Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Một số quan điểm của mác ănghen về công tác lý luận và sự vận dụng của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.46 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU

Người coi lý luận cách mạng là điều kiện thiết yếu để hình thành và
thúc đẩy phong trào cách mạng cũng như khẳng định vai trò tiên phong của
đảng cách mạng: “Không có lý luận thì xu hướng cách mạng mất quyền tồn
tại và sớm hay muộn, nhất định sẽ rơi vào tình trạng phá sản về chính trị”.
V.I. Lênin đã chỉ ra: Không thể có một lý luận cách mạng nào ngoài
chủ nghĩa Mác cả, chủ nghĩa Mác là lý luận cách mạng duy nhất của giai cấp
vô sản. Vì sao chủ nghĩa Mác - Ăngghen lại giữ được địa vị độc tôn như vậy
đối với phong trào cách mạng của giai cấp vô sản? Theo Người, trước hết là
vì đối với C.Mác, tiêu chuẩn duy nhất của lý luận là phải trung thành với hiện
thực, phải diễn đạt và giải thích về mặt lý luận nguyên nhân của cuộc đấu
tranh đang diễn ra giữa các giai cấp xã hội và giữa những lợi ích kinh tế.
Những người cách mạng chân chính hoàn toàn đứng trên cơ sở lý luận
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Ăngghen. Bởi đó là lý luận đầu tiên biến
CNXH từ không tưởng trở thành khoa học, tạo cơ sở vững chắc cho CNXH
khoa học, vạch rõ con đường, cách thức để phát triển và làm phong phú thêm
cho khoa học đó. Nhiệm vụ đầu tiên, quan trọng nhất của công tác tư tưởng là
phải truyền bá, giáo dục, đưa học thuyết Mác vào giai cấp công nhân. Học
thuyết khoa học và cách mạng đó sẽ giúp giai cấp công nhân hiểu rõ tình cảnh
thực sự của mình, tính tất yếu của việc xóa bỏ chế độ áp bức, bóc lột và xây
dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn. Tiếp theo là động viên, phát huy tính chủ
động sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động trên cơ sở trình độ giác ngộ
cách mạng đã được nâng cao.
Người nêu rõ, chủ nghĩa Mác - Ăngghen khác tất cả các lý luận khác ở
chỗ, nó kết hợp một cách tài tình tính sáng suốt khoa học trong việc phân tích
tình hình khách quan và sự tiến hóa khách quan với việc thừa nhận một cách
hết sức dứt khoát tác dụng của nghị lực cách mạng, tính sáng tạo cách mạng
và tính chủ động cách mạng của quần chúng. Cuối cùng, công tác tư tưởng
còn có nhiệm vụ xây dựng cho giai cấp công nhân lòng tin tưởng và tình yêu
sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng, tinh thần kiên định biết bảo vệ đến cùng


những nhiệm vụ cách mạng của mình, ý chí, nghị lực vượt qua mọi khó khăn,
trở ngại để đạt tới mục tiêu cuối cùng của cuộc đấu tranh...


Từ khi ra đời đến nay, quán triệt những quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng
bồi dưỡng và đã khẳng định vai trò của công tác tư tưởng, lý luận trong sự
nghiệp cách mạng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đáng ghi nhận, công tác tư
tưởng, lý luận của chúng ta vẫn có nhiều hạn chế. Hạn chế lớn nhất là chưa
góp phần xứng đáng, có hiệu quả vào việc củng cố lập trường tư tưởng, bản
lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên; chưa tiến hành một cách thường xuyên
cuộc đấu tranh mạnh mẽ, có luận cứ khoa học, xác đáng, thuyết phục, để
chống lại những quan điểm sai trái thù địch. Trong một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên có sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức,
lối sống... Với đề tài tiểu luận “Một số quan điểm cơ bản của C.Mác và
Ăngghen về công tác lý luận và sự vận dụng của Việt Nam” sẽ làm rõ hơn
phần nào về một số quan điểm này.

2


Chương 1
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA C. MÁC, PH. ĂNGGHEN, LÊNIN
VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN
1.1. Quan điểm của C. Mác và Ph.Ăngghen về công tác tư tưởng, lý
luận
Công tác tư tưởng gồm có 3 quá trình cơ bản: Quá trình hình thành,
phát triển sáng tạo hệ tư tưởng và vận dụng hệ tư tưởng để đề ra đường lối
chiến lược, sách lược (công tác lý luận); quá trình truyền bá hệ tư tưởng và

đường lối, chính sách trong quần chúng (công tác tuyên truyền) và quá trình
thúc đẩy quần chúng tích cực hành động nhằm hiện thực hóa hệ tư tưởng và
đường lối, chính sách (công tác cổ động). Đương thời, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác chưa có điều kiện nghiên cứu sâu về khoa học công tác tư
tưởng nhưng tư tưởng và hành động của các ông là tiền đề quan trọng để hình
thành và phát triển khoa học này.
1.1.1. Lý luận có vai trò quan trọng trong đấu tranh giai cấp
Theo C.Mác, lý luận gắn với lợi ích, bảo vệ lợi ích giai cấp. Ông cho
rằng tư tưởng của Lu-ít Na-pô-lê-ông mang danh đại diện cho giai cấp nông
dân Pháp giữa thế kỷ XIX, nhưng hoàn toàn không gắn với lợi ích thực sự của
nông dân cũng có nghĩa là: "Những tư tưởng ấy chỉ là những ảo giác trong cơn
hấp hối, là những từ đã biến thành những câu nói suông, là những thần linh đã
biến thành những bóng ma"1. Theo C.Mác, lý luận gắn chặt với giai cấp bởi vai
trò là vũ khí tinh thần quan trọng của giai cấp: “Giống như triết học thấy giai
cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ
khí tinh thần của mình”2. Chính vì vậy, lý luận chính là sự biểu hiện, phản ánh
lợi ích giai cấp hết sức rõ ràng: “Mỗi giai cấp mới thay thế cho giai cấp thống
trị trước mình, muốn thực hiện được mục đích của mình, đều nhất thiết phải
biểu hiện lợi ích của bản thân mình thành lợi ích chung của mọi thành viên
trong xã hội hay nói một cách trừu tượng: phải gắn cho những tư tưởng của bản
thân mình một hình thức phổ biến, phải biểu hiện những tư tưởng đó thành
những tư tưởng duy nhất hợp lý, duy nhất có giá trị phổ biến”3.
1
2

3

C.Mác – Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 8, tr272, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội
. C.Mác – Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 1, tr589, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội
. C.Mác – Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 3, tr68, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, HN


3


1.1.2. Lý luận cách mạng mang bản chất khoa học và cách mạng
Nhận thức sâu sắc vai trò của lý luận cách mạng đối với phong trào
cách mạng, C.Mác luôn hướng trọng tâm hoạt động của mình vào nghiên cứu
khoa học, kịp thời giải đáp những câu hỏi lớn mà nhân loại đang đặt ra nhưng
chưa có câu trả lời. Là một thiên tài sáng tạo, Mác cống hiến cho nhân loại hai
phát kiến khoa học mang tầm thời đại là Chủ nghĩa duy vật lịch sử và Học
thuyết giá trị thặng dư. Từ giả thuyết khoa học, học thuyết Mác đã được
chứng minh về mặt khoa học, trở thành hệ thống lý luận khoa học sâu sắc,
toàn diện, cân đối với ba bộ phận cấu thành: Triết học mác-xít; Kinh tế chính
trị học mác-xít và Chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong hệ thống đó, luôn có sự
thống nhất giữa tính cách mạng và tính khoa học; thế giới quan và phương
pháp luận; lý luận và thực tiễn; nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Sáng tạo
là đặc tính bản chất, quy định học thuyết Mác là một hệ thống mở như
Ph.Ăngghen cho rằng: “Luôn được bổ sung, phát triển để theo kịp cuộc
sống”4. C.Mác đã từng căn dặn: Học thuyết của chúng tôi không phải là giáo
điều mà là kim chỉ nam cho hành động. Điều đó đòi hỏi những người cộng
sản phải ra sức học tập, nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác đồng thời luôn theo sát nắm vững thời cuộc, phát hiện
những mâu thuẫn mới nảy sinh cần giải quyết. Sự hình thành, phát triển chủ
nghĩa Mác không tách rời cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận chống tư tưởng tư
sản, phản động, cơ hội, xét lại dưới mọi màu sắc và kể cả của những kẻ phản
bội, xa rời lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
Lý luận cách mạng mang bản chất khoa học và cách mạng thể hiện rõ
nét trong “Lời nói đầu góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”
với luận điểm nổi tiếng C.Mác chỉ ra: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên
không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể

đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng
vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”5.
C.Mác cũng chỉ ra lý luận chỉ có được vai trò là vũ khí của giai cấp khi
nó mang bản chất khoa học và cách mạng triệt để: “Lý luận có thể thâm nhập
vào quần chúng khi nó chứng minh ad hominem (dùng lý lẽ hay hành động
của một người để phản bác phản bác lại chính người đó) và nó chứng minh ad
4

5

C.Mác và Ăng-ghen, Tuyển tập, tập 5, tr 18-19, Nxb Sự thật, 1983.
C.Mác – Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 1, tr580, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, HN.

4


hominem khi nó trở thành triệt để. Triệt để có nghĩa là hiểu được sự vật đến
tận gốc rễ của nó.”6 C.Mác lấy ví dụ về tính triệt để của lý luận Đức lúc ấy là
nó xóa bỏ tôn giáo một cách kiên quyết và tích cực; khẳng định con người là
tồn tại tối cao của mình, do đó tất yếu phải xóa bỏ những quan hệ làm nhục,
nô dịch, khinh rẻ con người chính vì vậy cách mạng tôn giáo mở ra cách
mạng trong triết học ở Đức (triết học Hêghen).
1.1.3. Lý luận xuất phát từ thực tiễn cách mạng và soi đường cho thực
tiễn
Bàn về quan hệ giữa lý luận và thực tiễn C.Mác cho rằng lý luận phải
xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và soi đường cho thực tiễn. Mác viết trong tác
phẩm “Lời nói đầu góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen”
rằng: “… ở mỗi dân tộc, lý luận bao giờ cũng chỉ được thực hiện theo mức độ
mà nó là sự thực hiện những nhu cầu của dân tộc ấy” 7 và “lý luận bao giờ
cũng chỉ được thực hiện theo mức độ mà nó là sự thực hiện những nhu cầu” 8.

Cũng trong tác phẩm trên, Mác đặt vấn đề rằng: “Những nhu cầu lý luận liệu
có trực tiếp trở thành những nhu cầu thực tiễn hay không? Tư tưởng cố sức
biến thành hiện thực vẫn chưa đủ; bản thân hiện thực cũng phải cố sức hướng
tới tư tưởng”9.
Trong Luận cương thứ XI về PhoiơBắc, C.Mác đã chỉ ra rằng các nhà
triết học trước kia chỉ giải thích thế giới nhưng vấn đề là phải dùng nhận thức
đó để cải tạo thế giới: “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều
cách khác nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới” 10 Điều đó khẳng định vai trò,
nhiệm vụ quan trọng của lý luận đối với thực tiễn.
1.2. Quan điểm của Lênin về công tác tư tưởng, lý luận
1.2.1. Quan điểm V.I.Lênin về vai trò công tác tư tưởng, lý luận
V.I.Lênin cho rằng bộ phận cấu thành hết sức quan trọng trong hoạt
động của Đảng cộng sản là công tác tư tưởng, mà mục đích cao nhất của nó là
luận giải về mặt lý luận đường lối của Đảng, xây dựng con người phát triển
toàn diện và có đời sống tinh thần phong phú, không ngừng nâng cao ý thức

6

C.Mác – Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 1, tr580, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, HN.
C.Mác – Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 1, tr.582, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, HN.
8
. C.Mác – Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 1, tr.582, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, HN.
9
C.Mác – Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 1, tr.582, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, HN.
10
. C.Mác – Ph.Ăng-ghen (1995), Toàn tập, Tập 3, tr. 12, Nxb Chính trị quốc gia-Sự thật, HN.
7

5



giác ngộ giai cấp của họ. Công tác tư tưởng là vũ khí mạnh mẽ của Đảng
trong cuộc đấu tranh nhằm xây dựng xã hội mới.
V.I. Lênin rất coi trọng hoạt động lý luận, tuyên truyền và cổ động của
Đảng vô sản. Trong tác phẩm “Làm gì”, V.I.Lênin đã nêu luận điểm nổi tiếng:
“Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng” 11.
Người còn chỉ rõ rằng vấn đề chủ yếu trong công tác tư tưởng của Đảng là
nâng cao ý thức giác ngộ chính trị của công nhân và toàn thể nhân dân lao
động, làm cho họ hiểu rõ những nhiệm vụ cụ thể trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa cộng sản: “Nhiệm vụ chủ yếu của Đảng là giáo dục chính trị cho
giai cấp công nhân, xây dựng ý thức cho giai cấp vô sản, cải tiến việc tiến
hành công tác tuyên truyền, cổ động”. Trong bài báo “những bài học của cuộc
khởi nghĩa Mátxcơva”, Lênin đã nhấn mạnh: “Nâng cao sự giác ngộ của quần
chúng, hiện nay cũng như bất cứ lúc nào, vẫn là nền tảng và nội dung chủ yếu
của toàn bộ công tác của chúng ta”12.
V.I.Lênin khẳng định rằng công tác tư tưởng trước hết phải có lý luận
mác-xit chân chính và làm cho lý luận đó thâm nhập vào phong trào công
nhân trở thành kim chỉ nam dẫn đường cho chính đảng của giai cấp công nhân
thì mới làm tròn vai trò của chiến sĩ tiên phong góp phần bảo vệ lợi ích của
giai cấp mình: “chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong dẫn đường, đảng
đó mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”13.
V.I.Lênin cho rằng, công tác tư tưởng là một công tác hết sức quan
trọng, bởi vì một học thuyết, một đường lối chủ trương của Đảng chỉ có thể đi
vào quần chúng, vào cuộc sống thông qua công tác chính trị - tư tưởng. Công
tác này là trách nhiệm của Đảng Cộng sản cầm quyền “bất cứ một chính đảng
nào có trọng trách với tương lai là phải thuyết phục cho đa số nhân dân thấy
được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình”14.
1.2.2. Quan điểm của V.I.Lênin về tính đảng và tính khoa học trong
công tác tư tưởng, lý luận
Khi tiến hành công tác tư tưởng thì đòi hỏi Đảng cộng sản phải thực

hiện đúng nguyên tắc tính đảng, đây là nguyên tắc cơ bản, là thước đo đánh
11
12

13
14

V.I.Lênin: Toàn tập, tập 6, tr. 30 – 32.
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 13, tr. 472
. V.I.Lênin toàn tập, tập 6 trang 189, NXB Tiến bộ Matxcơa, 1973
. V.I.Lênin toàn tập, tập 39 trang 294, NXB Tiến bộ Matxcơa, 1973

6


giá người tuyên truyền cổ động, đánh giá các binh chủng trên mặt trận tư
tưởng - văn hóa.
V.I.Lênin cho rằng: “Trong bất kỳ trường hợp nào điều quan trọng nhất
là phương hướng chính trị - tư tưởng”15 và Người cũng yêu cầu: “phải giữ
vững tính Đảng không chỉ trên lời nói mà cả trên việc làm”16. Như vậy, mọi nội
dung trong công tác tư tưởng phải đứng trên lập trường tư tưởng của Đảng.
Để chính đảng của giai cấp vô sản hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình, thì bên cạnh việc xác lập hệ tư tưởng mác-xit trong phong trào công
nhân còn phải chú ý đến việc đấu tranh chống lại hệ thống tư tưởng tư sản,
phi vô sản và chống các tư tưởng lạc hậu lỗi thời. Tuy nhiên, trong cuộc đấu
tranh này đòi hỏi Đảng Cộng sản phải kế thừa và phát triển những hạt nhân
hợp lý trong các tư tưởng đó. Bởi vì, theo V.I.Lênin: “dù học thuyết phản
động nhất cũng lấp lánh những hạt trí tuệ”17. Do đó: “chúng ta phải biết phát
triển nó nếu không muốn lạc hậu với cuộc sống”18. Vì thế, công tác tư tưởng
của Đảng phải có nhiệm vụ kế thừa và phát triển các hạt nhân hợp lý.

Công tác tư tưởng còn phải được tiến hành dựa trên cơ sở khoa học,
trong đó triết học duy học biện chứng là cơ sở khoa học quan trọng nhất, đóng
vai trò phương pháp luận quyết định. Nó được thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, nhưng ý thức xã hội
có vai trò độc lập tương đối trong sự phát triển của xã hội.
Thứ hai, tư tưởng con người phải gắn liền với lợi ích của họ.
Thứ ba, nhận thức của con người vốn có tính biện chứng, quá trình tư
tưởng diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn.
Thứ tư, con người là một thực thể sinh vật - tâm lý - xã hội
1.2.3. Quan điểm của V.I. Lênin về các bộ phận của công tác tư tưởng
Khi xem xét công tác tư tưởng như một quá trình, bao gồm từ việc sáng
tạo ra hệ tư tưởng và vận dụng hệ tư tưởng để đề ra đường lối chiến lược, sách
lược của một giai cấp, một chính đảng đến việc truyền bá hệ tư tưởng vào trong
quần chúng, thúc đẩy quần chúng hành động một cách tích cực, V.I.Lênin xác
định ba bộ phận cấu thành công tác tư tưởng của đảng vô sản là: công tác lý
luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động. Ba bộ phận (hình thái) đó
15

. V.I.Lênin toàn tập, tập 47 trang 481, NXB Tiến bộ Matxcơa, 1981
. V.I.Lênin toàn tập, tập 47 trang 497, NXB Tiến bộ Matxcơa, 1981
17
. V.I.Lênin toàn tập, tập 47 trang 119, NXB Tiến bộ Matxcơa, 1981
16

18

. V.I.Lênin toàn tập, tập 47 trang 121, NXB Tiến bộ Matxcơa, 1981

7



tương ứng với các quá trình tư tưởng sau: công tác lý luận tương ứng với quá
trình sáng tạo ra hệ tư tưởng, công tác tuyên truyền tương ứng với quá trình
truyền bá hệ tư tưởng và công tác cổ động tương ứng với quá trình vật chất hóa
hệ tư tưởng (biến tư tưởng thành hành động). Lần đầu tiên trong tác phẩm
“Những người bạn dân là như thế nào” V.I.Lênin đề cập đến công tác lý luận
và công tác thực tiễn tuyên truyền và cổ động : “Trong khi nhấn mạnh như thế
sự cần thiết, tầm quan trọng và qui mô rộng lớn của công tác lý luận của những
người dân chủ - xã hội, tôi không hề muốn nói rằng công tác đó phải được đặt
vào vị trí hàng đầu trước công tác thực tiễn”…“Trái lại, công tác thực tiễn
tuyên truyền và cổ động nhất thiết bao giờ cũng phải ở vị trí hàng đầu, vì một
là, công tác lý luận chỉ giải đáp những vấn đề do công tác thực tiễn nêu ra. Hai
là, những người dân chủ - xã hội, vì những tình hình không phụ thuộc vào họ,
thường buộc phải chỉ làm công tác lý luận thôi, nên không thể không hết sức
coi trọng những lúc có thể làm công tác thực tiễn” 19. Ở luận điểm này,
V.I.Lênin đã khẳng định vai trò to lớn của công tác thực tiễn tuyên truyền và cổ
động trong phong trào cách mạng, thậm chí ông còn đặt vị trí tuyên truyền và
cổ động lên hàng đầu so với công tác lý luận. Bởi lẽ, xét từ nguồn gốc thì mọi
nhu cầu sáng tạo lý luận đều xuất phát từ những đòi hỏi thực tiễn cách mạng.
Do đó, lý luận đã được sáng tạo tất yếu phải trở về phục vụ thực tiễn thông qua
công tác tuyên truyền và cổ động.
Cũng bàn về ba loại hình hoạt động của công tác tư tưởng, trong tác
phẩm “Làm gì” Lênin cũng đưa ra luận điểm: “Những nhà lý luận thảo những
bản nghiên cứu về chính sách thuế, trong đó họ "kêu gọi", chẳng hạn, đấu
tranh đòi ký các hiệp ước buôn bán và đòi tự do buôn bán; người tuyên truyền
cũng viết như thế trên các tạp chí và người cổ động cũng nói như thế trong
các cuộc diễn thuyết trước công chúng"20. Để tiến hành công tác tư tưởng, đòi
hỏi cần có sự tác động của cả ba hình thái lý luận, tuyên truyền và cổ động,
thiếu một trong ba hoạt động này chắc chắn công tác tư tưởng sẽ không đạt
hiệu quả, thậm chí thất bại. Đồng thời, ba hình thái này cần thống nhất và liên

hệ chặt chẽ với nhau để cùng thực hiện một quá trình tư tưởng và giải quyết
những vấn đề cấp bách do thực tiễn cách mạng đặt ra.

19
20

. Sđd, tập 1, tr381
. Sđd, tập 6, tr85

8


Các bộ phận cấu thành của công tác tư tưởng của đảng có mối quan hệ
thống nhất hữu cơ và tác động lẫn nhau như những quá trình bộ phận của cùng
một quá trình tư tưởng chung thống nhất, mặc dù chúng có chức năng, đặc
điểm riêng của mình. Giống như quá trình sản xuất vật chất, mắt khâu đầu tiên
của quá trình tư tưởng là sự sản xuất tư tưởng, tức công tác lý luận. Công tác lý
luận được coi là khâu trọng yếu hàng đầu của công tác tư tưởng. Nó quyết định
phương hướng, nội dung của công tác tuyên truyền và cổ động và là cơ sở, nền
tảng của công tác tư tưởng. Công tác lý luận phát triển đúng hướng, mang lại
hiệu quả cao là tiền đề, điều kiện thuận lợi cho công tác tuyên truyền và cổ
động. Công tác tuyên truyền và cổ động hoạt động càng mạnh mẽ càng đặt ra
nhu cầu, động lực phát triển lý luận và tư duy lý luận.
Trái lại, nếu công tác lý luận giáo điều, trì trệ thì công tác tuyên truyền
cũng khó khăn, thiếu sức sống, thậm chí bế tắc mà biểu hiện của nó là nói
không đi với làm. Nếu công tác lý luận sai lầm thì còn cực kì nguy hiểm.
Trong trường hợp này, nếu công tác tuyên truyền, cổ động càng hoạt động sôi
nổi thì những kết luận của công tác lý luận càng tác hại cho cách mạng. Mặt
khác, những tác hại ấy đôi khi rất khó lường trước và rất khó khắc phục trong
một thời gian ngắn. Về điểm này, V.I.Lênin đã chỉ rõ “Giải quyết đúng đắn về

mặt lí luận đảm bảo những thắng lợi vững chắc trong công tác cổ động” 21 và
không có nội dung tư tưởng rõ ràng, sâu sắc thì công tác cổ động chỉ là văn
hóa sao chép.
Công tác tuyên truyền và cổ động có một cơ sở chung là chủ nghĩa
Mác, đều nhằm giải quyết một nhiệm vụ thống nhất là nâng cao ý thức giác
ngộ của quần chúng nhưng mỗi công tác có sự khác biệt tương đối. Lênin đã
phân biệt sự khác nhau giữa nội dung, phương pháp công tác tuyên truyền và
công tác cổ động trong tác phẩm “Làm gì”. Ông cho rằng : "Người tuyên
truyền, nếu bàn về vấn đề thất nghiệp chẳng hạn thì phải giải thích bản chất
tư bản chủ nghĩa của các cuộc khủng hoảng, vạch rõ cái gì làm cho các cuộc
khủng hoảng là không thể tránh khỏi trong xã hội hiện đại, vạch rõ sự cần
thiết phải cải biến xã hội ấy thành xã hội chủ nghĩa v.v... Nói tóm lại, người
tuyên truyền phải nói "nhiều ý"...”22. Còn với người cổ động: “Cũng nói một
vấn đề ấy, người cổ động thì sẽ lấy một ví dụ nào nổi bật nhất và được thính
21
22

. V.I.Lênin: Toàn tập, tập 7, tr.341
. Sđd, tập 6, tr84-85

9


giả biết rõ nhất, - ví dụ như một gia đình thất nghiệp bị chết đói, nạn ăn mày
tăng lên, v.v... - rồi dựa vào sự việc mà tất cả mọi người đều biết ấy, người cổ
động sẽ đem hết sức ra làm cho "quần chúng" có một ý niệm duy nhất: ý niệm
về sự mâu thuẫn phi lý giữa sự tăng thêm của cải và sự tăng thêm nghèo khổ;
người cổ động sẽ ra sức khêu gợi sự bất bình, sự phẫn nộ của quần chúng đối
với sự bất công rõ rệt ấy..."23. Theo quan niệm này của Lênin, thì sự khác nhau
căn bản giữa tuyên truyền và cổ động là người tuyên truyền thường dùng

phương pháp truyền đạt nhiều ý cho một người hay số ít người, còn cổ động
thì truyền đạt chỉ một ý hay một vài ý, nhưng cho số đông người . Bên cạnh
đó, Lênin cũng đã làm sáng tỏ không chỉ đặc điểm của phương pháp tuyên
truyền, cổ động mà còn cho thấy tính chất chính trị, tính chất điển hình và vai
trò của kỹ năng lựa chọn sự kiện trong hai công tác này.
Tóm lại, công tác lý luận, công tác tuyên truyền và công tác cổ động
vừa có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động biện chứng với nhau, vừa có tính
độc lập tương đối. Cho nên, trong thực tiễn công tác tư tưởng không nên lẫn
lộn hình thái này với hình thái kia, nhất là giữa tuyên truyền với cổ động.
1.2.4. Quan điểm của V.I.Lênin về hiệu quả của công tác tư tưởng, lý
luận
Công tác tư tưởng là hoạt động có mục đích của con người, cần thiết
phải xem xét về tính hiệu quả. Trong bài “Việc gì đã xảy ra ở nước Nga”
( báo “Tiến lên” số 4 ngày 31/1/1905), V.I.Lênin đã đề cập tới vấn đề là công
tác lý luận phải tạo điều kiện để mở rộng phong trào cách mạng thực tiễn giúp
quần chúng nhân dân lựa chọn hình thức, phương pháp cách mạng có khả
năng “thu được kết quả nhiều nhất, vững chắc nhất mà lại ít tốn sức nhất” 24.
Kết quả cao chưa nhất thiết đưa lại hiệu quả cao. Hiệu quả cao chỉ khi cùng
một kết quả nhưng chi phí thấp nhất. Cho nên, trong công tác tư tưởng phấn
đấu đạt hiệu quả cao không phải bằng mọi giá, mà phải bằng cách sử dụng
những phương pháp công tác tốt nhất, chi phí hợp lý nhất.
Để đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng cần thông qua ba tiêu chuẩn:
trình độ hiểu biết, niềm tin, hoạt động thực tiễn về vấn đề tác động tư tưởng.
Ở đây V.I.Lênin quan tâm đến tiêu chuẩn hoạt động thực tiễn, hành động là
tổng hợp của sự hiểu biết và niềm tin, là đặc trưng nổi bật nhất của hiệu quả
23
24

. Sđd, tập 6, tr84-85
. Sđd, tập 9, tr258


10


công tác tư tưởng. Đánh giá con người không chỉ bằng lời nói mà bằng hành
động của họ, khi bàn về vấn đề này V.I.Lênin cho rằng: “Chúng ta căn cứ cái
gì để xét đoán những tư tưởng tình cảm thực của những cá nhân có thực? Tất
nhiên, căn cứ đó chỉ có thể những hoạt động của những cá nhân ấy, và một
khi vấn đề chỉ là tư tưởng và tình cảm xã hội thì cần phải nói thêm, những
hoạt động xã hội của những cá nhân, tức là những sự kiện xã hội”2.
Ngoài ra, V.I.Lênin còn bàn đến những yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng, hiệu quả của công tác tư tưởng. Trong những yếu tố thì ông đặc biệt
quan tâm đến vai trò của đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng. Ông cho rằng:
“tài nghệ của người tuyên truyền và một người cổ động là chỗ ảnh hưởng một
cách tốt nhất đến một giá trị nhất định, làm cho một chân lý nào đó đối với họ
trở nên có sức thuyết phục mạnh nhất dễ hiểu nhất, để lại ấn tượng rõ ràng sâu
sắc nhất”25. Người còn nói: “nếu không có đội ngũ cán bộ ấy thì mọi chỉ thị,
nghị quyết của Đảng chỉ là mớ giấy lộn”26.

25

V.I.Lênin toàn tập, tập 21 trang 28, NXB Tiến bộ Matxcơa, 1980

26

. V.I.Lênin toàn tập, tập 21 trang 38, NXB Tiến bộ Matxcơa, 1980

11



Chương 2
VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA C.MÁC, ĂNGGHEN, LÊNIN VỀ
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN VÀO VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Về công tác tư tưởng, lý luận vào quá trình xây dựng con người
Việt Nam
“Đầu tiên là công việc đối với con người27
Con người và công việc đối với con người được coi là quốc sách đầu
tiên trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng, lý luận và được Người
căn dặn rõ ràng trong Di chúc. Thật ý nghĩa khi trong bản viết tay của mình,
từ con người được Hồ Chí Minh gạch chân bằng bút màu đỏ và đây cũng là
vấn đề được Người viết rất dài trong Di chúc.
Hồ Chí Minh đã dành trọn cả đời phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng
triệt để con người. Người có một ham muốn tột bậc “nước nhà được hoàn
toàn độc lập, nhân dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được đến trường”. Nhân cách con người mà Hồ Chí Minh hướng
đến xây dựng là nhân cách người kách mệnh: “quyết đoán. Dũng cảm. Phục
tùng đoàn thể. Hoà mà không tư… Vị công vọng tư. Giữ chủ nghĩa cho
vững…”28.
Xây dựng Đảng và tư cách người cách mạng - Tư tưởng quan
trọng của Người còn nguyên ý nghĩa thời sự trong giai đoạn hiện nay
Trước hết nói về Đảng, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tinh thần đoàn kết.
Muốn đoàn kết trong Đảng tốt theo Người cần thực hiện 2 nguyên tắc cơ bản
và quan trong là thực hiện dân chủ ở trong Đảng và thường xuyên, nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình. “ ĐOÀN KẾT là một truyền thống cực kỳ quý
của của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần
giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh
tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết
và thống nhất của Đảng”29.
Hồ Chí Minh khẳng định, muốn thực hiện dân chủ, tự phê bình và phê

bình đạt hiệu quả cao thì “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau…Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần
27

Sđd, tập 12, tr. 503

28

SĐD: tập 2, tr. 260
Sđd, tập 12, tr. 510

29

12


kiệm liêm chính, chí công vô tư”30. Hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà
trong một đoạn văn thật ngắn trong Di chúc (56 chữ), Người đã dùng đến 4
chữ “thật”. Theo đồng chí Vũ Kỳ, Người đã suy ngẫm 4 chữ “thật”đó, chí ít
trong 3 tháng kể từ buổi đến “thăm” Nguyễn Trãi ở Côn Sơn (15.02.1965),
trước khi bắt tay viêt Di chúc vào ngày 10.05.1965. “Bác đã viết 4 chữ “thật”
cho lúc bấy giờ và cho cả mai sau, khi đất nước hết chiến tranh, bước vào xây
dựng. Mà có lẽ chủ yếu là Bác viết cho mai sau.
Chắc là Bác muốn như thế”31
Không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân32 - nhiệm vụ cơ bản
của quá trình xây dựng con người
Trong Di chúc, Người căn dặn:“Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để
phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân
dân…33. Điều quan trọng và sâu lắng nhất cần vận dụng tư tưởng của Người
trong xây dựng con người hiện nay chính là vấn đề con người và bản chất sâu

lắng nhất của vấn đề con người là không ngừng nâng cao dân trí, dân sinh và
dân quyền. Con người không phải được Hồ Chí Minh đề cập chung chung,
trừu tượng mà là những con người cụ thể, với những chính sách cụ thể cho
từng đối tượng, hoàn cảnh cụ thể. Vào năm 1968, Người đã viết những chỉ
đạo cụ thể về chính sách đối với con người trong Di chúc:
Đối với liệt sỹ thì “xây dựng vườn hoa” và “bia kỷ niệm” nhằm để
tưởng nhớ đến công lao của các liệt sỹ đã quên thân vì nền độc lập tự do cho
dân tộc và quan trọng là để giáo dục truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của
dân tộc cho con cháu sau này.
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của
mình (cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…)” thì điều
quan tâm trước hết, cần thiết theo Bác là giúp họ có “nơi ăn, chốn ở”, giúp họ
có “việc làm” để họ tự lực vươn lên trong cuộc sống của mình.
Đối với cha, mẹ, vợ con (của thương binh, liệt sỹ) thiếu sức lao động,
và túng thiếu thì các cơ quan, đoàn thể, mỗi người dân phải giúp đỡ họ có
công việc làm thích hợp, không để họ đói, rét.
30

Sđd, tập 12, tr. 510
Bác Hồ viết Di chúc, Hồi ký của Vũ Kỳ trong sách “35 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”,
nhà xuất bản CTQG 2004, tr.126
32
Sđd, tập 12, tr. 511
33
Sđd, tập 12, tr. 511
31

13



Đối với những chiến sỹ trẻ tuổi trong lực lượng vũ trang và thanh niên
xung phong”, Đảng và Nhà nước cần phải “chọn một số ưu tú” để đào tạo họ
thành những “cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường
cách mạng vững chắc”34. Xây dựng họ thành đội quan chủ lực trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đối với phụ nữ đã “góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản
xuất”, Đảng và Chính phủ “phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cân
nhắc và giúp đỡ”.
Đối với đồng bào ta, nhất là đồng bào nông dân”, Người đề nghị “miến
thuế nông nghiệp một năm” làm cho tinh thần người dân phấn chấn, “đồng
bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng”.
Đối với những nạn nhân của chế độ cũ” Đảng và Chính phủ cần phải
“dùng vừa giáo dục, vừa pháp luật để cải tạo họ”35.
Hồ Chí Minh không chỉ định hướng nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ
mà còn nêu rõ nhiệm vụ của từng giai cấp, giai tầng cụ thể trong sự nghiệp
xây dựng con người chung. Bản thân mỗi người phải “dần dần “tự lực cánh
sinh”, “phải cố gắng vươn lên” để gánh vác trọng trách được giao.
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm quan
trọng và cần thiết
Trong Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đó căn dặn “bồi dưỡng thế hệ
cỏch mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Nhiệm vụ
của Đảng và Chính phủ trong chiến lược xây dựng con người, trước hết là
phải quan tâm và bồi dưỡng thế hệ thanh niên. Xây dựng họ thành những con
người hội tụ đủ cả hai yếu tố đức và tài, hồng và chuyên. Người nhấn mạnh:
“Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do thanh niên” 36.
Thế hệ trẻ chính là chủ nhân tương lai của đất nước, kế tục sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Lúc sinh thời, Hồ Chí Minh rất quan tâm và đòi hỏi
Đoàn phải làm tròn nhiệm vụ là nơi đoàn kết, tập hợp thanh niên để giúp
Đảng giáo dục họ thành những chủ nhân tương lai của đất nước. Người khẳng
định muốn củng cố và phát triển thì Đoàn phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ

với các tầng lớp thanh niên, phải biết tổ chức các phong trào thi đua, tạo môi
trường tốt nhất cho thanh niên cống hiến và hưởng thụ. Người đòi hỏi Đoàn
34

Sđd, tập 12, tr. 504
Sđd, tập 12, tr. 503 - 504
36
Sđd, tập 5, tr. 185
35

14


khi đề xuất một phong trào thi đua phải có định hướng đúng, có kế hoạch thực
hiện cụ thể, có nội dung thi đua thiết thực, rõ ràng, có sự lãnh đạo, chỉ đạo
theo dõi thường xuyên. Có làm như vậy phong trào Đoàn mới thực sự phát
triển, thực sự là cánh tay phải, đội hậu bị tin cậy của Đảng trong giáo dục và
rèn luyện để hình thành nhân cách trong sáng cho thanh niên.
Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, hơn 40 năm qua, Đảng
và Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự nghiệp xây dựng con người Việt Nam
Đảng và Nhà nước coi giáo dục là “quốc sách hàng đầu”. Ngành giáo
dục đã đề ra những nhiệm vụ trọng yếu, nền tảng của chương trình giáo dục là
xây dựng một các thế hệ con người Việt Nam có nhân cách, làm chủ về
chuyên môn nghiệp vụ, khỏe mạnh về thể chất đáp ứng với yêu cầu phát triển
nền kinh tế thị trường và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Điều đó sẽ tạo ra hệ điều chỉnh bên trong tự nguyện, tự giác; làm cho sự quan
tâm của con người đối với những người khác cũng như đối với lợi ích xã hội
trở thành nhu cầu và sự thôi thúc từ nội tâm. Đây là yếu tố kích thích tính tích
cực trong mỗi con người, hướng họ biết giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa
cá nhân và xã hội, góp phần khắc phục sự mất cân đối trong quá trình phát

triển con người - xã hội dưới những tác động mạnh mẽ của kinh tế thị trường
và quá trình toàn cầu hoá hiện nay.
Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn nhận thức đầy đủ
và sâu sắc về tầm quan trọng của nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quan tâm, tạo điều kiện phát
huy tối đa sức mạnh con người tạo động lực để giải phóng dân tộc, giải phóng
xã hội, đạt mục tiêu giải phóng con người là sự nghiệp cao cả của Đảng.
Những định hướng về phẩm chất, những chuẩn giá trị mới cho việc xây dựng
con người Việt Nam được đề cập trong tất cả các Văn kiện của Đảng, được
phản ánh rõ nét trong việc Đảng ta luôn đẩy mạnh và đổi mới công tác giáo
dục - đào tạo. Đây là điều kiện để hình thành và phát triển các thế hệ con
người Việt Nam khoẻ mạnh về thể chất, có nhân cách tốt đẹp, có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cao để phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta
đã khẳng định “con người là vốn quí nhất”. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã khẳng
định “muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì phải có con người xã
hội chủ nghĩa”.
15


Trước đổi mới, trong hoàn cảnh đất nước vừa giải phóng, chúng ta
bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh nền kinh tế đất nước bị
chiến tranh tàn phá, trong xã hội tồn tại nhiều hủ tục, tệ nạn xã hội cần phải
khắc phục, cải tạo nhân phẩm cho một bộ phận người sống dưới chế độ cũ…
Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng những thế hệ con người Việt Nam có
lý tưởng cách mạng vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, cần, kiệm,
liêm, chính, trí công vô tư; có ý thức rõ ràng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội… Những chuẩn giá trị mới này là động lực thúc đẩy con người Việt
Nam chiến đấu, lao động, học tập tự giác, sáng tạo đem lại những thành tựu
đáng tự hào trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bên

cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta còn tồn tại những sai lầm như
chủ quan duy ý chí, quản lý Nhà nước theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
- đây là môi trường tạo ra tính đặc quyền, đặc lợi cao với những người quản
lý, làm giảm tính chủ động sáng tạo của những người lao động…, hình thức
sở hữu toàn dân và tập thể đã tạo ra tình trạng “cha chung không ai khóc”, lợi
ích tập thể được đề cao, trong nhiều trường hợp trừu tượng, mơ hồ, biến lợi
ích này gần giống lợi ích cộng đồng hư ảo như trong xã hội cũ - theo nhận xét
của Mác. Lợi ích cá nhân hầu như không được quan tâm, mờ nhạt lên động
lực hoạt động của mỗi người chưa cao.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện, vấn đề con người luôn được Đảng
ta đặc biệt quan tâm. Bởi chúng ta hiểu rằng: Đổi mới, trước hết phải bắt đầu
từ việc đổi mới con người với tư cách là chủ thể hành động và đồng thời là
khách thể tác động của sự nghiệp đổi mới. Trên thực tế của sự phát triển xã
hội sẽ không có sự đổi mới xã hội nào nếu không có sự đổi mới bắt đầu từ con
người, chỉ có điều cần có sự phù hợp giữa những thay đổi của hoàn cảnh và
của con người và diễn ra trong quá trình thống nhất là thực tiễn cách mạng.
Đổi mới bắt đầu từ con người không phải được xây dựng một cách chung
chung, trừu tượng mà hướng vào từng con người, phát triển nhân cách phong
phú. Đây là nền tảng để xã hội phát triển, bởi mục đích phát triển của toàn xã
hội nếu không chuyển thành những động cơ tư tưởng bên trong của các cá
nhân thì không thể thực hiện được. Muốn xây dựng thành công xã hội chủ
nghĩa phải thông qua việc phát triển từng cá nhân với tư cách là chủ thể có ý
thức. Thực tiễn chứng minh “không phải bộ máy, cũng không phải khâu nào
khác trong hệ thống chính trị với tầm quan trọng của nó, mà chính là con
16


người với những phẩm chất và năng lực nhất định quyết định sức mạnh của
đổi mới”37.
Đường lối đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ

nghĩa được thông qua tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) đã
khẳng định: “Chỉ có đổi mới thì mới thấy đúng và thấy hết sự thật, thấy những
nhân tố mới đề phát huy, những sai lầm để sửa chữa, nhằm vận dụng tốt chủ
nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh nước ta, phát huy truyền thống lịch sử và
cách mạng của dân tộc, động viên tính năng động, sáng tạo và khả năng vô
tận của nhân dân lao động”38 và đồng thời khẳng định vai trò quan trọng của
“nhân tố con người” trong sự nghiệp đổi mới. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2000, Đảng đã đặt con người vào vị trí trung tâm của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Văn kiện Đại hội VII khẳng định quan
điểm lớn: “quan điểm coi mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì
con người, do con người, trước hết là người lao động. Đó cũng là quan điểm
về sự thống nhất giữa mục tiêu của chính sách kinh tế và chính sách xã hội tất cả vì con người”39. “Mục tiêu giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có trí thức,
có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ, năng động và sáng tạo, có đạo đức
cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội”40.
Đại hội Đảng lần thứ VIII, đại hội đưa nước ta tiến vào thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta khẳng định: “lấy việc
phát huy con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích luỹ
cho đầu tư và phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân
dân, phát triển văn hoá giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
vệ môi trường”41. Khẳng định này, lại được Đảng ta nhấn mạnh lại lần nữa tại
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX : “nguồn lực con người - yếu tố cơ bản
37

.Vũ Thiện Vương: Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà nội, 2001, tr. 144.
38
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà nội, 1987, tr.8.

39
. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật 1991, tr. 143.

Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, NXB Sự thật,
Hà nội 1991, tr. 143.
41
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính
trị quốc gia, Hà nội 1996, tr. 85.
40

17


để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. “Mọi hoạt động
văn hoá nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị,
tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng ,
lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ
hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã hội” 42. Những phẩm chất trên tiếp tục
được Đại hội X và Đai hội XI nhấn mạnh. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011)
cũng nêu rõ nhiệm vụ: “Chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu
nước, có ý thức làm chủ, trách nhiệm công dân, có tri thức, có sức khoẻ lao
động, giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có tinh thần quốc tế chân chính” 43. Đó
vừa là sự tiếp nối các giá trị truyền thống tốt đẹp và bền vững, vừa là những
đòi hỏi mới đối với con người Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Đây là những chủ trương đúng đắn và thiết
thực của Đảng, Nhà nước, Chính phủ trong việc vận dụng Tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về công tác tư tưởng vào vấn đề xây dựng con người Việt
Nam hiện nay.

2.2. Về công tác tư tưởng, lý luận vào quá trình xây dựng thành công
sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay
Sau hơn 30 năm đổi mới đất nước dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đất nước ta đã đạt được những thành tựu vụ
cùng to lớn.
Một là, sự nghiệp đổi mới kinh tế đã đạt được những thành tựu quan
trọng đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, chuyển sang thời kỳ phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Đời sống của nhân dân được tăng lên đáng kể. Điều này tạo ra cho nhân
dân niềm tin vững chắc vào công cuộc đổi mới của Đảng, vào con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội, khơi dậy trong họ niềm tin vào lý tưởng và có hoài bão
phấn đấu để lập thân, lập nghiệp và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, cái cốt lõi nhất của đổi mới kinh tế là phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa thì bản thân nền kinh tế thị trường cũng có
Đảng cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội Đại biểu lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia
2001, tr. 114.
43
Đảng cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung và phát triển năm
2011), NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà nội 2011, tr. 76 -77
42

18


những khuyết tật của mình. Nó có ảnh hưởng không tốt đến xã hội.
Hai là, trong công cuộc đổi mới, đảng ta đã đạt được những thành tựu
nổi bật về nhận thức lý luận như: Đảng đã luận giải những nhận thức mới về
chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay, khẳng định vai trò to lớn của
tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; nhận thức
mới về mô hình mục tiêu, bản chất và động lực của chủ nghĩa xã hội; nhận
thức về thời kỳ quá độ và chỉ ra những đặc điểm của con đường bỏ qua chế độ

tư bản tiến lên chủ nghĩa xã hội và đề ra phương hướng xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam.
Ba là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có tác
động mạnh đến quá trình hình thành và phát triển con người Việt Nam. Lịch
sử phát triển của xã hội loài người là sự chuyển tiếp của các hình thái kinh tế xã hội từ thấp đến cao theo quá trình lịch sử - tự nhiên.Tuy nhiên, ở mỗi dân
tộc riêng biệt, Mác và Ăng ghen đã chỉ ra rằng, trong quá trình phát triển của
mình không nhất thiết phải tuân theo tuần tự phát triển của các hình thái kinh
tế - xã hội đã có trong lịch sử nhân loại mà có thể rút ngắn hoặc bỏ qua một
hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Con đường phát triển của các dân tộc dù khó
khăn, quanh co, khúc khuỷu song đi lên chủ nghĩa xã hội vẫn là một xu thế tất
yếu của lịch sử xã hội.
Việt Nam là một trường hợp cá biệt trong sự phát triển chung đó.
Nước ta tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa,
tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng vẫn tiếp thu và kế thừa những thành tựu
mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong điều kiện hiện
nay muốn phát triển kinh tế, chúng ta không thể không phát triển kinh tế thị
trường và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đối với Việt Nam, đây là
hai điều kiện cơ bản cấu thành nền tảng kinh tế xã hội đảm bảo cho sự thành
công trong quá trình phát triển rút ngắn của chúng ta. Trên thế giới không có
một nền kinh tế phát triển nào lại không phải qua quá trình thị trường hóa.
Nhận thức được qui luật phát triển khách quan của nền kinh tế, Đảng và Nhà
nước ta đã chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường đã tạo ra một động lực mạnh
mẽ cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thành tựu chúng ta đạt được
sau gần 30 năm đổi mới là minh chứng hùng hồn cho sức phát triển nhanh
19


chóng của kinh tế thị trường. Cùng với thế mạnh phát triển kinh tế - xã hội,

kinh tế thị trường có ảnh hưởng mạnh đến sự hình thành và phát triển con
người Việt Nam. Cơ chế thị trường có tác động "hai mặt", điều này đã được
Đảng ta khẳng định: "Cơ chế thị trường và sự hội nhập quốc tế, bên cạnh
những tác động tích cực, to lớn cũng đã bộc lộ mặt trái của nó, ảnh hưởng tiêu
cực đến ý thức tư tưởng, lối sống của nhân dân ta".
2.3. Về công tác tư tưởng lý luận vào đổi mới nội dung, chương trình
giảng dạy lý luận Mác – Lênin hiện nay
Học thuyết Mác - Lênin là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là kim
chỉ nam cho các đảng cộng sản trên con đường đấu tranh để tìm độc lập tự do
cho tổ quốc mình, dân tộc mình. Là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội,
khoa học Mác - Lênin trước sự biến đổi nhanh chóng của thế giới cũng như
trong nước đã xuất hiện tình trạng lạc hậu tương đối về lý luận, về nhận thức
lý luận cả về nội dung và hình thức biểu hiện. Mác - Ăng ghen đã nói chủ
nghĩa mác là một hệ thống mở, nó cần được phát triển theo sự phát triển của
lịch sử và nhận thức của nhân loại, việc kiểm nghiệm, bổ sung và phát triển là
việc làm thường xuyên và rất cần thiết. Trong thực tiễn hiện nay xuất hiện
những tình huống có ảnh hưởng không tốt đến quá trình nhận thức đúng chủ
nghĩa Mác - Lênin như:
Hiện tượng nhận thức sai, nhận thức giáo điều, phiến diện, từ đó có sự
vận dụng cứng nhắc, thậm chí sai các quan điểm của các nhà kinh điển vào
giải thích các hiện tượng trong thực tiễn.
Một số nhận định các nhà kinh điển đưa ra vào thế kỷ XIX gắn với điều
kiện lịch sử đương thời đã không còn hoàn toàn phù hợp với điều kiện hiện
tại.
Vì vậy, một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình đổi mới nội dung,
chương trỡnh giảng dạy cỏc mụn khoa học Mỏc - Lờnin là cần phải bổ sung,
phát triển và hoàn thiện học thuyết này cho phù hợp với sự phát triển không
ngừng của thực tiễn xã hội. Bằng cách:
Một là, cần phải bổ sung những tri thức khoa học mới của thời đại để
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của

thời đại ngày nay. Tư tưởng Hồ Chớ Minh về công tác tư tưởng là nội dung tri
thức khoa học đó được thực tiễn chứng minh tính đúng đắn qua quỏ trỡnh
phỏt triển của cỏch mạng Việt Nam núi riờng và cỏch mạng giải phúng dõn
20


tộc trờn thế giới núi chung. Những hệ thống tri thức mà, sinh thời, khi xõy
dựng chủ nghĩa Mác – Lênin các nhà kinh điển cũn chua đủ điều kiện để cập
nhật.
Hai là, khắc phục tình trạng lạc hậu “đúp”: lạc hậu với các nhà kinh
điển và lạc hậu với hiện thức cuộc sống mà mình đang tồn tại trong bản thân
mỗi giảng viên, mỗi nhà nghiên cứu khoa học Mác - Lênin. Điều này được
thể hiện ở chỗ, có những hiện tượng đang tồn tại trong hiện thực về hình thức
biểu hiện có vẻ trái với những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng
khi đi nghiên cứu kỹ và sâu hơn thì những hiện tượng đó không những không
bác bỏ những quan điểm của các nhà kinh điển mà còn khẳng định lại giá trị
bền vững của những tư tưởng này. Ví dụ sự phát triển của chủ nghĩa tư bản
ngày nay…
Ba là, bảo vệ và phát triển những nguyên lý lý luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, kiên quyết chống lại những quan điểm thù địch, sai trái , những trào
lưu cơ hội chủ nghĩa và xét lại đủ loại… Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng
thực tiễn sự phê phán này phải dựa trên phân tích khoa học chứ không được
phê phán giản đơm, tuỳ tiện, phiến diện chủ quan theo kiểu “phê phán lấy
được”.

21


KẾT LUẬN
Để công tác tư tưởng đạt hiệu quả cao, Mác - Ăngghen đã nêu ra một

cách cụ thể, sinh động những biện pháp tổ chức để tiến hành công tác tư tưởng
phù hợp với tình hình KT-XH của đất nước, thậm chí của từng địa phương, từng
dân tộc, phù hợp với những đối tượng khác nhau về lứa tuổi, giới tính, nghề
nghiệp v.v... Một trong những nguyên tắc quan trọng của công tác tư tưởng là
phải gắn việc tuyên truyền lý tưởng với việc đem lại những lợi ích thiết thực
trong đời sống thường ngày cho quần chúng nhân dân lao động.
Mác - Ăngghen cũng chỉ ra rằng, xây dựng một chính đảng cách mạng
của giai cấp công nhân là một trong những điều kiện quan trong nhất và quyết
định nhất để hoàn thành cả công tác lý luận lẫn công tác tư tưởng. Bởi vì, không
có lý luận cách mạng thì không thể có đảng cách mạng của giai cấp công nhân;
ngược lại, nếu không có đảng cách mạng của giai cấp công nhân thì sẽ không có
người tổ chức, lãnh đạo biến lý luận thành hiện thực.
Trong tình hình hiện nay nhằm khắc phục những hạn chế nói trên, từ Đại
hội toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001) đến đại hội đảng toàn quốc lần thứ XI
(2011) Đảng ta đã chỉ ra phương hướng chung của công tác tư tưởng, lý luận là:
“Khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Ăngghen - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động là bước phát triển quan trọng
trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta”. Và cần phải: “đẩy mạnh tổng kết
thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những
vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn; từng bước cụ thể hóa, bổ sung, phát
triển đường lối, chính sách của Đảng; đấu tranh với những khuynh hướng tư
tưởng sai trái”...
Để hoàn thành tốt phương hướng trên, rõ ràng, chúng ta cần phải thấm nhuần
sâu sắc những quan điểm của Mác - Ăngghen về công tác tư tưởng, lý luận và
vận dụng những quan điểm đó một cách sáng tạo vào thực tiễn công cuộc đổi
mới đất nước hiện nay.

22



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hoàng Anh (2008), “Con người - vấn đề cốt lõi trong triết lý
phát triển Hồ Chí Minh“,Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông,
số 6.
a. Hoàng Anh, Nguyễn Duy Bắc, Phạm Văn Thủy (2010),“ Phát triển văn
hóa và con người Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc
gia - Sự thật
b. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội
c. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
d. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà NộI
e. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
f. Đảng cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước (bổ sung và
phát triển năm 2011), NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, H.2011
g. V.I. Lênin (1978), Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva
h. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 8, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva
i. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội
j. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội
k. Trần Văn Phòng (2004), "Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong
quá trình hình thành triết học Mác", Lý luận chính trị, (1)

23



MỤC LỤC
Chương 1...........................................................................................................3
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA C. MÁC, PH. ĂNGGHEN, LÊNIN.................3
VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG, LÝ LUẬN.......................................................3
...........................................................................................................................3
1.1. Quan điểm của C. Mác và Ph.Ăngghen về công tác tư tưởng, lý luận.......3
1.1.1. Lý luận có vai trò quan trọng trong đấu tranh giai cấp..........................3
1.1.2. Lý luận cách mạng mang bản chất khoa học và cách mạng...................4
1.1.3. Lý luận xuất phát từ thực tiễn cách mạng và soi đường cho thực tiễn...5
1.2. Quan điểm của Lênin về công tác tư tưởng, lý luận..................................5
1.2.1. Quan điểm V.I.Lênin về vai trò công tác tư tưởng, lý luận....................5
1.2.2. Quan điểm của V.I.Lênin về tính đảng và tính khoa học trong công tác
tư tưởng, lý luận................................................................................................6
1.2.3. Quan điểm của V.I. Lênin về các bộ phận của công tác tư tưởng..........7
Chương 2.........................................................................................................12
Vận dụng quan điểm của C.Mác, Ăngghen, Lênin về công tác tư tưởng, lý
luận vào VIỆT Nam hiện nay..........................................................................12
2.1. Về công tác tư tưởng, lý luận vào quá trình xây dựng con người Việt
Nam.................................................................................................................12
2.2. Về công tác tư tưởng, lý luận vào quá trình xây dựng thành công sự
nghiệp đổi mới đất nước hiện nay...................................................................18
2.3. Về công tác tư tưởng lý luận vào đổi mới nội dung, chương trình giảng
dạy lý luận Mác – Lênin hiện nay...................................................................20
KẾT LUẬN.....................................................................................................22

24




×