Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN NHỮNG nội DUNG cơ bản TRONG xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104 KB, 15 trang )

1

NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân,
vì dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là một vấn đề lớn trong
đường lối lãnh đạo của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay. Đặt vấn đề xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được Đảng ta đề cập đến từ
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII và tiếp tục được khẳng định
trong Đại hội Đảng lần thứ IX. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi chủ
nghĩa xã hội đang lâm vào tình trạng khủng hoảng và thoái trào. Nhà nước xã
hội chủ nghĩa ở một loạt nước đã chấm dứt sự tồn tại của mình, khôi phục và
phát triển Nhà nước xã hội chủ nghĩa với tư cách là công cụ để giải phóng con
người đang được đặt ra như một vấn đề cấp bách của những người cách mạng
nói chung và các nhà lý luận Việt Nam nói riêng.
Nhìn lại lịch sử ra đời của tư tưởng nhà nước pháp quyền cho ta thấy,
nó không phải là sản phẩm của thời đại tư bản chủ nghĩa. Mà ngay từ thời cổ
đại Hy Lạp, La Mã đã có mầm mống tư tưởng này. Nhiều các nhà tư tưởng đã
thấy vai trò của pháp luật trong việc xây dựng và duy trì một xã hội trật tự, ổn
định; trong đó, cả công dân và cả những người đứng đầu chính quyền cũng
đều phải tôn trọng pháp luật. Nhà triết học Pla-ton (427 – 347 TCN) cho rằng,
sự sụp đổ nhanh chóng của nhà nước nếu luật nằm dưới quyền lực của ai đó.
Còn, luật đứng trên nhà cầm quyền mới mong được sự cứu thoát của nhà
nước và tất cả các lợi ích mà chỉ có thượng đế mới có thể ban phát cho các
nhà nước. Bước tiến lớn trong thế kỷ XVII, XVIII đã xuất hiện học thuyết về
nhà nước; Lốccơ (Anh) cho rằng, mối quan hệ giữa tự do cá nhân và pháp
luật, tự do cá nhân cần được pháp luật thừa nhận, cũng như cá nhân thừa nhận
pháp luật. Khái niệm “Nhà nước pháp quyền” lần đầu tiên được nhà luật học
người Đức đưa ra vào thế kỷ XIX, trong đó tư tưởng trung tâm là đề cao sự
thống trị của pháp luật đối với hoạt động của nhà nước cũng như đối với mọi



2

hoạt động của đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền thời cận đại phát triển
mạnh cùng với cuộc cách mạng tư sản, có vai trò tích cực trong cuộc đấu
tranh chống nhà nước chuyên chế và chế độ phong kiến ở phương Tây.
Nhà nước pháp quyền, thực chất là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật. Nhà nước và pháp luật là hai phạm trù gắn bó chặt chẽ với nhau, không
thể có nhà nước mà thiếu pháp luật. Ngược lại, không có pháp luật nào lại
không phải là pháp luật của một nhà nước nhất định. Do vậy, pháp luật là ý
chí, lợi ích của giai cấp cầm quyền; đồng thời, cũng phải đại diện lợi ích tổng
quát cho toàn xã hội mới đạt tới sự bền vững cho mỗi công dân và cả nhà
nước. Như vậy, pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở là những quy luật
khách quan của đời sống xã hội, là những nhu cầu tất yếu của con người,
được chính con người nhận thức và thông qua nhà nước mà xây dựng nên. Do
vậy, nhà nước tuy là người làm ra luật, song không thể làm ra luật theo ý chủ
quan của mình. Nhà nước thi hành pháp luật, quản lý xã hội theo pháp luật,
buộc mọi công dân phải tuân theo pháp luật một cách bình đẳng; đồng thời,
hoạt động quản lý của nhà nước nói riêng và quyền lực của nhà nước nói
chung cũng phải được pháp luật hóa, cũng phải tồn tại trong khuôn khổ pháp
luật. Đòi hỏi mỗi công dân và chính nhà nước phải tuân theo pháp luật đó là
cốt lõi của tư tưởng nhà nước pháp quyền.
Nhà nước pháp quyền không phải là một nhà nước riêng biệt hay sản
phẩm của chủ nghĩa tư bản, mà nó là thuộc tính cần có của bất cứ nhà nước
nào muốn tồn tại một cách bền vững. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
cũng cần có các thuộc tính đó, cần thực hiện các nguyên tắc của nhà nước
pháp quyền để xây dựng một xã hội mới văn minh, do nhân dân lao động làm
chủ. Tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa được thể hiện trong việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Nhưng, trên thực tiễn, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mới

chỉ bước đầu tiếp cận - do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan –


3

chúng ta còn phải tiếp tục giải quyết nhiều vấn đề. Một mặt, phải nhận thức
ngày càng đầy đủ hơn những quy luật khách quan trên các lĩnh vực của cuộc
sống, cả kinh tế, chính trị văn hoá, xã hội, nhận thức rõ hơn về các quyền tự
do của con người… và thể hiện nó thành pháp luật một cách đầy đủ, nhất
quán, đồng bộ, trở thành khuôn mẫu cho mọi mặt đời sống xã hội. Mặt khác,
phải làm cho pháp luật đi vào đời sống mỗi người dân, mọi tổ chức, kể cả cơ
quan nhà nước cao nhất, tôn trọng, chấp hành nghiêm chỉnh.
Trong quá trình lãnh đạo xây dựng nhà nước kiểu mới, chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta luôn quan tâm nền tảng dân chủ và nền tảng pháp lý cho
chính quyền nhà nước. Hồ Chí Minh viết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao
nhiêu lợi ích đều vì nhân dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc
đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc
là công việc của dân….quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” 1. Người trực
tiếp lãnh đạo xây dựng nhà nước theo hướng dân chủ, từng bước xây dựng cơ
sở pháp lý cho hoạt động của chính quyền. Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng ta
soạn thảo các hiến pháp năm 1946, năm 1959 và ký ban hành nhiều luật, sắc
luật, hình thành hệ thống pháp luật dân chủ đầu tiên ở Việt Nam. Hồ Chí
Minh đề cao tính nghiêm minh của pháp luật, nhưng pháp luật đó phải kết
hợp chặt chẽ với đạo đức, với tình thương và sự khoan dung, độ lượng truyền
thống của dân tộc ta.
Ngay từ ngày đầu mới được thành lập, Nhà nước ta đã quan tâm giải
quyết nhiều vấn đề cấp bách: tiến hành tổng tuyển cử, chống giặc ngoại xâm
để giữ vững chính quyền non trẻ; kiên quyết trấn áp bằng bạo lực những âm
mưu phản cách mạng, chống lại chính quyền nhân dân; chống giặc đói, giặc
dốt; xây dựng nếp sống mới; thực hiện tự do tín ngưỡng; bồi dưỡng sức dân…

Do vậy, nhà nước đã thu hút được lực lượng đông đảo của nhân dân, động

1

Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập5, tr.698.


4

viên sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành
thắng lợi.
Từ năm 1954 đến năm 1975, đất nước tạm thời bị chia cắt thành hai
miền với hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau. Trong giai đoạn này, Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa đã cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ cách mạng trên cả hai miền Nam – Bắc, giải quyết được nhiều vấn
đề cơ bản có liên quan đến cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân; phát triển
kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế; giải quyết công ăn, việc làm; xây dựng nông
thôn, gia đình văn hoá mới; thực hiện tốt chính sách dân tộc và các chính sách
xã hội khác. Việc thực hiện có hiệu quả các công tác đó góp phần ổn định xã
hội và đẩy mạnh công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ nhanh chóng
giành thắng lợi.
Sau đại thắng lịch sử mùa xuân 1975, cả nước độc lập, thống nhất đi
lên chủ nghĩa xã hội. Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được đổi tên
thành Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy vậy, bản chất Nhà
nước không hề thay đổi, nhà nước đó vẫn đại diện cho lợi ích của nhân dân
lao động, chính sách xã hội của nhà nước ngày càng được mở rộng với hiệu
quả ngày càng tăng. Việc củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân
trong mặt trận tổ quốc ngày càng được phát huy tốt. Bên cạnh những mặt
mạnh đó, Nhà nước ta tồn tại quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp,
dường như không có nhu cầu phát triển dân chủ, dẫn tới tình trạng mất động

lực phát triển chung mọi mặt đời sống xã hội. Nhận thức sâu sắc thiếu sót đó,
khi bước vào công cuộc đổi mới, Nhà nước ta đã ngày càng quan tâm và kịp
thời có chính sách giải quyết thỏa đáng nhu cầu lành mạnh, chân chính của
các tầng lớp nhân dân. Chuyển sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; dân chủ hóa đời sống xã hội… mở ra
những khả năng mới cho mọi tầng lớp nhân dân tham gia tích cực và tự giác
vào quá trình quản lý và xây dựng chủ nghĩa xã hội.


5

Ngày nay, khi công cuộc đổi mới đã thu được những thành tựu
quan trọng trên mọi lĩnh đời sống xã hội, cho phép chúng ta bước vào
thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh công hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là
những thành tựu to lớn, là điều kiện cơ bản và là xuất phát điểm để đặt
vấn đề tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong điều kiện của nền kinh tế
mới và quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới.
Như đã đề cập ở trên, nhà nước pháp quyền không phải là sản phẩm
của chủ nghĩa tư bản, mà đó là sản phẩm tư tưởng của nhân loại đã xuất hiện
từ lâu trong lịch sử. Nhà nước pháp quyền trở thành hiện thực và phát triển
mạnh trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, đó là xu thế tất yếu của lịch sử, là sản
phẩm mang tính tiến bộ của nhân loại. Tuy nhiên, mức độ hiện thực hóa nhà
nước pháp quyền chưa đầy đủ, không triệt để; do những biến đổi về tính chất,
đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước. Xu thế chung vẫn là xu hướng tuyệt đối
hóa vai trò quản lý bằng pháp luật, cả nhà nước và công dân đề xử lý thông
qua pháp luật. Song, với bản chất giai cấp của nhà nước, nhà nước pháp
quyền tư sản chưa phải cái đích mà loài người tiến bộ hướng tới. Do vậy, việc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với những nét đặc thù, tạo
nên những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

dân, do dân, vì dân. Đây là một nội dung quan trọng trong cải cách tổ chức
và hoạt động của nhà nước ta trong tình hình mới hiện nay. Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ
chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân” 1.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bảo đảm và phát triển quyền
công dân, quyền con người; trong đó, nhà nước có sứ mệnh là xây dựng xã
hội, mà trọng tâm là phát triển được tối đa sự phát triển toàn diện con người
1

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.131.


6

theo năng lực của họ. Mọi hoạt động của nhà nước đều vì nhân dân, hướng
tới xây dựng xã hội tốt đẹp, đem lại quyền lợi cho nhân dân lao động, đó là
mục tiêu, động lực của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đề cao
tính nhân văn của pháp luật là đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Pháp luật phải thống trị trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội,
điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản giữa công dân với nhà nước, giữa các
công dân với nhau, giữa nhà nước với các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội.
Các chủ thể có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.
Ngay bản thân nhà nước cũng được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ
hiến pháp và pháp luật. Quyền lực của nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội của Đảng đã khẳng định: “Nhà nước Việt Nam thống
nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba

quyền đó”1. Ở đây, quyền lực của nhà nước là thống nhất, không phân chia và
thuộc về nhân dân. Nhân dân trao quyền cho Quốc hội thông qua bằng phổ
thông đầu phiếu, trực tiếp, bỏ phiếu kín. Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập hiến, lập pháp; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước,
quyết định về tổ chức và nhân sự cao cấp của nhà nước; thực hiện giám sát tối
cao mọi hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhưng, có sự phân công, phối hợp
giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong hệ thống một cách thống
nhất, chặt chẽ. Các cơ quan ràng buộc, giám sát lẫn nhau, thực hiện đúng
chức năng của mình và đúng theo pháp luật quy định. Như vậy, không một cơ
quan, cá nhân nào được lạm quyền và đứng trên pháp luật, mà tất cả đều nằm
trong quyền lực nhà nước, không có sự đối lập lẫn nhau.

1

ĐCSVN, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật,
H.1991, tr.20.


7

Nước ta hiện nay, chúng ta đang phấn đấu xây dựng một chế độ
chính trị mà nhân dân lao động làm chủ, mọi quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân; với những nỗ lực hoàn thiện nhà nước và pháp luật theo
yêu cầu của thực tiễn khách quan, do nhân dân, vì nhân dân. Do vậy, để
làm tốt chức năng là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, Quốc hội
phải thể hiện được đầy đủ lợi ích, ý chí của nhân dân, bảo vệ tốt các
quyền tự do, dân chủ của công dân; bảo đảm cho công dân thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ của mình. Trong lúc này là vấn đề đấu tranh quyết liệt, có
hiệu quả với các tệ nạn trong bộ máy nhà nước, nhất là quan liêu, lãng
phí và nạn tham nhũng.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, 20 năm vừa qua, chúng ta tiến hành đường
lối đổi mới toàn diện đất nước; trong đó, trọng tâm là phát triển kinh tế
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp, sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, càng đòi hỏi một hệ
thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, ổn định; đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ
công dân trên các mặt chính trị – kinh tế – xã hội; đồng thời, thực hiện và bảo
vệ pháp luật, bảo đảm cho pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống
nhất, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật. Cần phải được kết
hợp chặt chẽ quá trình xây dựng pháp luật, thực hiện pháp luật và việc giáo
dục nâng cao đạo đức cho mọi công dân. Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần
thứ IX nhấn mạnh: “Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu
quả của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng
chương trình dài hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy
hoạch ban hành và hướng dẫn thi hành luật” 1. Đứng trước tình hình mới, để
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do

1

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.132.


8

dân, vì dân, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, cần làm tốt một số nội
dung cơ bản sau:
Thứ nhất: Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
nay, cần khẳng định các mối quan hệ lớn giữa các nguyên tắc và yêu cầu của

nhà nước pháp quyền với hệ thống chính trị duy nhất một Đảng lãnh đạo, với
phương thức tổ chức nhà nước tập trung, không tam quyền phân lập, nhưng
có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp; với việc tôn trọng các quyền tự do của công dân
và nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân trong việc đảm bảo một xã hội trật tự,
kỷ cương. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thừa nhận trong
thực tế của quá trình xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa; 75 năm qua, Đảng
đã thể hiện tập trung ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của toàn dân tộc . Đường
lối của Đảng là sự thể hiện nhận thức của toàn xã hội về các quy luật khách
quan của sự phát triển đất nước. Trong điều kiện hiện nay, Đại hội Đại biểu
Đảng lần thứ IX khẳng định: “Tăng cường vai trò lãnh đạo và trực tiếp đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo Nhà
nước thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định
hướng cho sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng và Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước” 1. Đó chính là điều
kiện cần thiết để hoàn thiện hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, tránh được
những bao biện, làm thay hay can thiệp không đúng nguyên tắc của cấp ủy
đảng và cán bộ đảng viên vào công việc chính quyền; đồng thời, là một định
hướng quan trọng cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Bởi lẽ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là
một quá trình hoạt động tự giác, đòi hỏi nỗ lực của lực lượng tiên phong dẫn
1

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.144.


9

đường. Sự lãnh đạo của Đảng là nhằm đảm bảo cho nhà nước hoạt động đúng
nghĩa là một nhà nước dân chủ và pháp quyền, đúng định hướng xã hội chủ

nghĩa. Việc cụ thể hóa đường lối lãnh đạo của Đảng, đổi mới nội dung và
phương thức lãnh đạo theo hướng dân chủ và pháp quyền; nâng cao năng lực
lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ và phát huy tối đa vai trò của các tổ
chức chính trị – xã hội trong xây dựng và quản lý nhà nước, trong giám sát
hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng
được khẳng định ở đường lối chính trị đúng đắn, ở sự gắn bó với nhân dân và
khả năng giáo dục, thuyết phục toàn xã hội chấp nhận ở vai trò tiên phong của
đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị –
xã hội và các tổ chức khác.
Thứ hai: Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước.
Tính chất tập trung quyền lực của Nhà nước ta là thống nhất; song,
không vì thế mà cơ quan đại diện nhân dân có quyền lực nhà nước cao nhất
lại can thiệp vào quá trình làm việc của các cơ quan hành pháp và tư pháp.
Quốc hội chỉ thực hiện các chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề lớn, các
chính sách đối nội và đối ngoại. “Quốc hội làm tốt chức năng quyết định các
vấn đề quan trọng của đất nước, quyết định và phân bổ ngân sách nhà nước,
thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước,
trước mắt tập trung vào những vấn đề bức xúc như sử dụng vốn và tài sản nhà
nước, chống tham nhũng, quan liêu”1. Điều đó đã làm rõ hơn, cụ thể hơn
quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan trong phạm vi chức năng
cơ bản của mình.
Cùng với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, chính phủ; những
năm qua, cải cách nền hành chính nhà nước được Đảng ta coi là trọng tâm.
Từng bước xây dựng nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và nền hành
chính phục vụ nhân dân trên cơ sở pháp luật theo phương châm đơn giản, phù
1

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.132.



10

hợp với các thủ tục hành chính luôn được quan tâm đúng mức. Tuy nhiên, so
với yêu cầu của một nền hành chính hiện đại, phát triển; chúng ta cần phải
tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải cách hành chính. Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ IX đã chỉ rõ: “…bộ máy hành chính nhà nước, có quá nhiều đầu mối,
trách nhiệm tập thể và cá nhân không rõ ràng, chất lượng hoạt động và hiệu
quả thấp. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của nhiều cơ quan còn chồng
chéo; cơ chế vận hành và nhiều mối quan hệ còn bất hợp lý….Việc tuyển
chọn, đào tạo, sắp xếp, sử dụng và đánh giá cán bộ còn nhiều thiếu sót, có khi
dựa vào một số kinh nghiệm cũ, định kiến và theo cảm tính” 2. Vì vậy, tiếp tục
thực hiện cải cách nền hành chính là một yêu cầu khách quan, cấp bách trong
giai đoạn hiện nay.
Cùng với việc khẳng định: “Quyền lực của nhà nước là thống nhất, có
sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” 3, Đảng ta cũng đã đề ra phương châm
xây dựng bộ máy tinh gọn. Đổi mới thể chế và thủ tục hành chính, xóa bỏ
những quy định hành chính quan liêu, bao cấp, gây phiền hà, sách nhiễu
doanh nghiệp và nhân dân, kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Để đạt được
điều đó, vấn đề quan trọng là phải hoàn thiện các văn bản pháp quy đúng
đắn, phù hợp; đồng thời, việc soạn thảo, thông qua đến phổ biến, thực hiện và
tổng kết nâng cao tính tập trung, thống nhất.
Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của nhà nước phải được
tiến hành đồng bộ trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp; cả ba
lĩnh vực này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện và hỗ trợ cho
nhau. Do đó, công cuộc cải cách phải được tiến hành đồng thời và đồng bộ
trên cả ba lĩnh vực. Chỉ có như vậy, mới đáp ứng được công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước trong giai đoạn hiện nay.

2

3

Đã dân, tr.79.
Đã dẫn, tr. 131 –132.


11

Thứ ba: Phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương, tăng cường
pháp chế.
Mục đích cuối cùng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bảo
đảm và phát triển quyền công dân, quyền con người, quan tâm đến sự phát
triển toàn diện con người. Như vậy, nguyên tắc và yêu cầu nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa là phải bảo vệ tốt các quyền tự do dân chủ của công
dân; đồng thời, bảo đảm cho công dân thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình.
Muốn vậy, cần phải có một hệ thống pháp luật chặt chẽ, bao trùm mọi lĩnh
vực đời sống xã hội và nó được duy có nề nếp, kỷ cương. Đại hội Đảng lần
thứ IX chỉ rõ: “Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, tăng cường pháp chế…
Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Chăm lo
con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người”1.
Nền hành chính nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp
luật, được tổ chức và hoạt động phù hợp với pháp luật, pháp luật phải được
thực hiện thống nhất, nghiêm minh đối với mọi cá nhân và tổ chức. Dân chủ
phải gắn liền với kỷ luật, kỷ cương, phép nước, không thể có dân chủ chung
chung. Mọi công dân đều được bình đẳng trước pháp luật, sống và làm việc
theo hiến pháp và pháp luật. Để đảm bảo dân chủ thực sự đối với mọi công
dân, cần phải kiên quyết trấn áp các hành vi gây rối, phá hoại, coi thường trật
tự, kỷ cương xã hội, lợi dụng tự do dân chủ để vi phạm pháp luật, đối với bất
cứ mọi công dân, ở cương vị nào trong xã hội.
Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, tăng cường pháp chế có mối

quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện, tiền đề cho nhau; do vậy, cần phải
được tiến hành đồng bộ, thống nhất trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, có
như vậy mới đem lại hiệu quả thiết thực cho quá trình xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

1

Đã dẫn, tr.49.


12

Thứ Tư: Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, có năng
lực cao, phẩm chất tốt.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề
cao phẩm chất, năng lực người cán bộ, Bác Hồ đã nói: “Cán bộ là cái gốc của
mọi công việc”, “muôn việc thành hay bại đều bởi cán bộ tốt hay xấu”; đồng
thời, Người cũng luôn đề cao vấn đề đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh viết:
“Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây
có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn
giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà
tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì
còn làm nổi việc gì”1. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, người cách mạng phải
có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng; từ đó
Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên “Phải có đạo đức cách mạng. Phải
giữ vững đạo đức cách mạng mới là người cán bộ chân chính” 2. Thấm
nhuần quan điểm, tư tưởng của Người, qua các kỳ Đại hội Đảng ta luôn
nhấn mạnh vấn đề này.
Trước thành tựu của công cuộc đổi mới đã cho phép chúng ta đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ cán bộ
ngang tầm nhiệm vụ đang đặt ra cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đại hội
Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX nhấn mạnh: “Xây dựng đội ngũ cán bộ…
vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí
tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, sáng tạo, gắn bó với nhân dân.
Có cơ chế và chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ;
trọng dụng những người có đức, có tài” 1. Như vậy, khẳng định việc xây dựng
đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, có đủ phẩm chất đạo đức, bản lĩnh và
1
2
1

Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, tập 5, tr.252 – 253.
Đã dẫn, tập 5, tr.480.
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr. 54.


13

năng lực đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là
một tất yếu khách quan đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Thứ năm: Đấu tranh chống quan liêu, lãng phí và tham nhũng trong
bộ máy nhà nước.
Tham nhũng là một trong bốn nguy cơ lớn đối với cách mạng nước ta
đã được Đảng đề cập từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đại hội Đảng lần thứ VII;
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục nhấn mạnh: “Tình trạng tham
nhũng và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng”2. Vấn đề đó được Đảng ta xác định là “giặc nội
xâm”, nguy cơ đe dọa đến sự sống còn của chế độ. Bộ chính trị đã có nhiều

Nghị quyết và Chỉ thị về đấu tranh chống tham nhũng; tuy nhiên, hiệu quả
của cuộc đấu tranh chống tham nhũng còn thấp. Điều đó, xuất phát từ nhiều
nguyên nhân chủ quan và khách quan, nguyên nhân về nhận thức và nguyên
nhân về mặt tổ chức , cơ chế, chính sách và biện pháp thực hiện chống tham
nhũng. Để làm tốt công tác chống tham nhũng cần phải tăng cường tổ chức
và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy
nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị ở các cấp, các ngành, từ trung ương
đến cơ sở. Gắn chống tham nhũng với chóng lãng phí, quan liêu, buôn lậu,
đặc biệt các hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính. Xử lý nghiêm
theo pháp luật đối với bất cứ cán bộ, đảng viên dù ở cấp nào, lĩnh vực nào lợi
dụng chức quyền để tham nhũng.
Tóm lại, nhà nước pháp quyền là sản phẩm phát triển của lịch sử
xã hội loài người từ khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng, tư
tưởng về nhà nước pháp quyền được hình thành từ rất sớm và được phát
triển mạnh trong xã hội tư bản. Pháp quyền là quyền và lợi ích của công
dân, của con người được bảo đảm bằng luật lệ nhà nước; song, do bản
2

Đã dẫn, tr. 15.


14

chất và chức năng giai cấp của giai cấp tư sản, nhà nước pháp quyền
chưa đem lại quyền tự do, bình đẳng thực sự cho mỗi công dân trước
pháp luật; hơn nữa, pháp luật bảo vệ lợi ích cho giai cấp cầm quyền; cho
nên, nhà nước pháp quyền tư sản chưa phải là loại hình nhà nước cuối
cùng chuẩn bị cho tự tiêu vong của nhà nước. Việc xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, mọi quyền lợi
thuộc về nhân dân đang là vấn đề lớn đặt ra cho các Đảng Cộng sản nói

chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng trong công cuộc cải tạo xã
hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã
hội; trong lĩnh vực cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy
dân chủ, tăng cường pháp chế đã thu được những thành tựu quan trọng
cả về nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn. Về nhận thức lý luận,
Đảng ta đã từng bước phát triển quan điểm xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân qua các nghị quyết
chuyên đề như Nghị quyết Trung ương 8 khóa VII, Nghị quyết Trung
ương 3 khóa VIII. Trong thực tiễn, đã có nhiều quyết định cải cách có ý
nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây dựng nhà nước và pháp luật, làm cơ
sở cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, cũng còn nhiều
vấn đề bất cập: cả trong nhận thức và hành động, cả nguyên nhân khách
quan và chủ quan. Do vậy, bước vào thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - đặt ra yêu cầu cấp bách phải
đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ,
tăng cường pháp chế để hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do
dân, vì dân thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước tiếp tục tiến lên.


15



×