả các cấp ủy Đảng đi đôi với
việc phát huy trách nhiệm các tổ chức trong hệ thống chính trị, mở rộng dân chủ trong việc
phát hiện nguồn, phát hiện tài năng, nhất là chú trọng nguồn cán bộ nữ, cán bộ trẻ; đồng thời
phải thực hiện đầy đủ các bước quy hoạch cán bộ.
Để nâng cao chất lượng của hiệu quả quy hoạch cán bộ, yếu tố có ý nghĩa quyết định
hàng đầu là vai trò, trách nhiệm lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của cấp ủy Đảng. Do đó,
đòi hỏi mỗi cấp ủy Đảng, người đứng đầu phải có tư duy chiến lược, có tầm nhìn xa trong
lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành công tác quy hoạch cán bộ. Đồng thời, đơn vị cấp dưới phải chịu
trách nhiệm cao nhất về kết quả và chất lượng của công tác quy hoạch cán bộ, coi đây là một
tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ chính trị của tập thể và cá

nhân lãnh đạo mỗi cơ quan, đơn vị.
Đào tạo bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch và tạo nguồn cán bộ, lấy chất lượng và hiệu
quả làm mục tiêu đào tạo. Trong công tác quy hoạch phải luôn được gắn chặt với công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch và lấy chất lượng, hiệu

p

23


quả làm mục tiêu. Đối với cán bộ trẻ trong diện quy hoạch nhất thiết phải được đào tạo toàn
diện.
Xây dựng quy chế và kiên trì thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch,
đạo tạo rồi mới bố trí, bổ nhiệm; bố trí, đề bạt cán bộ phải trên cơ sở quy hoạch, đào tạo.
Nâng cao hơn nữa vai trò, nâng lực tham mưu của cơ quan tổ chức và cán bộ làm công tác tổ
chức các cấp để đáp ứng yêu cầu của công tác cán bộ nói chung và công tác quy hoạch cán
bộ nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
3.2.2. Nâng cao ý thức trách nhiệm, sức chiến đấu cho đảng viên, thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc đánh giá cán bộ
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng Đảng ta
thực sự trong sạch vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân. Người căn dặn: “ Đảng phải luôn nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu,
phải luôn tự chỉnh đốn để hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang.”. Để thực hiện tốt lời căn dặn của
Bác, đồng thời vận dụng phù hợp với điều kiện hiện nay đảng ủy xã Đa Mi cần:
Tăng cường công tác giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
cho cán bộ, đảng viên. Tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh
vững vàng trước những khó khăn, thách thức; nhạy bén về chính trị, kịp thời phát hiện và
kiên quyết đấu tranh với các thủ đoạn, hành động “ Diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ
của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch”; kiên quyết đấu tranh với những nhận thức,
quan điểm mơ hồ, lệch lạc, hành vi sai trái; đề cao trách nhiệm chính trị, thực hiện tốt chức

trách, nhiệm vụ được giao, đóng góp sức lực, trí tuệ của mình xây dựng đảng ủy xã trong
sạch vững mạnh.
Phải giáo dục, động viên, tổ chức cho nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương
của Đảng. lãnh đạo nhân dân bằng cách tuyên truyền, cổ động, giáo dục, tổ chức nhân dân,
dựa vào nhân dân để thực hiện nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Công việc càng khó
khăn thì sự lãnh đạo càng phải liên hợp chặt chẽ với quần chúng.
Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
trong mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị. Dân chủ trong thảo luận, bàn bạc ra quyết định và

p

24


tổ chức thực hiện. Thực hiện tốt quy chế lãnh đạo, quy chế làm việc, chế độ thông tin nhanh
chóng, chính xác để đảm bảo thực sự dân chủ.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững mạnh; thực hiện tốt công tác phát triển
đảng viên; kết hợp chặt chẽ giữa việc kiện toàn cán bộ chủ chốt với kiện toàn cấp ủy Đảng.
Trong đó các cấp ủy, tổ chức Đảng cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý, giáo dục, rèn
luyện, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, nâng lực lãnh đạo cho
cán bộ, đảng viên; đồng thời mỗi cán bộ, đảng viên cần phải tích cực học tập, rèn luyện phấn
đấu nâng cao trình độ, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, các tổ chức Chính trị - Xã hội tham gia
tích cực vào công tác xây dựng Đảng, nhất là việc góp ý kiến, phê bình cho cấp ủy, tổ chức
Đảng, cán bộ, đảng viên. Có quy chế tiếp nhận, xử lý thông tin, chế độ tiếp thu và trả lời ý
kiến đóng góp, nguyện vọng hoặc khiếu nại, tố cáo của quần chúng.
3.2.3. Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt
Cán bộ tham mưu về công tác tổ chức bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ của Đảng ủy xã,
là người trực tiếp tiếp xúc nhân sự, giám sát quy trình và hiểu rõ hơn ai hết thực tế chất

lượng quy trình nhân sự cũng như năng lực thực tế của nhân sự để lập phương án trình cấp
có thẩm quyền quyết định. Vì vậy việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tham mưu về
công tác tổ chức bồi dưỡng cán bộ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trước tình hình xã Đa Mi
hiện nay, công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức là hết sức quan trọng. Là một xã có
đủ tiềm năng và đang phát triển cả về du lịch, cây công nghiệp, cây ăn quả, nuôi cá nước
ngọt…Việc ngang tầm để quản lý đưa Kinh tế - Xã hội phát triển nhanh hơn; trước trình độ
chuyên môn của cán bộ, công chức xã hiện nay, điều quan trọng nhất cần làm là:
Cần xây dựng chất lượng của cán bộ tham mưu về công tác tổ chức cán bộ bao gồm
bản lĩnh, năng lực và phương pháp. Về bản lĩnh, đó là lập trường, tư tưởng phẩm chất đạo
đức, lối sống của người cá bộ thể hiện trong quá trình công tác. Làm tốt công tác chính sách
đối với cán bộ, tăng cường trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật đủ cho cán bộ làm việc, có chế
độ tiền lương, trợ cấp ưu đãi hợp lý. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt

p

25


×