Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

10 câu THI TRIẾT học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.52 KB, 24 trang )

1
TS. Nguyễn Văn Thiện
TRẢ LỜI CÂU HỎI TRIẾT HỌC CỦA CAO HỌC KHỐI TN & CN
(Hai câu trong một đề thi. Thời gian làm bài 90 phút)
XIN LƯU Ý
1) Câu nào có những dòng gạch chân là để tham khảo thêm
2) Nội dung rất dài nên có thể rút gọn khi trình bày, đồng thời cần bổ sung
thêm những suy luận sáng tạo của học viên.
**********************************
Câu 1: Trình bày các nội dung vấn đề cơ bản của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học:
Mối quan hệ giữa giữa tư duy và tồn tại, giữa tâm và vật, giữa vật chất và ý thức,
hay giữa tự nhiên và tinh thần được gọi là "vấn đề cơ bản lớn" hay "vấn đề tối cao" của triết
học. Ph.Ăngghen viết: "Vấn đề cơ bản lớn của mọi triết học, đặc biệt là của triết học hiện
đại, là vấn đề quan hệ giữa tư duy với tồn tại"1.
Quan hệ giữa tư duy và tồn tại, hay giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của
triết học bởi vì:
* Dựa vào việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học để làm chuẩn mực phân biệt
CNDV và CNDT cùng các hình thái lịch sử của chúng.
* Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học quyết định sự
hình thành thế giới quan và phương pháp luận của các nhà nghiên cứu; xác định bản chất
của các trường phái triết học đó.
* Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở để giải quyết các vấn đề khác của
triết học.
Các nội dung vấn đề cơ bản của triết học:
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
Mặt thứ nhất trả lời cho câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào
có sau và cái nào quyết định?
Việc giải quyết mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết học đã chia các nhà triết
học thành hai trường phái lớn. Những nhà triết học cho rằng vật chất, giới tự nhiên là cái có
trước và quyết định ý thức của con người được gọi là các nhà duy vật; học thuyết của họ


hợp thành các môn phái khác nhau của CNDV. Ngược lại, những người cho rằng ý thức,
tinh thần có trước giới tự nhiên được gọi là các nhà duy tâm; họ hợp thành những môn phái
khác nhau của CNDT.
CNDV có các hình thái cơ bản: CNDV chất phác, ngây thơ thời cổ đại, CNDV máy
móc, siêu hình thế kỷ XVII - XVIII, CNDV biện chứng.
CNDT tồn tại dưới hai dạng chủ yếu: CNDT khách quan và CNDT chủ quan
Một trường phái triết học được gọi là nhất nguyên luận (duy vật hoặc duy tâm) khi
lấy việc thừa nhận chỉ một trong hai nguyên thể (vật chất hoặc ý thức) là cái có trước và
quyết định cái kia, nghĩa là cho rằng thế giới chỉ có một nguồn gốc duy nhất. Trong lịch sử
triết học ngoài những nhà duy vật và duy tâm có quan điểm nhất nguyên còn có những nhà
triết học xem vật chất và ý thức là hai nguyên thể song song tồn tại, không cái nào có trước;
chúng là hai nguồn gốc tạo nên thế giới. Học thuyết triết học của họ là nhị nguyên luận mà
Đềcáctơ là đại biểu. Có nhà triết học, như Lépnít (người Đức) chẳng hạn, lại cho rằng vạn
vật là do vô số nguyên thể độc lập cấu thành. Đó là quan điểm đa nguyên luận triết học.
Triết học nhị nguyên luận biểu hiện tính không triệt để khi giải đáp mặt thứ nhất
của vấn đề cơ bản của triết học, vì vậy, nó thường sa vào CNDT. Còn đa nguyên luận triết
học là một học thuyết triết học duy tâm.
1 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hn, 1995, t.21, tr.403

-1-


2
Nội dung vừa trình bày trên của câu 1 (Mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản của triết
học trả lời cho câu hỏi: Giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào
quyết định?) có thể diễn đạt lại gọn hơn là:
- CNDV: Vật chất có trước ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức ...
- CNDT: Ý thức có trước vật chất có sau, ý thức quyết định vật chất ...
- Thuyết nhị nguyên: Cho rằng vật chất và ý thức là hai nguyên thể song song tồn
tại, không cái nào có trước; chúng là hai nguồn gốc tạo nên thế giới ...

Mặt thứ hai trả lời cho câu hỏi: ý thức của chúng ta có thể phản ánh trung thực thế
giới khách quan hay không? Nói cách khác, con người có khả năng nhận thức được thế giới
hay không?
Đa số các nhà triết học (cả các nhà duy vật và các nhà duy tâm) khẳng định con
người có khả năng nhận thức được thế giới:
Các nhà triết học duy vật xuất phát từ chỗ cho rằng vật chất có trước, ý thức có sau
và là sự phản ánh của vật chất nên khẳng định khả năng con người có thể nhận thức được
thế giới khách quan.
Các nhà triết học duy tâm cũng thừa nhận thế giới là có thể nhận thức được. Nhưng
vì họ xuất phát từ quan niệm cho rằng ý thức có trước vật chất, vật chất phụ thuộc vào ý
thức nên theo họ nhận thức không phải là phản ánh thế giới mà chỉ là tự nhận thức, tự ý thức
về bản thân ý thức. Chẳng hạn, Hêghen (duy tâm khách quan) cho rằng, quá trình con người
nhận thức giới tự nhiên chẳng qua là quá trình "ý niệm tuyệt đối" tự nhận thức bản thân
mình. Còn Béccơli (duy tâm chủ quan), cho rằng nhận thức chỉ là phức hợp của các cảm
giác mà thôi.
Tuy nhiên, cũng có một số nhà triết học cho rằng con người không thể nhận thức
được thế giới hay ít ra là không thể nhận thức được bản chất của nó. Học thuyết của họ
được gọi là "thuyết không thể biết". Đại biểu nổi tiếng nhất của những người theo thuyết
"không thể biết" là Hium (nhà triết học Anh) và Cantơ (nhà triết học Đức). Theo Hium,
chẳng những chúng ta không thể biết được sự vật là như thế nào, mà cũng không biết được
sự vật đó có tồn tại hay không. Còn Cantơ thì thừa nhận có một thế giới sự vật tồn tại, ông
gọi đó là "vật tự nó"; nhưng chúng ta không thể nhận thức được bản chất thế giới ấy mà chỉ
là nhận thức được những hiện tượng của nó mà thôi.
Vấn đề mà những người theo thuyết không thể biết đặt ra và đã không giải quyết
được là: làm thế nào để biết được rằng những cảm giác, biểu tượng và nói chung ý thức của
con người có phù hợp với sự vật mà con người muốn nhận thức hay không? Nhưng nếu từ
đó đi tới phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của tư duy con người, phủ nhận chân lý
khách quan lại là sai lầm và rơi vào CNDT.
Sai lầm trên ở trào lưu triết học "hoài nghi luận" mà đại biểu là Pirôn (nhà triết học
Hy Lạp cổ đại). Những người theo hoài nghi luận nâng sự hoài nghi lên thành nguyên tắc

trong việc xem xét tri thức đã đạt được và cho rằng con người không thể đạt chân lý khách
quan.
Hoài nghi luận thời Phục hưng lại có tác dụng quan trọng trong cuộc đấu tranh
chống hệ tư tưởng Trung cổ và uy tín của Giáo hội thời Trung cổ vì nó thừa nhận sự hoài
nghi đối với cả Kinh thánh và các tín điều tôn giáo.
Câu 2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức trên lập trường duy vật biện chứng.
1). Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội của ý thức đã khẳng
định vật chất là nguồn gốc của ý thức:
-Nguồn gốc tự nhiên
-2-


3
Bằng sự phát triển lâu dài của bản thân triết học và sự phát triển khoa học, chủ
nghĩa duy vật biện chứng chứng minh rằng, chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là
thế giới vật chất. Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con
người.
Căn cứ vào sự phát triển lâu dài của khoa học về giới tự nhiên, đặc biệt là ba phát
minh vĩ đại có tính chất vạch thời đại vào những năm 40 của thể kỷ XIX: thuyết tế bào, định
luật bảo toàn và chuyển hoa năng lượng, thuyết tiến hóa các loài, chủ nghĩa duy vật biện
chứng khẳng định, chỉ có một thế giới duy nhất, thống nhất là thế giới vật chất tồn tại vĩnh
viễn, vô hạn và vô tận. Con người là sản phẩm tiến hóa lâu dài của giới tự nhiên. Bộ óc
người là một tổ chức vật chất sống đặc biệt, có cấu trúc tinh vi và phức tạp, bao gồm khoảng
14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này có liên quan với nhau và với các giác quan, tạo
thành vô số những mối liên hệ thu nhận, điều khiển hoạt động của cơ thể trong quan hệ với
thế giới bên ngoài qua các phản xạ không điều kiện và có điều kiện.
Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh, chủ
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, ý thức là một thuộc tính của vật chất, nhưng không

phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là một thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức
cao là bộ óc người. Ý thức là hình ảnh tinh thần không phải là vật chất, nhưng không tồn tại
đâu khác ngoài bộ óc con người. Bộ óc người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức
năng của bộ óc người. Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý
thần kinh của bộ óc người. Mối quan hệ mật thiết này thể hiện rõ khi bộ óc bị tổn thương thì
hoạt động ý thức sẽ không bình thường hoặc bị rối loạn. Vì vậy không thể tách rời ý thức ra
khỏi hoạt động của bộ óc người. Ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần
kinh của bộ óc người.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất
cho nên nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất.
- Nguồn gốc xã hội
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên rất quan trọng, không thể
thiếu, song chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn
gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ có lao động, ngôn
ngữ và những quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc vào
xã hội, và ngay từ đầu đã mang tính xã hội.
Loài vật tồn tại nhờ vào những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên dưới dạng trực tiếp.
Còn loài người thì khác hẳn. Những vật phẩm cần thiết cho sự sống thường không có sẵn
trong tự nhiên. Con người phải tạo ra những vật phẩm ấy. Chính thômg qua hoạt động lao
động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới
khách quan, mới có ý thức về thế giới đó.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người thông qua lao động,
ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Trong đó lao động là nguồn gốc trực tiếp và quan trọng
nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức.
2). Vai trò và tác dụng của ý thức đối với vật chất
Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật
biện chứng đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với
vật chất. Ý thức do vật chất sinh ra và quyết định, song khi ra đời, ý thức có tính độc lập
tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn
của con người. Ý thức của con người có tác động tích cực, làm biến đổi hiện thực, vật chất

khách quan theo nhu cầu của mình.
Nói tới vai trò của ý thức về thực chất là nói tới vai trò của con người, bởi vì ý thức
là ý thức của con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi gì được trong hiện
thực cả. Theo Mác "Vũ khí phê phán không thể thay thế sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng
-3-


4
2

vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng vật chất" , cho nên muốn thực hiện tư tưởng phải
sử dụng lực lượng thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là con người muốn thực hiện các quy
luật khách quan thì phải nhận thức, vận dụng đúng đắn những quy luật đó, phải có ý chí và
có phương pháp để tổ chức hành động. Cho nên vai trò của ý thức là ở chỗ chỉ đạo hoạt
động của con người, hình thành mục tiêu, kế hoạch, ý chí, biện pháp cho hoạt động của con
người. Ở đây ý thức, tư tưởng có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng hay sai,
thành công hay thất bại trên cơ sở những điều kiện khách quan nhất định.
Vai trò tích cực của ý thức, tư tưởng không phải ở chỗ nó trực tiếp tạo ra hay thay
đổi thế giới vật chất mà là nhận thức thế giới khách quan và từ đó làm cho con người hình
thành được mục đích, phương hướng, biện pháp và ý chí cần thiết cho hoạt động của mình.
Sức mạnh của ý thức con người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất, thoát
ly hiện thực khách quan, mà là biết dựa vào điều kiện vật chất đã có, phản ánh đúng quy
luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan một cách chủ động, sáng tạo với ý chí, nhiệt
tình cao. Con người phản ánh càng đầy đủ và chính xác thể giới khách quan thì càng cải tạo
thế giới có hiệu quả.
Vì vậy phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố
con người để tác động cải tạo thế giới khách quan. Đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ
trì trệ, thái độ tiêu cực thụ động, ỷ lại, ngồi chờ trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Tuy nhiên cơ sở cho việc phát huy tính năng động chủ quan (tính năng động, sáng
tạo của ý thức) là việc thừa nhận và tôn trọng tính khách quan của vật chất, của các quy luật

tự nhiên và xã hội. Nếu như thế giới vật chất - với những thuộc tính và quy luật vốn có của
nó - tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người thì trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của
mình. Chính vì vậy, V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, không được lấy ý muốn chủ
quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược
và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho
thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí.
Câu 3. Đặc điểm của triết học phương Đông trong đối sánh với triết học
phương Tây
1. Nét đặc thù (đặc điểm nổi bật) của triết học phương Đông
Cũng như mọi nền triết học khác, triết học phương Đông cũng có những đặc điểm
chung của sự hình thành và phát triển lịch sử tư tưởng triết học, ngoài ra nó còn có những
nét đặc thù, tạo nên một thiên hướng riêng của nó.
1). Ở phương Tây, các trường phái triết học thay thế nhau thường phát triển với
quan điểm hoàn toàn mới, phê phán hay gạt bỏ quan điểm của những người đi trước. Trái lai
ở phương Đông, một loạt hệ thống triết học mới xuất hiện, thường dựa vào một hệ thống
triết học đã có từ thời cổ, sự phát triển sau đó chỉ là phát triển, hoàn thiện, tăng cường chứng
cứ cho ban đầu hơn là tìm các sai lầm. Cũng có những học thuyết xuất hiện tự nhận mình
thuộc về một hệ thống triết học đã có nhưng trong thực tế nó đối lập với hệ thống cũ về nội
dung tư tưởng.
2). Xung quanh bàn về vấn đề cơ bản của triết học
* Mặt thứ nhất: Phương Đông không rõ, ít bàn đến vật chất, ý thức; tư duy, tồn tại
cái nào quyết định cái nào
* Mặt thứ hai: Vấn đề mối quan hệ giữa con người với thế giới, trong đó đặc biệt
con người vấn đề con người có nhận thức được thế giới hay không ít được bàn đến. Chủ yếu
bàn tới sự thống nhất của con người với thế giới. Người phương Đông cho rằng con người
với thế giới gắn chặt với nhau, không tách rời nhau. Trong đó, thế giới là một đại vũ trụ thì
con người là tiểu vũ trụ
3). Xét về đối tượng nghiên cứu của triết học
2 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 1, tr.580.


-4-


5
Phương Đông quan tâm trước hết đến vấn đề con người, ít quan tâm tới thế giới. Có
nghiên cứu thế giới nhưng để làm rõ vấn đề con người.
Ngay khi nghiên cứu về con người, phương Đông và phương Tây cũng có nét khác
nhau: Phương Đông chú ý nhiều đến quan hệ xã hội, quan hệ đời sống tâm linh của con
người, ít quan tâm đến đời sống vật chất. Ngược lại, phương Tây quan tâm nhiều đến đời
sống vật chất của con người, ít quan tâm đến mặt đời sống xã hội. Khiếm khuyết này được
Mác, Ănghen bổ sung.
4). Xét về tính đảng trong triết học: Phương Đông mờ nhạt, không rõ như phương
Tây. Phương Tây rất rõ nét, chia thành các trận tuyến đấu tranh với nhau rất quyết liệt: DV DT, BC - SH. Trong triết học phương Đông vấn đề DV, DT, BC, SH đan xen trong từng học
thuyết.
5). Xét về vị trí và vai trò triết học trong hệ thống các khoa học thì ở phương Đông
triết học không tồn tại với tính cách là một môn khoa học độc lập, không có nhà triết học
độc lập, không có những tác phẩm triết học độc lập. Bởi vì, những tư tưởng triết học được
thể hiện, chứa đựng trong các học thuyết khác như học thuyết chính trị, đạo đức, tôn giáo,
nghệ thuật ...
6). Xét về quá trình phát triển
Triết học phương Đông trì trệ không có biến đổi về chất qua các giai đoạn lịch sử
mà chỉ biến đổi về lượng trong khuôn khổ một học thuyết, trường phái cũ. Ví dụ, Nho giáo
phát triển qua giai đoạn chính: Nho nguyên thủy đến Hán Nho và Tống Nho vẫn là Nho.
Ngược lại, phương Tây có sự phát triển đột biến
7). Xung quanh vấn đề hình thức biểu hiện
Các nội dung
Thế giới

Phương Đông

Vô cực, Thái cực, thiên, địa,
cái một, thái hư
Các hiện tượng vật chât, ý Vật - tâm, hình - thần, khí thức

Tính chất của thế giới
- Tĩnh, động, dịch, biến dịch
- Phản phục, nhất thể
- Tuần hoàn

Phương Tây
Thế giới, vũ trụ, trời, đất
Vật chât - ý thức, tư duy tồn tại, tự nhiên - tinh thần
- Siêu hình, biện chứng

- Mâu thuẫn, đấu tranh
- Chu kỳ
- Phản ánh quy luật, khái - Đường, Đạo
- Lôgíc, quy luật
niệm
- Danh
- Khái niệm, phạm trù
Từ những đặc điểm lớn này suy ra đặc điểm triết học Ấn Độ và Trung Quốc:
- Trung Quốc: Quan tâm vấn đề xã hội theo xu hướng nhập thế. Ngược, lại ở Ấn
Độ quan tâm vấn đề tâm linh theo xu hướng xuất thế.
- Trung Quốc: tư tưởng triết học ẩn dấu đằng sau các học thuyết chính trị, đạo đức,
quân sự, ngoại giao; nhấn mạnh phạm trù "có". Ngược lại, ở Ấn Độ tư tưởng triết học ẩn
dấu trong tôn giáo; nhấn mạnh phạm trù "không".
So sánh Ấn Độ và Trung Quốc
Ấn Độ
- Hầu hết các hệ thống triết học Ấn Độ cổ đại đều tập trung giải quyết vấn đề nhân

bản. Trong nhân sinh quan của triết học thường xoay quanh vấn đề "giải thoát" hay "siêu
thoát", rất ít trường phái xa rời vấn đề này.
Người Ấn Độ cổ đại quan niệm mỗi đời người là một mắt khâu trong vòng tử
không dừng. Vậy làm thế nào để thoát khỏi vòng luân hồi đó. Từ đây đã xuất hiện các quan
điểm và phương pháp khác nhau để đạt tới giải thoát.
- Tính đan xen giữa triết học và tôn giáo cũng là một nét đặc thù của triết học Ấn
Độ cổ đại.
-5-


6
Triết học và tôn giáo là hai hình thái ý thức xã hội khác nhau nhưng ở Ấn Độ cổ
đại, những vấn đề triết học và vấn đề tôn giáo rất khó tách biệt. Người ta tìm thấy triết học ở
chính ngay trong tôn giáo. Bởi vậy, việc nghiên cứu triết học Ấn Độ cổ đại không thể tách
rời việc nghiên cứu tôn giáo.
Trung Quốc
- Những biểu tượng tôn giáo và triết học đã xuất hiện từ rất sớm ở xã hội Trung
Hoa cổ đại. Từ cuối thiên niên kỷ II tr.CN đã ra đời các biểu tượng về "Đế", "Thượng đế",
"Thiên mệnh", "Quỷ thần" v.v.. Đầu thiên niên kỷ thứ I tr.CN đã có những biểu tượng "Âm Dương", "Ngũ hành". Cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT, giữa vô thần và tôn giáo đã
diễn ra xung quanh các biểu tượng đó.
- Cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT, chủ yếu diễn ra xung quanh các vấn đề
khởi nguyên của thế giới, vấn đề cơ bản của triết học, vấn đề con người, vấn đề đạo đức,
vấn đề tri thức, vấn đề biến dịch.
- Vấn đề khởi nguyên của thế giới, CNDT cho rằng thế giới bên ngoài là do trời, do
thượng đế sáng tạo ra. Con người cũng do trời sinh ra và số phận của nó do trời quy định.
CNDV theo thuyết ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) thì cho rằng vạn vật trong thế giới
do "Ngũ hành" tương sinh tương khắc mà tạo nên. Những người theo thuyết "Âm - Dương"
thì quan niệm âm dương giao cảm với nhau tạo nên trời đất vạn vật.
- Vấn đề cơ bản của triết học thể hiện qua việc giải quyết vấn đề về mối quan hệ
giữa các cặp phạm trù: "hình" và "thần","tâm" và "vật","lý"và "khí". Những nhà duy tâm

cho rằng "thần" có trước "hình", "tâm" có trước "vật", "lý' có trước "khí". Ngược lại, các
nhà duy vật thì cho rằng "hình" có trước "thần", "vật" có trước"tâm", "khí" có trước "lý".
- Vấn đề con người nói chung, trong đó đặc biệt là tính người và số phận con người
là vấn đề nổi bật trong lịch sử triết học Trung Hoa cổ đại. Một trong những nguyên nhân xã
hội của vấn đề này là tình trạng nổi loạn xẩy ra thường xuyên trong xã hội, sự chống đối
triều đình liên tục của nhân dân. Giai cấp thống trị Trung Hoa không hiểu được nguyên
nhân xẩy ra của những hiện thực đó, họ quy tất cả là do tính người và cố gắng tìm cách giải
thích bản tính người để có những giải pháp trị yên đất nước. Các nhà duy tâm thì cho rằng
tính người do trời phú và nghĩa vụ của con người đối với xã hội như thế nào là do tính trời
phú đó. Các nhà duy vật thì cho rằng tính người (tư tưởng, tình cảm, tâm lý con người) là do
hoàn cảnh bên ngoài sinh ra, những ham muốn dục vọng của con người là điều kiện tự
nhiên trong cuộc sống, không có gì là xấu xa.
- Về số phận con người thì các nhà duy tâm gán cho mệnh trời. Mệnh trời chi phối
cuộc sống xã hội và cuộc đời con người. Ông trời có thể thưởng, phạt với con người. Giữa
trời và người có sự thông cảm (thiên nhân cảm ứng). Phật giáo Trung Hoa thì cho rằng cuộc
đời con người ở trong vòng số kiếp, kiếp này là quả của kiếp trước và nhân của kiếp sau.
Các nhà duy vật thì cho rằng trời là giới tự nhiên, đạo trời và mệnh trời là do sự vận hành có
tính quy luật của tự nhiên không liên quan gì đến việc trị loạn của con người, cái đáng sợ
không phải là "mệnh trời" mà là "nhân họa".
Tuy nhiên do sự khó khăn trong việc giải thích vấn đề số kiếp con người, cho nên
quan điểm của CNDT về vấn đề đó vẫn thắng thế trong lịch sử triết học nhiều nghìn năm
của Trung Hoa cổ đại.
- Vấn đề tri thức cũng là vấn đề để nổi bật trong triết học Trung Hoa cổ đại. Trong
nội dung của vấn đề này các nhà triết học đã bàn đến khả năng nhận thức của hai hạng
người trong xã hội: phàm nhân và thánh nhân, kẻ thượng trí và người hạ ngu.
* Các nhà duy tâm tiêu biểu là Khổng Tử cho rằng bậc thánh nhân hay thượng trí
thì sinh ra đã hiểu biết, còn phàm nhân và kẻ hạ ngu (ý nói nhân dân lao động) dù có học
cũng không thể biết được. Quan niệm đó phục vụ cho chính sách ngu dân thần bí của giai
cấp thống trị.
-6-



7
* Các nhà duy vật thì cho rằng ai cũng phải học thì mới biết được, do đó mọi người
dù thánh nhân hay phàm nhân, thượng trí hay hạ ngu đều phải học.
- Trong vấn đề nhận thức luận, điểm hạn chế của triết học Trung hoa (Kể cả CNDV
và CNDT) là không lấy giới tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu. Vì vậy, nhận thức luận của
họ không trở thành công cụ đắc lực khám phá cải tạo giới tự nhiên.
- Phép biến chứng về biến dịch cũng là một nét đặc sắc trong triết học Trung Hoa
cổ đại. Trong "Dịch học", các nhà biện chứng cho rằng trời đất, vạn vật luôn luôn ở trong
quá trình biến đổi không ngừng và có tính quy luật. Nguyên nhân của sự biến hóa đó là do
sự biến đổi của hai mặt đối lập như âm và dương, nước và lửa, trời và đất. Chính trị - xã hội
cũng biến đổi theo quy luật tự nhiên đó.
Hạn chế của phép biện chứng này là coi sự biến hóa chỉ có tính chất tuần hoàn theo
chu kỳ phép kín, không có sự phát triển, không có sự xuất hiện cái mới.
- Vấn đề đạo đức là một trong những vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong triết học
Trung Hoa cổ đại. Những Phạm trù đạo đức như "lễ", "nghĩa", "nhân" được các nhà triết học
đặc biệt chú ý. "Lễ" đóng vai trò quan trọng trong đời sống đạo đức và đời sống chính trị
("Lễ" trong quan niệm của Khổng Tử vừa là nghi lễ, tế lễ, vừa là thể chế chính trị và quy
phạm đạo đức).
Những quy định về đạo đức, đặc biệt là "lễ" trong xã hội phong kiến Trung Hoa hết
sức khắc nghiệt và phiền tạp. Các nhà duy vật cố gắng giảm nhẹ tính chất khắc nghiệt và
phiền tạp đó, nhân dân cũng nổi lên chống lại "lễ". Nhưng do tính chất bảo thủ của chế độ
phong kiến Trung Hoa nên vai trò của "lễ" vẫn thống trị trong xã hội Trung hoa cho đến thời
kỳ cách mạng tư sản sau này.
...................
Triết học phương Tây
1. Nét đặc thù của triết học phương Tây
1%. Nó là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp chủ nô thống trị trong xã hội
phương Tây cổ đại. Như vậy ngay từ đầu nó đã mang tính giai cấp sâu sắc. Triết học phương

Tây cổ đại vẫn là công cụ lý luận nhằm duy trì trật tự xã hội CHNL, bảo vệ sự thống trị của
giai cấp chủ nô. Cho nên phần lớn các nhà triết học thời kỳ này đều coi nô lệ không phải là
con người mà chỉ là công cụ biết nói.
Tính giai cấp không chỉ thể hiện ở chỗ học thuyết đó biểu hiện lập trường của một
giai cấp hay đảng phái nào đó, mà còn là ở chỗ nó thể hiện tư tưởng của một khuynh hướng,
trào lưu triết học nhất định. Những mâu thuẫn trong xã hội cổ đại được thể hiện trong sự
xung đột về tư tưởng của các nhà triết học, tiêu biểu nhất là sự xung đột giữa "đường lối Đêmô-crít và đường lối Platon".
Lênin khái quát cuộc đấu tranh giữa CNDV và CNDT là cuộc đấu tranh giữa
"đường lối Đê-mô-crít và đường lối Platon" trong triết học tạo thành nội dung cơ bản của
lịch sử triết học Hy Lạp, về khách quan chính là sự thể hiện về mặt tư tưởng của cuộc đấu
tranh gay gắt giữa các tầng lớp trong giới chủ nô - tầng lớp chủ nô quý tộc và tầng lớp chủ
nô tiến bộ dân chủ trong xã hội Hy Lạp cổ đại. Triết học Hy lạp ngay từ đầu đã mang tính
chất giai cấp sâu sắc, song về thực chất đó là thế giới quan, ý thức hệ của giai cấp chủ nô
thống trị, là công cụ lý luận nhằm duy trì và bảo vệ trật tự xã hội đương thời.
So sánh với phương Đông cổ đại (Tr. Quốc, Ấn Độ)
+ Một là: Phương Đông, tính giai cấp mờ nhạt, tư tưởng tr. học ẩn dấu đằng sau
những học thuyết chính trị - xã hội, tôn giáo, đạo đức.
- Trung Quốc: đề cập vấn đề chính trị - xã hội, con người, số phận con người, đạo
đức. Tr. học ra đời vào thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc (TK VIII - III Tr.CN): chiến tranh hơn
300 năm triền miên (các cuộc chiến tranh "xương chất thành núi, máu chảy thành sông" dã man hơn bất cứ sự dã man nào trong lịch sử), xã hội loạn lạc. Làm thế nào để có thái
bình ?
-7-


8
Khổng Tử cho xã hội loạn vì không có "Chính danh" = Tu thân, tề gia, trị quốc,
bình thiên hạ.
Pháp gia: Loạn lạc = dùng pháp trị
Mặc gia: Xã hội loạn do mất hết tình yêu thương nhân loại cho nên phải "Kiêm ái"
Lão gia: Xã hội đại loạn do con người can thiệp vào, tại con người cứ đặt ra thiện

và ác cho nên đề ra "Vô vi"
- Ấn Độ: Đề cập đến đời sống tâm linh và tìm cách "giải thoát" khỏi bể khổ trầm
luân.
+ Hai là: Phương Đông, phát triển trầm tích, từ từ chậm chạp, không có đột biến.
Phát triển theo con đường chú giải, giải thích chứ không có hệ thống triết học mới đột biến,
lấy cái đã có để luận giai, giải thích (Phật tổ chết sau 100 năm phát triển thanh nhiều phái
nhưng vẫn là Phật; Nho: Khổng Tử thành lập đến Hán Nho, Tống Nho vẫn là Nho).
2%. Thể hiện ở tính bao trùm của nó về mọi lĩnh vực thế giới quan của con người
Hy lạp cổ đại. Nó đề cập đến những vấn đề thế giới quan cơ bản của con người như: tồn tại
là gì? nguồn gốc và bản chất của thế giới ra sao? cuộc đời và số phận con người như thế
nào? v.v.. được coi là nhiệm vụ cơ bản của triết học. Tuy nhiên, ở thời kỳ này do sự đối lập
giữa lao động trí óc và lao động chân tay quá lớn, cho nên nhìn chung các quan niệm triết
học còn mang nặng tính tư biện. Chuẩn mực của “sự thông thái” được bàn đến chủ yếu ở
khía cạnh nhận thức luận. Mặc dầu có hạn chế nhất định nhưng như Ph.Ăngghen đã chỉ rõ:
Triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại đã chứa đựng dưới dạng mầm mống mọi dạng thế giới
quan sau này.
3%. Coi trọng vấn đề con người. Mặc dù giữa các nhà triết học vẫn còn nhiều bất
đồng về vấn đề này nhưng nhìn chung họ đều khẳng định con người là tinh hoa cao quý
nhất của tạo hóa. Tư tưởng ấy được thể hiện rõ qua luận điểm nổi tiếng của Pitago: "con
người là thước đo tất thảy mọi vật". Xôcrát, đánh dấu một bước ngặt trong sự phát triển tư
tưởng triết học Hy Lạp cổ đại, từ chỗ nó chủ yếu bàn về các vấn đề căn nguyên, bản chất
của thế giới và sự nhận thức chúng tới việc coi triết học là tự ý thức của con người về chính
bản thân mình. Tuy nhiên, thứ nhất: con người (thời cổ đại) chỉ được nhìn nhận chủ yếu với
tính chất cá thể; thứ hai: giá trị con người được bàn đến chủ yếu ở khía cạnh đạo đức, giao
tiếp, nhận thức luận, còn hoạt động thực tiễn của con người hầu như không được bàn đến.
So sánh:
+ Phương Đông: Coi con người là 1 tiểu vũ trụ (Thiên - Nhân - Địa hợp nhất), con
người của nền văn hóa ẩm thực. Ngược lại, phương Tây: con người chinh phục tự nhiên.
4%. Mang tính chất biện chứng sơ khai, duy vật tự phát, mặc dầu đã có sự phân
chia hai khuynh hướng triết học khá rõ nét. Nó tìm cách giải thích thế giới như một chỉnh

thể thống nhất trong đó các sự vật vận động, biến đổi không ngừng. Hêraclít đã nhận ra một
chân lý nổi tiếng: Trong cùng một thời điểm sự vật đồng thời vừa là nó lại vừa là cái khác.
Vì vậy, "không thể tắm hai lần trong cùng một dòng sông", đã trở thành luận điểm bất hủ
của ông. V.I Lênin gọi là biện chứng ngắm nhìn, biện chứng miêu tả.
Nhìn chung, như Ph.Ăngghen nói, người Hy lạp cổ đại quan tâm đến mối quan hệ
giữa các sự vật, đến các quá trình phát triển của sự vật hơn chính bản thân chúng tồn tại một
cách riêng lẻ. Họ nhấn mạnh tính chỉnh thể của thế giới hơn từng bộ phận riêng lẻ của thế
giới ấy. Tuy nhiên, những quan niệm sơ khai đó là kết quả trực giác thiên tài của người cổ
Hy Lạp, thiếu những cứ liệu khoa học cụ thể.
So sánh:
Phương Đông: Trong phúc có họa, trong họa có phúc; Âm trưởng - Dương tiêu;
âm đương phải cân bằng - biện chứng mang tính chu kỳ.
5%. Sự ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại có quan hệ mật thiết với khoa học tự
nhiên đương thời. Triết học lúc đó chưa tách khỏi khoa học cụ thể, nó bao hàm các khoa học
-8-


9
cụ thể. Các nhà triết học đồng thời là nhà khoa học, cho nên về sau này đã quan niệm sai:
triết học là khoa học của các khoa học.
So sánh:
Đối với phương Đông, tư tưởng triết học thường ẩn dấu đằng sau các học thuyết
chính trị, đạo đức, tôn giáo. Bởi vậy ở ấn Độ, nhà triết học thường là nhà truyền giáo, còn
ở Trung Quốc, nhà triết học thường là nhà chính trị - xã hội, cho nên ta thường hiểu sai
triết học là chính trị.
Câu 4: Các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy
vật. Sự vận dụng các nguyên tắc trong qua trình đổi mới ở Việt Nam
a. Nguyên tắc toàn diện trong nhận thức và thực tiễn
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật đòi hỏi phải quán
triệt nguyên tắc toàn diện trong xem xét sự vật cũng như trong hoạt động thực tiễn.

Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật
hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng về sự vật, chúng ta cần
phải xem xét nó, một là, trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các
thuộc tính khác nhau của chính các sự vật đó; hai là, trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó
với các sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp). Lênin viết: "Muốn thực sự hiểu được sự
vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mối liên hệ và "quan hệ gián tiếp" của
sự vật đó"3.
Hơn nữa, quan điểm toàn diện đòi hỏi để nhận thức được sự vật, chúng ta cần phải
xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Với mỗi con người trong
mỗi thời đại và hoàn cảnh lịch sử nhất định chỉ có thể phản ánh được một số lượng hữu hạn
những mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ.
Ý thức được điều này chúng ta sẽ tránh được việc tuyệt đối hóa những tri thức đã có về sự
vật, và tránh xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối không thể bổ sung, không thể phát
triển. Để nhận thức được sự vật, chúng ta cần phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ, "cần
thiết phải xem xét tất cả mọi mặt sẽ đề phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng
nhắc"4.
Quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức nhiều mặt, nhiều
mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát
triển của sự vật, hiện tượng đó. Như vậy, quan điểm toàn diện không đồng nhất với cách
xem xét dàn trải, liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng; nó đòi
hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó.
Với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận trong hoạt động thực tiễn, để cải tạo
được sự vật, chúng ta phải bằng hoạt động thực tiễn của mình biến đổi những mối liên hệ
nội tại của sự vật cũng như những mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác.
Muốn vậy, phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau để tác động
nhằm làm thay đổi những liên hệ tương ứng.
Vận dụng quan điểm toàn diện vào hoạt động thực tiễn cũng đòi hỏi chúng ta phải
kết hợp chặt chẽ giữa "chính sách dàn đều" và "chính sách có trọng điểm" (V.I.Lênin).
Trong khi khẳng định tính toàn diện, phạm vi bao quát tất cả các mặt, các lĩnh vực của quá
trình đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cũng đồng thời coi đổi mới tư

duy lý luận, tư duy chính trị về CNXH là khâu đột phá; trong khi nhấn mạnh sự cần thiết
phải đổi mới cả lĩnh vực kinh tế lẫn lĩnh vực chính trị, Đảng ta cũng xem đổi mới kinh tế là
trọng tâm. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, khi đề cập tới vấn đề này Đảng ta đã
khẳng định: "Xét về mặt tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy
chính trị trong việc hoạch định đường lối và chính sách đối nội, đối ngoại. Không có sự đổi
mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết
3 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t4.2, tr.364.
4 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t4.2, tr.364.

-9-


10
vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã
hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và
củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời
sống xã hôi" 5.
Quan điểm toàn diện khác với chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện.
Chủ nghĩa chiết trung cũng tỏ ra chú ý tới nhiều mặt khác nhau, nhưng lại kết hợp
một cách vô nguyên tắc những cái hết sức khác nhau thành một hình ảnh không đúng về sự
vật. Chủ nghĩa chiết trung không biết rút ra mặt bản chất, mối liên hệ căn bản cho nên rơi
vào chỗ cào bằng các mặt, kết hợp một cách vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau, do đó
hoàn toàn bất lực khi cần phải có quyết sách đúng đắn.
Thuật ngụy biện cũng chú ý tới những mặt, những mối liên hệ khác nhau của sự vật
nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất.
Cả chủ nghĩa chiết trung lẫn thuật ngụy biện đều là những biểu hiện khác nhau của
phương pháp luận sai lầm trong việc xem xét các sự vật hiện tượng.
b. Nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn
Quán triệt nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn, có nghĩa là phải đặt
sự vật, hiện tượng trong sự vận động, trong sự phát triển, phải phát hiện ra các xu hướng

biến đổi, chuyển hóa của chúng. Liên quan vấn đề này, V.I.Lênin viết: "Lôgíc biện chứng
đòi hỏi phải xét sự vật trong sự phát triển, trong "sự tự vận động" (...), trong sự biến đổi của
nó"6.
Quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự
vật hoàn toàn đối lập với quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến. Tuyệt đối hóa một nhận thức
nào đó về sự vật có được trong hoàn cảnh lịch sử phát triển nhất địng, ứng với giai đoạn
phát triển nhất định của nó và xem đó là nhận thức duy nhất đúng về toàn bộ sự vật trong
quá trình phát triển tiếp theo của nó sẽ đưa chúng ta đến sai lầm nghiêm trọng.
Quan điểm phát triển cũng đòi hỏi không chỉ thấy sự vật như cái đang có, mà còn
phải nắm được khuynh hướng phát triển trong tương lai của nó. Trong quá trình phát triển,
sự vật đồng thời có những sự biến đổi tiến lên và có cả những biến đổi thụt lùi. Quan điểm
phát triển đúng đắn về sự vật chỉ có được, khi bằng tư duy khoa học chủ thể khái quát để
làm sáng tỏ xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.
Sự phát triển của các sự vật và hiện tượng trong thực tế là quá trình biện chứng đầy
mâu thuẫn. Do vậy, quan điểm phát triển được vận dụng vào quá trình nhận thức cũng đòi
hỏi chúng ta phải thấy rõ tính quanh co, phức tạp của quá trình phát triển như là một hiện
tượng phổ biến. Thiếu quan điểm khoa học như vậy, người ta rất dễ bi quan, dao động khi
mà tiến trình cách mạng nói chung và sự phát triển của từng lĩnh vực xã hội nói riêng tạm
thời gặp khó khăn, trắc trở.
Vận dụng quan điểm phát triển với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận của
hoạt động thực tiễn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển theo quy luật vốn có của nó đòi hỏi
chúng ta phải tìm ra mâu thẫn của chính sự vật, và bằng hoạt động thực tiễn mà giải quyết
mâu thuẫn. Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới góp phần tích cực vào sự phát triển.
Hơn nữa, sự phát triển biện chứng của các quá trình hiện thực khách quan và của tư
duy được thực hiện bằng con đường thông qua những sự tích lũy về lượng mà tạo ra sự thay
đổi về chất, thông qua phủ định của phủ định. Do vậy, việc vận dụng quan điểm phát triển
vào hoạt động thực tiễn nhằm cải tạo sự vật còn đòi hỏi chúng ta phải phát huy nỗ lực của
mình trong việc hiện thực hóa hai quá trình nêu trên.
c. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong nhận thức và thực tiễn


5 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996,
tr,71.
6 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.42, tr.364.

- 10 -


11
Quan điểm lịch sử - cụ thể là kết quả trực tiếp của việc vận dụng các nguyên lý, các
cặp phạm trù và quy luật của phép biện chứng duy vật, là cơ sở phương pháp luận chung
nhất vô cùng quan trọng cho mọi hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cải tạo hiện
thực. "Phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể" là yêu cầu bắt buộc của nguyên tắc quan trọng
này. V.I.Lênin coi nó là "bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác" chân lý là cụ thể, cách
mạng là sáng tạo, xa rời yêu cầu này nhất định sẽ rơi vào sai lầm của bệnh giáo điều và bệnh
kinh nghiệm chủ nghĩa.
Mọi sự vật hiện tượng đều tồn tại trong không - thời gian nhất định và mang dấu ấn
của không - thời gian đó. Do vậy, chúng ta cần có quan điểm lịch sử - cụ thể khi xem xét và
giải quyết mọi vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Vận dụng quan điểm lịch sử - cụ thể vào việc xem xét và giải quyết vấn đề do do
thực tiễn đặt ra đòi hỏi chúng ta phải chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử - cụ thể đã làm
phát sinh vấn đề đó, tới sự ra đời và phát triển của nó, tới bối cảnh hiện thực bao hàm cả
khách quan lẫn chủ quan. Khi xem xét một quan điểm, một luận thuyết cũng phải đặt nó
trong mối quan hệ như vậy. Chân lý luôn luôn là cụ thể. Bởi vậy, chân lý sễ trở thành sai
lầm, nếu nó bị đẩy ra ngoài giới hạn của nó. Chẳng hạn, khi đánh giá vị trí lịch sử của mô
hình hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc vào những năm 60 -70 của thế kỷ XX, nếu chúng
ta không đặt nó vào hoàn cảnh miền Bắc phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược,
đặc biệt từ giữa những năm 1965 - khi đế quốc Mỹ đã đưa cuộc chiến tranh xâm lược bằng
không quân ra miền Bắc, không đặt nó trong điều kiện chúng ta còn thiếu kinh nghiệm trong
xây dựng CNXH, còn bị ảnh hưởng rất lớn quan niệm về mô hình CNXH đã được xác lập ở
một loạt nước XHCN đi trước thì chúng ta, một là, sẽ không thấy được một số giá trị tích

cực của mô hình hợp tác xã trong điều kiện lịch sử đó, hai là, sẽ không thấy hết nguyên
nhân bên trong và bên ngoài dẫn đến việc duy trì quá lâu cách làm ăn như vậy, khi hoàn
cảnh đất nước đã thay đổi.
Khái quát ý nghĩa phương pháp luận được rút ra từ nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến và nguyên lý về sự phát triển, tức là phương pháp biện chứng trong việc nhận thức và
hoạt động thực tiễn, Ph.Ăngghen viết: "Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là
nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua
lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của
chúng"7. Trong cùng một cách xem xét vấn đề tương tự như vậy, V.I.Lênin cho rằng, để có
tri thức đúng về sự vật, "bản thân sự vật phải được xem xét trong những quan hệ của nó và
trong sự phát triển của nó"8.
Câu 5: Kết cấu của lực lượng sản xuất. Tại sao nói ngày nay khoa học ngày
càng có vai trò quan trọng, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ?
Nội dung thứ nhất: Kết cấu của lực lượng sản xuất:
Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là các khái niệm dùng để chỉ quan hệ mà C.Mác gọi là "quan hệ song
trùng" của bản thân sự sản xuất xã hội: quan hệ của con người với tự nhiên và quan hệ của
con người với nhau 9.
- Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là,
trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, con người chinh phục giới tự nhiên bằng tổng
hợp các sức mạnh hiện thực, sức mạnh đó được chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong
khái niệm lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất nói lên năng lực thực tế của con người
trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội.
Lực lượng sản xuất (kết cấu) bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ
và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động.
7 C.Mác và Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hn,1994, t.20, tr.38.
8 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, t.42, tr.238.
9 C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 23, tr.269.

- 11 -



12
Trong quá trình sản xuất, lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là
công cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất, trong đó, "lực lượng sản
xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động" 10.
- Vai trò các thành tố cấu thành lực lượng sản xuất:
* Người lao động:
Do đặc trưng sinh học - xã hội riêng có của mình, con người, trong nền sản xuất xã
hội có sức mạnh và kỹ năng lao động thần kinh - cơ bắp. Trong lao động, sức mạnh và kỹ
năng ấy đã được nhân lên gấp nhiều lần (lao động của con người ngày càng tạo ra giá trị
mới gấp nhiều lần so với nhu cầu cần tái sản xuất sức lao động - kể cả nhu cầu vật chất lẫn
tinh thần của bản thân họ).
Hơn nữa, lao động của con người ngày càng trở thành lao động có trí tuệ và lao
động trí tuệ. Trí tuệ của con người không phải là cái gì siêu tự nhiên, không phải tự nhiên
mà có, mà là sản phẩm của tự nhiên và của lao động.
Trong qua trình lịch sử lâu dài của xã hội loài người, trí tuệ hình thành phát triển
cùng với lao động làm cho lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao.
Đặc biệt trong điều kiện của khoa học công nghệ ngày nay, hàm lượng trí tuệ trong
lao động càng cao, đã làm cho con người - người lao động - trở thành một nguồn lực đặc
biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
* Công cụ lao động:
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một thành tố cơ bản của lực
lượng sản xuất.
Công cụ lao động, theo Ph.Ăngghen là "khí quan của bộ óc con người", là "sức
mạnh của tri thức đã được vật thể hóa" có tác dụng "nối dài bàn tay" và nhân lên sức mạnh
trí tuệ của con người. Bởi vậy, khi công cụ lao động đã đạt tới trình độ được tin học hóa,
được tự động hóa ... thì vai trò "khí quan vật chất" của nó trở nên hết sức kỳ diệu.
Trong mọi thời đại, công cụ sản xuất luôn là yếu tố động nhất của lực lượng sản
xuất, biểu hiện năng lực thực tiễn của con người ngày càng tăng thêm. Chính sự chuyển đổi,

cải tiến và hoàn thiện không ngừng của nó đã gây ra sự biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư
liêu sản xuất. Xét cho cùng chính đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến cải xã hội.
Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên
của con người. Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C.Mác đã nêu ra một tư tưởng
quan trọng về vai trò của lực lượng sản xuất đổi với việc thay đổi các quan hệ xã hội. C.Mác
viết: "Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có
được những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và
do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả
những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái
cối xay chạy bằng máy hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp" 11.
Theo quan niệm duy vật lịch sử, công cụ lao động, xét đến cùng là cơ sở của sự kế
tục lịch sử. Mỗi thế hệ mới ra đời nếu không muốn bị diêt vong phải sử tất cả tư liệu lao
động (quan trọng nhất là công cụ lao động) không phải do mình tạo ra mà do thế hệ trước để
lại làm cơ sở cho nền sản xuất mới, tạo nên mối liên hệ lịch sử, tạo thành lịch sử toàn nhân
loại.
Nội dung thứ hai: Tại sao nói ngày nay khoa học ngày càng có vai trò quan
trọng, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp ?
Trong thế kỷ XX, nhất là trong điều kiện cách mạng khoa học - kỹ thuật hiện đại,
khoa học phát triển cực kỳ mạnh mẽ và nhanh chóng; vai trò của khoa học đối với đời sống
xã hội cũng như mối quan hệ giữa khoa học với thực tiễn, sản xuất biến đổi to lớn; khoa học
đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực; mọi quá trình và mọi mặt của đời sống xã hội.
10 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tập 38, tr.430.
11 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr.187.

- 12 -


13
Đặc điểm cơ bản nhất, nổi bật nhất của sự phát triển khoa học trong điều kiện khoa
khoa học - kỹ thuật là khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

Sự phát triển của khoa học đã trở thành tiền đề, điểm xuất phát trực tiếp cho những
biến đổi to lớn trong kỹ thuật, sản xuất và đã tạo ra những ngành sản xuất mới. Sự phát triển
khoa học đã dẫn đến tự động hóa từng phần và toàn bộ quá trình sản xuất, làm biến đổi sâu
sắc vai trò của khoa học đối với sản xuất cũng như vị trí con người trong sản xuất. Người
lao động ngày càng trở thành lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ trở nên tất yếu. Việc áp
dụng khoa học vào sản xuất trực tiếp, đối với nó, trở thành một trong những yếu tố quyết
định và thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất - nguyên nhân sâu xa của mọi cải biến
xã hội.
Trải qua các cuộc cách mạng khoa học, cùng với sự tiến triển của sản xuất, khoa
học ngày càng có vai trò quan trọng trong sản xuất. Khoa học đã phát triển đến mức trở
thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và đời sống xã hội.
Ngày nay cách thức mà khoa học xâm nhập và thể hiện trong hiện thực khác nhiều so với
vài thập kỷ trước đây. Đúng như C.Mác dự kiến rằng khoa học trở thành "lực lượng sản xuất
trực tiếp", trở thành "lực lượng sản xuất độc lập". Tư tưởng ấy của C.Mác có ý nghĩa định
hướng tích cực đối với cả hoạt động sản xuất lẫn hoạt động khoa học.
Cách mạng khoa học và công nghệ làm thay đổi tận gốc các yếu tố của lực lượng
sản xuất. Nó tạo điều kiện tìm ra và sử dụng những nguồn năng lượng mới, chế tạo ra hàng
loạt những vật liệu nhân tạo với những thuộc tính hoàn toàn mới, thực hiện tự động hóa
từng phần hoặc toàn bộ quá trình sản xuất, đổi mới nhanh chóng công nghệ, tự động hóa các
quá trình quản lý. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại là sự cải tổ căn bản trong sự
phát triển của lực lượng sản xuất mà những nét chủ yếu của nó là biến khoa học thành lực
lượng chủ đạo của sản xuất, áp dụng quản lý tự động hóa, sử dụng các phương pháp công
nghệ của sản xuất và những hình thức tổ chức sản xuất.
Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại không chỉ can thiệp mạnh mẽ đến kỹ
thuật, đến những quá trình công nghệ sản xuất, mà còn làm biến đổi con người và đặt ra
những yêu cầu mới cho con người với tư cách là lực lượng sản xuất hàng đầu. Chức năng
của con người trong sản xuất đang có những biến đổi to lớn; con người dần dần không còn
là nhân tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chủ yếu là sáng tạo và điều khiển
quá trình đó.
Khoa học và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất và do vậy,

nó hoàn toàn có thể được coi là cái đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Câu 6: Vận dụng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội trong quá trình xây
dựng CNXH hiện nay ở Việt Nam.
1). Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa - sự vận dụng sáng tạo lý luận
hình thái - kinh tế xã hội vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam
Trên con đường đi lên CNXH, Việt Nam là một quốc gia chưa trải qua thời kỳ phát
triển TBCN. Đối với nước ta quá độ trực tiếp để đi lên CNXH là không có khả năng. Bởi
vậy, con đường phát triển rút ngắn hay gọi theo cách của V.I.Lênin, phát triển không phải
trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa (theo lôgíc nội tại của sự phát triển của xã hội
Việt Nam) là con đường hiện thực.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng cần phải có sự giúp đỡ tích
cực của các nước tiên tiến và giai cấp vô sản ở nước đó, các nước tiền tư bản chủ nghĩa mới
có thể rút ngắn được con đường đi tới CNXH. Ở Việt Nam hiện nay, Đảng và Nhà nước ta
đã có đủ kinh nghiệm và bản lĩnh trong việc tranh thủ sự giao lưu, hợp tác quốc tế để thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chúng ta có một điều kiện quốc tế cực kỳ quan trọng: đó là cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại. Cuộc cách mạng này vừa đặt ra những thách thức không nhỏ,
song lại tạo ra những thuận lợi đáng kể cho sự phát triển của đất nước. Đó là những điều
- 13 -


14
kiện rất đặc biệt mà việc vận dụng nó sẽ tạo ra những cơ sở hiện thực cho sự phát triển rút
ngắn.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một nhân tố có vai trò quyết định đối với việc đẩy nhanh
sự phát triển của đất nước theo con đường XHCN, chúng ta có cơ sở khoa học để tin tưởng
rằng, con đường quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là con đường
hợp quy luật và có khả năng thực hiện.
2). Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ - sự vận
dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam

Nước ta từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất manh mún lại bị chiến
tranh tàn phá, nên nhiệm vụ trọng yếu là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm
giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất. Xét đến cùng, đó là vấn đề
quyết định thắng lợi trên con đường rút ngắn lên CNXH.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không đơn giản chỉ là việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, mà còn là quá trình đẩy mạnh phân công lao động xã hội; đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, vật nuôi, cây trồng. Bảo đảm ngày càng nâng cao mức sống
cho người dân. Việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực chất là đẩy mạnh phát
triển lực lượng sản xuất.
3). Kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp
trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH
Tuy quan hệ sản xuất bị quyết định bởi lực lượng sản xuất, nhưng nó có tính độc lập
tương đối và tác động mạnh mẽ trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Việc thực hiện
nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần với cơ chế thị trường theo định hướng
XHCN thực chất là thiết lập một hệ thống các loại hình quan hệ sản xuất phù hợp với trình
độ lực lượng sản xuất nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, đẩy mạnh con đường
rút ngắn lên CNXH ở nước ta hiện nay.
Nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế, ở đó, mọi thành phần
kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật; nền kinh tế ấy lấy các thành phần kinh tế dựa trên sở
hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm nền tảng, lấy kinh tế nhà nước làm chủ đạo; lấy việc
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh là mục tiêu.
4). Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội trong thời
kỳ quá độ tiến lên CNXH:
Trong xã hội có giai cấp, nội dung cốt lõi của mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc thượng tầng là mối quan hệ biện chứng giữa chính trị và kinh tế. Tổng kết
lịch sử nhân loại trên vấn đề này, V.I.Lênin đã khái quát thành hai luận điểm nền tảng: một
là, "chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế"; hai là, "chính trị không thể không chiếm
vị trị hàng đầu so với kinh tế". Vận dụng di sản phương pháp luận đó vào quá trình đổi mới,
trong khi khẳng định tính toàn diện của công cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Đảng ta cũng khẳng định rằng đổi mới kinh tế là trọng tâm, tùy theo nhu cầu và đòi
hỏi của đổi mới về kinh tế mà từng bước đổi mới về chính trị"12

Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội. Nâng cao
năng lực lãnh đạo của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân.
Tiến hành cuộc cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa. Phát triển nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
5). Phát huy nhân tố con người, coi con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của
sự phát triển kinh tế - xã hội.
Theo quan điểm macxít quần chúng nhân dân là người sáng tạo chân chính ra lịch sử
dựa trên ba căn cứ sau:
12 Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996, tr.14.

- 14 -


15
a). Quần chúng nhân dân là người sản xuất ra của cải vật chất duy trì sự tồn tại và
phát triển của xã hội. V.I.Lênin khẳng định: "Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân
loại là công nhân, là người lao động"13.
b). Quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Trong các
cuộc cách mạng vĩ đại làm thay đổi hình thái kinh tế - xã hội, quần chúng nhân dân tham gia
đông đảo, tự giác, tích cực thì cách mạng mới có thể giành được thắng lợi. Cách mạng là
ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải sự nghiệp của một
số cá nhân.
c). Quần chúng nhân dân có vai trò to lớn, không thể thay thế, trong sản xuất tinh
thần. Hồ Chí Minh nhận định: "Quần chúng là những người sáng tạo. Nhưng, quần chúng
không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng
tác nữa ... Những sáng tác ấy là những hòn ngọc quý".
Tóm lại, xét từ kinh tế đến chính trị, từ thực tiễn đến tinh thần tư tưởng, thì quần
chúng nhân dân luôn đóng vai trò quyết định trong lịch sử. Đây là một trong những luận

chứng khoa học quan trọng để khẳng định việc phát huy nhân tố con người được coi vừa
mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Phát huy nhân tố con người thực chất là phát huy tính tích cực năng động, sáng tạo
của khối đại đoàn kết toàn dân tham gia vào quá trình cải biến mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Thực tiễn lịch sử loài người đã và đang ngày càng chứng minh rằng, phát huy "nhân
tố con người" là yếu tố cơ bản quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi quốc gia.
Đặc biệt đối với nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH từ một nền kinh tế còn thấp thì
việc phát huy nhân tố con người không chỉ theo nghĩa cung cấp lực lượng lao động (nguồn
nhân lực) cho xã hội ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao mà còn là nhân tố quyết định bảo
đảm định hướng XHCN và giữ vững độc lập dân tộc. Theo đó, thực chất của việc phát huy
nhân tố con người là phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của con người; là chăm lo
tạo ra những điều kiện cần thiết để cho mỗi người (và cho mỗi cộng đồng người) thể hiện
năng lực tối đa của mình trong nhận thức và cải tạo thế giới - trước hết là trong lao động,
hoạt động xã hội v.v.. nhằm đạt mục đích đã được đề ra.
Phát huy nhân tố con người để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội là vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh đó cũng là xuất phát từ bản chất
tốt đẹp của CNXH.
Phát huy nhân tố con người còn đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, ngăn chặn sự xâm thực của văn hóa đồi trụy.
Phát huy vai trò nhân tố con người nhằm tạo nên sự đồng thuận cao của cả cộng đồng xã
hội, ngăn chặn có hiệu quả những xu hướng đối lập, phản tiến bộ do tác động của mặt trái nền
kinh tế thị trường và âm mưu phá hoại của các lực lượng thù địch v.v..
Kết luận, coi trọng cả ba mặt: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc
thượng tầng - ba mặt cơ bản cấu thành hình thái kinh tế - xã hội.
Câu 7: Phân tích ý nghĩa của mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
trong việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam
Nội dung thứ nhất: Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
LƯU Ý: Nội dung thứ nhất này dùng để tham khảo (mặc dù không gạch chân),

vì chỉ yêu cầu phân tích ý nghĩa
- Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội
*Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.

13 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tập.38, tr.430

- 15 -


16
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố chính là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện
tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số ... trong đó phương thức sản xuất vật
chất là yếu tố cơ bản nhất.
* Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư
tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống..., nảy sinh từ tồn tại xã hội trong
những giai đoạn phát triển nhất định.
- Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội (ý thức xã hội phản
ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định, tuy nhiên ý thức xã hội có tính độc lập
tương đối trong mối quan hệ với tồn tại xã hội)
1) Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định
C.Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng đời sống tinh thần của xã hội hình thành
và phát triển trên cơ sở của đời sống vật chất, rằng không thể tìm nguồn gốc của tâm lý, tư
tưởng xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm
trong hiện thực vật chất. Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không thể giải thích
được nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. C.Mác viết: "... không thể nhận định được
về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý
thức ấy bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực
lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội"14.
Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý
luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ

thuật, v.v.. sớm muộn sẽ biến đổi theo. Vì vậy ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng
ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó là do những điều kiện
khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
Tóm lại: "Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; tría lại, tồn tại
xã hội của họ quyết định ý thức của họ"15.
Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội không phải dừng lại ở chỗ
xác định sự phụ thuộc của ý thức xã hội vào tồn tại xã hội, mà còn chỉ ra rằng tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn trực tiếp mà thường thông qua các
khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào
cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét
đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này
hay cách khác trong các tư tưởng ấy.
2) Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất: Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi, thậm chí mất đi rất lâu, nhưng
ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập tương đối này biểu hiện
đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội (trong truyền thống, tập quán, thói quen, v.v..). V.I.
Lênin cho rằng, sức mạnh của tập quán được tạo ra qua nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê gớm
nhất.
Khuynh hướng lạc hậu của ý thức xã hội cũng biểu hiện rõ trong điều kiện của chủ
nghĩa xã hội. Nhiều hiện tượng ý thức có nguồn gốc sâu xa trong xã hội cũ vẫn tồn tại trong
xã hội mới như lối sống ăn bám, lười lao động, tệ tham nhũng, v.v..
Thứ hai: Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết
học Mác đồng thời thừa nhận rằng trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người,
đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội,
dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người,
14 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 13, tr. 15
15 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 13, tr. 15


- 16 -


17
hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của
đời sống vật chất của xã hội đặt ra.
Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lênin (tuy ra đời vào thế kỷ XIX) vẫn là thế
giới quan và phương pháp luận chung nhất cho nhận thức và cải tạo thế giới trên mọi lĩnh
vực, vẫn là cơ sở lý luận và phương pháp khoa học cho sự nghiệp xây dưng CNXH
Thứ ba: Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển
Lịch sử phát triển của đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng những quan điểm
lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ
sở kế thừa những thành tựu lý luận của các thời đại trước. Ví dụ, chủ nghĩa Mác đã kế thừa
và phát triển những tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực tiếp là nền triết học cổ điển
Đức, kinh tế học chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp.
Do tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích được một tư tưởng nào
đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ kinh tế hiện có, không chú ý đến các giai đoạn phát triển
trước đó.
Thừa nhận tính kế thừa trong sự phát triển của tư tưởng giúp chúng ta giải thích hiện
tượng vì sao một nước có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở
trình phát triển độ cao
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai
cấp của nó.
Thứ tư: Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Trong sự phát triển các hình thái ý thức xã hội luôn tác động qua lại với nhau là một
biểu hiện nữa của tính độc lập tương đối của chúng. Đây là một quy luật phát triển của ý
thức xã hội. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho ở mỗi hình thái ý
thức có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn
tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất.

Trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội thì ý thức chính trị có vai
trò đặc biệt quan trọng, ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển
theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khac. Trong diều kiện của nước ta hiện
nay, những hoạt động tư tưởng như triết học, văn học nghệ thuật, v.v... mà tách rời đường lối
chính trị đổi mới đúng đắn của Đảng sẽ không tránh khỏi rơi vào những quan điểm sai lầm,
không thể đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
Thứ năm: Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội
Đây là một biểu hiện quang trọng của tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại quan điểm duy tâm tuyệt đối hóa
vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường (hay chủ nghĩa duy
vật kinh tế) phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong dời sống xã hội.
Ph.Ăngghen viết: "Sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học,
nghệ thuật, v.v.. đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả cũng có ảnh hưởng
lẫn nhau và có ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế"16.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những
điều kiện lịch sự cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy
sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng
đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội; vào mức độ mở rộng của tư tưởng
trong quần chúng. Vì vậy cũng cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư
tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển của xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sự về tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hội và của đời sống
tinh thần nói chung, nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc tầm thường về mối quan
hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
16 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tập 39, tr. 271.

- 17 -


18

Nội dung thứ hai: Ý nghĩa của mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
trong việc xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội Việt Nam
Ghi chú: Phần này là nội dung phải trả lời. Nhưng cần đọc kỹ phần trên để có
cách trả lời sáng tạo của mỗi đồng chí học viên.
(Một số gợi ý cơ bản)
Nêu khái niệm tồn tại xã hội và khái niệm ý thức xã hội
- Tồn tại xã hội là sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố chính là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện
tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số ... trong đó phương thức sản xuất vật
chất là yếu tố cơ bản nhất.
- Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư
tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền thống..., nảy sinh từ tồn tại xã hội trong
những giai đoạn phát triển nhất định.
-Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định, tuy nhiên ý thức
xã hội có tính độc lập tương đối trong mối quan hệ với tồn tại xã hội
Ý nghĩa:
Một là: Ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Bởi vậy,
để xây dựng nền tảng tinh thần xã hội Việt Nam thì điều kiện tiên quyết xét đến cùng là phụ
thuộc vào sự thay đổi của tồn tại xã hội.
Tồn tại xã hội trong đó phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất, và xét đến cùng
đóng vai trò quyết định sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã
hội khác cao hơn.
Việt Nam từ điểm xuất phát thấp, với một nền kinh tế tiểu nông, manh mún, lạc hậu
quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Bởi vậy, để đẩy mạnh phát
triển lực lượng sản xuất phải thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nhiệp hóa, hiện đại hóa. Thực hiện
tốt điều này sẽ giải phóng được mọi năng lực sản xuất, mở rộng phân công lao động xã hội,
xây dựng nền tảng vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Theo đó, sẽ làm thay đổi căn
bản đời sống tinh thần của xã hội, thay đổi cách nghĩ, cách làm, phát huy tính tự giác, năng
động, sáng tạo của nhân tố con người, xóa bỏ tư tưởng bảo thủ, trì trệ từ cái "gốc"; nâng cao

tinh thần trách nhiệm công dân, v.v..
Hai là: Tuy nhiên, ý thức xã hội có tính độc lập tương đối của nó trong mối quan hệ
với tồn tại xã hội. Đây là điều hết sức quan trọng cần chú ý trong việc xây dựng nền tảng
tinh thần của xã hội Việt Nam:
- Cần thường xuyên đấu tranh khắc phục những tập quán xấu, đặc biệt là chủ nghĩa
cá nhân như một thứ vi trùng rất độc, nó sinh ra hàng trăm thứ bệnh mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng căn dặn. v.v..
- Đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh cho cả cán bộ và quần chúng nhân dân. Đặc biệt đối với đội ngũ cán bộ chủ chốt phải
hội tụ đủ "đức" và "tài" mới có khả năng nhận thức, dự báo các tình huống có thể xẩy ra
cũng như năng lực tổ chức thực tiễn cho quần chúng. v.v..
- Tàn dư của tư tưởng tiểu nông, phong kiến còn nặng nề với tác động mặt trái của
nền kinh tế thị trường là "miếng đất màu mỡ" cho chủ nghĩa cá nhân dễ trỗi dậy. Theo Hồ
Chí Minh, giáo dục con người vừa "hồng" vừa "chuyên" là khó khăn vất vả, đòi hỏi một quá
trình công phu, liên tục, bền bỉ, gian khổ, lâu dài. Hồ Chí Minh nói:
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã
hội chủ nghĩa là phải đi đến hoàn toàn không có chủ nghĩa cá nhân. Trong đầu óc mọi người
đều có sự đấu tranh giữa cái “thiện” và cái “ác”, hoặc nói theo cách mới là sự đấu tranh giữa
tư tưởng cộng sản và tư tưởng cá nhân.
- 18 -


19
"Tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón
rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lu bù. Tư tưởng
cộng sản phải rèn luyện gian khổ mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại,
sinh sôi, nảy nở rất dễ" 17.
"Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra nhiều cái xấu, thiên hình vạn trạng. Ví dụ: lười biếng, hủ
hoá, suy tính tiền đồ, .. ; đòi hỏi đãi ngộ, so bì lương thấp, lương cao; công thần địa vị: cho
rằng ở trong Đảng lâu năm mà không được đề bạt bằng người vào Đảng ít năm hơn; không

an tâm công tác; có quyền hạn một chút là thiếu dân chủ, chỉ tay năm ngón; đối với nội bộ
thì suy, bì ganh tị, không đoàn kết với nhau, v.v.. Tóm lại, cái gì trái với đạo đức cách mạng
đều là chủ nghĩa cá nhân. Muốn thành người cách mạng, thành người cộng sản chân chính
thì phải chống chủ nghĩa cá nhân.
Chủ nghĩa cá nhân không phải chống một lần là hết được" 18.
Theo Hồ Chí Minh: "Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết
điểm. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, nhưng chỉ sợ không biết kiên quyết sửa nó đi" 19.
Để đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân thì cần đẩy mạnh công tác phê và tự phê bình.
Tuy nhiên cần nắm vững nguyên tắc, đấu tranh để đoàn kết, đoàn kết để đấu tranh. Không
phải lơi dụng "phê bình" để trù dập.
Mục đích phê bình và tự phê bình thì bất cứ ở nơi nào cũng giống nhau. Nhưng vì
công việc khác nhau, nên mỗi nơi có những ưu điểm và khuyết điểm khác nhau. Do đó
phương hướng kiểm thảo cũng phải khác nhau. Và ở mỗi nơi, trong những thời gian khác
nhau, phương hướng kiểm thảo cũng khác nhau.
"Chúng ta phải kiên quyết tẩy sạch những khuyết điểm sau đây:
Địa phương chủ nghĩa. Óc bè phái. Óc quân phiệt quan liêu. Óc hẹp hòi. Ham
chuộng hình thức. Làm việc lối bàn giấy. Vô kỷ luật, kỷ luật không nghiêm, ích kỷ, hủ hóa"
20
.
- Kết hợp tuyên truyền, giáo dục thuyết phục, phê và tự phê bình cần có những cơ
chế pháp lý đủ mạnh để ngăn chặn hành vi phản lại sự tiến bộ xã hội, bảo vệ người tốt việc
tốt.
- Biết kế thừa và phát huy tinh hoa văn hóa nhân loại trên nền tảng bản sắc văn hóa
dân tộc. Phải nắm vững nguyên tắc hòa nhập nhưng không "hòa tan". Trong đường lối đổi
mới toàn diện đất nước, Đảng ta khẳng định: xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc. v.v..
- Trong điều kiện của nước ta hiện nay, những hoạt động tư tưởng như triết học, văn
học nghệ thuật, v.v... phải gắn chặt với đường lối chính trị đúng đắn của Đảng, phục cho
đường lối chính trị đó mới đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
Câu 8. Anh (chị) hãy phân tích vai trò thế giới quan và phương pháp luận của

triết học đối với sự phát triển của khoa học tự nhiên.
* Khi nói tới vai trò thế giới quan và phương pháp luận bao giờ cũng được thể hiện
thông qua chủ thể hoạt động - tức con người.
* Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, vì thế nó tác động trở lại tồn
tại xã hội thông qua hoạt động của con người. Tùy thuộc vào lập trường duy vật hay duy
tâm; phương pháp luận biện chứng hay siêu hình mà sự tác động của nó sẽ đưa lại những
kết quả khác nhau trong hoạt động thực tiễn của con người - chủ thể hoạt động (cả hoạt
động nhận thức và hoạt động thực tiễn).
- Thế giới quan:
Triết học ra đời từ đời sống xã hội. Những vấn đề được triết học đặt ra và tìm lời
giải đáp trước hết là những vấn đề thế giới quan.
17
18
19
20

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, tập 9, tr.448.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, tập 9, tr.448.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, tập 4, tr.166
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, tập 5, tr.71-74.

- 19 -


20
Thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống con người và xã hội
loài người. Bằng một hệ thống các quan niệm về thế giới, con người tìm cách khám phá
những bí mật của thế giới tự nhiên vì đó là môi trường tồn tại, là "thân thể vô cơ" của nó, vì
bản thân con người cũng là sản phẩm và là một bộ phận của thế giới.
Mọi vấn đề thế giới quan đều nảy sinh từ đời sống con người. Đến lượt mình, thế

giới quan đã được hình thành lại trở thành nhân tố định hướng cho con người tiếp tục quá
trình nhận thức thế giới.
Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới
quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri
thức do các khoa học đưa lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.
CNDV và CNDT là cơ sở lý luận của hai thế giới quan cơ bản đối lập nhau. Chính vì
vậy chúng đóng vai trò là nền tảng thế giới quan của các hệ tư tưởng đối lập và cuộc đấu
tranh giữa CNDV và CNDT trong triết học biểu hiện bằng cách này hay cách khác cuộc đấu
tranh giữa những giai cấp, những lực lượng xã hội đối lập nhau.
Cuộc đấu tranh trong triết học, đương nhiên, không phải ở đâu và khi nào cũng gắn
liền với cuộc đấu tranh trên lĩnh vực chính trị - xã hội. Nhưng lịch sử đã chứng kiến, CNDV
triết học đã biểu hiện thế giới quan và góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của tầng lớp
chủ nô dân chủ (chủ nô tiến bộ) chống tầng lớp chủ nô quý tộc (chủ nô bảo thủ), của giai
cấp tư sản chống giai cấp phong kiến, của khoa học chống tôn giáo; ngược lại, CNDT đã sử
dụng làm công cụ biện hộ về lý luận cho các giai cấp thống trị và các lực lượng phản động.
- Phương pháp luận:
Cùng với chức năng thế giới quan triết học còn có chức năng phương pháp luận. Sự
phát triển của triết học không chỉ diễn ra trong cuộc đấu tranh giữa CNDV với CNDT mà
còn là cuộc đấu tranh giữa hai phương pháp xem xét cơ bản đối lập nhau.
Một lý luận triết học, khi lý giải các sự vật, hiện tượng theo một quan điểm nhất
định, đã đồng thời thể hiện một phương pháp xem xét nhất định, hơn nữa, còn là một quan
điểm chỉ đạo về phương pháp. Do đó một học thuyết triết học không những thể hiện ra là
một thế giới quan nhất định mà còn là một phương pháp chung nhất của sự xem xét thế giới
- biện chứng hoặc siêu hình.
Phương pháp luận là một hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất
phát, những cách thức chung để thực hiện hoạt động nhận thức và thực tiễn cùng với
bản thân học thuyết về hệ thống đó.
Triết học thực hiện chức năng phương pháp luận chung của toàn bộ nhận thức khoa
học; trong đó bản thân thế giới quan cũng đã mang một ý nghĩa về phương pháp luận (sự
khác nhau giữa thế giới quan và phương pháp luận chỉ có ý nghĩa tương đối).

Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của triết học đối với sự phát triển của
khoa học
Triết học là cơ sở để giải thích và định hướng nhận thức và hoạt động thực tiễn của
các khoa học.
Triết học có vai trò thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của khoa học:
Triết học trước Mác là không triệt để. Duy vật nhưng siêu hình, còn phép biện chứng
lại trong vỏ bọc duy tâm thần bí. Bởi vậy, nó không trở thành công cụ khoa học để nhận
thức và cải tạo thế giới.
Sự hạn chế trong tư tưởng triết học sẽ dẫn tới cản trở khoa học và hoạt động thực
tiễn. Thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu, do sự thống trị của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, đặc biệt
là Thiên chúa giáo đã kìm hãm sự phát triển của khoa học cũng như triết học. Nhiều nhà
khoa học bị giáo hội Thiên chúa giáo truy lùng, bắt bớ, tù đày, giết hại. Những nhà khoa học
như Brunô bị thiêu sống trên giàn lửa, Côpécních bị hành hình ... Bởi mỗi phát minh của
khoa học lúc đó sẽ chống lại các tín điều tôn giáo ...
- 20 -


21
Sự ra đời của triết học Mác vào những năm 40 của thế kỷ XIX đã trở thành công cụ
nhận thức và cải tạo thế giới.
Trong triết học Mác - Lênin, lý luận và phương pháp thống nhất hữu cơ với nhau.
Chủ nghĩa duy vật là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng là phép biện chứng
duy vật. Sự thống nhất chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng làm cho chủ nghĩa duy vật trở
nên triệt để, và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học; nhờ đó triết học mácxít có khả
năng nhận thức đúng đắn cả về giới tự nhiên cũng như đời sống xã hội và tư duy con người.
Phép biện chứng duy vật là lý luận khoa học phản ánh khác quát sự vận động và phát
triển của hiện thực; do đó, nó không chỉ là lý luận về về phương pháp mà còn là sự diễn tả
quan niệm về thế giới, là lý luận về thế giới quan.
Hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa duy vật mácxít, do tính đúng đắn và triệt để
của nó đem lại đã trở thành nhân tố định hướng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở

thành những nguyên tắc xuất phát của phương pháp luận.
Như vậy, trong triết học mácxít, thế giới quan và phương pháp luận thống nhất với
nhau một cách hữu cơ. Nắm vững triết học Mác - Lênin không chỉ là tiếp nhận một thế giới
quan khoa học mà còn là xác định một phương pháp lận đúng đắn. Nguyên tắc khách quan
trong sự xem xét đòi hỏi phải biết phân tích cụ thể theo tinh thần biện chứng; đồng thời nó
ngăn ngừa thái độ chủ quan tùy tiện trong việc vận dụng phương pháp biện chứng. Sự thống
nhất thế giới quan và phương pháp luận khoa học làm cho triết học Mác, như V.Lênin nhận
xét: "chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị", đồng thời là "công cụ nhận thức vĩ đại".
Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin không thay thế cho các bộ môn khoa học khác trong
việc nhận thức thế giới. Nó đoạn tuyệt với quan niệm xem triết học là "khoa học của các
khoa học" như tham vọng của nền triết học tự nhiên trước kia, mà xem sự gắn bó với các
khoa học cụ thể là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết học. Đến lượt mình, triết
học Mác - Lênin đưa lại thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn cho sự phát triển của
khoa học. A.Anhxtanh, nhà vật lý nổi tiếng của thế kỷ XX đã nhận xét: "Các khái quát hóa
triết học cần phải dựa trên các kết quả khoa học. Tuy nhiên, một khi đã xuất hiện và được
truyền bá rộng rãi, chúng thường ảnh hưởng đến sự phát triển của tư tưởng khoa học khi
chúng chỉ ra một trong rất nhiều phương pháp phát triển có thể có" 21.
Chính vì vậy, để đẩy mạnh sự phát triển của khoa học cụ thể cũng như của bản thân
triết học, sự hợp tác chặt chẽ giữa những người nghiên cứu lý luận triết học và các nhà khoa
học khác là hết sức cần thiết. Ngày nay, trong kỷ nguyên khoa học và công nghệ, sự gắn bó
đó càng trở nên đặc biệt quan trọng.
Trong kỷ nguyên cách mạng khoa học công nghệ hiện nay, cuộc đấu tranh duy vật
với duy tâm không bị thủ tiêu mà vẫn tiếp tục diễn ra với những nội dung và hình thức biểu
hiện mới. Trong tình hình đó lý luận triết học sẽ trở nên khô cứng và lạc hậu, nếu không
được phát triển dựa trên sự khái quát khối tri thức hết sức lớn lao của các khoa học chuyên
ngành. Ngược lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư duy
biện chứng thì đứng trước những phát hiện mới mẻ người ta có thể mất phương hướng và đi
đến những kết luận sai lầm về triết học, thậm chí "sa vào chỗ dị đoan ngu xuẩn nhất, sa vào
thần linh học" 22.
Cùng với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, các trào lưu cách mạng xã hội đã

và đang tạo nên sự biến đổi sâu sắc và hết sức năng động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Sự thực hiện những nhiệm vụ to lớn nhằm mục tiêu tiến bộ xã hội do thời đại đặt ra đòi
hỏi ở con người thế giới quan khoa học vững chắc và năng lực tư duy sáng tạo.
Từ sự khái quát các thành tựu của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội mà triết học
Mác trở thành thế giới quan khoa học và phương pháp luận chung cần thiết cho sự phát triển
21 I.A.Anhxtanh và Inphendơ: Sự phát triển của vật lý học, Mátxcơva, tr.48 (tiếng Nga).
22 C.Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tập 20, tr. 508.

- 21 -


22
tiếp tục của khoa học. Việc hiểu biết các quy luật chung nhất của hiện thực khách quan sẽ
giúp nghiên cứu có kết quả các quy luật đặc thù. Điều này V.I.Lênin đã đánh giá rất lớn:
“Nếu không có một cơ sở triết học vững vàng thì tuyệt nhiên không có khoa học tự
nhiên nào hay chủ nghĩa duy vật nào có thể tiến hành đấu tranh chống được sự lấn bước của
những tư tưởng tư sản và sự phục hồi của thế giới quan tư sản. Muốn tiến hành cuộc đấu
tranh ấy và đưa nó đến thành công hoàn toàn; nhà khoa học tự nhiên phải là một nhà duy vật
hiện đại, một đồ đệ tự giác của chủ nghĩa duy vật mà C.Mác là người đại diện, nghĩa là nhà
khoa học tự nhiên ấy phải là một nhà duy vật biện chứng”. Luận điểm đánh giá này cũng
đúng cho tất cả các khoa học xã hội.
Câu 9. Anh (chị) hãy phân tích vai trò của khoa học đối với sự phát triển của
triết học.
Khoa học là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn và được kiểm
nghiệm bởi thực tiễn phản ánh dưới dạng lôgíc trừu tượng những thuộc tính, kết cấu, những
mối liên hệ bản chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
Khoa học bắt nguồn từ sản xuất vật chất và chỉ ra đời khi xã hội có sự phân công lao
động thành lao động chân tay và lao động trí óc. Vì vậy trong xã hội cộng sản nguyên thủy
chưa có khoa học, phải đến thời kỳ cổ đại khoa học mới xuất hiện.
Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, sự phát triển của triết học có quan hệ mật

thiết với các khoa học cụ thể. Các khoa học cụ thể cung cấp những cứ liệu, chứng cứ cho
triết học khái quát thành những hệ thống lý luận chung nhất của mọi cái đang tồn tại.
Thời cổ đại ở phương Đông, triết học ẩn dấu đằng sau các học thuyết chính trị, đạo
đức (Trung Hoa), các học thuyết tôn giáo (Ấn Độ). Ở Hy Lạp cổ đại, triết học gắn liền với
khoa học tự nhiên và gọi là triết học tự nhiên. Cũng vì vậy, khi đó đối tượng nghiên cứu của
triết học là mọi lĩnh vực tri thức. Đây cũng chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến quan niệm
cho rằng “Triết học là khoa học của các khoa học”. Đến triết học Hêghen (duy tâm khách
quan) là hệ thống triết học cuối cùng xem triết học là “khoa học của các khoa học”.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, những thành tựu của khoa học tự nhiên có vai trò
quan trọng không thể thiếu cho sự ra đời của triết học duy vật biện chứng (triết học Mác)
Những phát minh lớn của khoa học tự nhiên thời kỳ này làm bộc lộ rõ tính hạn chế, chật hẹp
và bất lực của phương pháp tư duy siêu hình trong việc nhận thức thế giới; đồng thời cung
cấp cơ sở tri thức khoa học để phát triển tư duy biện chứng, hình thành phép biện chứng
duy vật.
Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên vào giữa thế kỷ XIX, Ăngghen nêu bật
ý nghĩa của ba phát minh lớn đối với sự hình thành triết học duy vật biện chứng: định luật
bảo toàn và chuyển hóa năng lượng, thuyết tế bào và thuyết tiến hóa của Đácuyn. Với
những phát minh lớn của khoa học tự nhiên đã làm cho “Quan niệm mới về giới tự nhiên đã
được hoàn thành trên những nét cơ bản: tất cả cái gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả cái gì là
cố định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì đặc biệt là người ta cho là tồn tại vĩnh
cửu thì trở thành nhất thời; và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận
động theo một dòng và tuần hoàn vĩnh cửu”23.
Như vậy, sự ra đời của triết học Mác nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung có vai trò
quan trọng không thể thiếu của khoa học tự nhiên.
Tham khảo thêm nội dung dưới đây:
Vào giữa thế kỷ XIX, con người đã đạt được những thành tựu nổi bật về khoa học tự
nhiên. Những năm 40 của thế kỷ XIX, các nhà khoa học tự nhiên như R.Maye (Đức),
P.P.Giulơ (Anh), E.Kh.Lenxơ (Nga), L.A.Cônđinh (Đan Mạch) đã nghiên cứu về bản chất
23 C.Mác và Ph.Ăngghen (1994),Toàn tập, t.20, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.471.


- 22 -


23
của quá trình chuyển hóa năng lượng. Từ đó các nhà khoa học R.Maye và P.P.Giulơ đã phát
hiện ra định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng. Định luật này là sự khẳng định và
chứng minh rằng thế giới vật chất vận động và phát triển thông qua các quá trình chuyển
hóa từ thấp đến cao của các dạng năng lượng. Năng lượng không tự nhiên sinh ra và cũng
không bao giờ mất đi. Nó là quá trình chuyển hóa từ dạng này này sang dạng khác, gắn liền
với vật chất, vận động. Thế giới thống nhất ở tính vật chất và nguồn gốc duy nhất của thế
giới đó là các quá trình vật chất vận động và phát triển.
Từ những năm 30 của thế kỷ XIX, sinh học đã có những kết quả nghiên cứu nổi bật.
Một trong những phát hiện đó là thuyết tế bào của Svan và Slâyđen (Đức). Học thuyết tế
bào đã chứng minh rằng tế bào là cơ sở của kết cấu và sự phát triển của thế giới thực vật và
động vật. Từ đó, học thuyết tế bào tính thống nhất của giới tự nhiên hữu cơ, của toàn bộ quá
trình lịch sử của sự sống từ thấp đến cao. Từ đơn giản đến phức tạp. Bản chất của sự sống là
một quá trình phát triển biểu hiện tính thống nhất, tính liên hệ của thế giới tự nhiên.
Năm 1859, Đácuyn, một nhà sinh học nổi tiếng của Anh đã xây dựng lý luận duy vật
về nguồn gốc và sự phát triển của các thực thể sinh vật, qua học thuyết tiến hóa. Học thuyết
tiến hóa là sự chứng minh có căn cứ về quá trình vận động, biến đổi từ thấp đến cao của
động vật và thực vật, thông qua quá trình chọn lọc tự nhiên và nhân tạo. Đây là cơ sở để
khẳng định nguồn gốc duy vật về sự hình thành và phát triển của sự sống, đối lập với sự
sáng tạo ra thế giới mang tính chất thần thánh của chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo.
Câu 10. Anh (chị) hãy phân tích vai trò của khoa học và công nghệ đối với sự
phát triển của xã hội.
1. Khoa học
Khoa học là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn và được kiểm
nghiệm bởi thực tiễn phản ánh dưới dạng lôgíc trừu tượng những thuộc tính, kết cấu, những
mối liên hệ bản chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội và bản thân con người.
Sự ra đời và phát triển của khoa học là thành quả vĩ đại của trí tuệ con người. Khoa

học giữ một vai trò đặc biệt trong hoạt động của con người và vai trò đó ngày càng tăng lên
trong đời sống xã hội. Trong thời đại ngày nay, mọi bước tiến quan trọng của lịch sử đều
xuất phát từ tri thức khoa học và vai trò của khoa học trở nên to lớn đến mức có thể gọi thời
đại ngày nay là thời đại khoa học và công nghệ.
Đặc điểm của khoa học:
- Khoa học là một dạng hoạt động phức hợp của con người, bao gồm hoạt động tinh
thần và hoạt động vật chất, lý luận khoa học và thực tiễn khoa học. Nhưng với tư cách là
một hình thái ý thức xã hội, khoa học có nhiều đặc điểm riêng khác với các hình thái ý thức
xã hội khác về nội dung, về phương thức hoạt động, về quy luật phát triển và về chức năng
xã hội.
- Khoa học tồn tại dưới dạng hệ thống lý luận chung nhất hoặc dưới dạng cụ thể của
các tri thức khoa học chuyên ngành.
- Tri thức khoa học thâm nhập vào các hình thái ý thức xã hội khác hình thành nên
các khoa học tương ứng với từng hình thái đó. Thí dụ: đạo đức và đạo đức học, chính trị và
chính trị học, nghệ thuật và các khoa học nghiên cứu nghệ thuật v.v..
- Khoa học không chỉ khác với các hình thái ý thức xã hội khác mà còn khác với
nhận thức thông thường.
Khoa học trong mọi thời đại xét đến cùng là do sản xuất quyết định. Chính nhu cầu
của thực tiễn sản xuất, của xã hội là cơ sở, là động lực phát triển của khoa học. Tuy nhiên,
khoa học có tính độc lập tương đối của nó.
2. Cách mạng khoa học - công nghệ và hậu quả của nó
Bản chất của khoa học - công nghệ
Từ giữa thế kỷ XX nhân loại đã bước vào “cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật” với
sự ra đời của sản xuất tự động hóa. Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật mà ngày nay, giai
- 23 -


24
đoạn mới của nó là khoa học và công nghệ đã và đang đem lại những thành tựu kỳ diệu cho
loài người, tác động to lớn đến tất cả các nước trên thế giới dù có những chế độ chính trị xã

hội khác nhau.
Cách mạng khoa học và công nghệ là bước nhảy vọt về chất trong việc nhận thức
giới tự nhiên và vận dụng các quy luật của nó. Bản chất của cách mạng khoa học và công
nghệ hiện đại chính là ở chỗ cải biến về chất các lực lượng sản xuất hiện có trên cơ sở biến
khoa học thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Trước kia, khoa học chủ yếu là tổng kết từ thực nghiệm và sản xuất trực tiếp; còn
ngày nay, nghiên cứu khoa học dẫn đến tạo ra kỹ thuật, công nghệ sản xuất mới và muốn
giải quyết những vấn đề kỹ thuật, công nghệ đòi hỏi phải nghiên cứu cơ bản, trực tiếp từ
khoa học. Nhiều ngành sản xuất mới ra đời trên nền tảng của các thành tựu khoa học. Sản
xuất ngày càng trở thành sự áp dụng khoa học vào thực tiễn kỹ thuật và công nghệ. Tri thức
khoa học được vật hóa, được kết tinh vào mọi yếu tố của lực lượng sản xuất - tức là đối
tượng lao động, kỹ thuật và quá trình công nghệ - và cả trong những hình thức tổ chức của
sản xuất. Tri thức khoa học còn được bao hàm trực tiếp trong hoạt động của người lao động
sản xuất, trở thành một bộ phận không thể thiếu được, khăng khít của mỗi người làm việc
trong quá trình sản xuất, dần dần chiếm địa vị chủ đạo thay cho thói quen và kinh nghiệm
thông thường. Người lao động sản xuất chủ yếu sẽ không phải là đối tượng hóa sức lao động
của mình mà chủ yếu là vận dụng tri thức khoa học để điều khiển, kiểm tra quá trình sản
xuất tự động hóa, đề xuất sáng kiến, sử dụng hợp lý thiết bị, nguyên liệu, năng lượng và để
tổ chức hoạt động của mình một cách có hiệu quả nhất. Việc quản lý sản xuất và các quá
trình công nghệ (nhất là các hệ thống quản lý tự động) chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở
khoa học. Đồng thời, hoạt động nghiên cứu khoa học và thiết kế tham gia vào kết cấu của
quá trình sản xuất như một mắt khâu trực tiếp. Như vậy, khoa học không còn đứng bên
ngoài sản xuất mà chuyển thành một mắt khâu bên trong, thống nhất chặt chẽ với những mắt
khâu khác của sản xuất.
Ngoài ra, khoa học còn trở thành một ngành hoạt động của sản xuất vật chất với quy
mô ngày càng lớn, bao hàm hàng loạt những viện, trường, phòng, trạm trại và cả nhiều xí
nghiệp nữa. Đội ngũ những người làm công tác khoa học tăng lên nhanh chóng và không
ngừng. Ngân sách đầu tư cho khoa học mỗi ngày chiếm tỉ lệ càng cao và hiệu quả đầu tư
ngày càng lớn. Có thể coi khoa học như một ngành kinh tế quốc dân đặc biệt - ngành sản
xuất ra tri thức mới.

Những hậu quả xã hội của cách mạng khoa học và công nghệ
Giữa tiến bộ xã hội và tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ có liên quan mật thiết
với nhau. Tùy thuộc vào chế độ xã hội mà vai trò, tính chất phát triển của khoa học cũng
như của cách mạng khoa học - kỹ thuật cùng những hậu quả xã hội do chúng đem lại cũng
sẽ rất khác nhau.
Chủ nghĩa tư bản dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất để áp bức và
bóc lột quần chúng lao động. Giai cấp tư sản coi khoa học là phương tiện để tăng lợi nhuận,
là phương tiện để duy trì và bảo vệ chủ nghĩa tư bản, để củng cố sự thống trị của mình. Nên
giai cấp tư sản đã khuyến khích sự phát triển của khoa học; đẩy nhanh cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ, sử dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào kinh tế và quân sự, quan tâm
đầu tư lớn cho khoa học. Sự thật hiển nhiên là, cùng với sự phát triển của tự động hóa thì
nạn thất nghiệp cũng tăng lên, sự phân cực xã hội ngày càng sâu sắc.
Trong chủ nghĩa xã hội, tiến bộ khoa học và công nghệ hướng về con người, bởi mục
đích cao nhất của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người, phát triển con người toàn diện.
Nước ta đang trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội nên khoa học và công nghệ có
vị trí vô cùng quan trọng. Nhiệm vụ của chúng ta là phải cấp thiết làm cho khoa học và công
nghệ thật sự trở thành động lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới để đẩy mạnh phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- 24 -



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×