Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Quan hệ chính trị quốc tế phong trào không liên kết tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.9 KB, 21 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phong trào Không liên kết ra đời trong cao trào giải phóng dân tộc làm
sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ và trong bối cảnh chiến tranh lạnh có nguy cơ
dẫn đến chiến tranh thế giới mới. Chính sách không liên kết là biểu thị ý chí
của các nước độc lập non trẻ Á, Phi, Mỹ la tinh đoàn kết đấu tranh bảo vệ và
củng cố độc lập chính trị, từng bước giành độc lập kinh tế, bảo vệ hoà bình
thế giới để tồn tại và phát triển.
Mặc dù hết sức đa dạng về văn hoá tín ngưỡng, về chế độ chính trị- xã
hội, về lợi ích dân tộc, nhưng các nước không liên kết có nhiều đặc điểm
giống nhau: đều đã bị thực dân đô hộ, kinh tế kém phát triển, cùng chung
nguyện vọng muốn có hoà bình ổn định để xây dựng đất nước, thoát khỏi
nghèo nàn và lạc hậu, Đó là cơ sở khách quan để phong trào có thể trở thành
một tập hợp lực lượng rộng rãi, đoàn kết gắn bó trong một cương lĩnh hành
động tối thiểu.
Tháng 3/1947, Thủ tướng Nehru triệu tập tại New Delhi hội nghị Đại
biểu các tổ chức và đoàn thể quần chúng, về sau được gọi là Hội nghị về quan
hệ châu Á lần thứ nhất.
Tháng 1/1949, theo đề nghị của Miến Điện, Thủ tướng Nehru tổ chức
Hội nghị Châu Á lần thứ hai tại New Delhi.
Tháng 4/1954, Thủ tướng 5 nước Ấn Độ, Miến Điện, Indonesia, Pakistan
và Xri Lanca họp tại Colombo để thảo luận các vấn đề quan tâm chung như:
chống thực dân và phân biệt chủng tộc, chiến tranh lạnh, vấn đề thử vũ khí hạt
nhân và hợp tác kinh tế. Tại đây Thủ tướng Nehru tuyên bố rằng đa số các
nước tham dự Hội nghị theo đuổi chính sách đối ngoại KLK. theo đề nghị của
Indonesia, 5 nước này quyết định triệu tập một Hội nghị các quốc gia độc lập
Châu Á và Châu Phi trong năm 1955. Sau đó 5 nước lại gặp nhau tại Bogor
(12/1954) và quyết định Hội nghị Á Phi sẽ họp tại thành phố Bandung của
Indonesia từ 18 đến 24/4/1955.
1



Từ cuối năm 1954 đến tháng 4/1955 đã diễn ra một loạt cuộc tiếp xúc
ngoại giao quan trọng của Thủ tướng Nehru với Tổng thống Nasser, Tổng
thống Tito, đặc biệt với Thủ tướng Chu Ân Lai. Trước ngày khai mạc Hội
nghị Bandung, Ấn Độ và Trung quốc ra thông cáo chung nêu lên 5 nguyên tắc
chỉ đạo quan hệ giữa hai nước có chế độ chính trị – xã hội khác nhau, về sau
được gọi là 5 nguyên tắc chung sống hoà bình. Đó là:
*Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau;
*Không xâm lược lẫn nhau;
*Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
*Bình đẳng và hai bên cùng có lợi;
*Cùng tồn tại hoà bình.
Tham dự Hội nghị Bandung 1955 gồm các chính phủ của 29 nước ÁPhi, trong đó có 23 nước Châu Á (Afghanistan, Miến Điện, ấn Độ, Indonesia ,
Gióocdani, Iran, Irắc, Yemen, Trung Quốc, Campuchia, Lào, Xiri, Libăng,
Nepal, Pakistan, A rập Xê-út, Thổ Nhĩ Kỳ, Xri Lanca, Philippin, Thái Lan,
Nhật, Việt Nam dân chủ Cộng hoà và 6 nước Châu Phi (Ai Cập, Ghana,
Ethiopia, Liberia, Libya và Sudan). Ghana tham dự Hội nghị trước khi được
chính thức trao trả độc lập, Síp và Palextin tham dự với tư cách quan sát viên.
Đoàn đại biểu Chính phủ ta do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu.
Những đề tài chính được thảo luận tại Bandung là hoà bình thế giới, an
ninh của các nước Á-Phi, cùng tồn tại hoà bình và láng giềng thân thiện, giải
phóng các dân tộc Á-Phi khỏi ách thống trị thực dân và phân biệt chủng tộc...
Trong quá trình Hội nghị đã nảy sinh bất đồng quan điểm gay gắt giữa các
nước tán thành chính sách KLK và những nước tham gia các khối quân sự, có
nguy cơ làm Hội nghị tan vỡ.
Tháng 4/1961 các Tổng thống Ai Cập, Nam Tư và Indonesia gửi thư
chung cho nguyên thủ 21 nước đề nghị tổ chức một hội nghị các nước KLK.
Ngày 18/5/61 các Tổng thống Naser, Tito, Sukarno gửi thư chính thức mời
những nước đó dự Hội nghị trù bị tại Cairo.
2



Hội nghị trù bị tại Cairo từ ngày 5 đến 12/6/1961 để chuẩn bị cho Hội nghị
cấp cao của các nước KLK tại Nam Tư vào tháng 9/1961, đã bàn về vai trò và
chính sách của phong trào KLK trong tương lai. Những nước tham dự Hội nghị
trù bị Cairo cho rằng cần biến khu vực các nước không cam kết thành một nhân
tố cơ bản gìn giữ hoà bình và an ninh quốc tế, khẳng định sự trung thành đối với
chính sách không cam kết như là một biện pháp xử lý tích cực các vần đề mà thế
giới đang gặp phải (về từ ngữ, cụm từ không liên kết chỉ được sử dụng chính
thức từ Hội nghị cấp cao Belgrade, Trước đó, Hội nghị trù bị Cairo dùng cụm từ
không cam kết). Một đóng góp rất quan trong của Hội nghị trù bị Cairo là việc
soạn thảo 5 tiêu chuẩn thành viên của Phong trào được Hội nghị cấp cao
Belgrade thông qua và có hiệu lực cho đến ngày nay.Hội nghị các vị đứng đầu
nhà nước và chính phủ các nước KLK tại Nam Tư vào đầu tháng 9/1961 đã
chính thức khai sinh ra Phong trào không liên kết.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với thế giới, việc
nghiên cứu về các tổ chức, phong trào trên thế giới là điều đương nhiên. Đặc
biệt đối với sinh viên học chuyên ngành Quan hệ Quốc tế thì đó là điều hết
sức cần thiết.
Phong trào không liên kết hay được gọi tắt là NAM được thành lập với
tôn chỉ mục đích hoạt động là đấu tranh cho quyền tự quyết của các dân tộc,
chống chủ nghĩa đế quốc, thủ tiêu chủ nghĩa thực dân cũ và thực dân mới.
Phong trào không liên kết là một tổ chức quốc tế gồm các quốc gia tự
xem mình là không thuộc hoặc chống lại bất kỳ khối cường quốc lớn nào.
Tuy phong trào này mong muốn các quốc gia có liên kết chặt chẽ với
nhau giống như NATO hay Khối Warszawa, nó có liên kết khá lỏng lẻo và
nhiều thành viên của tổ chức thực sự có quan hệ gần gũi với siêu cường này
hoặc siêu cường khác. Ngoài ra, một số thành viên còn mâu thuẫn nghiêm
trọng với các thành viên khác (như Ấn Độ và Pakistan, Iran và Iraq). Phong

trào rạn nứt do mâu thuẫn ngay bên trong khi Liên Xô xâm lược Afghanistan
3


năm 1979. Trong khi những đồng minh của Liên Xô ủng hộ cuộc tấn công,
các thành viên khác (đặc biệt là các quốc gia Hồi giáo) của phong trào lại lên
án.
Vì Phong trào không liên kết được hình thành với nỗ lực chống lại Chiến
tranh lạnh, tổ chức đã cố gắng tìm phương hướng hoạt động mới từ khi Chiến
tranh lạnh kết thúc. Sau khi Nam Tư, một thành viên sáng lập, tan rã, các
quốc gia mới thành lập từ Nam Tư cũ tỏ ra không còn quan tâm tới việc tham
dự Phong trào, tuy một số nước là quan sát viên. Vào năm 2004, Malta và Síp
rút khỏi tổ chức để gia nhập Liên minh châu Âu.
Phong trào không liên kết là một tổ chức có sức ảnh hưởng với các quốc
gia trên thế giới, vì vậy cần nghiên cứu về các hoạt động hiện nay của tổ chức
này và triển vọng của nó.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Phong trào Không liên kết
từ tháng 9-1976 với nhiều hoạt động và đóng góp quan trọng để thúc đẩy sự
đoàn kết, phấn đấu thực hiện các mục tiêu của Phong trào và hiện vẫn đang
tích cực phát huy vai trò của mình trong Phong trào.
Nhằm giới thiệu quá trình hình thành, phát triển, vai trò của Phong trào
Không liên kết, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện
nay,việc nghiên cứu và tìm hiểu về Phong trào không liên kết là một nhiệm vụ
cấp thiết và đúng đắn. Không chỉ tăng vốn hiểu biết cho sinh viên đang học tập
trên ghế nhà trường mà là quá trình bồi dưỡng kiến thức cho thế hệ chủ nhân
tương lai của đất nước, từ đó có những đóng góp tích cực trong việc bổ sung và
xây dựng đường lối phát triển đất nước

4



B. NỘI DUNG
1. Phong trào Không liên kết và cơ cấu tổ chức.

Hội nghị các quan chức cấp cao Phong trào Không liên kết (NAM).
Phong trào không liên kết là một tổ chức quốc tế gồm các quốc gia tự
xem mình là không thuộc hoặc chống lại bất kỳ khối cường quốc lớn nào.
Phong trào này chủ yếu là đứa con tinh thần của Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal
Nehru, cựu tổng thống Ai Cập Gamal Abdul Nasser và chủ tịch Nam Tư Josip
Broz Tito. Tổ chức được thành lập tháng 4 năm 1955; đến năm 2007, nó có
118 thành viên. Mục đích của tổ chức như đã ghi trong Tuyên bố La Habana
năm 1979 là đảm bảo "sự độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh
của các quốc gia không liên kết" trong "cuộc chiến chống lại chủ nghĩa đế
quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa thực dân kiểu mới, chủ nghĩa phân biệt
chủng tộc, và tất cả những hình thức xâm lược ra nước ngoài, chiếm đóng, chi
phối, can thiệp hoặc bá quyền cũng như chống lại các đại cường quốc và
chính sách của các khối". Họ đại diện cho gần hai phần ba thành viên Liên
Hiệp Quốc và 55 phần trăm dân số thế giới, đặc biệt là những quốc gia được
xem là đang phát triển hoặc thuộc thế giới thứ ba.

5


Tuy Phong trào không liên kết là một tổ chức liên minh các quốc gia, giống
như Liên Hiệp Quốc hay NATO, nó vẫn có những điểm đặc biệt so với các tổ
chức này về tổ chức và cấu trúc. Đầu tiên, nó tự nhận là mang bản chất không
phân cấp, có nghĩa là không có quốc gia nào có quyền phủ quyết hoặc có sự ưu
tiên đặc biệt trong bất cứ lĩnh vực nào. Ghế chủ tịch được xoay vòng một cách
chính thức tại mỗi hội nghị. Quốc gia điều hành tổ chức được xoay vòng (hiện

nay là Ai Cập) và việc xoay vòng này là nhất quán và bình đẳng. Thứ hai, tổ
chức không có bất kỳ một hiến chương nào như các tổ chức tương tự khác. Đây
là do xét đến việc với quá nhiều quốc gia với nhiều quan điểm và ưu tiên khác
nhau, bất kỳ một cấu trúc quản lý hình thức nào cũng có thể tăng sự chia rẽ và
cuối cùng có thể dẫn đến sự sụp đổ của tổ chức.
Quyền kết nạp thành viên cũng đã thay đổi so với các tiêu chí ban đầu.
Khi tổ chức dần lớn mạnh và tình thế chính trị quốc tế thay đổi, các tiêu chí
cũng thay đổi theo. Đang có một nỗ lực tích hợp các tiêu chí của Phong trào
với các quan điểm chính yếu của Liên Hiệp Quốc. Các tiêu chí mới nhất đó là
quốc gia ứng viên phải tuân theo các nguyên tắc sau:
+) Tôn trọng quyền cơ bản của con người và tôn trọng mục đích và
nguyên tắc của Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
+) Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia.
+) Công nhận sự bình đẳng của tất cả chủng tộc và sự bình đẳng của tất
cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ.
+) Tránh can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác.
+) Tôn trọng quyền tự vệ một cách đơn độc hoặc tập thể của mỗi quốc
gia, thể theo Hiến chương của Liên Hiệp Quốc.
+) Tránh các hành động hoặc đe dọa tấn công hoặc sử dụng vũ lực nhằm
chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hoặc sự độc lập chính trị của quốc gia khác.
+) Giải quyết tất cả các tranh chấp quốc tế bằng con đường hòa bình, phù
hợp với Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
+) Tăng cường sự hợp tác và đôi bên cùng có lợi.
6


+) Tôn trọng công lý và các nghĩa vụ quốc tế.
2. Phong trào không liên kết hiện nay.
2.1 Phong trào không liên kết và sự phù hợp với thời đại.
Từ khi kết thúc Chiến tranh lạnh và sự kết thúc chính thức chủ nghĩa

thực dân, Phong trào không liên kết đã buộc phải tự điều chỉnh mình và đề ra
mục tiêu mới trong hệ thống thế giới hiện tại. Một câu hỏi lớn đó là liệu các lý
tưởng khi thành lập của nó, sự độc lập quốc gia về nguyên tắc, sự toàn vẹn
lãnh thổ, và cuộc chiến đấu chống lại chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đế
quốc, có còn áp dụng được cho tình hình hiện nay hay không. Phong trào đã
nhấn mạnh nguyên tắc đa phương, bình đẳng, và không can thiệp lẫn nhau
trong nỗ lực có được tiếng nói mạnh mẽ hơn cho Nam bán cầu, và là một
phương tiện có thể dùng để tăng cường đòi hỏi của các quốc gia thành viên ở
mức độ quốc tế và tăng sức mạnh chính trị của họ khi đàm phán với các nước
phát triển. Trong nỗ lực tăng cường lợi ích Nam bán cầu, phong trào đã nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc hợp tác và thống nhất giữa các quốc gia thành
viên, nhưng cũng như trong quá khứ, sự gắn kết vẫn là một vấn đề do kích
thước của tổ chức và sự phân tán lịch làm việc và lòng trung thành cho thấy
nguy cơ rạn nứt vẫn còn đó. Tuy sự thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản là
khá dễ dàng, thực hiện những hành động dứt khoát tương ứng với những vấn
đề cụ thể của thế giới còn hiếm hoi, với việc phong trào thường đưa ra sự chỉ
trích hoặc ủng hộ chứ không thích thông qua những nghị quyết cứng rắn.
Phong trào tiếp tục chứng kiến vai trò của nó, như quan điểm của tổ chức, các
quốc gia nghèo nhất thế giới vẫn bị bóc lột và đặt ra rìa, không phải từ những
siêu cường đối lập nhau, mà từ một thế giới đơn cực, và phong trào đang thực
sự chống lại chủ nghĩa bá quyền phương Tây và chủ nghĩa thực dân kiểu mới.
Phong trào đối lập với sự chiếm đóng nước ngoài, can thiệp vào công việc nôi
bộ, và các biện pháp xâm lăng đơn phương, nhưng nó cũng chuyển sang tập
trung cho các thách thức kinh tế-xã hội mà các quốc gia thành viên đang đối
mặt, đặc biệt là sự bất bình đẳng do toàn cầu hóa tạo nên và việc thực thi các
7


chính sách tân tự do. Phong trào không liên kết đã xác định kém phát triển về
kinh tế, đói nghèo, và bất công xã hội là những nguy cơ đang lên đối với hòa

bình và an ninh.
2.2 Phong trào không liên kết hiện nay.
Tình hình thế giới hiện bước vào thập kỷ 90 của thế ky XX với những
chuyển biến phức tạp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự sụp đổ
của CNXH ở Đông Âu và Liên Xô làm thay đổi trật tự thế giới đã xác lập sau
Chiến tranh thế giới thứ hai.
Thế giới đang trải qua những bước vận động phức tạp để định hình một
trật tự mới. Tình hình đó ảnh hưởng đến các nước không liên kết và phong
trào của họ. Các nước không liên kết phải đối mặt trực tiếp với nguy cơ can
thiệp, áp đặt và cường quyền có xu hướng gia tăng trên trường quốc tế.
Mặt khác, ở khu vực các nước đang phát triển, xung đột sắc tộc, dân tộc,
tranh chấp biên giới, lãnh thổ nổ ra liên tiếp, đe dọa sự ổn định chính trị, gây
những hậu quả nặng nề về kinh tế - xã hội cũng như trong quan hệ giữa các
nước này với nhau.
Trên lĩnh vực kinh tế, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ hiện đại, xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới, thúc đẩy
tự do hóa thương mại và nhất thể hóa kinh tế phát triển. Đối với các nước
không liên kết, do phần lớn là những nước nghèo nàn và lạc hậu, tiềm lực
kinh tế nhỏ yếu, lại vấp phải chính sách bảo hộ mậu dịch hà khắc của các
nước phát triển nên gặp khó khăn trong phát triển nền kinh tế dân tộc. Hơn
nữa những lợi thế của họ về nguồn nhân lực, tài nguyên… trước sự bùng nổ
của khoa học và công nghệ hiện đại cũng không còn giữ được giá trị như
trước đây.
Trên lĩnh vực văn hóa – xã hội, các nước không liên kết hiện nay phải
giải quyết hàng loạt những vấn đề cấp bách. Trước hết, đó là tình trạng dân trí
thấp với nạ mù chữ nặng nề, các cán bộ, kỹ thuật viên trình độ cao của họ bị
thu hút sang làm việc tại các nước Âu – Mỹ. Sự nghèo nàn về kinh tế trong
8



tình trạng bùng nổ dân số kéo theo các căn bệnh hiểm nghèo, nạn thất nghiệp
và các tệ nạn xã hội khác. Thêm vào đó là ảnh hưởng của lối sống, văn hóa
ngoại lai và sự áp đặt các thang bậc, giá trị về nhân quyền từ bên ngoài đã làm
mai một bản sắc văn hóa truyền thống ở một số quốc gia không liên kết.
Nhìn lại lịch sử của Phong trào, chúng ta thấy sự đóng góp của Phong
trào vào việc giải quyết các vấn đề trọng đại của thế giới là to lớn và nói
chung là tích cực. Hoạt động của Phong trào luôn thể hiện cuộc đấu tranh gay
go phức tạp giữa hai khuynh hướng: giữa một bên là khuynh hướng tăng
cường đoàn kết nội bộ, mở rộng hợp tác với các lực lượng hoà bình và dân
chủ khác với một bên là các thế lực đồng minh công khai hoặc dấu mặt của đế
quốc muốn lái Phong trào đi chệch mục tiêu cơ bản, làm suy yếu Phong trào.

Hội nghị Phong trào Không liên kết lần thứ 16 được tổ chức tại Tehran,
Iran từ ngày 26 - 31/8/2012
Trong chiến tranh lạnh, Phong trào KLK với những nguyên tắc, mục tiêu
cơ bản của mình, đã có vai trò và đóng góp quan trọng vào đời sống chính trị
quốc tế nói chung và việc bảo vệ lợi ích đối với các nước đang phát triển nói
riêng. Tình hình thế giới, thực tế, đã có những biến đổi sâu sắc theo chiều
9


hướng tích cực nhờ có sự đoàn kết đấu tranh của các lực lượng hoà bình, độc
lập và dân chủ mà Phong trào Không liên kết là một bộ phận. Phong trào đã
góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh bảo vệ hoà bình và an ninh quốc tế,
ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh hạt nhân, đòi giải trừ quân bị và thành lập khu
vực hoà bình và phi hạt nhân. Phong trào đã cổ vũ và ủng hộ mạnh mẽ cuộc
đấu tranh giải phóng và bảo vệ độc lập dân tộc, là lực lượng quan trọng trong
cuộc đấu tranh đòi thiết lập trật tự kinh tế quốc tế mới và trật tự thông tin
quốc tế mới. Phong trào có đóng góp đáng kể vào việc giải quyết tranh chấp
và xung đột giữa các nước thành viên bằng biện pháp hoà bình.

Sau chiến tranh lạnh, Phong trào, trong thời kỳ đầu, đã có những khó
khăn nhất định trong việc xác định lại mục tiêu cho hoạt động của mình khi
thế giới không còn hai cực. Tình hình hiện nay cho thấy các nước đang phát
triển tiếp tục đứng trước nguy cơ can thiệp và áp đặt có hại cho độc lập chủ
quyền và quyền lợi của mình. Do vậy các nước này tiếp tục có nhu cầu tham
gia vào Phong trào để có một diễn đàn phối hợp với nhau, góp phần bảo vệ lợi
ích an ninh quốc gia và phát triển của mình, chống sự áp đặt của các nước lớn
và chống sự bất bình đẳng trong quan hệ Bắc-Nam, để phối hợp lập trường
chung tại LHQ và các diễn đàn quốc tế khác. Trong bối cảnh đó, phong trào
KLK tiếp tục đóng vai trò không thể thiếu là một tập hợp lực lượng chính trị
hùng hậu, là diễn đàn quan trọng để các nước không liên kết đang phát triển
hình thành tiếng nói chung đối với các vấn đề toàn cầu quan trọng liên quan
đến hoà bình, an ninh và phát triển.
Kể từ Hội nghị cấp cao 10 (Jarkarta 1992), Phong trào KLK đã có những
bước điều chỉnh nhất định nhằm thích ứng với tình hình mới. Các quốc gia
thành viên đều nhất trí cho rằng: Phong trào có khả năng và cần tiếp tục phát
huy tiếng nói và vai trò chính trị trong tình hình mới hiện nay vì hoà bình,
phát triển, tự quyết dân tộc, độc lập và chủ quyền quốc gia. Phong trào tiếp
tục là chỗ dựa tinh thần, là tập hợp đoàn kết rộng rãi của 114 nước đang phát
triển vì những lợi ích căn bản chung của các nước này và vì mục tiêu phấn
10


đấu cho một trật tự thế giới công bằng, bình đẳng, lành mạnh. Việc Phong trào
liên tục có thêm thành viên mới (tăng từ 108 kể từ Hội nghị Cấp cao 10 năm
1992 lên 118 thành viên tại Hội nghị Cấp cao 14 năm 2006) đã tiếp tục thể
hiện sức sống, sự hấp dẫn và khẳng định vai trò chính trị không thể thiếu của
mình. Ngày càng có nhiều nước bên ngoài Phong trào mong muốn được làm
quan sát viên, khách mời chứng tỏ vị thế, tầm quan trọng của diễn đàn này
trong việc tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần giải quyết các vấn đề cấp

bách có tính khu vực hoặc toàn cầu.
Một số vấn đề mà Phong trào hiện đang quan tâm:
- Hoà bình, an ninh, giải trừ quân bị, độc lập tự chủ, quyền tự quyết của
các dân tộc luôn là quan tâm chính và truyền thống của Phong trào là luôn
thảo luận và ra các tuyên bố về một số vấn đề khu vực đang nổi lên.
- Thúc đẩy chủ nghĩa đa phương, với LHQ giữ vai trò trung tâm, chủ
động tham gia và tăng cường phối hợp hành động trên các vấn đề chính trị
quốc tế lớn như cải tổ LHQ, thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ, thúc đẩy vòng
đàm phán Đô-ha... Đặc biệt Cấp cao 13 tại Ma-lai-xi-a (2003), các Hội nghị
Bộ trưởng tại Qatar (6/2005), Niu-Oóc (9/2005) và Ma-lai-xia (4/2006), Cấp
cao 14 tại Cuba các nước KLK đã giành nhiều tập trung và đạt được một số
tiến bộ trong việc thống nhất lập trường trên vấn đề cải tổ LHQ.
- Thúc đẩy hợp tác kinh tế, xã hội và văn hóa: Đề ra định hướng, khuôn
khổ hợp tác, thúc đẩy hợp tác phát triển kinh tế, hỗ trợ nhau thực hiện các
Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ, tăng cường các hình thức hợp tác NamNam, Bắc-Nam, vai trò của G-77, mở rộng giao lưu xã hội, đối thoại văn hoá,
văn minh, tín ngưỡng. Trong các năm gần đây, phong trào đã có nhiều hoạt
động gia tăng hợp tác thực chất hơn trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, y tế...
Đặc biệt là Hội nghị Cấp cao Á-Phi 4/2005 tại Băng đung, In-đô-nê-xi-a (các
nước tham gia đa phần là thành viên KLK) đã quyết định xây dựng một
“Quan hệ đối tác chiến lược Á-Phi mới” đi vào hợp tác nhiều mặt trên các
lĩnh vực chính trị, an ninh, đầu tư, thương mại, du lịch, trao đổi văn hoá...
11


Tại Hội nghị Cấp cao 14 gần đây nhất tại La Habana (Cuba), nước chủ
nhà Cuba - Chủ tịch đương nhiệm của Phong trào đã chủ động tích cực đưa ra
thêm 2 văn kiện ngoài văn kiện cuối cùng (văn kiện truyền thống của Hội
nghị) là “Tuyên bố về mục đích, nguyên tắc và vai trò của Không Liên kết
trong giai đoạn quốc tế hiện nay” và “Tài liệu về phương thức làm việc của
Phong trào KLK” và Hội nghị đã thông qua toàn bộ văn kiện quan trọng nói

trên. Các văn kiện này đã đánh dấu một bước tiến mới của Phong trào trong
việc tăng cường sức mạnh của Phong trào, hệ thống hoá những quan điểm
tích cực trên những vấn đề quốc tế lớn hiện nay, cụ thể hoá các định hướng,
ưu tiên hoạt động, góp phần cải tiến một số sáng kiến mới nhằm củng cố, phát
huy tính của hiệu của Phong trào như nâng cao vai trò của Chủ tịch Phong
trào; tạo cơ chế tăng cường phối hợp giữa KLK và Nhóm G77; thúc đẩy việc
tiến tới thành lập bộ phận hỗ trợ để giúp đỡ Chủ tịch Phong trào.
Có thể nói rằng, Hội nghị Cấp cao KLK 14 tại Cu-ba (15-16/9/2006) có
ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc đánh giá tình hình quốc tế, thảo luận về
thách thức mới đối với Phong trào để đề ra các biện pháp tăng cường sự đoàn
kết, tính năng động và vai trò của KLK trong quan hệ quốc tế, phấn đấu vì
một trật tự thế giới mới công bằng dân chủ hơn, đảm bảo lợi ích của các nước
đang phát triển. Sức sống, vai trò và vị thế của Phong trào phụ thuộc vào nỗ
lực của chính các nước thành viên và điều đặc biệt quan trọng là các nước này
cần tăng cường sự đoàn kết, phối hợp trong các diễn đàn đa phương về chính
trị cũng như¬ về kinh tế và các vấn đề có tính toàn cầu khác, đồng thời thúc
đẩy hợp tác quốc tế trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Trong khi tiếp tục giữ
vững các mục tiêu, nguyên tắc hoạt động cơ bản của phong trào vì hoà bình,
độc lập dân tộc và phát triển, Phong trào cần phát huy tính năng động và thực
lực của các nước thành viên và có những điều chỉnh cần thiết nhằm thích ứng
với tình hình quốc tế đang biến chuyển từng ngày để tiếp tục khẳng định vai
trò, ý nghĩa tồn tại của mình trong đời sống chính trị quốc tế.

12


2.3 Thủ tục làm việc.
Phong trào Không liên kết áp dụng các thủ tục hiện hành của Liên hợp
quốc. Tuy nhiên, có khác Liên hợp quốc về một điểm cơ bản, đó là thông qua
quyết định bằng "nhất trí" (consensus), không phải bằng bỏ phiếu.

"Consensus" có nghĩa là sự "nhất trí áp đảo", chứ không phải là "nhất trí tuyệt
đối", đi đôi với quyền "bảo lưu" ý kiến của nước nào không tán thành "nhất
trí", là sự thể hiện tinh thần dân chủ và tính mềm dẻo trong quá trình thông
qua quyết định.
* Lần đầu tiên khái niệm consensus được thảo luận trực tiếp ở Hội nghị
Kabul (5/1973) của Ủy ban trù bị cho HNCC lần thứ 4 (Alger 5-9/9/1973) với
nhiều quan điểm khác nhau. Chủ tịch Hội nghị đúc kết các ý kiến trong một
tuyên bố giải thích khái niệm consensus như sau và đã được Phong trào chấp
nhận rộng rãi:
* "Trong mươì hai năm qua kể từ Hội nghị lần thứ nhất của các nước
KLK, từ thực tiễn đã rút ra được ý kiến tổng hợp và làm cân đối quan điểm
của các nước về những vấn đề quan trọng, và thông qua các quyết định bằng
consensus - "nhất trí" . Từ ngữ này có nét đặc thù phần nào khó định nghĩa,
khó diễn đạt bằng lời nói, nhưng tất cả chúng ta có bản năng để hiểu nó nghĩa
là gì. Nó đòi hỏi sự thông cảm và tôn trọng các quan điểm khác nhau kể cả
những quan điểm bất đồng, và hàm chứa sự nhân nhượng lẫn nhau, tạo cơ sở
cho một quá trình thích nghi lẫn nhau giữa các nước thành viên theo tinh thần
thực sự không liên kết. Nói cách khác, consensus đơn giản có nghĩa là sự hội
tụ của các quan điểm ("convergence of views").
* Nguồn gốc của phương thức consensus xuất phát chủ yếu từ tính đa
dạng về thành viên của Phong trào KLK. Tính đa dạng này đã được Hội nghị
Kabul (5/1973) giải thích như sau: "Phong trào KLK bao gồm nhiều nước
thuộc các khu vực khác nhau trên thế giới, với nhiều đặc thù về chủng tộc và
văn hoá, chế độ chính trị và kinh tế. Tuy nhiên, trong sự đa dạng đó của các

13


nước KLK, có sự thống nhất cơ bản về mục đích. Sự thống nhất trong đa dạng
là bản chất của sức mạnh và sức sống của Phong trào."

Từ đó về sau, từ ngữ "thống nhất trong đa dạng" được thường xuyên
nhắc đến như một châm ngôn của Phong trào KLK. Trong quá trình thông qua
các quyết định của Phong trào, sự "thống nhất trong đa dạng" ở đây còn được
hiểu là consensus đi đôi với quyền được bảo lưu ý kiến.
* Việc bảo lưu: Mặc dù tại Kabul có sự giải thích như trên về khái
niệm consensus, nhưng việc áp dụng trong thực tế đối với từng vấn đề cụ
thể không phải là đơn giản mà còn tuỳ thuộc vào so sánh lực lượng bên
trong Hội nghị và xu thế chung lúc đó. Khái niệm "bảo lưu", tức là cho
phép những nước có ý kiến khác với kết luận của chủ tịch cuộc họp có
quyền bảo lưu quan điểm của mình bằng cách phát biểu tại hội nghị hoặc
bằng văn bản gửi cho Chủ tịch Hội nghị.
* Tại Hội Nghị Cấp Cao 7 New Delhi (7-12/3/1983), "Quyết định về
biện pháp tăng cường thống nhất, đoàn kết và hợp tác giữa các nước đang
phát triển" đã quy định cụ thể thêm về lề lối làm việc của Ủy ban phối hợp và
thể thức thông qua các quyết định bằng consensus. Hội nghị cho rằng: việc
thông qua các quyết định bằng "nhất trí" đã trở thành thông lệ của Phong trào,
mặc dù còn một số khó khăn trong việc sử dụng phương thức consensus.
Phong trào khẳng định thêm: "Nhất trí vừa là quá trình vừa là bản thân công
thức thoả hiệp cuối cùng được hình thành sau những cuộc tham khảo, thảo
luận và đàm phán để đi đến một lập trường nói chung được chấp nhận. Nói
cách khác, consensus là sự hội tụ và hài hoà các quan điểm thể hiện sự đồng ý
rộng rãi nhất của Hội nghị nhằm tăng thêm hoặc chí ít duy trì sự thống nhất
và sức mạnh của phong trào".
Thực tế từ ngày Phong trào mới ra đời cho đến nay chứng minh rằng đó
là sự lựa chọn duy nhất đúng, đảm bảo đoàn kết nội bộ và phù hợp tính chất
đa dạng của Phong trào. Mặc dù có ngươì chỉ trích phương pháp thông qua
các quyết định bằng "nhất trí", đòi thay thế bằng phương pháp bỏ phiếu,
14



nhưng nguyện vọng chung của tuyệt đại đa số các nước thành viên là cần duy
trì phương pháp "nhất trí" vì nó là đặc thù của Phong trào Không Liên Kết.
3. Triển vọng của Phong trào không liên kết.
Xu hướng vận động của Phong trào không liên kết rất đa dạng và phức
tạp. Tuy nhiên căn cứ vào tình hình mỗi nước và mục tiêu chung của phong
trào ta có thể thấy nổi lên một số xu hướng phát triển chung:
+) Sau khi phong trào không liên kết vượt qua khủng hoảng, đang có xu
hướng đi tới sự đoàn kết, thống nhất trong các hoạt động thực tiễn thiết thực,
không chỉ dừng lại ở những phương hướng chung. Sự tập hợp lực lượng
phong trào không còn bị chi phối chặt chẽ bởi quan điểm hệ tư tưởng như
trước đây mà trở nên linh hoạt, sinh động và hiệu quả hơn. Tạo điều kiện cho
phong trào có khả năng phối hợp hành động, tăng cường vị thế trong đời
sống chính trị thế giới và trong quan hệ quốc tế.
+) Kể từ sau hội nghị cấp cao lần thứ X (1992) va hội nghị cấp cao lần
thứ XI (1995) đến nay, Phong trào không liên kết luôn chứng tỏ sự kiên trì
phương châm mang tính nguyên tắc là “hành động tập thể và dân chủ hóa
mối quan hệ quốc tế” được nêu ra trong thông điệp Giacacta.
+) Tăng cường phát triển kinh tế, cải thiện đời sống dân sinh.
+) Xu hướng mở rộng một cách mạnh mẽ hợp tác trên lĩnh vực kinh tế,
ưu tiên cho phát triển kinh tế - xã hội.
+) Các thành viên của Phong trào không liên kết ở nhiều khu vực đã liên
tiếp hình thành các liên minh kinh tế, thực hiện tự do hóa thương mại, thỏa
thuận giành cho nhau những ưu đãi về kinh tế. Các hoạt động này diễn ra
mạnh mẽ ở khu vực Đông Nam Á, Nam Á, Mỹ Latinh, thậm chí lan sang cả
Trung Đông và lục địa châu Phi.
Trong thời gian tới, sức sống, vai trò và vị thế của Phong trào phụ thuộc
vào nỗ lực của chính các nước thành viên và điều đặc biệt quan trọng là các
nước này cần tăng cường sự đoàn kết, phối hợp trong các diễn đàn đa phương
về chính trị cũng như về kinh tế và các vấn đề có tính toàn cầu khác, đồng
15



thời thúc đẩy hợp tác quốc tế trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Trong khi
tiếp tục giữ vững các mục tiêu, nguyên tắc hoạt động cơ bản của phong trào vì
hoà bình, độc lập dân tộc và phát triển, Phong trào cần phát huy tính năng
động và thực lực của các nước thành viên và có những điều chỉnh cần thiết
nhằm thích ứng với tình hình quốc tế đang biến chuyển từng ngày để tiếp tục
khẳng định vai trò, ý nghĩa tồn tại của mình trong đời sống chính trị quốc tế.
Hiện nay các nước không liên kết đang đứng trước những cơ hội lớn để
thực hiện mong muốn xây dựng một thế giới hóa bình, thịnh vượng và công
bằng hơn. Phong trào không liên kết có thể đóng vai trò quan trọng trong quá
trình xây dựng trật tự thế giới mới trên cơ sở công bằng và cân bằng trong
mọi lĩnh vực – chính trị, pháp lý, kinh tế và xã hội.
Sự vận động của các xu hướng chủ yếu của Phong trào không liên kết sẽ
quy định triển vọng phát triển của nó trong giai đoạn trước mắt cũng như sau
này. Con đường phát triển còn nhiều khó khăn, đòi hỏi tinh thần đoàn kết và
sự chung tay góp sức hành động của các nước thành viên để theo đuổi mục
tiêu đã đăt ra.

16


C. KẾT LUẬN
Phong trào Không liên kết tồn tại hơn ba thập niên và không ngừng phát
triển. Số thành viên chính thức tăng hơn 4 lần, từ 25 lên 116 (Đông Timo và
St.Vincent - Grenadines là những thành viên mới nhất từ tháng 2/2004).
Nhìn lại lịch sử của Phong trào, chúng ta thấy sự đóng góp của Phong
trào vào việc giải quyết các vấn đề trọng đại của thế giới là to lớn và nói
chung là tích cực. Hoạt động của Phong trào luôn thể hiện cuộc đấu tranh gay
go phức tạp giữa hai khuynh hướng: giữa một bên là khuynh hướng tăng

cường đoàn kết nội bộ, mở rộng hợp tác với các lực lượng hoà bình và dân
chủ khác với một bên là các thế lực đồng minh công khai hoặc dấu mặt của đế
quốc muốn lái Phong trào đi chệch mục tiêu cơ bản, làm suy yếu Phong trào.
Trong chiến tranh lạnh, Phong trào KLK với những nguyên tắc, mục tiêu
cơ bản của mình, đã có vai trò và đóng góp quan trọng vào đời sống chính trị
quốc tế nói chung và việc bảo vệ lợi ích đối với các nước đang phát triển nói
riêng. Tình hình thế giới, thực tế, đã có những biến đổi sâu sắc theo chiều
hướng tích cực nhờ có sự đoàn kết đấu tranh của các lực lượng hoà bình, độc
lập và dân chủ mà Phong trào Không liên kết là một bộ phận. Phong trào đã
góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh bảo vệ hoà bình và an ninh quốc tế,
ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh hạt nhân, đòi giải trừ quân bị và thành lập khu
vực hoà bình và phi hạt nhân. Phong trào đã cổ vũ và ủng hộ mạnh mẽ cuộc
đấu tranh giải phóng và bảo vệ độc lập dân tộc, là lực lượng quan trọng trong
cuộc đấu tranh đòi thiết lập trật tự kinh tế quốc tế mới và trật tự thông tin
quốc tế mới. Phong trào có đóng góp đáng kể vào việc giải quyết tranh chấp
và xung đột giữa các nước thành viên bằng biện pháp hoà bình.
Sau chiến tranh lạnh, Phong trào, trong thời kỳ đầu, đã có những khó
khăn nhất định trong việc xác định lại mục tiêu cho hoạt động của mình khi
thế giới không còn hai cực. Tình hình hiện nay cho thấy các nước đang phát
triển tiếp tục đứng trước nguy cơ can thiệp và áp đặt có hại cho độc lập chủ
quyền và quyền lợi của mình. Do vậy các nước này tiếp tục có nhu cầu tham
17


gia vào Phong trào để có một diễn đàn phối hợp với nhau, góp phần bảo vệ lợi
ích an ninh quốc gia và phát triển của mình, chống sự áp đặt của các nước lớn
và chống sự bất bình đẳng trong quan hệ Bắc-Nam, để phối hợp lập trường
chung tại LHQ và các diễn đàn quốc tế khác. Trong bối cảnh đó, phong trào
KLK tiếp tục đóng vai trò không thể thiếu là một tập hợp lực lượng chính trị
hùng hậu, là diễn đàn quan trọng để các nước không liên kết đang phát triển

hình thành tiếng nói chung đối với các vấn đề toàn cầu quan trọng liên quan
đến hoà bình, an ninh và phát triển.
Kể từ Hội nghị cấp cao 10 ( Jarkarta 1992 ), Phong trào KLK đã có
những bước điều chỉnh nhất định nhằm thích ứng với tình hình mới. Các quốc
gia thành viên đều nhất trí cho rằng: Phong trào có khả năng và cần tiếp tục
phát huy tiếng nói và vai trò chính trị trong tình hình mới hiện nay vì hoà
bình, phát triển, tự quyết dân tộc, độc lập và chủ quyền quốc gia. Phong trào
tiếp tục là chỗ dựa tinh thần, là tập hợp đoàn kết rộng rãi của 114 nước đang
phát triển vì những lợi ích căn bản chung của các nước này và vì mục tiêu
phấn đấu cho một trật tự thế giới công bằng, bình đẳng, lành mạnh. Việc
Phong trào liên tục có thêm thành viên mới (tăng từ 108 kể từ Hội nghị Cấp
cao 10 năm 1992 lên 116 thành viên tại Hội nghị Cấp cao 13 năm 2003) đã
tiếp tục thể hiện sức sống, sự hấp dẫn và khẳng định vai trò chính trị không
thể thiếu của mình. Ngày càng có nhiều nước bên ngoài Phong trào mong
muốn được làm quan sát viên, khách mời chứng tỏ vị thế, tầm quan trọng của
diễn đàn này trong việc tăng cường hợp tác quốc tế, góp phần giải quyết các
vấn đề cấp bách có tính khu vực hoặc toàn cầu.
Trong các năm gần đây, phong trào đã có nhiều hoạt động quan trọng
nhằm tăng cường đoàn kết thống nhất về vai trò, phương pháp làm việc cũng
như hợp tác theo hướng thực chất về kinh tế, văn hoá, y tế ... thông qua cơ chế
tham khảo thường xuyên tại LHQ và các hội nghị quan trọng trong đó có:
Cuộc họp cấp bộ trưởng về phương pháp làm việc của phong trào (5/96 tại
Ca-ta-hê-na, Cô-lôm-bi-a), Hội nghị cấp bộ trưởng về hợp tác văn hoá (5/97
18


tại Men-đơ-lin, Cô-lôm-bi-a), Hội nghị bộ trưởng Ủy ban Phối hợp (5/98 tại
Ca-ta-hê-na, Cô-lôm-bi-a), và Hội nghị bộ trưởng Y tế KLK (tại Havana,
Cuba) từ 24-26/6/98.
Trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ mới, các nước KLK và đang phát

triển nói chung đang đứng trước những thách thức to lớn về phát triển kinh tế,
phải đương đầu với những tác động tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá và
khu vực hoá. Nhìn chung, các nước KLK vẫn phải tiếp tục đấu tranh giải
quyết các vấn đề về đói nghèo, tình trạng bất ổn định về xã hội, xung đột sắc
tộc tôn giáo, đối phó với chính sách cường quyền, xu hướng áp đặt và can
thiệp của một số nước lớn, trong khi tiếp tục phấn đấu cho một trật tự thế giới
mới công bằng dân chủ hơn, đảm bảo lợi ích của các nước đang phát triển.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

giáo trình Các Phong trào chính trị xã hội quốc tế (PGS.Ts

Phạm Minh Sơn – Trưởng khoa Khoa Quan hệ Quốc tế - Học viện Báo
chí và Tuyên truyền biên soạn)
2.

Các thông tin từ các website





và một số trang báo mạng điện tử khác

20



MỤC LỤC

21



×