Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Sự vận dụng của luật đất đai và ảnh hưởng của nó tới kinh tế, văn hóa, xã hội nông thôn nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.04 KB, 35 trang )

MỞ ĐẨU
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng trong mọi lĩnh vực
của đời sống con người. Đặc biệt, trong nông nghiệp đất đai là nguồn tư liệu
sản xuất cần thiết vì nó quyết định năng suất, chất lượng sản phẩm… cùng
nhiều ảnh hưởng khác.
Ở Việt Nam hiện nay tổng số đất là 32.924.061 ha, trong đó đất
chuyên canh nông nghiệp là 9.345.346 ha, tập trung chủ yếu tại đồng bằng
sông Hồng, ĐBSCL và một số ít rải rác ở khu vực Duyên Hải Miền Trung.
Tổng diện tích đất canh tác chiếm 28,38 % trên tổng diện tích đất tại Việt
Nam, còn lại là đất phi nông nghiệp, rừng, đồi núi, hải đảo... (Theo Tổng cục
thống kê).
Vùng đất Nam Bộ là một trong những vùng kinh tế của Việt Nam,
Nam Bộ được coi là vùng sản xuất lương thực hàng hóa lớn nhất cả nước,
không những cung cấp một số lượng lớn lương thực cho nhu cầu trong nước
mà còn góp phần to lớn vào tỷ trọng xuất khẩu của kinh tế nước nhà.
Nói đến lợi thế về vấn đề lương thực thực phẩm cũng là nhấn mạnh
đến vai trò của nông nghiệp – nông dân – nông thôn ở Nam Bộ. Với khoảng
70 % dân số là nông dân, Việt Nam luôn coi trọng những vấn đề liên quan
đến nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Trong đó, nông thôn Nam Bộ luôn
được dư luận quan tâm bởi hiện nay nông thôn Nam Bộ đang bước vào một
quỹ đạo phát triển hoàn toàn khác trước. Ở đó các đặc điểm kinh tế, xã hội,
văn hóa, môi trường... vốn có liên tục được bổ sung thêm nhiều yếu tố mới
đồng thời không ngừng được tái tạo trong những kết hợp mới. Nhưng những
yếu tố ấy không phải lúc nào cũng tích cực cũng như những kết hợp ấy
không phải lúc nào cũng hoàn thiện, nên có thể nghĩ tới một số vấn đề kinh
tế - xã hội đang đặt ra trước sự phát triển nông thôn Nam Bộ hiện nay.


Theo sự phát triển chung của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá
thì đất đai đang dần chuyển đổi mục đích sử dụng theo nhu cầu phát triển
của xã hội. Diện tích đất dành cho nông nghiệp đang dần thu hẹp lại, ảnh


hưởng đến đời sống của 61 triệu nông dân. Chính vì vậy mà Quốc hội đã ban
hành Luật Đất đai để đưa việc quản lí sử dụng đất vào khung pháp lí để quản
lí và quy hoạch sử dụng đất.
Luật đất đai có vai trò rất quan trọng trong việc quản lý đất đai. Các
chính sách, bộ luật, điều khoản liên quan đến việc quy hoạch, sử dụng, thu
hồi, đền bù và tái định cư đối với đất nông nghiệp nói riêng trong việc ổn
định và phát triển nền nông nghiệp nông thôn Nam Bộ cũng như đời sống
của người nông dân đang sinh sống trên chính mảnh đất giàu tiềm năng ấy.
Tuy nhiên việc vận dụng Luật đất đai đối với nông thôn Nam Bộ đang gây ra
những ảnh hưởng cả tiêu cực lẫn tích cực đến các vấn đề xã hội – kinh tế văn hóa, tính tự quản cộng đồng, tập quán, lối sống… những yếu tố cấu
thành nên một Nam Bộ đặc thù.


II. Nội dung
1. Vài nét về luật đất đai
1.1.

Khái niệm luật đất đai.

Khi hệ thống hóa toàn bộ những văn bản pháp luật mà nhà nước ban
hành trong quản lý đất từ khi nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đến
nay, người ta thường dùng hai thuật ngữ phổ biến để gọi ngành luật điều
chỉnh các quan hệ đất đai trong xã hội ta là “ luật ruộng đất” và “luật đất
đai”. Về mạt ngôn từ thuần túy với đầy đủ khía cạnh dân gian thì hai thuật
ngữ nên tạm coi là đồn nghĩa nhưng trên phương diện luật học thì cách hiểu
như vậy là không chính xác khiến cho sự đánh đồng thuật ngữ của một
ngành luật với một chế định cụ thể của nó. Trong quá trình xây dựng luật đất
đai năm 2003 có ý kiến khác nhau khi đề cập tới tên của là “ luật , có quan
điểm cho rằng luật nên lấy là “ luật đất” hoặc” luật quản lý và sử dụng đất” .
Theo chúng tôi, tên luật là phải “ luật đất đai “ bởi vì ngay trong lời mở đầu

của luật đất đai dã viết là luật này quy định về chế độ quản lý và sử dụng ,
quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Mặt khác, đất đai là một
thuật ngữ thông dụng trong từ điển tiếng Việt, biểu hiện một khái niệm rộng
rãi về đất bao gồm tất cả các loại đất. Chính vì vậy mà hiến pháp năm 1980
và hiến pháp năm 1992 đã dùng thuật ngữ này đã dùng thuật ngữ này để chỉ
tất cả các lạo đát thuộc lãnh thổ nước ta. Sủ dụng” luật đất đai” là phù hợp
với văn tự đã dùng trong hiến pháp. Trong điều 13 luật đất đai 2003 về phân
loại đất đai ở nước ta được chia thành 3 loại, trong đó đất nông nghiệp đươc
coi là tư liệu sản xuất chủ yếu.
Như vậy khi nói đến luật đất đai phải hiểu theo 2 nghĩa, nghĩa thứ nhất
là văn bản được Quốc hội thông qua và nghĩa thứ hai là một ngành luật độc


lập trong hệ thống pháp luật nước ta bao gồm nhiều chế định pháp luật
trong đó có phần riêng là chế độ pháp lý các loại đất. Trên phương diện pháp
lý thì sử dụng nhóm thuật ngữ “ luật dất đai là hoàn toàn phù hợp với quan
niệm cuộc sống.
Tiếp tục duy trì và bảo vệ chế độ sở hữu Nhà Nước đối với đất đai, hiến
pháp năm 1992 một lần nữa khẳng định lại quan điểm này “ đất đai, rừng
núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, nguồn lợi ở
vùng biển, thềm lục địa và vùng trời... đều thuộc sở hữu toàn dân”( điều 17).
Điều này cũng khẳng định tại điều1 luật 1990: “ đất đai thuộc sở hữu toan
dân do nhà nước thống nhất quản lí và điều 5 luật đất đai năm 2003: “ đất
đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu”.
Từ đây, nhà nước ta đại diện cho toàn dân thực hiện vai trò cho chủ sở
hữu đất đai, có đầy đủ các quyền năng chiếm hữu sử dụng định đoạt đất đai.
Các tổ chức và các nhân với tư cách là hàng triệu hộ gia đình, hàng vạn tổ
chức trong và ngoài nước thực hiện nhiệm vụ của người chủ cụ thể trong
việc sử dụng đất.Mối quan hệ giữa nhà nước với người sử dụng đất là quan
hệ giữa chủ sở hữu, người quản lý, người thực hiện ý đồ về quy hoạch và kế

hoạch của nhà nước. Các mối quan hệ đó là hình thành, làm thay đổi hoặc
chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai mà chủ sở hữu là nhà nước không hề
thay đổi.
Như vậy, luật đất đai là một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật
xã hội chủ nghĩa, là tổng hợp các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh
những quan hệ đất đai hình thành trong quá trình chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt số phận pháp lý của đất đai nhằm sử dụng đất đai đại đạt hiệu quả
cao phù hợp với lợi ích của nhà nước và người sử dụng đất.


1.2. Đặc điểm của luật đất đai
* Đất đai thuộc sở hữu toàn dân
Điều 17 hiến pháp năm 1992 quy định “ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
nhà nước thống nhất quản lý”.Điều 5 luật đất đai năm 2003 đxa cụ thể hóa
thành: “ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước đại diện chủ sở hữu”.
Tính đặc biệt của sở hữu nhà nước đối với đất đai thể hiện ở những điểm sau
- Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, nó không phải lá hàng
hóa thông thường mà là một tư liệu sản xuất đặc biệt trong sản xuất và đời
sống.
- Nhà nước là người duy nhất có đầy đủ quyền năng của một chủ sở hữu.
- Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do đó sẽ không có khái niệm “ đất vô chủ”,
không còn tranh chấp về quyền sở hữu đối với đất đai và khái niệm” cấp
đất” được chuyển thành khái niệm” giao đất”.
* Nguyên tắc nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và
theo pháp luật.
Sự thống nhất của nhà nước đối với đất đai được thể hiện ở 4 mặt sau:
- Đất đai được xem là một chỉnh thể của đối tượng quản lý
- Sự thống nhất về nội dung quản lý đất đai, coi đất là một tài sản đặc biệt,
điều này quyết định những việc làm cụ thể của nhà nước khi thực hiện chức
năng quản lý của mình.

- Sự thống nhất về cơ chế quản lý, nhất là thống nhất trong việc phân công,
phân cấp thực hiện các nôih dung quản lý nhà nước về đất đai trên phạm vi


cả nước, từng vùng và trong những tình huấn cụ thể, thống nhất này đảm bảo
cho việc quản lý nhà nước về đát đai nhất quán và không trùng soát.
- Thống nhất về cơ quan quản lý đất đai.
* Nguyên tắc sử dụng đất hợp lý:
Để đảm bảo nguyên tắc này phải tuân theo những điều kiện sau:
- Sử dụng đất trước hết phải theo quy hoạch và kế hoạch chung.
- Đất đai phải sử dụng đúng mục đích mà cơ quan có thẩm quyền đã quyết
định.
- Tận dụng mọi đất đai vào sản xuất nông nghiêp. Khai thác đất đai có hiệu
quả, khuyến khích mọi tổ chức cá nhân nhận đất trồng, đồi núi trọc để sản
xuất vào mục đích nông nghiệp.
- Tăng cường hiệu xuất sử dụng đất, thâm canh tăng vụ, bố trí lại cây con
hợp lý trong sản xuất, phân công lại lao động dân cư.
* Nguyên tắc ưu tiên bảo vệ quỹ đất nông nghiệp:
- Nhà nước có chính sách bảo vệ đất trồng lúa, hạn chế chuyển đất chuyên
trồng lúa sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp.
- Người sử dụng đất chuyên trồng lúa có trách nhiệm cải tạo bồi bổ làm tăng
độ màu mỡ của đất.
* Nguyên tắc thường xuyên cải tạo và bồi bổ đất đai:
- Nhà nước khuyến khích các hành vi cải tạo, bồi bổ đầu tư công cuộc làm
tăng khả năng sinh lợi của đất.


- Các chủ thể sử dụng đất cóa nghĩa vụ bắt buộc phải cải tạo làm tăn độ màu
mỡ của đất hạn chế khả năng đất biij rửa trôi bạc màu do thiên tai gây ra ở
mức thấp nhất

- Nghiêm cấm các hành vi hủy hoại đất đai, làm đất bạc màu...
2. Sơ lược nông thôn Nam bộ
2.1. Điều kiện tự nhiên
* Miền Tây Nam Bộ (Đồng bằng sông Cửu Long)
Đồng bằng sông Cửu Long gồm 12 tỉnh và 1 thành phố trực thuộc
Trung ương: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc
Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Bến tre, Cà Mau, Hậu Giang, An Giang và
Thành phố Cần Thơ, có diện tích tự nhiên là 39.734km². và Theo kết quả
điều tra dân số ngày 01/04/2009, dân số vùng Đồng bằng sông Cửu Long là
17.178.871 người.
Có vị trí nằm liền kề với vùng Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp
Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan, phía Đông Nam là Biển Đông.
Đây là vùng đồng bằng châu thổ lớn nhất nước ta có địa hình tương đối bằng
phẳng, độ cao trung bình so với mặt biển từ 3 - 5 m, có khu vực chỉ cao 0,5
đến 1m.
Khí hậu nhiệt đới ẩm với tính chất cận xích đạo và ít thiên tai tương
đối thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Tài nguyên chính của vùng là đất phù sa màu mỡ có diện tích lớn,
nhiều diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản và những vùng đất phèn, mặn
được cải tạo cho sản xuất nông, lâm nghiệp. Đồng bằng vẫn còn một diện


tích rừng ngập mặn lớn nhất cả nước có ý nghĩa nhiều mặt về kinh tế và môi
trường. Vùng biển với thềm lục địa mở rộng có trữ lượng hải sản lớn nhất
nước ta.
Tuy nhiên vùng cũng có những khó khăn cho sản xuất và đời sống:
- Ngập lũ kéo dài trên diện rộng vào mùa mưa.
- Diện tích đất đồng bằng phần lớn là đất phèn, mặn và có nguy cơ bị bốc
phèn nếu canh tác không hợp lí.
* Đông Nam Bộ

Đông Nam Bộ gồm 5 tỉnh và 1 thành phố trực thuộc Trung ương:
Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu và
TPHCM.
Phía Bắc và phía Tây Bắc giáp với Campuchia.

Phía Tây Nam giáp

với Đồng bằng sông Cửu Long. Phía Đông,Đông Nam giáp với biển Đông
và Đồng bằng sông cửu long. Phía Đông giáp Tây nguyên và Duyên hải
nam trung bộ.
Theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2009, dân số vùng Đông Nam
Bộ là 14.025.387 người, chiếm 16,34% dân số Việt Nam , là vùng có tốc độ
tăng dân số cao nhất nước, do thu hút nhiều dân nhập cư từ các vùng khác
đến sinh sống.
Đông Nam Bộ là một dải đất cao hơi lượn sóng chuyển tiếp từ cao
nguyên Nam Trung Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long. Độ cao phổ biến thay
đổi từ 20-200m, rải rác có một số ngọn núi cao dưới 1000m. Phần lớn đất


đai là đất badan và đất xám phù sa cổ thuận lợi cho việc trồng cây công
nghiệp. Khí hậu của vùng mang tính chất cận xích đạo và ít bị thiên tai.
Đông Nam Bộ có tài nguyên khoáng sản nổi bật là dầu khí ở vùng
thềm lục địa và gần các ngư trường lớn phong phú hải sản.
2.2. Con người và hoạt động kinh tế
* Tây Nam Bộ
Với số dân là hơn 17 triệu người, người dân ở đây có nhiều kinh
nghiệm cải tạo đất phèn, mặn để trồng trọt, chọn giống lúa thích hợp cho
từng vùng sinh thái… kinh nghiệm nuôi trồng thủy sản…
Mặc dù diện tích canh tác nông nghiệp và thủy sản chưa tới 30% của
cả nước nhưng miền Tây đóng góp hơn 50% diện tích lúa, 71% diện tích

nuôi trồng thủy sản, 30% giá trị sản xuất nông nghiệp và 54% sản lượng
thủy sản của cả nước. Lúa trồng nhiều nhất ở các tỉnh An Giang , Kiên
Giang , Long An , Đồng Tháp ,Sóc Trăng , Tiền Giang . Diện tích và sản
lượng thu hoạch chiếm hơn 50% so với cả nước . Bình quân lương thực đầu
người gấp 2.3 lần so với lương thực trung bình cả nước . Nhờ vậy nên Đồng
bằng sông Cửu Long là nơi xuất khẩu gạo chủ lực của cả đất nước . Ngoài ra
vùng này còn trồng mía , rau đậu , xoài , dừa ,sầu riêng , cam , bưởi ... Nghề
nuôi vịt đàn phát triển mạnh .Nuôi nhiều ở Bạc Liêu ,Cà Mau ,Sóc
Trăng,Vĩnh Long.Trà vinh. Sản lượng thủy sản chiếm 50 % nhiều nhất ở các
tỉnh Cà Mau , Kiên Giang , An Giang . Đặc biệt là Kiên Giang là tỉnh có sản
lượng thủy sản săn bắt nhiều nhất 239219 tấn thủy sản ( năm 2000 ) , An
Giang là tỉnh nuôi trồng thủy sản lớn nhất vùng 80000 tấn thủy sản ( năm


2000 ) .Nghề nuôi trồng tôm cá xuất khẩu đang phát triển mạnh . Tôm cá tập
trung rất gần bờ và dễ nuôi nên đánh bắt rất thuận tiện
Nghề rừng cũng giữ vai trò quan trọng , đặc biệt trồng rừng ngập mặn
ven biển Cà Mau , đảo Phú Quốc , quần đảo Thổ Chu , hòn Khoai . Vì đây là
nghề giữ vai trò trong việc bảo vệ môi trường , sinh học , các loài sinh vật và
môi trường sinh thái đa dạng .
* Đông Nam Bộ
Đông Nam Bộ có số dân là 12.361.000 người, mật độ dân số là 356
người/ km2 (2001). Nguồn lao động khá dồi dào, có kĩ thuật, nhạy bén với
tiến bộ khoa học kĩ thuật và tính năng động cao với sản xuất hàng hóa.
Đông Nam Bộ có cơ cấu ngành kinh tế khá hoàn chỉnh, tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao (khoảng 11-12%) và là vùng có nền kinh tế phát triển
năng động nhất nước ta.
Công nghiệp chiếm tới 54,8% giá trị sản lượng công nghiệp của cả
nước (1999). Các ngành chiếm tỉ trọng lớn là: nhiên liệu (dầu mỏ) 28,5%;
thực phẩm 27,5%; dệt, may mặc 10,9%; hóa chất, phân bón, cao su 12,2%.

Nông nghiệp của vùng khá phát triển với cơ cấu ngành toàn diện.
Đông Nam Bộ trồng nhiều cây công nghiệp: cao su, hồ tiêu (đứng đầu), cà
phê (thứ 2), bông (thứ nhất), các loại cây công nghiệp khác như mía, lạc, đậu
tương thuốc lá …Vùng cũng trồng nhiều cây ăn quả rau, chăn nuôi gia súc,
thủy, hải sản…
2.3. Đời sống văn hóa


Trong nền văn hóa chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thì mỗi
dân tộc, mỗi vùng miền lại có nét văn hóa riêng rất độc đáo, đa dạng và
phong phú. Nam bộ tuy là vùng đất tổ tiên ta mới khai phá lập nghiệp hơn
300 năm, nhưng văn hóa của nông thôn Nam bộ bắt nguồn từ nền văn hóa
chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam có hơn 4000 năm lịch sử.
Nam bộ từ miền đất hoang vu rừng thẳm, nhiều sông rạch, đầm lầy
"muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lộí như bánh canh , trên rừng nhiều thú dữ, rắn
độc và động vật quý. Dưới nước tôm cá bạt ngàn, còn có cá sấu, cá mập.
Người nông dân Nam bộ lao động cần cù, dũng cảm. Thế hệ sau tiếp nối thế
hệ trước cải tạo tự nhiên, phòng chống thú dữ trên rừng, dưới nước để sản
xuất và bảo vệ sản xuất. Ðể tồn tại và phát triển giống nòi, sản xuất và bảo
vệ sản xuất tất yếu các gia đình nông dân trong họ tộc, trong xóm làng liên
kết lại (hợp tác) lao động đổi công phá rừng làm ruộng rẫy, đào sông rạch,
làm đường giao thông: săn bắn thú dữ, cưu mang đùm bọc "thương nguời
như thể thương thân" giúp đỡ nhau chén cơm manh áo, con giống, hạt giống,
đúng với câu ca truyền miệng gần như nông dân Nam bộ ai cũng thuộc lòng
"một miếng khi đói bằng cả gói khi no" trong sản xuất và đời sống. Tuy cuộc
sống vô cùng cơ cực ngày ngày lao động trên đồng ruộng, đêm đêm nam nữ
quây quần giã gạo, chài đôi, chải ba, rồi ca hát hoặc hò đối đáp dưới ánh
trăng, tình quê tuy mộc mạc nhưng thấm đậm nghĩa tình.
Những người nông dân có mặt ở vùng đất Nam bộ này hơn 300 năm
trước đây là những nông dân đến từ nhiều vùng ở miền Trung, miền Bắc.

Tuy buổi đầu lập nghiệp trên vùng đất hoang sơ trăm đắng ngàn cay bời
rừng thiêng nước độc, thú dữ, người nông dân thiếu cả công cụ, phương tiện
lao động... nhưng mọi người kiên cường bám trụ "đến đây thì ở tại đây trăm
năm bám rễ xanh cây không về". Bám rễ xanh cây không chỉ có nghĩa lao


động sáng tạo ra của cải vật chất trên nền nông nghiệp phì nhiêu trù phú, mà
sự xanh cây bám rễ còn có nghĩa mối quan hệ giữa người với người từ bốn
phương tụ hội trên mảnh đất Nam bộ ấm áp tình người. Tấm lòng người
nông dân Nam bộ xưa nay luôn đức độ bao dung, sẵn sàng tha thứ cho
những ai biết hối cải lỗi lầm, nhưng cũng không tha thử kẻ gian ác, điêu
ngoa. Họ coi trọng nhân-nghĩa-trí-dũng-liêm, lòng thương người bao la vô
tận, nhưng rất ghét bọn gian tà, tham nhũng, xu nịnh, những kẻ "tham phú
phụ bần". Nếu ai là người lương thiện có đạo đức làm người, sống trung
thực, nhân nghĩa dẫu từ đâu đến với xóm làng nào Nam bộ thì cũng được
nông dân đón tiếp thân tình theo đúng nghĩa "tứ hải giai huynh đệ", sẵn sàng
cưu mang giúp đỡ người đói rét, bệnh tật "anh em như thể tay chân" hay là
"Bầu ơi thương lắy bl cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn".
Nền kinh tế Nam Bộ ngày càng phát triển, đường giao thông ngày
càng thuận lợi, sự giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội của nông dân các làng
quê ngày càng mở rộng, các phong tục, tập quán từ việc ăn, ở, giao tiếp, sinh
hoạt văn hóa, lễ hội đến đám cưới, đám tang... của nông dân Nam bộ cơ bản
là giống nhau. Nhưng nét riêng của miền Ðông, miền Tây và mỗi tỉnh, mỗi
làng quê về tính cách, tập quán, mỹ tục cũng có khác nhau. Không phâi ngẫu
nhiên mà có câu ca "Cà Mau đi dễ khó về, trai đi có vợ, gái về có con". Trai
đi có vợ, gái về có con ở đây không chỉ có "đất quê ta mênh mông" hoặc
đường đi cách trở sơn khê mà bởi đất lành chim đậu, sự lưu luyến về vùng
đất phì nhiêu dễ dàng sản xuất tạo ra của cải, xây dựng cuộc sống, hơn nữa
là tình người nhân hậu thủy chung, "trai cũng dễ mến mà gái cũng dễ
thương" Hay như câu ca dao "Cần Thơ gạo trắng nước trong, ai đi đến đó

lòng không muốn về". Cần Thơ không phải chỉ có gạo trắng nước trong mà
còn là sự giao lưu văn hóa, xã hội hài hòa lịch thiệp, đa cảm đa tình. Người


Cần Thơ mến khách nên khách cũng mến người. Nếu ai đến bến Ninh Kiều
từ xa xưa cũng "ngựa xe như nước áo quần như nêm" và bây giờ càng thêm
lộng lẫy, phố phường nhộn nhịp. Ðêm đêm tàu thuyền san sát bên sông, có
cả thuyền văn hóa lưu động, các nhóm tài tử phục vụ đủ các hạng người tao
nhân mặc khách. Chính vì phong cảnh hữu tình, quyến rũ làm chạnh lòng
quân tử, thuyền quyên mà "đi không nỡ, ở cũng đành". Nói về hoạt động văn
hóa, văn nghệ nhất là đờn ca tài tử thì không riêng ở bến Ninh Kiều, Cần
Thơ mà gần như đều khắp các làng quê Nam bộ, anh nông dân đi cày chị
nông dân đi cấy cũng có thể hát, hò và ca vọng cổ được.
Tinh thần yêu nước là đỉnh cao của văn hóa. Lúc bình thường trong
cuộc sống nông dân có thể có vui, có buồn thậm chí to tiếng với nhau vì một
lý do nào đó, nhưng khi đất nước có giặc ngoại xậm thì người nông dân
đoàn kết lại sẵn sàng đánh giặc cứu nước.
Các phong trào cách mạng và vận động xây dựng gia đình nông dân
văn hóa còn nhằm từng bước khắc phục những phong tục, tập quán lạc hậu
trong sản xuất và đời sống nông dân. Ðồng thời, khắc phục những tồn tại ấy
trên cơ sở không ngừng nâng cao dân trí, kiến thức khoa học, phát triển kinh
tế, tạo việc làm, nâng cao đời sống vật chất, đời sống văn hóa, làm cho hàng
triệu nông dân và làm cho mảnh đất Nam Bộ giàu truyền thống cách mạng,
đằm thắm thủy chung, nghĩa tình mãi mãi rực rỡ, ngát hương trong vườn hoa
đậm đà bản sắc văn hóa Việt Nam.
Do nguồn gốc lịch sử, hoàn cảnh sống và tác động của môi trường
thiên nhiên đã hình thành nên tính cách người Nam Bộ. Ngoài tính hiếu
khách, tính bộc trực, mạnh mẽ , hào phóng và đôn hậu, người Nam Bộ còn
biết bao nét đẹp truyền thống đáng trân trọng như tính nghĩa khí hào hiệp,



tấm lòng nhân hậu, bao dung, tư chất thông minh và giàu nghị lực. Đặc biệt
phụ nữ miền Nam rất đỗi vị tha, dịu dàng lại khéo tay, chiều chồng nhưng
đáng quý nhất là sự hy sinh cho chồng con, cho quê hương, đất nước. Điều
đó đã được minh chứng suốt quá trình hơn 300 năm lịch sử của Nam Bộ.
Miền Nam đã trải qua chiến tranh, bom đạn ác liệt nhưng miền Nam kiên
cường, bất khuất và miền Nam xứng đáng với danh hiệu “Thành đồng của
Tổ quốc”. Dưới ánh sáng của nghị quyết Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt
Nam, chúng ta đang phát huy nội lực nhằm làm dân giàu, nước mạnh, miền
Nam sẽ cùng cả nước tiến lên tạo cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
* Tính bộc trực
Trong dân gian còn lưu truyền câu “Ăn mặn nói ngay” để nói lên tính
cách người miền Nam. Lý giải cho câu thành ngữ này phải dựa trên cơ sở
lịch sử và đời sống thực tế Nam Bộ. Như đã nói, họ là những lưu dân đến
đây chủ yếu bằng đường biển, suốt hành trình lênh đênh giữa sóng to gió lớn
để chống lại giá rét, chống lại những cơn cuồng nộ của biển cả… buộc họ
phải tìm cách đảm bảo mạng sống và sinh tồn. Để lặn sâu dưới nước, thường
người ta hay uống nước muối; giữ cá được lâu thì muối hoặc làm mắm…
Dần dần mà khẩu vị của người đi biển trở nên mặn mà hơn so với người ở
đất liền. Trong bữa ăn truyền thống của người miền Nam không bao giờ
thiếu được món kho như: thịt kho, cá kho, mắm kho hoặc cá muối chiên hay
khô mặn, ba khía… Đặc biệt bất kỳ nhà giàu có hay nghèo hèn, dù bữa ăn
bình dân hay tiệc tùng lễ lạt giữa nhà hàng sang trọng đều có chén nước
mắm trong mâm thức ăn dùng làm nước chấm.
 Tính mạnh mẽ
Người miền Nam trong lịch sử khẩn hoang Nam Kỳ là những người luôn
luôn đương đầu với nghịch cảnh, bởi thế họ không có thì giờ để con cà con
kê, nếu cần diễn đạt thì nói một cách dứt khoát, ngắn gọn, trực tiếp và rõ



ràng. Vì lênh đênh giữa biển, sóng vỗ ì ầm, trời nước mênh mông nên tiếng
nói của con người bị át đi. Cho đến khi lên bờ khai khẩn thì đất rộng người
thưa, cây cối um tùm, phương thức lao động không phải tập đoàn hay hợp
quần mà thủ công – riêng lẻ, khi cần gọi nhau để trao đổi thì phải hét to hoặc
dùng tiếng động lớn làm ám hiệu cho nhau, bởi vậy mà người miền Nam cho
tới sau này vẫn còn ăn to nói lớn.
 Tính đôn hậu
Người miền Nam luôn chân tình, cởi mở và dễ hòa mình. Xét trên góc độ
khoa học, đó là sự hội nhập giao lưu và hòa đồng giữa cộng đồng các dân
tộc. Khi người Kinh đặt chân đến Nam Kỳ thì ở đây đã có người Khmer,
người Hoa sinh sống. Tuy phong tục mỗi dân tộc mỗi khác nhưng tất cả như
có một mẫu số chung là tinh thần nhân ái. Trong ngôn ngữ miền Nam hiện
nay vẫn còn tồn tại những tiếng có nguồn gốc Khmer và Hoa như: mình ên,
cà tha, xiêm lo, xích xái, lì xì, thèo lèo, xí muội, thò lò… Còn địa danh ở
Nam Bộ có những tên đi vào lịch sử như: Sa Đéc, Sóc Trăng, Bãi Xáu, Chắc
Cà Đao…
Thông thường mỗi khi giỗ chạp, Tết nhất hay mỗi khi bày cỗ cúng kiến,
người miền Nam ngoài việc dọn cỗ trên bàn thờ ông bà, cha mẹ… còn có
một mâm riêng được bày lên trước cửa nhà để cúng gọi là “mâm đất đai”.
Mâm thức ăn này để cúng các bậc tiền hiền đã có công khai phá vùng đất
hiện tại cùng những người khuất mặt khuất mày đã bỏ mạng nơi đây mà
không nơi nương tựa. Trước khi khấn vái ở bàn thờ gia tiên thì gia chủ phải
thành tâm trước “mâm đất đai”, xem như một thủ tục trình báo với “sở tại”.
Điều này nói lên tấm lòng người miền Nam nhân ái, vị tha, giàu tình người
mà bà con ta gói gọn trong hai tiếng “biết điều”
* Những người dân hiếu khách


Những cư dân Đàng Ngoài từ chỗ có làng xã, sinh hoạt lề thói nhiều đời
đến nơi ở mới tứ cố vô thân lại thêm phong thổ khắc nghiệt… đã làm cho họ

trở nên bản lĩnh và đặc biệt là rất hiếu khách. Hiếu khách có lẽ là nét đặc
trưng, là cá tính độc đáo của người miền Nam, bởi họ rất cần người để tâm
sự, để giãi bày những nỗi niềm sâu kín hoặc để uống với nhau ly rượu giải
sầu – cái sầu ly hương – hay để hàn huyên chuyện xứ sở Đàng Ngoài, nơi
quê cha đất tổ. Trong sinh hoạt láng giềng Nam Bộ hiện tại, ta thấy có nhiều
tiệc tùng, nhậu nhẹt, đám cưới, đám giỗ, thôi nôi, đầy tháng, tân gia… mà
người được mời ít khi từ chối, mặc dù hiểu rằng “ăn bữa giỗ lỗ bữa cày”. Họ
đến đó không phải vì rượu thịt, vì miếng ngon vật lạ mà vì “phải quấy” – nói
theo tiếng bà con miền Nam hay nói. Ai không đi, không dự được thì gởi bao
thư, lễ vật và xin cáo lỗi; còn nếu như làm thinh, không có “phản hồi” gì hết
là “có vấn đề”! Từ những bàn tiệc này mà đôi khi nảy sinh những quan hệ
tình cảm mới như: kết nghĩa thông gia, kết nghĩa tri âm tri kỷ hoặc kết nghĩa
anh em…
2.4. Vấn đề xã hội Nam Bộ
Tình hình thực tế cũng như số liệu thống kê đều cho thấy mặc dù là vùng
sản xuất nông sản hàng hóa lớn nhất Việt Nam, hơn hai mươi năm qua nông
thôn Nam Bộ vẫn chưa được đầu tư phát triển một cách tương xứng. Các chỉ
tiêu y tế, giáo dục, phát triển cơ sở hạ tầng... ở đây đều thấp nhất so với toàn
quốc, nếu tình hình này tiếp tục kéo dài sẽ có những ảnh hưởng vô cùng bất
lợi tới việc nâng cao chất lượng sống của cư dân nông thôn. Xây dựng một
phương thức sống phù hợp ở nông thôn Nam Bộ hiện nay đang gặp nhiều trở
ngại vì một bộ phận lớn dân cư là dân nghèo. Nhiều nạn nhân của diện thu
hồi đất gặp rất nhiều khó khăn khi tái sản xuất. Nhiều hộ đã trở thành tay
trắng. Nhiều thiếu nữ nông thôn nhà nghèo ít học ở nông thôn Nam Bộ nhắm
mắt lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc. Nhiều người khác không xuất ngoại mà


tới các đô thị làm đủ mọi nghề từ bán vé số tới gái mại dâm, một thực trạng
rất đau lòng và cần có hướng khắc phục sớm nhất có thể.
Tập tính kinh tế thiên về tiêu dùng hơn là tiết kiệm của con người Nam Bộ

nói chung và nông dân Nam Bộ nói riêng đang chống lại họ trong bối cảnh
xã hội tiêu thụ, điều này đã được chứng minh qua rất nhiều trường hợp nông
dân nhận được tiền đền bù, giải tỏa đất đai...
3. Sự vận dụng và ảnh hưởng của luật đất đai tới kinh tế, văn hóa, xã
hội nông thôn Nam bộ
3.1. Ảnh hưởng đến văn hóa, phong tục tập quán và tính cố kết
cộng đồng của nông thôn Nam Bộ
Một số Điều, Khoản trong luật đất đai sửa đổi năm 2003 đã kéo theo sự
biến đổi sâu sắc về mặt kinh tế, xã hội thông qua đó làm biến đổi cả trên
phương diện văn hóa.Tại Mục 4 của luật đất đai ban hành năm 2003 và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 quy đinh rõ cơ quan có thẩm
quyền thu hồi đất thực hiện việc thu hồi đất đối với các trường hợp quy định
tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 tại các điều 38,39,40 của luật
này.Chính sách thu hồi đất nông nghiệp, sự hạn điền và thời hạn giao đất
trước hết làm biến đổi về cơ bản mặt bằng dân cư của nông thôn nói chung
và nông thôn Nam Bộ nói riêng, mang lại rất nhiều những bất cập.
Theo thống kê hiện nay của BNN&PTNT, trung bình mỗi hec-ta đất bị
thu hồi ảnh hưởng tới việc làm của trên 10 lao động nông nghiệp, tính riêng
vùng Đông Nam Bộ: khoảng 108.000 hộ.Người nông dân xưa nay bám đất
bám làng sinh sống nay bị mất tư liệu sản xuất của mình tạo nên một làn
sóng lớn di dân từ nông thôn ra các đô thị lớn kiếm việc làm, điều này đã
gây ra bao hệ lụy đối với đô thị và ảnh hưởng to lớn đối với văn hóa nông
thôn, tính kết cấu làng xã bị phá vỡ do làn sóng ly hương ngày một ồ ạt, sự


du nhập của văn hóa đô thị cùng với cái gọi là đô thị hóa hiện đại hóa và lối
văn hóa du nhập lai căng của những người gốc nông dân “ nửa tỉnh nửa quê”
giờ đây đã phá vỡ sự tĩnh lặng của một làng quê Nam Bộ truyền thống,
nhiều làng nghề đã bị thất truyền, bị mai một, nét văn hóa cổ truyền đặc
trưng vùng cũng rơi vào quên lãng.

Khi có trong tay một khoản tiền lớn từ các dự án đền bù, người nông dân
xưa nay quen bán mặt cho đất bán lưng cho trời bỗng nhiên đổi đời, do nhận
thức còn hạn chế, người nông dân thi nhau xây nhà lầu, tậu xe, ăn chơi mua
sắm và đầu tư không hiệu quả nguồn tiền đền bù,tất cả những điều này đã
làm đảo lộn các thói quen, tập quán sinh hoạt bao đời của người nông dân,
làm mai một bản sắc văn hóa nông dân.
Khí các chính sách về đất ở hạn chế do mỗi hộ gia đình chỉ được sử
dụng không vượt quá 200m2. Kết cấu gia đình thuẩn Việt đã và đang dần bị
xé lẻ,quy mô gia đình tam, tứ đại đồng truyền thống đường hiện nay là rất
hiếm. Điều này dẫn tới các mối quan hệ trong gia đình có phần lỏng lẻo hơn
trước đây, sự gắn kết gia đình xã hội không còn được bền chặt như trước
thêm vào đó ngay trong quan hệ huyết thống thân tộc cũng xảy ra nhiều
tranh chấp mâu thuẫn nặng nề do tranh giành quyền sử dụng đất có liên
quan tới tiền đền bù, mối quan hệ huyết thống thân tình từ đó đã bị rạn rứt
một cách rõ rệt rõ rệt.
Theo mục 4, điều 42 quy định về việc bồi thường,tái định cư cho người
có đất bị thu hồi vấn đề còn nhiều nan giải chưa được giải quyết được, hằng
năm có hàng ngàn đơn thư khiếu nại của người dân về vấn đề giải tỏa đền
bù, điều này không chỉ khiến cho mối quan hệ giữa chính quyền nhà nước và
nhân dân trở nên căng thẳng bức xúc mà ngay trong nội bộ làng xã, khi tấc
đất trở thành tấc vàng đã phá vỡ mối quan hệ thân tình từ ngàn đời nay “


hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau” của người nông dân, phá vỡ cái gọi là văn
hóa “ tình làng nghĩa xóm”, mối quan hệ tình cảm( thứ cấp) được thay thế
bằng mối quan hệ sơ cấp và được đong đếm trên cơ sở tiền bạc.
Các lễ hội truyền thống đã và đang bị mai một, mất dần bản sắc, trước kia
vùng Nam Bộ nổi tiếng với các lễ hội truyền thống mang đậm nét văn hóa
vùng sông nước với nhiều dấu ấn đẹp thì nay do ảnh hưởng của quá trình
công nghiệp hóa,sự tràn lan của văn hóa truyền thông, các phương tiện nghe

nhìn được trang bị đầy đủ và phong phú, các tụ điểm ăn chơi, các tiệm
internet mọc lên như nâm cùng với sự hấp dẫn của các trò chơi online trực
tuyến thì vạn đại đa số các bạn trẻ đã quá thờ ơ với các trò chơi trong lễ hội
truyền thống,các làn điệu quan họ, ca trù cải lương, đờn ca tài tử truyền
thống cũng được thay thế bằng âm nhạc điện tử hiện đại.
Miền Nam Bộ nổi tiếng cả nước với nền văn hóa đa màu sắc, là phức hợp
của nhiều nét đặc sắc của các dân tộc anh em như Kinh, Hoa, Chăm,
Stiêng…Nơi đây cũng mang đậm màu sắc văn hóa sông nước hơn bất kỳ nơi
nào trên đất nước ta. Chính vì thế không ở đâu có nhiều từ ngữ để chỉ các
loại hình và hoạt động sông nước như ở vùng này: sông, lạch, kinh, vũng,
trũng, gành, xáng, vịnh, bàu...; nước lớn, nước ròng, nước đứng, nước xiết,
nước xoáy, nước ngược, nước xuôi... Sông nước đã trở thành một yếu tố cấu
thành đặc trưng của văn hoá nơi đây…Chất Nam Bộ thể hiện trong những
câu hò mượt mà, trong những nếp nhà lá hòa mình trong thiên nhiên, trong
cả cách ăn uống ở cái xứ sở phì nhiêu tôm cá “Ăn cơm mắm, thấm về lâu”.
Chất Nam Bộ còn thể hiện trong tính cách mộc mạc, phóng khoáng của mỗi
người, không quy tắc và gò bó, phụ thuộc Nho Giáo nhiều như ở nông thôn
Bắc Bộ. Nam Bộ cũng là nơi tiếp xúc với Tây học từ sớm nên có tư tưởng
mở, rộng rãi trong tiếp nhận. Tình làng nghĩa xóm là rường cột, khác với sự


ràng buộc mang tính họ hàng, bao bọc bởi lũy tre, cổng làng với hệ thống
luật tục chặt chẽ như ở nông thôn miền Bắc.
Chính vì Nam Bộ là cộng đồng mở nên họ dễ dàng hơn trong việc tiếp
thu các giá trị mới, nhất là trong thời điểm biến động hiện nay. Có thể thấy
Luật đất đai 2003 đã tạo ra khá nhiều điều kiện góp phần làm cho nông thôn
Nam Bộ có những biến đổi mạnh về văn hóa.
Thứ nhất là tính gắn kết cộng đồng giảm dần. Khả năng chuyển nhượng,
cho thuê đất được quy định rõ ràng trong thời buổi nhu cầu về đất ngày một
gia tăng đã khiến nhiều người nông dân trong một đêm trở thành triệu phú.

Khoảng cách xã hội bắt đầu xuất hiện giữa những người trước đây là hàng
xóm thân thiết. Vị trí kinh tế mới nảy sinh những nhu cầu xã hội, văn hóa
mới, thậm chí là những cạnh tranh, ganh ghét. Người ta bắt đầu sống theo
kiểu hưởng thụ, chạy theo những giá trị mới. Lối sống “đèn nhà ai nấy rạng”
dần thay thế cho giá trị “ tối lửa tắt đèn có nhau”. Vì vậy đã có không ít
những vụ án dân sự, hình sự diễn ra như đã phân tích ở trên.
Thứ hai, một số giá trị mới được bổ sung thay thế những giá trị cũ. Tình
trạng lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc, sức mạnh của vật chất, đồng tiền đã
lôi kéo không ít những thiếu nữ thôn quê xa rời mảnh ruộng, góc vườn.
Cũng không ít những hậu quả đáng tiếc xảy ra. Trong câu chuyện về làm đất,
bón phân, nhổ cỏ của người nông dân chân lấm tay bùn xuất hiện hình ảnh
của giá đất, giá trị của một người được đo bằng việc họ đã bán được bao
nhiêu hecta đất, họ đã hưởng thụ những gì… Những giá trị cũ về tình yêu
thương san sẻ dần bị thay thế bằng những giá trị mang tính thực dụng hơn.
Không ít trong một bộ phận giới trẻ tiếp thu với những giá trị văn hóa nước
ngoài không phù hợp, đánh mất bản sắc mà cha ông họ đã gầy dựng hơn 300
năm.


Tính tự quản cộng đồng xưa nay là một đặc trưng của nông thôn, nó tồn
tại song song và chịu sự quản lý của Nhà Nước, giúp cho cộng đồng có thể
quản lý tốt hơn hoạt động của mình, nâng cao tinh thần tự giác, tự quản lý
của người dân, san sẻ gánh nặng với chính quyền. Xã hội tự quản là một
hình thức hướng tới của các xã hội. Dù rằng miền Nam với đặc thù hay di
chuyển có tính tự quản không chặt chẽ như ở Bắc Bộ nhưng tính tự quản ở
đây ở một phương diện nào đó giúp bình ổn xã hội, đảm bảo cho xã hội vận
hành trong một trật tự nhất định.
Tuy nhiên hiện nay tính tự quản của cộng đồng đang giảm dần do tác
động của cơ chế thị trường. Lợi nhuận trước mắt do đất đai mang lại đã
khiến cho không ít người trong đội ngũ chính quyền làm dân mất lòng tin.

Tình trạng khiếu kiện về đất đai ngày càng tăng, nạn tham nhũng, cướp đất
của dân ở khu vực Nam Bộ từ lâu đã trở thành đề tài nóng ở khu vực này.
Bên cạnh đó tình trạng di cư cũng là một nguyên nhân khiến cho việc gắn
kết cộng đồng và tính tự quản cộng đồng giảm đi khi một bộ phận lớn người
dân di cư lên thành phố, tỉnh có người xuất cư cao nhất là An Giang và Long
An.
Nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận những đóng góp mà Luật đất
đai đã mang lại cho vùng. Luật đất đai đã góp phần nâng cao sức sản xuất,
tạo điều kiện cho người dân có thể làm giàu chính đáng trên mảnh đất của
mình, góp phần chuyển đổi nghề nghiệp cho một bộ phận không nhỏ người
dân. Từ những tiền đề kinh tế thuận lợi đã giúp người nông dân có cơ hội
tiếp thu những nguồn thông tin mới, làm giàu thêm nhận thức, tri thức cũng
như năng động hơn, học hỏi thêm được nhiều kinh nghiệm mới. Từ đó
những tư tưởng cũ như: chế độ đa thê, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó… dần
được thay thế.


Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có một số chính sách đất đai tạo nhiều điều
kiện cho sự phát triển về văn hóa cả vật chất lẫn tinh thần: cấp đất, tạo điều
kiện tốt nhất cho việc xây dựng đền, chùa, đình, miếu, các cơ sở tôn giáo…
phục vụ cho việc tín ngưỡng, thờ phụng của người dân. Đây là một điều rất
có ích đồi với con người Nam Bộ nơi đây bởi miền đất này là nơi tụ họp
nhiều nền văn hóa, nhiều dân tộc, nhiều tôn giáo khác nhau, chính vì thế
những chính sách xây dựng cơ sở văn hóa phục vụ tín ngưỡng rất có ý nghĩa.
Chính sách đất đai cũng phù hợp, thuận lợi cho việc xây dựng, tôn tạo các di
tích lịch sử, cơ sở văn hóa phát triển mạnh.
3.2. Về đời sống xã hội
* Tương tác xã hội
Luật đất đai quy định mỗi hộ được sử dụng tối đa 3ha đất nên tình trạng
chia hộ trong gia đình diễn ra để đảm bảo quyền sử dụng trong gia đình. Vấn

đề này sẽ dẫn đến chuyện rạn nứt trong mối quan hệ gia đình do những tranh
chấp trong việc phân chia tài sản.
Sự xuất hiện các dự án treo khi mà đất thu hồi lại để hoang trong khi đó
nông dân lại không có tư liệu sản xuất hoặc hiện tượng bùng phát gần đây là
những dự việc cán bộ chia chác đất công gây sự bức xúc lớn trong xã hội.
Gần đây vấn đề xây dựng sân gofl cũng gây nhiều tranh cãi vì sẽ thu hẹp
lại diện tích đất nông nghiệp tác động trực tiếp đến tư liệu sản xuất và cơ cấu
việc làm của nông dân.
Những hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh đang diễn ra ở nông thôn
Nam Bộ đã gây ra những rạn nứt trong quan hệ xóm giềng. Nông thôn Nam
Bộ nổi tiếng với những hình ảnh người nông dân ngay thẳng, cương trực,
phóng khoáng nhưng cũng rất giàu tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, tuy
nhiên cũng có không ít trường hợp vì cái lợi trước mắt mà tranh chấp, kiện


tụng thậm chí là cạnh tranh không lành mạnh dẫn tới không ít những vụ án
dân sự, hình sự như báo chí phản ánh.
Một bộ phận nông dân nghèo bị thu hồi đất nhưng không được đền
bù thỏa đáng rơi vào tình trạng trắng tay. Một số người chuyển đổi cả
phương thức sản xuất, một số khác nông dân bị thu hồi đất không tìm
được công việc mới, quay lại làm nghề nông và đối mặt với nỗi lo không có
đất để cấy cày, rơi vào cảnh thất nghiệp. Một bộ phận chọn cách đi làm
thuê, làm mướn. Không có tư liệu sản xuất cơ bản mà cũng là cuối cùng
này, toàn bộ kinh nghiệm hoạt động kinh tế trước đó của họ cũng trở thành
vô nghĩa, đồng thời toàn bộ quan hệ xã hội phục vụ hoạt động kinh tế vốn có
của họ cũng trở thành thừa thãi. Bị vô sản hóa về mặt tư liệu sản xuất, họ
cũng đồng thời bị cô lập hóa về mặt quan hệ xã hội.
Hiện tượng lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc nở rộ trong thời gian gần đây
ở các vùng quê Nam Bộ mà một nguyên nhân chủ yếu là xuất phát từ kinh
tế.

Không những vậy, việc thu hồi đất tùy tiện tại một số tỉnh Nam Bộ mà
điển hình là ở Tây Ninh, Long An.. đã làm cho người dân bị mất lòng tin vào
chính sách và pháp luật của Nhà Nước.
Trước lợi nhuận từ chuyển nhượng đất đai mang lại thì không ít
nông dân sẵn sàng đem ruộng đất chuyển nhượng mà không có những
dự tính lâu dài. Do đó mà có khá nhiều trường hợp người dân Nam Bộ sử
dụng tiền bán đất hay tiền đền bù sai mục đích và rồi lâm vào cảnh làm thuê,
làm mướn cho những người có đất khác. Ở nông thôn ĐBSCL hiện nay, hầu
hết số người đem hết đất đai đi cầm cố để đổi nghề nhưng thất bại, trở về
quê, chủ yếu sống bằng nghề làm thuê làm mướn, vì vậy cuộc sống của họ
rất khó khăn.


Mặt khác, tập tính kinh tế thiên về tiêu dùng hơn là tiết kiệm của con
người Nam Bộ nói chung và nông dân Nam Bộ nói riêng đang chống lại họ
trong bối cảnh xã hội tiêu thụ, Điều này đã được chứng minh qua rất nhiều
trường hợp nông dân nhận được tiền đền bù, giải tỏa đất đai... Vốn có tập
tính tiêu xài rộng rãi, phóng khoáng, một số người dân Nam Bộ ít học,
không nhìn thấy trược được vấn đề. Khi nhận được một số lượng lớn tiền
đền bù giải tỏa họ lao vào những cuộc hưởng thụ, tiêu xài hoang phí. Tiền
cạn, đất mất, việc làm chưa ổn định, bỗng chốc họ lại rơi vào cảnh khốn đốn.
* Phân tầng xã hội
Vấn đề về phân tầng xã hội đã và đang xảy ra mạnh mẽ ở Việt Nam
khi sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng giãn cách. Không chỉ chênh lệch
giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn mà ngay chính trong nông thôn.
Nông thôn Nam Bộ sự giãn cách này có sự chênh lệch lớn hơn, nhất là từ khi
công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa và sau khi Luật đất đai ra đời, sự
chuyển nhượng đất đai trở nên phổ biến và dễ dàng hơn.
Trong thời gian qua, Nam Bộ nóng lên các vấn đề mua bán đất, sự
xuất hiện của các cò đất, chuyện những người giàu lên nhờ đền bù giải tỏa

hoặc nhờ chuyển giao quyền sử dụng đất. Sự phân hóa ở nông thôn bắt đầu
cũng có những giãn cách khi mà vấn đề chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày càng phổ biến, sự tập trung đất đai trong tay 1 số người giàu ở nông
thôn. Vấn đề sở hữu đất đai cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự cố kết trong
mối quan hệ gia đình, làng xóm khi người dân ở đây nhận thấy được lợi ích
kinh tế khi thực hiện quyền chuyển quyền sở hữu hoặc chuyển mục đích sử
dụng đất.
* Di động xã hội


Diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp đồng nghĩa với tư liệu sản xuất
của người nông dân không còn nữa nên họ buộc phải tìm kế sinh nhai. Và từ
đó hình thành những dòng di cư từ nông thôn ra đô thị. TP. Hồ Chí Minh là
thành phố thu hút dân nhập cư cao nhất trong cả nước mà những dòng nhập
cư nhiều nhất đến đây là đồng bằng sông Cửu Long - nơi mà dựa vào sản
xuất nông nghiệp là chính. Những dòng di dân này gây hậu quả cho cả nơi
đến và nơi đi. Vì những người nhập cư từ nông thôn đa phần trình độ không
cao nên khi nhập cư đến nơi mới họ phải làm những công việc với mức
lương thấp, không đảm bảo được đời sống…gây áp lực về mặt kinh tế, xã
hội . Trong khi đó, nơi đi lại thiếu lao động, vấn đề sản xuất nông nghiệp
nông thôn bị ảnh hưởng không ít.
* Về sự phát triển con người
Nhìn chung Nam Bộ là vùng có chỉ số HDI khá cao so với cả nước.
Theo số liệu của Viện Khoa học Thống kê ISS thuộc tổng cục Thống kê
2001, chỉ số HDI của vùng Đông Nam Bộ cao nhất nước( 0,769) và vùng
đồng bằng Sông Cửu Long đứng thứ 4 cả nước( 0,671). Nam Bộ với Đông
Nam Bộ là vùng kinh tế trọng điểm cả nước có hệ thống giáo dục, y tế, kinh
tế, văn hóa vào dạng quy mô nhất cả nước. Tuy nhiên Đồng bằng Sông Cửu
Long có chỉ số HDI không cao so với mức chung cả nước (0,697). Có thể lý
giải điều này là do hệ thống cơ sở hạ tầng của vùng vẫn chưa tốt, kinh tế

kém phát triển hơn dù có nhiều tiềm năng cũng là một trong những nguyên
nhân cơ bản.
So với cả nước giáo dục vùng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn tụt
hậu quá xa so với nhu cầu. Cũng theo con số thống kê, số người trong độ
tuổi lao động không biết chữ vẫn chiếm tới 6,23% (cả nước chỉ còn 3,97%).
Số người chưa tốt nghiệp tiểu học chiếm 32,37% (cả nước chỉ còn 16,4%).


×