MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Liên minh Châu Âu EU, là một liên minh kinh tế gồm 27 nước thành viên
(2008), thành lập dựa trên nền tảng của Hiệp ước Maastricht 1993. Trên vũ đài
kinh tế thế giới hiện nay, bên cạnh gã khổng lồ USA, EU ngày càng mang một
tiếng nói lớn hơn. EU khơng những khơng ngừng tăng cường năng lực cạnh
tranh kinh tế bằng một thị trường chung rộng lớn và đồng Euro, mà ngày càng
vươn rộng về lãnh thổ sang phía Đơng, gây nên một hình thế chính trị - kinh tế
hết sức phức tạp, đặc biệt trong mối quan hệ đầy mâu thuẫn với Nga.
Nghiên cứu về liên minh này, vì thế là một bước đi sống còn để tồn tại và tiến
lên trên kịch trường kinh tế đầy khốc liệt, tìm ra những cơ hội mới, thách thức
mới, và con đường đi cho nền kinh tế nước ta vốn còn non trẻ. Đây cũng là một
bước cần thiết để xây dựng lập trường ngoại giao và phát triển kinh tế quốc gia,
khi mà bộ mặt hợp tác, tương trợ trưng ra che đậy cho những âm mưu, thủ đoạn
kinh tế - chính trị, diễn biến hịa bình nham hiểm.
Đối với sinh viên, nghiên cứu về EU – hình thức liên minh kinh tế phức
tạp và hoàn thiện nhất thời đại, sẽ đem lại những hiểu biết sâu rộng hơn về nền
kinh tế, chính trị thế giới.
2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu: Liên minh châu Âu (EU)
-Phạm vi nghiên cứu: Lịch sử hình thành cũng như cấu tổ chức của EU,
mối quan hệ của EU với các tổ chức liên kết và các nước trên thế giới
3.Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận gồm 3 phần : Mở đầu, nội dung, kết luận
Phần nội dung chính gồm 4 chương
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
Tổng quan về EU
Hình 1.1 : Các thành viên và ứng viên Liên minh châu Âu giai đoạn 2004 – 2007
Liên minh châu Âu (EU) có trụ sở đặt tại thủ đô Brussels của Bỉ. Hiện nay, Liên
minh châu Âu có diện tích là 4,324,782 km2 (diện tích liên minh lớn thứ 6 trên
thế giới).
- Sự ra đời của Liên minh châu Âu và các nước tiến tới nhất thể hố tồn diện.
2
Hiện nay, chúng ta chỉ biết đến một EU hùng mạnh với trên 50 tuổi, nhưng
trong số chúng ta không mấy ai biết rằng ngay từ thời Saclơ Đại đế thuộc đế chế
La Mã (thế kỉ thứ VII sau Công nguyên), ý tưởng về một châu Âu thống nhất đã
được hình thành. Tuy nhiên, trong một thời gian dài, ý đồ thống nhất châu Âu chỉ
thuộc về một vài nhà chính trị, qn sự có nhiều tham vọng và một bộ phận các
nhà trí thức có tư tưởng cấp tiến; còn đại bộ phận châu Âu vẫn thờ ơ, thậm chí
khơng hề có ý tưởng gì về điều đó, mặc dù châu Âu đã mang sẵn trong mình các
yếu tố thống nhất.
Đến năm 1923, Bá tước người Áo – Condanhve Kalagi đã sáng lập ra “Phong
trào Liên Âu” nhằm thiết lập “Hợp chủng quốc châu Âu” để làm đối trọng với
“Hợp chủng quốc Hoa Kỳ; và vào năm 1929, ngoại trưởng Pháp lúc bấy giờ là
Aristide Briand cũng đưa ra đề án thành lập “Liên minh châu Âu”, nhưng đều
không thành. Phải đến sau Thế chiến lần thứ II, những ý tưởng thống nhất châu
Âu này mới trở thành hiện thực.
Đại chiến thế giới thứ II kết thúc đã làm đảo lộn trât tự thế giới nói chung và trật
tự ở châu Âu nói riêng. Trật tự thế Yalta với hai cực là hai siêu cường Hoa Kỳ và
Liên Xô trở thành lực lượng mới khống chế toàn cầu. Cùng với sự thay đổi đó,
châu Âu cũng bị chia cắt thành hai khu vực: Đông Âu đi theo con đường xã hội
chủ nghĩa còn Tây Âu đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Và trong khi Liên Xô
với vai trị là “thành trì” của phong trào cộng sản quốc tế, dẫn dắt “nửa kia” của
châu Âu, có vị thế ngày càng lớn rộng, thì Hoa Kỳ nhờ chiến tranh mà phát triển
vượt bậc cả về kinh tế lẫn quân sự, còn Tây Âu đang phải đối mặt với sự suy yếu
toàn diện và nguy cơ tụt hậu. Cho dù thắng trận hay bại trận thì nền kinh tế các
nước Tây Âu đều rơi vào tình trạng kiệt quệ. Cịn về qn sự thì cả hai phía đồng
minh và phát xít đều khơng tránh khỏi những tổn thất nặng nề.Nguy cơ mất vai
trò “trung tâm thế giới” của Tây Âu đã trở thành hiện thực. Hơn nữa, người châu
Âu nhận thấy rằng để loại trừ tận gốc mầm mống của hai cuộc đại chiến thế giới
3
đã gây không biết bao nhiêu tổn thất cho châu Âu, cần phải tước bỏ quyền độc
lập sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hai ngành kinh tế quan trọng nhất của châu Âu
lúc bấy giờ là than và thép, chủ yếu nằm trong tay Pháp và Đức, hai quốc gia
ln có những căng thẳng chính trị - mối hiểm hoạ tiềm tàng của nền hồ bình
châu Âu. Chính trong bối cảnh đó, nhu cầu hợp tác và liên kết chặt chẽ, toàn diện
giữa các quốc gia Tây Âu trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Chỉ bằng con đường
hợp tác hồ bình, các nước Tây Âu mới giải quyết được những khó khăn chồng
chất sau chiến tranh, phát triển nội lực và tăng thế cạnh tranh với bên ngoài.
Chưa bao giờ các quốc gia Tây Âu lại ý thức rõ ràng và cấp bách về vấn đề một
cộng đồng chung đến như vậy. Và một yêu cầu tất yếu, hết sức cần thiết được đặt
ra là phải thành lập được một tổ chức quyền lực siêu quốc gia có sứ mệnh điều
hành phối hợp các hoạt động hợp tác giữa các quốc gia sao cho hiệu quả. Đòi hỏi
khách quan đó đã trở thành nguồn gốc của sự liên kết giữa các quốc gia Tây Âu mở ra một trang mới trong lịch sử phát triển Tây Âu nói riêng cũng như của cả
châu Âu nói chung.
Mốc lịch sử đánh dấu sự hình thành của EU là bản “Tuyên bố Schuman” của Bộ
trưởng ngoại giao Pháp Robert Schuman vào ngày 09 tháng 05 năm 1950 với đề
nghị đặt toàn bộ nền sản xuất gang thép của Cộng hoà liên bang Đức và Pháp
dưới một cơ quan quyền lực chung, trong một tổ chức mở cửa để các nước châu
Âu khác cùng tham gia. Sau đó, Hiệp ước thành lập Cộng đồng than thép châu
Âu (ECSC), một tổ chức tiền thân của EU ngày nay được ký kết.Từ đó đến nay,
sự liên kết giữa các quốc gia châu Âu đã không ngừng phát triển cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu với đỉnh cao là một Liên minh châu Âu như chúng ta thấy
ngày nay và trong tương lai có thể sẽ đạt tới cấp độ liên kết cao hơn. Nhìn lại
hơn 50 năm hình thành và phát triển của Liên minh châu Âu, có thể thấy q
trình này gắn liến với các hiệp ước chủ yếu sau đây (từ năm 1951 đến nay):
4
- Hiệp ước Paris thành lập cộng đồng Than – Thép châu Âu (ECSC) được ký
ngày 18/04/1951 với sự tham gia của 6 nước: Pháp, Đức, Italy, Bỉ, Hà Lan và
Luxembourg, nhằm thống nhất việc sản xuất và phân phối hai sản phẩm chính là
thép và than trên tồn lãnh thổ châu Âu. Hiệp ước này đã chứa đựng ý đồ của các
nhà sáng lập ECSC là gây dựng nền tảng cho việc nhất thể hoá kinh tế châu Âu.
- Hiệp ước Rome thành lập Cộng đồng Năng lượng nguyên tử châu Âu
(EURATOM) và Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) được ký ngày 25/31957 với
sự nhất trí của 6 nước thành viên ECSC. Mục đích thành lập EURATOM là để
thống nhất việc quản lý ngành năng lượng nguyên tử của 6 nước thành viên;
trong khi đó EEC ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tăng cường liên kết kinh tế giữa
6 nước này, tạo ra một tập hợp sức mạnh kinh tế tổng hợp dưới hình thưc một
“thị trường chung” mà lao động hàng hoá được tự do di chuyển như một thị
trường nội địa. Hiệp ước Rome là kết quả của những thành tựu đáng khích lệ về
kinh tế và chính trị mà ECSC đã đạt được.Và có thể nói, hiệp ước này đã mở ra
một hướng liên kết giữa các quốc gia châu Âu đánh giá sự ra đời của một liên
minh kinh tế thật sự Cộng đồng kinh tế châu Âu (EE).
- Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu (EC) được ký ngày 08/04/1965 giữa
các nước của 3 nước Cộng đồng này dưới tên gọi: Cộng đồng châu Âu. Đây là
văn bản xác nhận một cấp độ nhất thể hóa kinh tế cao hơn giữa các quốc gia này
thể hiện việc thành lập một thị trường thống nhất; trong đó, ngồi việc hàng hố,
lao động và vốn đầu tư được tự do di chuyển, hàng rào thuế quan và phi thuế
quan cũng được rỡ bỏ, hệ thống thuế quan và chính sách thương mại chung được
thành lập, một số chính sách đối với các lĩnh vực kinh tế khác cũng được thống
nhất nhằm tăng sức cạnh tranh với các khối kinh tế bên ngoài, tiến tới một liên
minh chặt chẽ về chính trị.
5
- Hiệp ước Maastricht thành lập Liên minh châu Âu được ký ngày 07/2/1992 tại
Maastricht – Hà Lan, với sự nhất trí hồn tồn của ngun thu quốc gia các nước
thành viên (lúc này, số thành viên của EC là 12 nước bao gồm: Pháp, Đức, Bỉ,
Italy, Hà Lan, Luxembourg, Anh, Đan mạch, Ailen, Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây
Ban Nha) nhằm thành lập một “không gian châu Âu” thống nhất về kinh tế,
chính trị, an ninh, quốc phịng và các chính sách về xã hội. Như vậy, EU đã được
bổ sung thêm các nội dung liên kết mới (an ninh, chính trị , đối ngoại) mà các tổ
chức tiền thân của nó chưa có, để đạt được các mục tiêu tồn diện hơn như: duy
trì bảo vệ hồ bình và thịnh vượng, thiết lập nền tảng phát triển, tiến tới hợp nhất
về kinh tế vì lợi ích chung của các dân tộc châu Âu thông qua việc tạo ra một
khu vực kinh tế rộng lớn, một khu vực thị trường tự do, thống nhất, tạo điều kiện
cho việc thống nhất về chính trị và hài hồ về xã hội trong liên minh. Với mục
tiêu như vậy, EU đã thực sự bước vào một thời kỳ mới, tồn tại như một thực thể
thống nhất, hay những nói đúng hơn là đóng vai trị như một “Đại quốc gia” ở
châu Âu, một “Ngôi nhà chung châu Âu”.
- Hiệp ước Amsterdam được ký vào ngày 2/10/1997 bởi các nguyên thủ của 15
nước thành viên (năm 1995 EU đã kết nạp thêm 3 nước thành viên nữa là: Thuỵ
Điển, Phần Lan, Áo). hiệp ước này được hình thành trên cơ sở sửa đổi hiệp ước
Maastricht nhằm đưa những cố gắng của EU trong việc xây dựng một liên minh
kinh tế - tiền tệ (EMU) trở thành hiện thực. Hiệp ước này đã tao cơ sở pháp lý để
đồng EU đồng tiền chungcủa các nước châu Âu chính thức ra đời với tư cách
đầy đủ của một đồng tiền thực thụ và đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1999 trong
phạm vi 11 nước (EU-11): Đức, Pháp, Ailen, Bỉ, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Italy,
Luxembourg, Phần Lan. Theo kế hoạch đã được định trước, đúng ngày 1/1/2002,
các đồng Euro bằng giấy và bằng kim loại đã chính thức đi vào lưu thơng tiền tệ
song hành với các đồng bản tệ và bắt đầu giai đoạn đổi tiền. Và kể từ ngày
1/7/2002, các đồng bản tệ của tất cả 11 nước thuộc EU -11 đã kết thúc lịch sử tồn
6
tại của mình, vĩnh viễn rút khỏi lưu thơng, chính thức nhường chỗ hoàn toàn cho
đồng Eurro đang là đồng tiền chung, duy nhất lưu hành trong tất cả các quan hệ
kinh tế - xã hội các những nước thành viên. Một “Ngơi nhà chung châu Âu” đã
hình thành.
- Hiệp ước Nice (7-11/12/2000) được tập trung vào các vấn đề cải cách thể chế
để đón nhận các thành viên mới và gồm các vấn đề:
+ Cải cách thể chế: đổi mới thành phần Uỷ ban châu Âu (Uỷ ban châu Âu sẽ có
khơng q 27 uỷ viên, trong đó mỗi nước sẽ có một uỷ viên, được chỉ định theo
nguyên tắc luân phiên, sẽ thực hiện từ năm 2005. Chủ tịch uỷ ban sẽ được trao
thêm một số thẩm quyền mới, đặc biệt trong lĩnh vực ngoại thương và việc lựa
chọn chủ tịch EC sẽ được quyết định theo nguyên tắc đa số đủ thẩm quyền; phân
định số phiếu bầu trong Hội đồng Bộ trưởng, cụ thể: Pháp, Đức, Anh, Italy có
cùng số phiếu bầu là 29, Tây Ban Nha có phiếu bầu là 27 phiếu, Hà Lan có phiếu
bầu là 13 phiếu, Bỉ có phiếu bầu là 12 phiếu, và các nước cịn lại sẽ có từ 3 đến 7
phiếu. Tổng số phiếu bầu sẽ là 345 khi số thành viên EU là 25 nước(1) nguyên
tắc bỏ phiếu theo đa số đủ thẩm quyền: hiện đang áp dụng cho 80% quyết định,
20% vấn đề còn lại các nước vẫn giữ quyền phủ quyết của minh, đặc biệt đối với
những vấn đề nhạy cảm, động chạm đến lợi ích quốc gia).
+ Tăng cường vai trò của Nghị viện châu Âu. Số ghế nhiều nhất là 99 (tăng 12 so
với số cũ).Pháp, Anh và Italy chỉ còn 74 (giảm 13 so với số cũ).tổng số nghị sĩ
tương lai sẽ là 738.
+ Về chính sách an ninh và quốc phịng: EU thành lập Lực lượng phản ứng
nhanh (RRF) từ năm 2003, bao gồm 60.000 quân với 100 tầu chiến và 400 máy
bay trong thời gian 60 ngày. RRF sẽ có cơ cấu điều hành thường trực gồm uỷ
ban quân sự bà Bộ tham mưu đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của EU.
7
Như vậy, từ ECSC đến EU hiện nay là cả một quá trình phát triển phức tạp với
các hình thức liên kết kinh tế quốc tế được phát triển chặt chẽ, toàn diện và hoàn
toàn mới về vật chất.Và cho đến nay, sau nhiều nỗ lực thiết thực của EU, tiến
trình nhất thể hố châu Âu đã đạt được các kết quả rất khả quan trên nhiều lĩnh
vực.
+ Về an ninh: EU lấy NATO và liên minh phòng thủ Tây Âu (WCU) làm hai trụ
cột chính. Tuy nhiên, EU đang cố gắng tạo cho mình “một cánh tay quân sự” bên
cạnh “cánh tay kinh tế” với bản sắc riêng của mình, hạn chế sự lệ thuộc vào Hoa
Kỳ.
+ Về chính trị: đang diễn ra q trình chính trị hố các nhân tố kinh tế, anh ninh,
nghĩa là kết hợp các phương tiện kinh tế và quân sự nhằm đạtđược các mục tiêu
kinh tế. Trong nội khối đã và đang diễn ra quá trình hợp nhất và thống nhất các
đường biên giới quốc gia nhằm tăng cường quyền lực và quản lý chung. Cịn đối
với bên ngồi, EU đang đẩy mạnh hợp tác quốc tế và khu vực bằng các hiệp định
song phương và đa phương.
+ Về xã hội: về cở bản, các nước thành viên đang áp dụng một chính sách chung
về lao động, bảo hiểm, môi trường, năng lượng, giáo dục, y tế, (tuy nhiên, vẫn
còn một số lĩnh vực chưa thống nhất).
+ Về kinh tế: GDP của EU năm 1988 đạt 8.482 tỷ USD, được xem là lớn nhất
thế giới (NAFTA: 8.150 tỷ USD, ASEAN: 845 tỷ USD), năm 2000 đạt 9004 tỷ
USD, năm 2001 đạt 9.315 tỷ USD, với mức tăng trưởng bình quân hàng năm
1995-2000 gần 2,2. Đây là khu vực kinh tế đạt trình độ cao về kỹ thuật, cơng
nghệ, thiết bị, máy móc; đặc biệt là về cơ khí, năng lượng, nguyên tử, dầu khí,
hố chất, dệt may, điện tử, cơng nghiệp vũ trụ và vũ khí.
+ Về thương mại: EU là trung tâm thương mại lớn thứ hai sau Hoa Kỳ, với
doanh số 1.527,5 tỷ USD năm 1997, trong đó 50% là bn bán giữa các nước
8
thành viên. Năm 2002, giá trị xuất khẩu hàng hoá của EU đạt 2.441,2 tỷ USD,
trong đó xuất khẩu hàng hoá nội khối đạt 1.502,2 tỷ USD, xuất khẩu hàng hoá
ngoại khối đạt 939 tỷ USD. Về nhập khẩu hàng hố: năm 2002, EU đạt 2.437 tỷ
USD, trong đó nhập khẩu nội khối đạt 1.506 tỷ và ngoại khối đạt 931 tỷ USD.
Như vậy, thương mại của EU phần lớn phát triển mạnh trong nội bộ khối nhờ
khối tác động của chính sách nhất thể hố kinh tế khu vực.Ngày 1/5/2004, EU có
25 nước thành viên sau khi kết nạp thêm 10 quốc gia mới.Với việc mở rộng lần
thứ 5 này. EU trở thành một khối kinh tế và thị trường lớn nhất thế giới, với kim
ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vị chiếm khoảng 21,9% kim ngạch nhập khẩu
của tập đoàn thế giới.
9
CHƯƠNG 2
Chính quyền EU
EU gồm có 5 cơ quan chính là: Hội đồng châu Âu, Hội đồng
Bộ trưởng, Ủy ban Châu Âu, Nghị viện Châu Âu và Tòa án Châu Âu.
1.Hội đồng Châu Âu
Hội đồng châu Âu phụ trách điều hành Liên minh châu Âu và có nhiệm vụ
nhóm họp ít nhất 4 lần trong năm. Hội đồng châu Âu bao gồm Chủ tịch Hội
đồng châu Âu, Chủ tịch của Ủy ban châu Âu và một đại diện của mỗi quốc gia
thành viên Liên minh châu Âu, có thể là người đứng đầu nhà nước hoặc chính
phủ của quốc gia thành viên đó. Hội đồng châu Âu được xem là cơ quan lãnh
đạo tối cao của Liên minh châu Âu.Hội đồng châu Âu chủ động xem xét những
thay đổi trong các hiệp ước điều chỉnh hoạt động Liên minh châu Âu cũng như
xác định chương trình nghị sự và chiến lược cho Liên minh châu Âu.
Hội đồng châu Âu sử dụng vai trị lãnh đạo của mình để dàn xếp các tranh chấp
giữa các quốc gia thành viên và các thể chế chính trị của Liên minh châu Âu
cũng như giải quyết các cuộc khủng hoảng chính trị và bất đồng trong những vấn
đề và chính sách gây nhiều tranh cãi. Về đối ngoại, hoạt động của Hội đồng châu
Âu có thể ví với một ngun thủ của tập thể các nguyên thủ quốc gia để kí kết,
phê chuẩn các thỏa thuận và điều ước quốc tế quan trọng giữa Liên minh châu
Âu và các quốc gia khác trên thế giới.
Ngày 19 tháng 1 năm 2009, ngài Herman Van Rompuy đã được chỉ định làm chủ
tịch thường trực của Hội đồng châu Âu. Ngày 1 tháng 12 năm 2009 khi Hiệp ước
Lisbon bắt đầu có hiệu lực, ngài Herman Van Rompuy chính thức nhận cơng tác
tại nhiệm sở. Chủ tịch Hội đồng châu Âu chịu trách nhiệm đại diện đối ngoại cho
Liên minh châu Âu, giải quyết mâu thuẫn nảy sinh giữa các quốc gia thành viên
10
để hướng tới sự đồng thuận trong các hội nghị của Hội đồng châu Âu cũng như
trong các giai đoạn chuyển tiếp giữa các hội nghị đó.
2.Hội đồng bộ trưởng
Hội đồng Liên minh châu Âu thường được gọi tắt trong tiếng Anh là
Council hay còn gọi là Hội đồng Bộ trưởng (tiếng Anh, "Council of Ministers")
là một trong hai bộ phận lập pháp của Liên minh châu Âu (bộ phận còn lại là sự
kết hợp của Ủy ban châu Âu và Nghị viện châu Âu) chịu trách nhiệm quyết định
các chính sách lớn của EU, bao gồm các Bộ trưởng đại diện cho các thành viên.
Các nước luân phiên làm Chủ tịch với nhiệm kỳ 6 tháng. Giúp việc cho Hội đồng
có Uỷ ban Thường vụ và Ban Thư ký.Tuy nhiên, dù cơ cấu tổ chức phức tạp
nhưng Hội đồng Bộ trưởng vẫn được xem là một trong các thể chế chính trị
chính thức của Liên minh châu Âu.
3. Ủy ban Châu Âu (EC)
Hình 2.2: Tịa nhà Berlaymont, trụ sở Ủy ban Châu Âu EC tại Brusseles
11
Có trụ sở đóng tại Brusseles (Bỉ), là cơ quan hành pháp của EU. Chức năng
chính của cơ quan này là xây dựng và đệ trình các dự án luật, giám sát chi tiêu
ngân sách của EU.
Ủy ban Châu Âu hiện gồm 20 ủy viên, nhiệm kỳ 5 năm do các chính phủ nhất trí
cử và chỉ bị bãi miễn với sụ nhất trí của Nghị viện Châu Âu. Trong đó, 5 nước
lớn: Anh, Pháp, Đức, Ý, và Tây Ban Nha, mỗi nước có 2 thành viên; 10 nước
nhỏ (thuộc EU 15): Áo, Phần Lan, Thụy Điển, Đan Mạch, Ai Len, Bỉ, Hà LAn,
Luxembourg, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, mỗi nước 2 thành viên. Dưới các ủy viên là
các Tổng vụ trưởng chuyên trách từng vấn đề, từng khu vực. Theo Hiến pháp
mới, số thành viên trong Ủy ban Châu Âu từ năm 2014 sẽ chiếm 22/3 tổn số
nước thành viên EU. Hiến pháp mới quy định các quyết định của EU sẽ chỉ được
thơng qua khi có ít nhất 55% các nước thành viên (chiếm khoảng 65% dân số
của EU) tán thành.Chủ tịch EC hiện nay được bầu vào ngày 29/6/2004 là Thủ
tướng Bồ Đào Nha Jose Durao Barroso.
4.Nghị viện Châu Âu
Hình 2.1: Vịng cung tịa Nghị viện Louise Weiss ở Strasbourg
12
Ra đời trên cơ sở Hiệp ước thành lập Cộng đồng Than Và Thép Châu Âu (1951).
Gồm 732 Nghị sĩ, nhiệm kỳ 5 năm, đựoc bầu theo nguyên tắc phổ htông đầu
phiếu. Trong Nghị viện các Nghị sĩ ngồi theo nhóm chính trị khác nhau, khơng
theo quốc tịch.
Chức năng chính là phê chuẩn luật, thông qua ngân sách, cùng Hội đồng Châu
Âu quyết định trong một số lĩnh vực, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính
sách của EU, có quyền bãi miễn các chức vụ Ủy viên của Ủy Ban Châu Âu.
5.Tòa án Châu Âu
Đặt trụ sở tại Luxembourg, gồm 15 thẩm phán và 6 trạng sư, do các chính hủ
thỏa thuận vổ nhiệm, nhiệm kỳ 6 năm. Tịa án có vai trị độc lập, có quyền bác
bỏ những quyết định của các tổ chức của Ủy ban Châu Âu và chính phủ các
nước nếu bị coi là khơng phù hợp với luật pháp của EU.
Ngồi 4 cơ quan chính kể trên, Eu cịn có các cơ quan trực thuộc hỗ trợ thực thi
các công việc hố trợ của EU:
- Tịa kiểm tốn Châu Âu gồm 15 thành viên được đồng bổ nhiệm bởi Hội đồng
Châu Âu sau khi tham khảo ý kiến của Nghị viện. Tòa kiểm tốn có nhiệm kỳ 6
năm, Tịa kiểm tốn có chức năng giám sát việc chi tiêu của EU sao cho đúng
pháp luật và trong sạch.
- Ngân hàng Trung ương Châu Âu có chức năng quản lý đồng tiền chung EU,
đảm bảo sự ổn định của nó. Ngân hàng đưa ra những quyết định độc lập về chính
sách tiền tệ của Châu Âu.
- Ngân hàng Đầu tư Châu Âu là cơ quan tài chính của EU, cung cấp các khoản
vốn vay để đầu tư nhằm thúc đẩy sự phát triển của 1 nên kinh tế cấn bằng và hòa
nhập.
13
- Thanh tra Châu Âu thanh tra việc thực thi pháp luật trên lãnh thổ EU. Ủy ban
Kinh tế - Xã hội nghiên cứu và đệ trình lên Ủy ban Châu Âu, Hội đồng Châu Âu
và Nghị viện Châu Âu để giải quyết ý kiến đề xuất của các nhà hoạt động xã hội
các nhà kinh tế của EU.
- Ủy ban các vùng phản ánh nguyện vọng của các nước thành viên trong việc
giải quyết mọi vấn đề sao cho vừa tuân thủ chính sách chung của EU, vừa bảo vệ
quyền lợi của mỗi địa phương, mỗi khu vực và mỗi quốc gia thành viên.
14
CHƯƠNG 3: Quan hệ giữa EU và một số tổ chức liên kết khác
1.Chính sách an ninh và đối ngoại chung:
Để xây dựng một EU hùng mạnh và tham gia vào sân chơi thế giới như
một thực thể duy nhất, các nước thành viên EU đã chung tay hành động nhằm
hướng đến một chính sách đối ngoại chặt chẽ nhất.
Trong suốt thời gian qua , EU đã tăng cường nỗ lực nhằm nắm giữ vai trị an
ninh chính trị quốc tế ngày càng tương xứng hơn với vai trò kinh tế của mình.
Các nước EU ln bắt tay nhau hợp tác bất cứ khi nào có thể. Song, đối với
những vấn đề nhạy cảm, khơng phải lúc nào cũng có thể đạt được sự nhất trí của
đại đa số. Những tranh chấp diễn ra ở châu Âu sau chiến tranh Berlin 1989 và
các cuộc chiến chống khủng bố gần đây cũng giúp các nhà lãnh đạo EU có cái
nhìn chính xác hơn về sự cần thiết của hành động liên minh này.
EU cương quyết đảm bảo rằng bất kỳ sự mở rộng nào kể từ năm 2004 cũng sẽ
không tạo rào cản giữa EU và các nước láng giềng. Đó là lý do vì sao EU đang
chuẩn bị để tiến gần hơn trong mối quan hệ với các nước lân cận ở phương Đông
(Nga, Ukraine, Moldova và Belarus) – và ở phương Tây (các nước Địa Trung
Hải).
Là một phần trong chính sách láng giềng Châu Âu (European Neighbourhood
Policy), EU có kế hoạch mở rộng nhiều lợi ích của thị trường nội bộ đến các
nước, thực hiện thương lượng thương mại và hỗ trợ tài chính. Đổi lại, các nước
lân cận EU cũng sẽ phải cải cách dân chủ, tuân theo nền kinh tế thị trường và tôn
trọng nhân quyền. Việc mở rộng này giúp EU thiết lập mối quan hệ trực tiếp với
các nước lân cận về chính trị và xã hội nhằm xây dựng sự thịnh vượng, ổn định
với các nước, và vì thế, củng cố tình hình an ninh của khối.
15
Kể từ khi các nước lân cận trở thành điểm trung chuyển cho việc di cư bất hợp
pháp, nạn buôn lậu dược phẩm và buôn người, EU đã không ngừng hỗ trợ công
tác quản lý biên giới và thủ tục di dân.
Nga, Ukraine, Moldova và hầu hết các quốc gia ở Nam Caucasus và Trung Á
đều đã ký kết các hiệp ước về thương mại, hợp tác chính trị, bảo vệ mơi trường,
bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và văn hóa với EU .
Năm 1995, nhằm thúc đẩy đối thoại giữa các quốc gia thành viên EU và các
quốc gia khác ở bờ biển phía nam và đơng Địa Trung Hải, đồng thời, thúc đẩy
dân chủ hóa, phát triển kinh tế và an ninh quốc phòng ở những quốc gia đó, EU
đã phát động tiến trình Barcelona (1995) nhằm đặt nền móng cho Liên minh Địa
Trung Hải và hy vọng sẽ sớm hoàn thành vào cuối năm 2010.
Đối với vùng Trung Đông trù phú, EU đang tiến hành đàm phán một hiêp định tự
do thương mại với sáu nước trong Hiệp Hội Hợp Tác Vùng Vịnh (Bahrain,
Kwait, Oman, Qutar, Saudi Arabia và Tiểu vương quốc Ả Rập). Bên cạnh đó, EU
cũng đang hỗ trợ khơng ngừng những nổ lực cải tạo ở Iraq.
EU cũng có quan hệ đặc biệt với nhiều nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ
và Nhật Bản. Sự đóng góp của châu Á và Mỹ Latinh trong nền kinh tế thế giới
đã khiến EU tăng cường quan hệ hợp tác với hai lục đia này.
Các nước châu Phi, châu Á Thái Bình Dương và Caribe cũng là các quốc gia EU
đặc biệt quan tâm bởi sự nghèo nàn lan rộng và những mối quan hệ lịch sử.
2.EU và ASEAN:
-Sơ lược về quan hệ kinh tế EU-ASEAN
Sau nhiều thập kỷ nỗ lực phấn đấu, EU đã lập nên một thị trường thống nhất
vững mạnh.Không chỉ mạnh về tiềm lực kinh tế, EU còn là một trong những
16
hình mẫu hội nhập khu vực thành cơng trên thế giới hiện nay.ASEAN với đặc
điểm nổi bật là sự đa dạng trong bản sắc và trình độ phát triển kinh tế cũng đang
nổi lên như một nhân tố quan trọng trong chiến lược kinh tế của nhiều nước.
Kể từ năm 1993, khi ASEAN thực sự bắt tay vào hội nhập kinh tế khu vực với
Chương trình CEPT/AFTA, đến nay, quan hệ thương mại ASEAN-EU liên tục
tăng trưởng.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu từ ASEAN sang EU đạt 6,7% mỗi
năm. Điều đáng nói là vị trí của EU ln được giữ vững với tỷ trọng trong tổng
xuất khẩu của ASEAN trong khoảng 14%-16%. Tính trung bình cả giai đoạn
1993-2003, thị trường EU chiếm tới 14,7% tổng xuất khẩu của ASEAN, giữ
vững vị trí thứ hai sau Hoa Kỳ (18,5%) và đứng trên Nhật Bản (12,7%). Sự gần
gũi về kinh tế giữa ASEAN-EU cịn có thể thấy rõ trong quan hệ đầu tư. Trong
10 năm từ 1993-2003, giá trị vốn đầu tư trực tiếp của EU vào các nước ASEAN
đã tăng mạnh với tốc độ trung bình hàng năm là 18,3%. Năm 2003, các nhà đầu
tư EU đã đổ vào khu vực này tới trên 7 tỷ USD, vượt xa các nguồn vốn đầu tư
lớn khác như Hoa Kỳ (2,9 tỷ USD), Nhật Bản (2,1 tỷ USD). Nếu xét tổng cộng
giá trị đầu tư giai đoạn 1995-2003, EU là nhà đầu tư lớn nhất vào ASEAN với
62,5 tỷ USD, chiếm gần 30% tổng số vốn FDI chảy vào ASEAN, trong khi ngôi
vị thứ hai thuộc về Hoa Kỳ chỉ với 35,7 tỷ USD. Trung bình, trong giai đoạn
2003-2005, có khoảng 5,1 tỷ EUR được đổ vào ASEAN từ các công ty EU.
Năm 2006, giá trị thương mại EU-ASEAN chiếm 5% tổng giá trị thương mại
toàn thế giới. EU là đối tác thương mại lớn thứ hai của ASEAN, chiếm 11,7%
giá trị thương mại EU. Quan trọng hơn, 13% hàng xuất khẩu của ASEAN được
xuất sang EU, thị trường xuất khẩu lớn thứ hai sau Mỹ. ASEAN là đối tác
thương mại lớn thứ năm của EU. Sản phẩm nhập chủ yếu của EU từ ASEAN là
thiết bị máy móc và vận tải, hóa chất, hàng may mặc.
17
-Các chương trình hợp tác EU-ASEAN
Liên minh châu Âu và ASEAN có lịch sử quan hệ từ khá sớm, nhưng cho đến
nay mối quan hệ này còn khá khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu
cầu hợp tác của cả 2 phía.
Năm 1972 Cộng đồng Kinh tế châu Âu là đối tác đầu tiên thiết lập quan hệ chính
thức với ASEAN thơng qua ủy ban Phối hợp đặc biệt của ASEAN (SCCAN).
Tuy nhiên do nhiều lý do khác nhau, trong thời gian đầu mối quan hệ này còn ít
được chú ý.
Từ năm 1980, sau khi Hiệp định hợp tác EC-ASEAN được ký kết, quan hệ hai
khối này được phát triển mạnh mẽ hơn.Hiệp đinh hợp tác EC-ASEAN đã tạo ra
những cơ sở pháp lý quan trọng thúc đẩy quan hệ hợp tác của cả 2 phía. Các bên
tham gia Hiệp định đã cam kết ủng hộ những nỗ lực của nhau trong việc tạo lập
và tăng cường sức mạnh của các tổ chức khu vực vì sự tăng trưởng kinh tế, tiến
bộ xã hội và phát triển văn hóa. Phát triển sâu và đa dạng hóa những quan hệ
kinh tế thương mại để phát huy đầy đủ tiềm năng ngày càng tăng của cả 2 phía
nhằm đáp ứng có kết quả các nhu cầu của nhau trên cơ sở cùng có lợi và phát
huy tốt nhất lợi thế so sánh của mỗi bên.
Đặc biệt, sau khi EU thông qua chiến lược mới đối với châu Á năm 1994 và sau
cuộc họp lần thứ 11 Bộ trưởng EU-ASEAN ở Karlsuche Cộng hòa Liên bang
Đức, chiến lược phát triển dài hạn EU-ASEAN đã được vạch ra. Tại cuộc họp
này EU cũng đã khẳng định tầm quan trọng về mặt kinh tế, chính trị của ASEAN
nói riêng, khu vực châu Á-Thái Bình Dương nói chung.
Đến tháng 9-2003 EU đã đưa ra một chiến lược riêng với ASEAN với tiêu đề:
“Quan hệ đối tác mới với Đông Nam Á”, nhằm khẳng định vai trò ngày càng
tăng của ASEAN trong chiến lược phát triển của mình. Nhìn chung chiến lược
này vẫn khẳng định những nội dung chính trong chiến lược của EU với châu Á,
18
trong đó nhấn mạnh quan hệ EU với ASEAN trong bối cảnh quốc tế mới, cụ thể
ưu tiên chiến lược đối với ASEAN tập trung vào ổn định khu vực, chống khủng
bố, phát triển dân chủ, nhân quyền, giúp đỡ các nước kém phát triển, đặc biệt,
thúc đẩy quan hệ thương mại và đầu tư giữa 2 khu vực. Chiến lược cũng khẳng
định cơ sở thúc đẩy quan hệ hợp tác hai khu vực theo khn khổ của WTO, coi
đó là ưu tiên hàng đầu trong chương trình nghị sự thương mại của EU-ASEAN.
Đồng thời, trong chiến lược này, EU đã đưa ra “Sáng kiến thương mại xuyên khu
vực-TREATI” nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại và đầu tư của hai phía. Theo
TREATI, các lĩnh lực hợp tác chủ yếu bao gồm thống nhất các tiêu chuẩn về sản
phẩm nông -lâm-ngư nghiệp, cơng nghiệp và xóa bỏ các trở ngại về kỹ thuật,
thương mại. Đây là chương trình được hợp tác từng bước và bắt đầu bằng việc
trao đổi kinh nghiệm và tiếp tục phát triển nhiều hơn nữa các cam kết giữa hai
bên.
Gần đây EU tiếp tục thúc đẩy đàm phán FTA với ASEAN. Hội nghị bộ trưởng
ngoại giao EU-ASEAN tại Nuremberg (CHLB Đức) tháng 4 năm 2007 nhất trí
xem xét sớm tiến hành đàm phán thành lập khu vực tự do EU-ASEAN. Hội nghị
cấp cao kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ đối thoại ASEAN-EU tổ chức tại
Singapore, ngày 22/11/2007 đã đề cập đến việc ký kết Hiệp định tự do mậu dịch
EU-ASEAN. EU cho rằng việc tự do hóa hơn nữa đầu tư và thương mại song
phương sẽ mang đến những lợi ích đáng kể cả hai. EU và ASEAN cần sử dụng
động lực đã có của việc triển khai các cuộc đàm phán FTA giữa tổ chức và
hướng tới việc nhanh chóng ký kết một Hiệp định Tự do mậu dịch (FTA) tồn
diện và có ảnh hưởng sâu rộng. Các nghiên cứu và phân tích kinh tế đã cho thấy
rằng một hiệp định hẹp và ít tham vọng sẽ không mang đến những lợi ích giống
như hiệp định toàn diện mà cả hai mong muốn.
Nhiều dự đốn cho rằng lợi ích kinh tế từ Hiệp định tự do mậu dịch giữa ASEAN
và EU sẽ rất lớn, có thể tạo ra thêm tới 40% về lợi ích kinh tế, những nước có lợi
19
ích từ sự tự do hoá của chúng ta sẽ chiếm đến 70% và các quốc gia ASEAN bình
qn có thể tăng được thêm 2,2% GDP của mình.
Ngày 20/01/2009, ngài Philip Meyer, Trưởng đoàn đàm phán Liên minh Châu
Âu (EU) về Hiệp định Thương mại tự do (FTA) EU - ASEAN có mặt tại Hà Nội
và tiến hành nhiều cuộc tiếp xúc nhằm thúc đẩy quá trình đàm phán FTA giữa
EU với ASEAN.
Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều khuyết điểm cần khắc phục trong tiến trình xây
dựng mối quan hệ EU-ASEAN:
-
Thứ nhất, khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên ASEAN còn
khá lớn. Mặc dù trong cùng một khối, nhưng thu nhập bình quân đầu người ở
Singapore hiện vẫn cao gấp 100 lần Myanmar. Mặc dù ASEAN đang nỗ lực thu
hẹp khoảng cách giữa các nước nhưng ít nhất trong vịng 10 năm tới, việc đồng
nhất trình độ phát triển khu vực, dù tương đối vẫn là rất khó khăn. Trong bối
cảnh đó, việc xây dựng chính sách hợp tác chung giữa ASEAN và EU nhằm đảm
bảo lợi ích các bên là khơng dễ dàng.
-
Thứ hai, quan hệ chính trị giữa EU và Myanmar chưa có dấu hiệu êm dịu ,
đặc biệt sau sự kiện mới xảy ra tại Rotterdam trong khn khổ hợp tác Á-Âu
(ASEM). Bên cạnh đó, việc xử lý khéo léo quan hệ an ninh, chính trị giữa EU và
một số nước Hồi giáo lớn trong khu vực cũng đóng vai trị nhất định đối với cơ
hội phát triển kinh tế, thương mại giữa hai khối.
-
Thứ ba, những biến động mới của môi trường quan hệ quốc tế, cả về chính
trị và kinh tế, sẽ ảnh hưởng đến quan hệ giữa hai khối, hay ít nhất là tốc độ phát
triển quan hệ này. Ngồi ra, khơng thể loại trừ tác động của những chuyển biến
trong các diễn đàn quốc tế như WTO, APEC, ASEM do vị trí nhất định của
chúng trong chiến lược tổng thể của cả EU và ASEAN là không thể phủ nhận.
20
-
Thứ tư, cả EU và ASEAN chưa thể lường trước hết những biến động trong
chính sách của mỗi khối, nhất là EU, sau q trình mở rộng ở quy mơ lớn và tiến
dần sang phía Đơng.
-
Thứ năm, xu hướng đầu tư tập trung ngày càng nhiều vào các nước kém
phát triển ở Đơng Nam Á địi hỏi phải có thời gian thu hồi vốn dài hơn do cơ sở
hạ tầng của các nước này chưa phát triển. Hơn nữa, tỷ trọng đầu tư vào các
ngành công nghệ cao, dịch vụ giá trị gia tăng lớn như ngân hàng, vận tải, viễn
thông chưa cao
3.NATO-EU: mối quan hệ đối tác chiến lược.
Năm 1993, Chính sách đối ngoại và an ninh chung EU được thông qua trong
hiệp ước Maastricht. Tuy nhiên, chỉ một vài tháng sau đó, chiến tranh đã nổ ra ở
Nam Tư cũ . EU đã cố gắng can thiệp nhưng khơng thành cơng. Vì EU chưa có
qn đội riêng, các nước thành viên chỉ có thể can thiệp với tư cách là lực lượng
của Liên Hợp Quốc hoặc NATO điều đến. Đây là những bài học không thể quên
được đối với EU. Dưới tác động của cuộc chiến Balkan và xung đột ở Châu Phi
thập niên 90 , EU đã thiết lập Chính sách an ninh phịng thủ châu Âu trên khuôn
khổ CFSP. Sự kiện trên càng làm nhu cầu hợp tác giữa EU và NATO trở nên cấp
thiết.
Hiện nay, 19 nước thành viên EU là thành viên của NATO.
NATO và EU hợp tác trên tinh thần đối tác, bổ sung cho nhau. Quá trình phát
triển mối quan hệ NATO-EU:
- Ngày 19/06/1992, tại Oslo , các ngoại trưởng NATO hỗ trợ mục tiêu phát triển
WEU (Western European Union).
- Ngày 11/01/1994, lãnh đạo NATO đồng ý cho phép EU sử dụng tài sản chung
của khối, dưới sự tham vấn của Hội đồng Bắc Đại Tây Dương.
21
- Ngày 03/06/1996, tại Berlin, ngoại trưởng NATO đồng ý việc thành lập khối
thống nhất an ninh phòng thủ châu Âu (European Security and Defence Identity)
trong khuôn khổ NATO nhằm cân bằng lại vai trò, trách nhiệm giữa châu Âu và
Bắc Mỹ.
- Ngày 19/11/2001, kế hoạch hành động vũ khí châu Âu được thành lập.
- Ngày 24/01/2001, quyết định hợp tác an ninh được hình thành khi Tổng thư ký
NATO (The NATO Secretary General) và Ban chủ tịch liên minh (The EU
Presidency) trao đổi công hàm về phạm vi hợp tác và phương thức hội đàm giữa
hai tổ chức.
Sự hợp tác từ đó ngày càng phát triển, cụ thể là việc ký kết Tuyên bố chung của
NATO-EU về an ninh phòng phủ (NATO-EU Declaration on ESDP (European
Security and Defence Policy)). Từ 19-25/11/03, NATO tiến hành cuộc tập trận
chung đầu tiên với EU. Cuộc tập trận được vạch ra theo thoả thuận tăng cường
hợp tác giữa hai bên để ứng phó với khủng hoảng an ninh.
Các quan chức NATO và EU tập hợp như thường lệ ở nhiều cấp độ khác nhau, 2
lần 1 năm ở cấp bộ trưởng ngoại giao, ít nhất 3 lần mỗi kỳ ở cấp đại sứ (Hội
đồng Bắc Đại Tây Dương và Hội đồng an ninh chính trị EU ), 2 lần mỗi kỳ ở cấp
Hội đồng quân sự.
22
CHƯƠNG 4
Mối quan hệ Việt Nam-EU
Quan hệ giữa Việt Nam và EU đã có các cột mốc lịch sử rất lớn.
Từ năm 1975-1978, EU đã có quan hệ ngọai giao với Việt Nam. Đến năm 1979
do vấn đề Việt Nam đưa quân vào Campuchia, EU rút đại sứ về nước và ngừng
viện trợ (mặc dù mức viện trợ của EU cho Việt Nam trong giai đọan này là rất
nhỏ). Từ cuối năm 1984, khối EU lại viện trợ cho Việt Nam, nhưng chính thức
01/1990 EU mới thiết lập lại quan hệ ngọai giao với Việt Nam.Đỉnh cao của sự
phát triển quan hệ giữa Việt Nam và EU được đánh dấu bằng việc ký kết Hiệp
định khung hợp tác vào năm 17/07/1995 tại Bruselles. Và tháng 1/1996, Văn
phòng thường trực của Ủy ban Châu Âu tại Việt Nam đi vào họat động đã hỗ trợ
nhiều cho sự phát triển quan hệ kinh tế EU-Việt Nam.
Năm 1996, Việt Nam và EU thống nhất chiến lược phát triển và hợp tác kinh tế
chung nhằm củng cố quá trình chuyển đổi kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị
trường, đồng thời giảm nhẹ chi phí xã hội trong q trình chuyển đổi. Đến nay,
EU đã tài trợ tổng cộng 150 triệu EURO cho chiến lược này.
Năm 2002, EU đã thông qua chiến lược hợp tác mới với Việt Nam trong giai
đọan 2002-2006 nhằm tạo điều kiện và tăng tốc xóa đói giảm nghèo trong chiến
lược phát triển bền vững. Trong chiến lược hợp tác mới này, EU dự kiến trợ giúp
162 triệu EURO tập trung vào 2 lĩnh vực ưu tiên : (1) Tăng cường phát triển
nguồn nhân lực, đặc biêt hỗ trợ phát triển một số tỉnh nghèo thông qua hỗ trợ
trong lĩnh vực giáo dục; (2) Trợ giúp cải cách kinh tế của Việt Nam theo hướng
cơ chế thị trường để nhanh chóng hội nhập với cơ cấu kinh tế của khu vực và thế
giới.
23
Từ ngày 01/01/2005, dù lúc này Việt Nam chưa gia nhập WTO nhưng EU quyết
định bỏ hạn ngạch dệt may cho Việt Nam. Từ ngày 14/5/2007, Hội đồng Châu
Âu đã quyết định đưa Việt Nam vào danh sách sẽ triển khai đàm phán Hiệp định
đối tác và hợp tác phát triển cùng với 6 nước khác trong khối ASEAN.
Ngoài quan hệ chung của tồn khối EU với Việt Nam thì từng thành viên của EU
như Đức, Anh, Pháp… đều ký những hiệp định song phương với Việt Nam nhằm
tăng cường sự hợp tác về kinh tế vì lợi ích chung của hai phía.
EU là thị trường thương mại quốc tế lớn nhất thế giới và là một trong 3 thị
trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Tiềm năng phát triển họat động
kinh tế đối ngọai với thị trường này còn rất nhiều, quan trọng là các cấp quản lý
của nền kinh tế Việt Nam từ trung ương, địa phương đến các doanh nghiệp cần
chủ động đề xuất các chiến lược thâm nhập sâu rộng hơn vào thị trường này.
Nhờ mối quan hệ hữu nghị, EU đã đầu tư rất nhiều vào Việt Nam.Trước nhất là
họat động đầu tư trực tiếp.Họat động đầu tư của các doanh nghiệp EU đóng góp
vai trị to lớn đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Vào năm 2007 đánh dấu
bước phát triển mới trong hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) của EU vào Việt Nam. Tổng số vốn đăng ký mới của EU vào Việt Nam đạt
trên 5,2 tỉ USD, tăng khoảng 20% so với năm 2006 và đứng vị trí thứ nhất so với
các nước, vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam . Tính đến hết năm 2007, 15/27
nước EU có trên 664 dự án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam với tổng số vốn đăng
ký khoảng trên 12,1 tỉ USD, tăng 40,7% (5,1 tỉ USD) so với năm 2006. Kết quả
này tuy còn nhỏ so với tiềm năng của khu vực, nhưng lại là lớn so với Việt Nam.
Các dự án của EU không nhiều, vốn không lớn nhưng lại tập trung vào các lĩnh
vực cơng nghiệp dầu khí, điện nước, xây dựng kết cấu hạ tầng, chế biến nông sản
thực phẩm công nghệ cao như sữa, đồ uống, viễn thông... Đó là những ngành có
cơng nghệ cao, sản phẩm sạch, tận dụng ưu thế về khoa học kỹ thuật, hàm lượng
24
chất xám lớn, có sức cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế và rất cần cho nền
kinh tế Việt Nam. Về thu hút vốn FDI từ EU có 56 dự án đầu tư mới, với tổng số
vốn đăng ký trên 4,26 tỉ USD và vốn điều lệ trên 1,35 tỉ USD.
Cùng với tăng số lượng dự án và vốn đầu tư trực tiếp FDI, các doanh nghiệp
thuộc các nước EU cịn mở rộng hình thức hợp tác liên doanh, liên kết kinh tế
trên nhiều lĩnh vực. Điển hình là các tập đoàn vận tải biển và kinh doanh tàu vận
tải biển nổi tiếng ở châu Âu như: Đan Mạch, Vương quốc Anh, Đức, Hà Lan...
đã ký kết với Tập đồn Cơng nghiệp đóng tàu biển Việt Nam (Vinashin) đóng
mới các tầu biển chở hàng, công suất lớn từ 53 nghìn tấn đến 104 nghìn tấn, trị
giá hàng tỉ euro. Hình thức liên kết kinh tế khác như gia cơng hàng dệt may, sản
xuất chế biến sữa, đồ uống, rượu, bia, nước giải khát, dược phẩm, dụng cụ y tế,
thực phẩm cao cấp, ngân hàng, bảo hiểm... cũng không ngừng mở rộng hợp tác
nhằm tận dụng lợi thế về nguyên liệu và nhân cơng rẻ của các doanh nghiệp Việt
Nam.
Có thể nói, kết quả hoạt động trong các lĩnh vực đầu tư năm 2007 đã đưa quan
hệ hợp tác kinh tế Việt Nam - EU lên tầm cao mới, góp phần quan trọng vào tốc
độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, đồng thời là cơ sở để EU trở thành đối tác
chiến lược của Việt Nam trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, so với tiềm năng và thế
mạnh của 27 nước thành viên, những kết quả đó cịn rất khiêm tốn. Vốn FDI
đăng ký mới của EU mới chỉ bằng 29,5% tổng vốn FDI đăng ký mới vào Việt
Nam cả năm 2007 . Cơ cấu vốn FDI cũng không đồng đều, trong đó 82% của
Quần đảo Virgin thuộc Anh, 940 triệu USD còn lại của 14 nước, 12 nước khơng
có dự án đầu tư mới.
Năm 2008, kinh tế Việt Nam được nhiều nước trên thế giới đánh giá cao về khả
năng thu hút vốn FDI và xuất khẩu sau hơn 1 năm trở thành thành viên chính
thức của WTO. Ngay từ đầu năm 2008, tại Hội thảo với chủ đề “Việt Nam - ngôi
25